ĐỒNG ĐÔ LA "PHÁ HẠI" NHẬP CUỘC
Và tới đây thì người Hoa Kỳ vào Việt Nam ....
Cùng vào với người Mỹ là đồng đô la và cả tính thực thà đến độ khờ khạo của họ mà nếu có muốn bứng hết đi cũng không phải là một chuyện dễ. Chợ đen khá thạnh hành.
Và tới đây thì người Hoa Kỳ vào Việt Nam ....
Cùng vào với người Mỹ là đồng đô la và cả tính thực thà đến độ khờ khạo của họ mà nếu có muốn bứng hết đi cũng không phải là một chuyện dễ. Chợ đen khá thạnh hành.
Trong một khu được mệnh danh là "chợ trời" (nguyên tác: "đường
của kẻ trộm", rue des voleurs), người ta bày bán đủ mọi loại hàng với một
giá thật hời, từ chiếc máy ảnh, máy thu băng, đến bánh xà phòng cạo râu, rượu
sâm banh, cỏ nhác, whít ky v.v.... tất cả đều được tuồn ra từ hàng viện trợ Hoa
Kỳ hoặc từ những món quà tặng của người lính Mỹ, để rồi tất cả được đem ra bày
bán, có khi còn bán trở lại cho chính người lính Mỹ nữa.
Trước kia, khi còn người Pháp, Sài Gòn là một thành phố vui nhộn. Sài Gòn được
tiếng là thanh lịch và đúng thời trang, nhưng rồi chiến tranh và lính tráng đã
làm hư hỏng đi phần nào; rồi đến lúc người Pháp chúng ta phải ra đi, chế độ của
ông Diệm, một người công giáo khắc khổ, đã sớm cho đóng cửa tất cả các hộp đêm,
vũ trường và các sòng bạc. Muốn khiêu vũ, muốn giải trí, người ta phải đến
Phnom Penh .Sau Ông Diệm thì chế độ có vẻ còn quá trẻ. Rồi đến lượt người Mỹ vào Miền Nam Việt Nam, những người Mỹ ngây ngô chất phác, vung vít đô la bừa bãi, bản chất thì ít cởi mở...tất cả đều là nguồn lợi bất ngờ cho người dân Miền Nam. Những quán rượu những hộp đêm với hệ thống đèn mờ, với những cô gái đẹp mà lúc nào cũng chỉ nghĩ tới cái áo len của mình hơn là những anh lính Mỹ đang ngồi nhâm nhi ly rượu "bourbon" với mình...làm người ta tưởng chừng như đang sống ở Suburre chớ không phải Sài Gòn. Thật ra thì nói cũng có hơi quá, ít có ai còn nhớ tới thời kỳ lúc người Pháp chúng ta còn ở đây trước kia cả, nhưng mà đồng đô la cứ thế mà tuôn ra..tuôn ra.
Về phương diện xây cất, người ta trách người Pháp không biết làm gì cả, tất cả hệ thống hạ tầng, từ những giang cảng, hải cảng, phi cảng, những sân bay với những đường bay rộng dài, đến đường xá, xa lộ v.v...không những phải cần xử dụng các đơn vị công binh Hoa Kỳ mà còn phải nhờ tới hai hãng thầu công chánh ngoại quốc, một hãng có 70.000 và một hãng có 90.000 công nhân người Việt. Thế mà vẫn còn thiếu phải thuê thêm một số công nhân từ Nam Dương, từ Phi luật Tân, cả từ Nhật Bản nữa, và dĩ nhiên là người Mỹ trả lương rất hậu. Ngành thương mãi phát triển rất mạnh song song với tất cả các ngành công kỹ nghệ khác, nhưng giá cả được tính căn bản từ giá hàng và nguyên vật liệu Mỹ. Do đó mà giá sinh hoạt tăng lên ngay, tăng kinh khủng, tuy có lợi phần nào cho người dân thường, nhưng công chức quân nhân thì vẫn chỉ có số lương tối thiểu và quá ít. Giới "chạy áp phe" thì phát tài nhanh nếu công việc suông sẽ, càng nguy hiểm càng có tiền nhiều. Người ta buôn lậu đồng bạc và đồng đô la xanh đô la đỏ.
Người ta chứng minh cho ông Cabot Lodge, đang là Đại Sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn, rằng các tất cả những chuyện đó đang làm bại hoại truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam, và tàn phá nền kinh tế trong nước, thì ông nầy trả lời ngay:
-"Tất cả nền kinh tế trong nước không bằng chi phí quân sự cho một ngày của cuộc chiến mà chúng ta đang theo đuổi, Chúng ta hãy thắng trong cuộc chiến này đã, đem lại thanh bình đã, rồi ngày nào đó chúng ta sẽ phục hồi nền kinh tế của Việt Nam cùng đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam lại ngay, không khó."
Không thể làm gì hơn được cả. Đồng đô la cứ tiếp tục quay vòng, cán bẹp tất cả mọi thứ trên đường đi của nó. Chỉ có những tiệm giặt, những trạm rửa xe, những hộp đêm, quán rượu, và một ít tiểu thương loại bán hàng rong cho lính Mỹ là khá thôi. Các phòng ốc cho thuê thì tăng giá, các người giúp việc trong gia đình thì phải trả một giá thật cao, nếu không thì chẳng bao giờ tìm được. Một anh tập sự luật sư, cho một người Mỹ thuê xe của anh còn được nhiều tiền hơn là phải đến làm việc mỗi ngày ở văn phòng luật sư nơi anh đang tập sự. Một ông Chánh Án phải để cho chị giúp việc trung thành của mình đi làm cho Mỹ, vì lương của chị cao gấp 10 lần lương của ông, và được ông chủ của chị cho một căn phòng để ở, không tính tiền, mà giá thuê căn phòng nầy cao gấp 10 lần giá thuê một văn phòng làm việc của người Mỹ. Một anh phu xe, trước kia thuộc vào hàng thấp hèn trong xã hội, cũng có một giá biểu đi xe khác nhau, cao dần từ người Việt Nam, người Pháp đến người Mỹ, tuy nhiên anh vẫn kiếm được nhiều tiền hơn bằng cách đưa ông Viện Trưởng Viện Đại Học mỗi ngày từ nhà Ông đến Trường Đại Học.
Có cả một làn sóng sung túc thừa thải tràn vào Miền Nam Việt Nam làm bại hoại luân thường đạo lý. Tiểu công nghệ thì có phát đạt; các tiệm buôn lẻ thì mỗi năm lên thêm một tầng lầu; dân "áp phe" càng bất lương càng sống thoải mái, sở thuế thì không biết gì và quan thuế thì luôn bị qua mặt. Đồng tiền quay vòng nhanh quá đến độ người ta xài vung vít hoang phí thay vì nghĩ tới một ngày mai mà ai cũng biết có khi là không sáng sủa. Ai mà không có máy thâu thanh hay là máy truyền hình ?
Ngay tại "chợ vườn" ở xã, các sạp cũng đầy ấp đủ mọi loại hàng tiêu dùng, các tiệm thợ bạc thì tấp nập khách hàng, tủ đầy vàng, loại vàng đỏ ao nhập từ nước Lào. Nếu tất cả mọi người đều không có một mức sống thoải mái như nhau, thì trái lại các thanh niên và các thiếu nữ thì tăng trưởng nhanh lắm, vì ở vào lứa tuổi phải ăn nhiều. Và nếu có ai đó còn nghèo đói thật sự trong lúc vẫn có hay không có việc làm, thì cũng có nghề buôn bán hàng lậu, đủ cỡ đủ loại, vừa sỉ vừa lẻ, và cứ thế là tiền vô rất nhanh mà tiêu ra cũng rất nhanh. Người lính Mỹ tiêu số lương của họ tại đây, người công chức và quân nhân Mỹ có lương bổng cao, tiêu xài rộng rãi không tiếc tiền, giống như phần đông người ngoại quốc kể cả người Pháp, thuộc giới thương mại và giới "áp phe".
SỰ NGHÈO KHÓ CỦA CÁC CẤP QUÂN CÁN CHÍNH
Trong lúc đó những người Việt Nam, thuộc các hãng xưởng cũ, các cựu điền chủ không còn đất không còn ruộng, các công chức quân nhân và cán bộ, với số lương thấp.... đều không thể sống được trong một mức sống gọi là bình thường. Họ cũng phải đi ra ngoài, cũng phải tiệc tùng trả lễ, nhất là cần phải có qua có lại một chút với các công chức quân nhân cố vấn Hoa Kỳ, những người khổ nỗi làm việc thì chẳng bao nhiêu mà lãnh tiền thì quá nhiều nên có một cuộc sống quá sang trọng và vương giả. Chẳng những thế họ còn phàn nàn về sự phóng túng trụy lạc của người dân địa phương, vốn nảy sanh từ sự vung vít đồng đô la quá bừa bải của chính người Hoa Kỳ, và họ cũng chẳng hiểu được chính họ mới là thủ phạm thực sự của tình trạng hư hỏng nầy. Nếu bản tánh của người Việt Nam có khuynh hướng ham tiền thì cái trò "giỡn tiền" của người Mỹ thật là quá dại dột và hết sức tai hại.
Người "binh nhì" Việt Nam chỉ lãnh có 13 $ một ngày, đủ để trả tiền cơm lính, nếu muốn mua được một gói thuốc lá Mỹ anh phải tốn 5 $. Còn lương cấp Tướng của Việt Nam còn thấp hơn lương của một anh binh nhì Hoa Kỳ. Ngân sách quốc gia mà không có viện trợ ngoại quốc thì không đủ trả lương cho công chức: như thế là "sập tiệm" là cái chắc và cũng phải thôi ! Và cho đến những ngày gần đây mặc dầu có tăng được chút ít nhưng lương và phụ cấp vẫn còn thấp kém rõ rệt: Tháng 3/75, lương của một đại tá thị trưởng Vũng Tàu, vợ sáu con, là 61.000 đồng một tháng, trong khi một giáo sư trẻ độc thân người Pháp phục vụ cho cơ quan chánh phủ trong thời gian thi hành quân dịch vẫn có số lương hằng tháng là 400.000 đồng. Còn các bà nội trợ thì cũng phải chịu khó tìm cách kiếm thêm tiền mới đủ để trang trải vào cuối tháng, đôi lúc còn phải đi xa hơn, lợi dụng quyền thế của chồng để tìm thêm những món bổng lộc khác nữa mới đủ tiêu pha cho gia đình, dù ông chồng có biết hay không biết cũng mặc.
Cũng phải ghi nhận rằng tại Sài Gòn, chỉ có một trong số bốn tòa án là còn giữ được tính thanh liêm. Một quan tòa với số lương vài chục ngàn hằng tháng, khó khăn lắm mới nuôi nổi gia đình, mà rồi ông còn phải giữ tư cách, thể diện và vị thế quan trọng của mình nữa, thì làm sao thanh liêm được khi phải xử những vụ án có liên quan đến hàng triệu hàng tỷ bạc mà bị can đều là những người có máu mặt trong xã hội, và những món quà đút lót được trao tay thật là kín đáo?
Đồng tiền cứ như thế mà tuôn ra, nhanh như nước lũ, không nắm bắt được: người ta phải ngăn chận hết những vụ cưới hỏi hay xin con nuôi giả tạo v.v..vì đây là những dịch vụ có vẻ hợp pháp để chuyển ngoại tệ tuồn tiền ra ngoại quốc. Chánh Phủ thấy rõ nguy cơ, cố tìm biện pháp nhưng vô hiệu, vì còn quá nhiều việc khác phải làm. Vả lại thế kẹt ở đây là "bức mây động rừng", không những động tới chế độ hiện hành mà còn động tới những người cần thiết cho công việc luôn được kẻ có quyền cao thế mạnh bao che. Người ta mở ra những ngân hàng, thu tiền tiết kiệm với lãi suất đến 24%, không có danh sách chánh thức, thông thường vay ra thì từ 18% hay 20% mỗi tháng, đó là đặc biệt cho những dịch vụ đặc biệt. Tình trạng lưu hành của đồng tiền thật là vô lý khó tin, phần lớn lợi tức quốc gia chạy ra ngoài, và Việt Cộng chỉ mong có thế vì thật là quá lợi cho họ!
Người Mỹ ra đi, để lại cho người dân quá nhiều thứ nhu cầu và thói hư tật xấu trong cuộc sống, căn bịnh nan y nầy coi như đã phát triển đến cao điểm rồi !
Một vị bộ trưởng đã có thử một vài biện pháp cải cách quan trọng: đã nhiều lần ông muốn chận đứng giá sinh hoạt không cho tăng lên gần như mỗi ngày, để tránh "lạm phát phi mã", nhưng rồi lại bị nạn chợ đen lan tràn. Luật lệ không được tôn trọng nữa, quốc gia đã bị ung thối rồi, dân chúng không còn thật thà ngay thẳng nữa, viễn ảnh của một ngày mai thiếu thốn nghèo đói làm cho nạn đầu cơ tăng lên, làm cho xã hội càng thêm ung thối, trừ phi có được thanh bình trở lại thì mới cứu vãn được mà thôi. Chính cái ung thối của xã hội này làm suy yếu quốc gia. Tinh thần chiến đấu, cần thiết để ngăn chận quân xăm lăng, đi lần đến chỗ suy sụp. Và khi mà con số những người liêm khiết phục vụ cho đất nước ít hơn số người "ngồi mát ăn bát vàng" hay "ngồi chơi xơi nước", khi mà làm việc quá nhiều và quá cực mà hưởng thì chẳng được bao nhiêu, khi mà cái hay bị cái dở lấn áp, khi mà cái bóng bảy bề ngoài che kín cái xấu xa bần tiện...thì tinh thần của cả một dân tộc phải đi xuống dốc. Từ đó, những ý kiến, phe nhóm, cả đến cuộc chiến... tất cả đều nhằm phục vụ cho mục đích cá nhơn ám muội, không còn phục vụ cho đất nước dân tộc nữa, cả trong chánh quyền và trong quân đội cũng vậy, vì hầu hết các chức vụ hành chánh quan trọng từ trung ương đến địa phương đều do quân nhân đãm trách. Người ta không biết phải than với ai bây giờ ? Những vụ việc gây nhiều tai tiếng nổ bùng hàng loạt như pháo Tết; ai là bộ trưởng hay giữ một chức vụ quan trọng trong chánh phủ mà khoản đãi khách ngoại quốc một cách linh đình thì không bị sa thải thì cũng vào tù một ngày tốt trời nào đó mà thôi.
CÁI VÒNG LẨN QUẨN
Chỉ còn có một cách duy nhất là trở về với cuộc sống khắc khổ đạm bạc thì mới mong trị được căn bệnh trầm kha của đất nước. Trước tiên là phải thắng trận giặc nầy, vãn hồi được thanh bình, phục hồi lại hệ thống kiểm soát, tư pháp, và đặt lại người cho đúng chỗ.
- Cần có thanh bình, (hay hòa bình cũng thế)
- Cần phải thắng trong cuộc chiến nầy,
Nhưng tất cả xem chừng như đều bất lực trong việc phục hồi và nâng cao tinh thần của dân tộc và tình trạng suy sụp của Miền Nam Việt Nam, vì phải tùy thuộc vào hành động của đồng minh Hoa Kỳ đang bị địch khích động và lợi dụng. Dĩ nhiên vẫn còn có được những người lương thiện, những quan tòa thanh liêm.. những người còn được sự kính nể tôn trọng của dân chúng. Nhưng con số người như thế không nhiều, và hành động quá rụt rè của họ không kích thích được lòng trung thành của dân chúng cũng như ý chí quyết tâm hy sinh theo tiếng gọi của Tổ Quốc
trong cuộc chiến nầy. Quyền lợi cá nhơn được đặt trên quyền lợi của dân tộc thì đất nước phải chết thôi, đó cũng là chuyện thường tình !!!
Một số người trong sạch có đề nghị hơi quá lố, dĩ nhiên cũng vì quá lo âu, họ khẳng định rằng trở về với cuộc sống lương thiện và đạm bạc như người công giáo và phật giáo đã và đang sống là điều kiện tiên quyết để giữ được nước:
- "Mỗi ngày chỉ một chén cơm thôi, là chúng ta sẽ có hòa bình"
Một số người khác thì đổ lỗi cho quân đội, có thể là do bị tuyên truyền xuyên tạc của địch, trách các tướng lãnh tham nhũng thay vì phải quy trách cho những giám đốc ngân hàng, vì chính những người nầy mới là không lương thiện. Lẻ ra họ nên biết tìm mọi cách để yêu cầu các tướng lãnh phải chiến thắng quân thù.
Các đảng phái chánh trị thì chỉ có ảo tưởng và tham vọng cá nhơn, chỉ tìm cơ hội để đã kích và gây ra biết bao là chướng ngại càng ngày càng khó vượt qua cho chánh quyền, do đó trước một sự giáp công hai mặt, giặc ngoài và thù trong, chánh quyền đành phải thua cuộc, nhường chỗ để ra đi.
Khi mà tinh thần của cả một dân tộc bị suy sụp vì tham nhũng cá nhơn ngoài xã hội dẫn tới tham nhũng trong bộ máy hành chánh rồi đến tham nhũng chánh trị, thì trong quân đội từ ông tướng đến anh binh nhì cũng phải "bó gối quy hàng", vì đã thiếu súng đạn, thiếu quân số, mà còn thiếu cả sự yểm trợ của chánh phủ và của dân chúng...
"Có dùng hết sức mình để đánh nữa cũng vô ích", đây cũng là một quyết định hợp lý mà thôi, nếu không muốn nói là có cố gắng thì cũng chỉ để đi tìm một lợi ích cho cá nhơn mà thôi, kể cả việc bỏ chạy nếu cần. Tuy nhiên người ta cũng có ghi nhận được rất nhiều chiến tích và chiến công, mặc dù là đang có sự tan rã hàng ngũ trong quân đội và mặc dù là đất nước sấp đến chỗ diệt vong.
CÒN NƯỚC PHÁP NỮA
Nếu người ta có thể nói nhiều về cái đau khổ triền miên của căn bệnh thối nát không cứu chữa được mà cả một dân tộc phải gánh chịu chỉ vì một quốc gia đồng minh không có lương tâm trong việc tháo khoán đồng đô la cho cuộc chiến, thì người ta cũng có thể tự hỏi xem liệu sự kiện suy sụp tinh thần của một dân tộc như thế có lây lan ra các nước tự do trên thế giới hay không?
Đặc biệt tại Pháp, tất cả những dấu hiệu về một mối nguy cơ cho dân chúng đã hiện rõ: người ta đã thấy được những triệu chứng giống nhau đủ để lo ngại là căn bệnh nan y cũng giống nhau. Nguyên nhân cũng như thế, hậu quả cũng sẽ như thế: sự thay đổi lối sống được chấp nhận và được đưa vào chương trình giáo dục, tính ưa thích có bổng lộc dễ dàng tự do mà không thích cố gắng trong công việc. Mất đoàn kết vì tinh thần hám lợi và không dám hy sinh, quốc gia xem chừng như không có khả năng chống đỡ, sẽ bệnh hoạn và sắp ngã gục. Sự diệt vong của nước Việt Nam đã đem lại cho chúng ta một bài học có thể nói là hết sức nghiêm trọng để cảm hóa người Pháp chúng ta.
Chúng ta phải khéo giữ mình; hồi năm 1949 Hoa Kỳ đã chơi trò nầy đối với Tưởng Giới Thạch rồi, người ta đã cáo buộc ông nầy là tham nhũng, để rồi phá hại uy tín đạo đức của ông, cắt viện trợ kinh tế, rồi cắt luôn viện trợ quân sự: kết quả là cả lục địa Trung Hoa rộng lớn trở thành một nước cộng sản.
Bây giờ là Tổng Thống Thiệu, người ta cho ông là người có trách nhiệm trong cái gọi là "tham nhũng của nước Việt Nam", từ đó ông mất tín nhiệm lần lần đối với các quốc gia đồng minh, và cuối cùng là ông phải bị bỏ rơi mặc dầu có đầy đủ những lời hứa và cam kết long trọng trên giấy trắng mực đen. Không còn được viện trợ kinh tế và quân sự để tự chống đỡ với kẻ xâm lăng Miền Bắc, Việt Nam Cộng Hòa phải "sập tiệm" mà thôi !!!!
Cũng với những lý lẽ đó, cùng trong thời gian đó, phải chăng Thống chế Lon Nol của Cam Bốt cũng cùng chịu chung một số phận ?
Với những bài học kinh nghiệm như thế, chúng ta có lo ngại gì chăng nếu một ngày nào đó, cũng dựa vào những lý lẽ như trên, các quốc gia Tây Âu và nước Pháp của chúng ta cũng sẽ bị bỏ rơi, ngay trong lúc gặp nguy cơ mà vì tinh thần bị suy sụp không thể chống đỡ nỗi
CHƯƠNG 6
NHỮNG ĐIỂM YẾU KÉM CỦA CHÁNH QUYỀN
Có quá nhiều mối nguy cơ
- Nguy cơ phát sanh từ phía địch vốn đã len lỏi vào được khắp nơi trong chánh quyền, do đó song song với hành động quân sự, cần phải có biện pháp hành chánh; Bộ máy hành chánh được điều hành không có gì đáng chê trách, ít nhất cũng cho tới ngày cuối cùng; không bao giờ có người nào đổ lỗi cho Quân Lực VNCH làm điều sai trái như người ta đã từng quy trách cho quân đội Pháp ở Algérie.
- Nguy cơ phát xuất từ bên trong, dân chúng quá hoang mang vì tiếng xấu của một số hành động tham nhũng.
- Nguy cơ đến từ bên ngoài, vì phía địch chẳng những có đầy đủ nguồn tài trợ về mọi mặt mà còn được hà hơi bằng sức mạnh bén nhọn của các cơ quan truyền thông quốc tế cộng sản, một điều mà chánh phủ VNCH vì đang sa lầy trong chiến cuộc không sao chống chế hữu hiệu được. Các quốc gia thuộc Thế Giới Tự Do thay vì thông cảm cho VNCH là một trong những con cờ "domino" đang gánh mọi nguy hiểm thay cho họ, thì lại không bao giờ quan tâm đến những khó khăn của quốc gia nầy, nếu không muốn nói là "ngoảnh mặt làm ngơ".
- Nguy cơ cũng phát xuất từ chế độ quá yếu, đối ngoại thì gặp quá nhiều áp lực, đối nội thì có quá nhiều việc phải làm mà không có đủ khả năng thực hiện.
Muốn tránh những mối nguy cơ đó, cần phải có một chánh phủ mạnh. Nhưng để chìu ý chánh phủ Hoa Kỳ, (không có sự ủng hộ nâng đỡ của họ thì sẽ mất tất cả), chìu ý dư luận của dân chúng Mỹ, thể chế phải thật sự dân chủ và tự do, có đầy đủ tự do trong mọi lãnh vực dù là tự do vô kỷ luật, và bất cứ mọi hạn chế nào cũng bị coi như một sự lạm quyền.
Khi xưa người La Mã đã có dự trù một "đặc quyền thống lỉnh" trong hiến pháp cộng hòa của họ trong trường hợp có khủng hoảng chánh trị, đó là: chỉ có một người duy nhất nắm giữ tất cả mọi quyền hành trong thời hạn một năm, có thể gia hạn thêm nếu khủng hoảng còn kéo dài chưa giải quyết được.
Trong đệ nhất thế chiến, nước Pháp đã đặt hết lòng tin vào "người hùng" mà người Pháp chúng ta gọi là "hùm xám" hay là "người cha chiến thắng", sau khi thắng trận kết thúc chiến tranh. Nhưng ông Clémenceau đã cho thấy ông là một người đã lạm dụng hai chữ Tự Do, vì ngay sau khi nắm được chánh quyền ông cho là tình hình quốc gia đang còn bất ổn nên ông cần phải có đầy đủ tất cả mọi quyền hành, và sau đó ông trở thành một người độc tài quá độ:
- "Tôi điều hành cuộc chiến", ông nói.
Ông không cho quốc hội và báo chí lên tiếng. Ông không cứu xét những khó khăn nội bộ cũng như những đòi hỏi hay nhu cầu cá nhơn. Ông thật sự là một nhà độc tài. Thật ra khi đã giành được chiến thắng cho nước Pháp, và khi đã từ chối không chịu hợp tác với các lực lượng luôn luôn chỉ có làm suy yếu quốc gia, ông đã tự mình từ khước quyền lực tối thượng của quốc gia ông, một tưởng thưởng cho "công lao hạn mã" của ông đối với nước Pháp, từ tay của những người mà ông đã cứu sống họ, nhưng đã làm chánh trị thì phải biết thông cảm sự bạc bẻo của người dân. Thế nhưng ông Clémenceau chỉ có việc làm khi có giặc ngoại xăm, không có gì để làm đối với hằng ngàn chuyện rắc rối của một cuộc chiến tranh cách mạng. Ông cũng không thể ngồi yên hưởng thụ như trong thời bình khi mà quốc gia đang ở trong thời chiến.
NHU CẦU: CẦN PHẢI CÓ MỘT NHÀ ĐỘC TÀI
Tại Việt Nam lẽ ra phải có một nhà độc tài mà vẫn không gây thiệt hại gì cho nền dân chủ, vì dân chúng của quốc gia nầy từ lâu đã có kinh nghiệm sống vui vẻ và hạnh phúc ở nông thôn xã ấp rồi. Tổng thống Thiệu thường được khuyên như vậy. Ông ta không phải không muốn, nhưng vì ông ta muốn tỏ ra tôn trọng sự tự do của dân chúng vốn là truyền thống của dân tộc Việt Nam. Có điều là ông ta quá lệ thuộc vào viện trợ Hoa Kỳ, không có viện trợ thì quốc gia nầy sẽ không tồn tại được.
Sau cuộc cách mạng 1963 để lật đổ chế độ Ngô đình Diệm thì có một sự hỗn độn về chánh trị tại Việt Nam và chỉ có quân đội là còn giữ được kỷ cương tương đối chặt chẻ, điều nầy dĩ nhiên dẩn đến việc quân đội nắm chánh quyền.
Thiệu là một tướng lãnh duy nhất tự cho mình được nắm quyền lãnh đạo quốc gia đồng thời phải kiêm nhiệm luôn chức vụ tổng tư lệnh quân đội, nếu không thì một vị tướng lãnh khác sẽ chiếm ngay chánh quyền. Ông không có dáng điệu của một nhà hùng biện chánh trị. Trong tư thế một quân nhân ông cho là không cần thiết phải nịnh dân hay kêu gọi sự ủng hộ của dân chúng. Ông không được huấn luyện về chánh trị, và không có khả năng hay không thích cộng tác với các đoàn thể chánh trị khác để sắp xếp một số quyền lợi đặc biệt cho họ, và ông không bao giờ chịu tìm cách thu phục lòng dân. Ông dành tất cả cho nhiệm vụ nguyên thủ quốc gia và tổng tư lệnh quân đội. Ông cầm quyền là do sự tín nhiệm của quân đội và một thiểu số nông dân ngoan ngoản hơn là của những nhân vật thích cải vã và ham tranh luận thuộc các đãng phái chánh trị, các tôn giáo, các phe phái, các học phái, báo chí, và các phần tử hay múa rối thường xem quyền lợi cá nhơn nặng hơn quyền lợi của Tổ Quốc. Ông tận tâm trong nhiệm vụ chống cộng gìn giữ đất nước do đó ông có được một sự trìu mến của quân đội và lòng mến mộ của nông dân nhất là trước nguy cơ xâm chiếm của Bắc Việt trong thời gian gần đây, cọng với một vài sự nhượng bộ cho một vài người nầy người khác... tất cả đều giúp ông đắc cử Tổng Thống trong một cuộc bầu cử tương đối ngay thẳng có thể so sánh được với những cuộc bầu cử ở Hoa Kỳ, Pháp và một vài nước khác, nơi mà những cuộc tranh chấp quyền hành thường xảy ra nhiều cải vã lôi thôi. Ông luôn luôn không muốn tỏ ra độc tài. Cũng là một điều dễ hiểu vì ông đã không gặp khó khăn gì nhiều trong nhiệm vụ đa dạng của ông, lẽ ra phải cần có sự trợ giúp của nhiều người, nhưng lần lần rồi người ta cũng thấy được tầm cỡ của ông trong cương vị lãnh đạo quốc gia, đối ngoại thì cũng "nặng ký", đối nội thì nền dân chủ vẫn được duy trì tuy đôi lúc cũng có bị lạm dụng, để rồi cuối cùng đó là một trong những lý do để ông phải từ chức ra đi, kéo theo luôn "sự diệt vong" của quốc gia ông.
Người ta đã không tiếc lời cảnh cáo và khuyên nhủ ông, cũng như đã vạch rõ cho ông thấy những nguy hiểm mà ông phải đương đầu trong sứ mạng mà ông đang theo đuổi. Với một tính bộc trực đáng nể, ông ngoan cường tự cho mình là người của dân chúng và đại diện cho quân đội, lực lượng duy nhất và hoàn toàn trung thành với đất nước, kiên quyết gìn giữ non sông, chống bọn cộng sản đang tấn công ông bằng đủ mọi phương cách, chống bọn người chủ trương trung lập vì họ chỉ biết đi từ nhượng bộ nầy đến nhượng bộ khác để cuối cùng là sẽ phải nhượng hết cho cộng sản.
PHẢI HẠ BỆ CHO BẰNG ĐƯỢC THẦN TƯỢNG NẦY
Ông Thiệu là biểu hiệu tượng trưng cho tinh thần chống giữ nước VNCH. Ông là biểu tượng chẳng những cộng sản mà những người phản chiến hay "quyền lợi chũ nghĩa" trên thế giới nầy, ai cũng đòi hỏi phải hạ bệ ông, vì họ đều cho ông là một chướng ngại lớn ngăn chận nền "hòa bình".
Việc phải đến đã đến: chỉ vài ngày sau khi Thiệu từ chức thì "hòa bình" đã trở lại cho quốc gia VN, đúng như người ta mong muốn. Nhưng là một nền "hòa bình" thế nào ấy !!!
Cá nhơn từ chối không muốn độc tài, đó là điều đáng tiếc, còn hơn là cả nước phải chấp nhận một sự việc độc tài: Nhơn danh Quốc Hội, Ông Huyền, đương kiêm chủ tịch thượng viện, một nhân vật liêm khiết và đạo đức cao, đã thỏa hiệp như vậy; các đãng phái thì bất lực và có lẽ phải tìm cách giảm số lượng xuống còn khoản 49..thì vừa; giới báo chí thì sống nhờ vào việc bán chợ đen giấy trắng thặng dư còn nhàn hơn là in báo bán; sinh viên là những người trẻ tuổi duy nhất không tham chiến, có lẽ họ đang hổ thẹn thầm trong khi những người khác cùng lứa tuổi như mình thì phải vào quân đội để chiến đấu với kẻ thù cộng sản ...; tóm lại trong lúc quốc gia đang cần một sự liêm khiết ngay thẳng thì đâu đâu cũng gặp toàn là những hành động chỉ trích, chống đối...vì nền dân chủ được chơi theo lối Mỹ; và tất cả những thứ bọt bèo chánh trị nầy chỉ có nhân danh cá nhơn và quyền lợi riêng tư để cấu kết với cộng sản đòi Thiệu phải từ chức và ra đi. Vã lại Thiệu cũng dư biết rằng dù là nhượng bộ tất cả hay là nhượng bộ cho "thành phần thứ ba" (thành phần chỉ muốn nghiên về phía cộng sản) để từ chức và ra đi, thật ra là một sự đầu hàng. Cuối cùng cá nhơn Thiệu bị tấn công kể cả tấn công vào ngay dinh Độc Lập. Và để bảo vệ Chánh Phủ đồng thời nắm chắc trong tay lực lượng trừ bị cuối cùng, sẳn sàng chống đở sườn tây của Sài Gòn lúc nầy đang bị uy hiếp mạnh, Thiệu phải gọi 2 sư đoàn tinh nhuệ từ Vùng 1 về, hai sư đoàn nầy đang là lực lượng ngăn chặn địch quân tại Hué để cho các đơn vị thuộc Quân Khu 1 rút lần về phía Nam, do đó mà Vùng 1 phải bị rơi vào tay Bắc Việt ngay sau đó.
Thiệu từ chức và ra đi. Sự ra đi nầy kéo theo sự tan rã của những đơn vị cuối cùng của QLVNCH và vài ngày sau đó là sự bức tử của quốc gia ông. Ông ta có thể ở lại chăng ? Có thể lắm chớ . Không phải cái sợ chết làm cho ông đắn đo, mà là những nguy cơ khác. Nhưng mà cũng cái sợ chết nầy nó làm cho tất cả đầu óc của mọi người đều như bị tê liệt, không còn thấy được hay đón nhận được những giải pháp có thể cứu nguy cho quốc gia sấp bại vong nầy.
Thiệu chắc cũng đã hiểu và nếu cần phải hy sinh bản thân để cứu được quốc gia thì Thiệu cũng đã chấp nhận những giải pháp đó từ lâu rồi. Thiệu ra đi và tất cả mọi việc coi như đã giải quyết xong. Và điều gì sẽ xảy ra cho cái nền dân chủ ung thối nầy ? Chắc chắn trong những ngày còn lại của cuộc đời ông, sự ung thối nầy vẫn còn tiếp tục thôi....
CŨNG GIỐNG NHƯ "HIỆN TƯỢNG BYSANCE" VẬY
Vị Phó Tổng Thống VNCH trở thành Tổng Thống như Hiến Pháp đã quy định. Đó là ông Trần văn Hương, một người dũng cảm, một giáo sư già liêm khiết được chọn đứng cùng liên danh ứng cữ với Thiệu. Ông ta ấp úng :"Tôi không biết dùng điện thoại, Tôi không biết gọi mấy vị Tổng Trưởng của tôi thế nào. Tôi không biết đối đáp với người ngoại quốc ra làm sao. Tôi thấy những giải pháp trình lên cho tôi cũng tốt, có thể cứu chúng ta được đó, tôi đồng ý. Nhưng để cho tôi suy nghỉ lại đã. Sau đó tôi sẽ nói "Thuận" thôi, và mọi việc sẽ được tiến hành. Nhưng mà người ta có cho tôi trở lại với cái ngành Giáo Dục thân yêu của tôi không đây ?"
Cũng giống như ở Bysance người ta bỏ công ngồi rỗi bàn cải với nhau một cách vô ích nhưng rất là sôi nổi xem các đấng thiên thần thuộc giống đực hay giống cái, thì ở đây tại Sài Gòn cũng vậy: trong giờ phút mà các đơn vị cuối cùng đang sống chết anh dũng với quân Bắc Việt trên mặt trận Xuân Lộc và Biên Hòa,thì người ta cũng đang sôi nổi tranh luận, cải lý với nhau về Hiến Pháp, để tìm xem có cách nào trao quyền lảnh đạo cho tướng Dương văn Minh một cách hợp hiến hay không, vì tướng Minh cam kết là "với một số điều kiện nào đó, ông sẽ đạt được một thỏa hiệp với kẻ địch, ít nhứt cũng giữ được cho Miền Nam Việt Nam một thể chế tự trị và tự do nào đó, và như vậy có thể mua thêm được một ít thời gian". Nhưng rồi người ta lại để ba ngày trôi qua. Sau đó người ta mới họp nhau lại tại quốc hội, có cả thương viện và hạ viện. Ông Hương đọc một bài diễn văn làm cho cả mọi người cảm động đến phải khóc! Và mười tám vị nối tiếp nhau lên diễn đàn, suốt mười tiếng đồng hồ liên tục, chỉ để lập đi lập lại những lượng giá về tình hình của các nhóm đãng phái đã nói, để rồi cuối cùng 18 ông diễn giả nầy đều có một kết luận là bất cứ với giá nào ta cũng không thể đầu hàng vô điều kiện. Sau đó người ta trao quyền lảnh đạo quốc gia lại cho tướng Dương văn Minh rồi người ta tự động giải tán.
Có nghĩa là ngay chiều hôm đó, trừ một vài người có can đãm và vài người vô ý thức còn ở lại, còn thì cả hạ viện lẫn thượng viện đều lên máy bay, ra đi, bỏ mặc dân tộc và quê hương của họ ở lại, có ra sao thì ra !!!!!
Tình hình càng ngày càng xấu đi: về mặt quân sự coi như đã mất hết rồi. Tướng Minh loay quay chỉ lập được một nội các vá víu gọi là "nội các cứu quốc" để thương thuyết với địch nhưng họ từ chối không chịu bàn cải. Bây giờ thì chỉ còn một cách duy nhất là kêu gọi binh sỉ các cấp hảy ngừng chiến đấu - vì có tiếp tục chiến đấu nữa cũng vô ích thôi-, và giao quyền lại cho kẻ xăm lăng. Nhưng quân Bắc Việt xăm lăng từ chối thẳng thừng:
"Quý vị còn có quyền gì nữa đâu mà bàn với giao!"
Thật là một bài học quá thấm thía ! Bài học nầy có nhiều điểm làm cho người Pháp chúng ta nhớ lại những gì mà chúng ta đã "sống" trong thời kỳ 1940, chỉ có hơn được VNCH là lãnh thổ rộng lớn của nước Pháp còn cho phép chúng ta kéo dài thêm được một thời gian gọi là "gần như tự trị" trước khi bị đánh gục .
Tuy nhiên bài học năm 40 chẳng có lợi ích gì, vì cũng cái chính thể vô trách nhiệm chỉ biết lo cho cái ghế chánh quyền đó lại được đưa ra cầm quyền. Cầu mong cho ngày mai nầy nước Pháp chúng ta không bị suy sụp tinh thần khi sấp sửa gặp nguy cơ và khi đồng minh sấp buông bỏ chúng ta!!!
Thượng Đế đã trừng phạt Miền Nam Việt Nam nhưng xin hãy buông tha cho nước Pháp chúng tôi!!!
CHƯƠNG 7Có quá nhiều mối nguy cơ
- Nguy cơ phát sanh từ phía địch vốn đã len lỏi vào được khắp nơi trong chánh quyền, do đó song song với hành động quân sự, cần phải có biện pháp hành chánh; Bộ máy hành chánh được điều hành không có gì đáng chê trách, ít nhất cũng cho tới ngày cuối cùng; không bao giờ có người nào đổ lỗi cho Quân Lực VNCH làm điều sai trái như người ta đã từng quy trách cho quân đội Pháp ở Algérie.
- Nguy cơ phát xuất từ bên trong, dân chúng quá hoang mang vì tiếng xấu của một số hành động tham nhũng.
- Nguy cơ đến từ bên ngoài, vì phía địch chẳng những có đầy đủ nguồn tài trợ về mọi mặt mà còn được hà hơi bằng sức mạnh bén nhọn của các cơ quan truyền thông quốc tế cộng sản, một điều mà chánh phủ VNCH vì đang sa lầy trong chiến cuộc không sao chống chế hữu hiệu được. Các quốc gia thuộc Thế Giới Tự Do thay vì thông cảm cho VNCH là một trong những con cờ "domino" đang gánh mọi nguy hiểm thay cho họ, thì lại không bao giờ quan tâm đến những khó khăn của quốc gia nầy, nếu không muốn nói là "ngoảnh mặt làm ngơ".
- Nguy cơ cũng phát xuất từ chế độ quá yếu, đối ngoại thì gặp quá nhiều áp lực, đối nội thì có quá nhiều việc phải làm mà không có đủ khả năng thực hiện.
Muốn tránh những mối nguy cơ đó, cần phải có một chánh phủ mạnh. Nhưng để chìu ý chánh phủ Hoa Kỳ, (không có sự ủng hộ nâng đỡ của họ thì sẽ mất tất cả), chìu ý dư luận của dân chúng Mỹ, thể chế phải thật sự dân chủ và tự do, có đầy đủ tự do trong mọi lãnh vực dù là tự do vô kỷ luật, và bất cứ mọi hạn chế nào cũng bị coi như một sự lạm quyền.
Khi xưa người La Mã đã có dự trù một "đặc quyền thống lỉnh" trong hiến pháp cộng hòa của họ trong trường hợp có khủng hoảng chánh trị, đó là: chỉ có một người duy nhất nắm giữ tất cả mọi quyền hành trong thời hạn một năm, có thể gia hạn thêm nếu khủng hoảng còn kéo dài chưa giải quyết được.
Trong đệ nhất thế chiến, nước Pháp đã đặt hết lòng tin vào "người hùng" mà người Pháp chúng ta gọi là "hùm xám" hay là "người cha chiến thắng", sau khi thắng trận kết thúc chiến tranh. Nhưng ông Clémenceau đã cho thấy ông là một người đã lạm dụng hai chữ Tự Do, vì ngay sau khi nắm được chánh quyền ông cho là tình hình quốc gia đang còn bất ổn nên ông cần phải có đầy đủ tất cả mọi quyền hành, và sau đó ông trở thành một người độc tài quá độ:
- "Tôi điều hành cuộc chiến", ông nói.
Ông không cho quốc hội và báo chí lên tiếng. Ông không cứu xét những khó khăn nội bộ cũng như những đòi hỏi hay nhu cầu cá nhơn. Ông thật sự là một nhà độc tài. Thật ra khi đã giành được chiến thắng cho nước Pháp, và khi đã từ chối không chịu hợp tác với các lực lượng luôn luôn chỉ có làm suy yếu quốc gia, ông đã tự mình từ khước quyền lực tối thượng của quốc gia ông, một tưởng thưởng cho "công lao hạn mã" của ông đối với nước Pháp, từ tay của những người mà ông đã cứu sống họ, nhưng đã làm chánh trị thì phải biết thông cảm sự bạc bẻo của người dân. Thế nhưng ông Clémenceau chỉ có việc làm khi có giặc ngoại xăm, không có gì để làm đối với hằng ngàn chuyện rắc rối của một cuộc chiến tranh cách mạng. Ông cũng không thể ngồi yên hưởng thụ như trong thời bình khi mà quốc gia đang ở trong thời chiến.
NHU CẦU: CẦN PHẢI CÓ MỘT NHÀ ĐỘC TÀI
Tại Việt Nam lẽ ra phải có một nhà độc tài mà vẫn không gây thiệt hại gì cho nền dân chủ, vì dân chúng của quốc gia nầy từ lâu đã có kinh nghiệm sống vui vẻ và hạnh phúc ở nông thôn xã ấp rồi. Tổng thống Thiệu thường được khuyên như vậy. Ông ta không phải không muốn, nhưng vì ông ta muốn tỏ ra tôn trọng sự tự do của dân chúng vốn là truyền thống của dân tộc Việt Nam. Có điều là ông ta quá lệ thuộc vào viện trợ Hoa Kỳ, không có viện trợ thì quốc gia nầy sẽ không tồn tại được.
Sau cuộc cách mạng 1963 để lật đổ chế độ Ngô đình Diệm thì có một sự hỗn độn về chánh trị tại Việt Nam và chỉ có quân đội là còn giữ được kỷ cương tương đối chặt chẻ, điều nầy dĩ nhiên dẩn đến việc quân đội nắm chánh quyền.
Thiệu là một tướng lãnh duy nhất tự cho mình được nắm quyền lãnh đạo quốc gia đồng thời phải kiêm nhiệm luôn chức vụ tổng tư lệnh quân đội, nếu không thì một vị tướng lãnh khác sẽ chiếm ngay chánh quyền. Ông không có dáng điệu của một nhà hùng biện chánh trị. Trong tư thế một quân nhân ông cho là không cần thiết phải nịnh dân hay kêu gọi sự ủng hộ của dân chúng. Ông không được huấn luyện về chánh trị, và không có khả năng hay không thích cộng tác với các đoàn thể chánh trị khác để sắp xếp một số quyền lợi đặc biệt cho họ, và ông không bao giờ chịu tìm cách thu phục lòng dân. Ông dành tất cả cho nhiệm vụ nguyên thủ quốc gia và tổng tư lệnh quân đội. Ông cầm quyền là do sự tín nhiệm của quân đội và một thiểu số nông dân ngoan ngoản hơn là của những nhân vật thích cải vã và ham tranh luận thuộc các đãng phái chánh trị, các tôn giáo, các phe phái, các học phái, báo chí, và các phần tử hay múa rối thường xem quyền lợi cá nhơn nặng hơn quyền lợi của Tổ Quốc. Ông tận tâm trong nhiệm vụ chống cộng gìn giữ đất nước do đó ông có được một sự trìu mến của quân đội và lòng mến mộ của nông dân nhất là trước nguy cơ xâm chiếm của Bắc Việt trong thời gian gần đây, cọng với một vài sự nhượng bộ cho một vài người nầy người khác... tất cả đều giúp ông đắc cử Tổng Thống trong một cuộc bầu cử tương đối ngay thẳng có thể so sánh được với những cuộc bầu cử ở Hoa Kỳ, Pháp và một vài nước khác, nơi mà những cuộc tranh chấp quyền hành thường xảy ra nhiều cải vã lôi thôi. Ông luôn luôn không muốn tỏ ra độc tài. Cũng là một điều dễ hiểu vì ông đã không gặp khó khăn gì nhiều trong nhiệm vụ đa dạng của ông, lẽ ra phải cần có sự trợ giúp của nhiều người, nhưng lần lần rồi người ta cũng thấy được tầm cỡ của ông trong cương vị lãnh đạo quốc gia, đối ngoại thì cũng "nặng ký", đối nội thì nền dân chủ vẫn được duy trì tuy đôi lúc cũng có bị lạm dụng, để rồi cuối cùng đó là một trong những lý do để ông phải từ chức ra đi, kéo theo luôn "sự diệt vong" của quốc gia ông.
Người ta đã không tiếc lời cảnh cáo và khuyên nhủ ông, cũng như đã vạch rõ cho ông thấy những nguy hiểm mà ông phải đương đầu trong sứ mạng mà ông đang theo đuổi. Với một tính bộc trực đáng nể, ông ngoan cường tự cho mình là người của dân chúng và đại diện cho quân đội, lực lượng duy nhất và hoàn toàn trung thành với đất nước, kiên quyết gìn giữ non sông, chống bọn cộng sản đang tấn công ông bằng đủ mọi phương cách, chống bọn người chủ trương trung lập vì họ chỉ biết đi từ nhượng bộ nầy đến nhượng bộ khác để cuối cùng là sẽ phải nhượng hết cho cộng sản.
PHẢI HẠ BỆ CHO BẰNG ĐƯỢC THẦN TƯỢNG NẦY
Ông Thiệu là biểu hiệu tượng trưng cho tinh thần chống giữ nước VNCH. Ông là biểu tượng chẳng những cộng sản mà những người phản chiến hay "quyền lợi chũ nghĩa" trên thế giới nầy, ai cũng đòi hỏi phải hạ bệ ông, vì họ đều cho ông là một chướng ngại lớn ngăn chận nền "hòa bình".
Việc phải đến đã đến: chỉ vài ngày sau khi Thiệu từ chức thì "hòa bình" đã trở lại cho quốc gia VN, đúng như người ta mong muốn. Nhưng là một nền "hòa bình" thế nào ấy !!!
Cá nhơn từ chối không muốn độc tài, đó là điều đáng tiếc, còn hơn là cả nước phải chấp nhận một sự việc độc tài: Nhơn danh Quốc Hội, Ông Huyền, đương kiêm chủ tịch thượng viện, một nhân vật liêm khiết và đạo đức cao, đã thỏa hiệp như vậy; các đãng phái thì bất lực và có lẽ phải tìm cách giảm số lượng xuống còn khoản 49..thì vừa; giới báo chí thì sống nhờ vào việc bán chợ đen giấy trắng thặng dư còn nhàn hơn là in báo bán; sinh viên là những người trẻ tuổi duy nhất không tham chiến, có lẽ họ đang hổ thẹn thầm trong khi những người khác cùng lứa tuổi như mình thì phải vào quân đội để chiến đấu với kẻ thù cộng sản ...; tóm lại trong lúc quốc gia đang cần một sự liêm khiết ngay thẳng thì đâu đâu cũng gặp toàn là những hành động chỉ trích, chống đối...vì nền dân chủ được chơi theo lối Mỹ; và tất cả những thứ bọt bèo chánh trị nầy chỉ có nhân danh cá nhơn và quyền lợi riêng tư để cấu kết với cộng sản đòi Thiệu phải từ chức và ra đi. Vã lại Thiệu cũng dư biết rằng dù là nhượng bộ tất cả hay là nhượng bộ cho "thành phần thứ ba" (thành phần chỉ muốn nghiên về phía cộng sản) để từ chức và ra đi, thật ra là một sự đầu hàng. Cuối cùng cá nhơn Thiệu bị tấn công kể cả tấn công vào ngay dinh Độc Lập. Và để bảo vệ Chánh Phủ đồng thời nắm chắc trong tay lực lượng trừ bị cuối cùng, sẳn sàng chống đở sườn tây của Sài Gòn lúc nầy đang bị uy hiếp mạnh, Thiệu phải gọi 2 sư đoàn tinh nhuệ từ Vùng 1 về, hai sư đoàn nầy đang là lực lượng ngăn chặn địch quân tại Hué để cho các đơn vị thuộc Quân Khu 1 rút lần về phía Nam, do đó mà Vùng 1 phải bị rơi vào tay Bắc Việt ngay sau đó.
Thiệu từ chức và ra đi. Sự ra đi nầy kéo theo sự tan rã của những đơn vị cuối cùng của QLVNCH và vài ngày sau đó là sự bức tử của quốc gia ông. Ông ta có thể ở lại chăng ? Có thể lắm chớ . Không phải cái sợ chết làm cho ông đắn đo, mà là những nguy cơ khác. Nhưng mà cũng cái sợ chết nầy nó làm cho tất cả đầu óc của mọi người đều như bị tê liệt, không còn thấy được hay đón nhận được những giải pháp có thể cứu nguy cho quốc gia sấp bại vong nầy.
Thiệu chắc cũng đã hiểu và nếu cần phải hy sinh bản thân để cứu được quốc gia thì Thiệu cũng đã chấp nhận những giải pháp đó từ lâu rồi. Thiệu ra đi và tất cả mọi việc coi như đã giải quyết xong. Và điều gì sẽ xảy ra cho cái nền dân chủ ung thối nầy ? Chắc chắn trong những ngày còn lại của cuộc đời ông, sự ung thối nầy vẫn còn tiếp tục thôi....
CŨNG GIỐNG NHƯ "HIỆN TƯỢNG BYSANCE" VẬY
Vị Phó Tổng Thống VNCH trở thành Tổng Thống như Hiến Pháp đã quy định. Đó là ông Trần văn Hương, một người dũng cảm, một giáo sư già liêm khiết được chọn đứng cùng liên danh ứng cữ với Thiệu. Ông ta ấp úng :"Tôi không biết dùng điện thoại, Tôi không biết gọi mấy vị Tổng Trưởng của tôi thế nào. Tôi không biết đối đáp với người ngoại quốc ra làm sao. Tôi thấy những giải pháp trình lên cho tôi cũng tốt, có thể cứu chúng ta được đó, tôi đồng ý. Nhưng để cho tôi suy nghỉ lại đã. Sau đó tôi sẽ nói "Thuận" thôi, và mọi việc sẽ được tiến hành. Nhưng mà người ta có cho tôi trở lại với cái ngành Giáo Dục thân yêu của tôi không đây ?"
Cũng giống như ở Bysance người ta bỏ công ngồi rỗi bàn cải với nhau một cách vô ích nhưng rất là sôi nổi xem các đấng thiên thần thuộc giống đực hay giống cái, thì ở đây tại Sài Gòn cũng vậy: trong giờ phút mà các đơn vị cuối cùng đang sống chết anh dũng với quân Bắc Việt trên mặt trận Xuân Lộc và Biên Hòa,thì người ta cũng đang sôi nổi tranh luận, cải lý với nhau về Hiến Pháp, để tìm xem có cách nào trao quyền lảnh đạo cho tướng Dương văn Minh một cách hợp hiến hay không, vì tướng Minh cam kết là "với một số điều kiện nào đó, ông sẽ đạt được một thỏa hiệp với kẻ địch, ít nhứt cũng giữ được cho Miền Nam Việt Nam một thể chế tự trị và tự do nào đó, và như vậy có thể mua thêm được một ít thời gian". Nhưng rồi người ta lại để ba ngày trôi qua. Sau đó người ta mới họp nhau lại tại quốc hội, có cả thương viện và hạ viện. Ông Hương đọc một bài diễn văn làm cho cả mọi người cảm động đến phải khóc! Và mười tám vị nối tiếp nhau lên diễn đàn, suốt mười tiếng đồng hồ liên tục, chỉ để lập đi lập lại những lượng giá về tình hình của các nhóm đãng phái đã nói, để rồi cuối cùng 18 ông diễn giả nầy đều có một kết luận là bất cứ với giá nào ta cũng không thể đầu hàng vô điều kiện. Sau đó người ta trao quyền lảnh đạo quốc gia lại cho tướng Dương văn Minh rồi người ta tự động giải tán.
Có nghĩa là ngay chiều hôm đó, trừ một vài người có can đãm và vài người vô ý thức còn ở lại, còn thì cả hạ viện lẫn thượng viện đều lên máy bay, ra đi, bỏ mặc dân tộc và quê hương của họ ở lại, có ra sao thì ra !!!!!
Tình hình càng ngày càng xấu đi: về mặt quân sự coi như đã mất hết rồi. Tướng Minh loay quay chỉ lập được một nội các vá víu gọi là "nội các cứu quốc" để thương thuyết với địch nhưng họ từ chối không chịu bàn cải. Bây giờ thì chỉ còn một cách duy nhất là kêu gọi binh sỉ các cấp hảy ngừng chiến đấu - vì có tiếp tục chiến đấu nữa cũng vô ích thôi-, và giao quyền lại cho kẻ xăm lăng. Nhưng quân Bắc Việt xăm lăng từ chối thẳng thừng:
"Quý vị còn có quyền gì nữa đâu mà bàn với giao!"
Thật là một bài học quá thấm thía ! Bài học nầy có nhiều điểm làm cho người Pháp chúng ta nhớ lại những gì mà chúng ta đã "sống" trong thời kỳ 1940, chỉ có hơn được VNCH là lãnh thổ rộng lớn của nước Pháp còn cho phép chúng ta kéo dài thêm được một thời gian gọi là "gần như tự trị" trước khi bị đánh gục .
Tuy nhiên bài học năm 40 chẳng có lợi ích gì, vì cũng cái chính thể vô trách nhiệm chỉ biết lo cho cái ghế chánh quyền đó lại được đưa ra cầm quyền. Cầu mong cho ngày mai nầy nước Pháp chúng ta không bị suy sụp tinh thần khi sấp sửa gặp nguy cơ và khi đồng minh sấp buông bỏ chúng ta!!!
Thượng Đế đã trừng phạt Miền Nam Việt Nam nhưng xin hãy buông tha cho nước Pháp chúng tôi!!!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét