Thứ Ba, 30 tháng 7, 2013

VIỆT NAM CỘNG HOÀ BỊ BỨC TỬ - LA MORT DU VIETNAM - PHẦN 4

SỰ TAN RÃ CỦA Q.L.V.N.C.H

Quân Lực VNCH cũng bị phản bội!

- Phản bội từ phía những kẻ đã từng cam kết bảo đãm một sự viện trợ chiến cụ và đạn dược. Vì không có đạn dược nên quân đội bị bắt buộc phải buông súng xuống, có tiếp tục cũng vô ích mà thôi.
- Phản bội từ phía địch đã bội tín, chẳng những vi phạm những hiệp ước đã ký kết mà còn lợi dụng hiệp ước đó để tăng cường quân đội về nhân lực cũng như về chiến cụ vũ khí tối tân, hơn hẳn Miền Nam gấp bội.

- Phản bội phải nói là từ phía chánh quyền quá yếu không biết buộc quân đội phải có một kỷ luật sắt tối cần, cũng như không biết dắt dẫn dân chúng phải biết đóng góp nỗ lực cần thiết cho cuộc chiến.

- Phản bội từ phía dân chúng vì họ chỉ biết lo vui chơi và chạy theo quyền lợi riêng tư cá biệt, người đại diện thì nêu gương tham nhũng, thứ dân thì thờ ơ không cần biết, không cần lo âu gì về nhu cầu của cuộc chiến, và không năng nỗ góp công góp sức vào công cuộc chống giặc mà đất nước đang đòi hỏi, dĩ nhiên cuộc chiến quá dài quá lâu cũng có khiến cho lòng dân uễ oãi.

- Phản bội từ giới trí thức rỡm hay lắm lời tranh cải vô bổ hơn là tận tình lo cho đất nước, làm mất tinh thần quân đội bằng luận điệu phản chiến, và rêu rao khẳng định là cần phải thỏa hiệp với địch hơn là tiếp tục chiến đấu.

- Phản bội từ phía dân chúng không chịu nhất tề đứng dậy chiến đấu chống giặc giữ nước mà chỉ lo di tản, chạy dài trước địch quân một cách hỗn loạn gây thêm hoang mang hoảng hốt cho các đơn vị vốn dĩ cũng đang bị mất tinh thần.

Ngoài một số cấp chỉ huy có kinh nghiệm lâu năm trong chiến đấu, có đầy đủ khả năng và tư cách, và một số quân nhân có thiện chí, ngoài một số hành động dũng cảm của một vài đơn vị và phần đông các chiến sĩ, chúng ta cũng phải nói đến những phần tử vô kỷ luật, hèn nhát, hồ đồ hay hổn tạp đã làm cho quân đội suy yếu hẳn đi. Chúng ta hảy xem trường hợp tương tự đã xảy ra khi mà địch quân vừa bắt đầu tấn công, mặc dầu biết rõ là địch trước sau gì cũng phải xuất hiện vì những người có trách nhiệm đang còn chờ họ đây, thế mà vì địch xuất hiện đúng vào lúc tương quan lực lượng được đánh giá là quá chênh lệch, địch hơn hẳn ta cả về chiến cụ lẫn tinh thần, tự nhiên quân đội bị tán loạn và tự mình làm tan rã hàng ngủ.

Người Mỹ đã bỏ rơi QLVNCH thật, nhưng chúng ta cũng rất ngạc nhiên mà thấy họ thốt lên rằng: "Ít nhất họ cũng phải giữ được Đà Nãng, vì Đà Nãng cũng đâu có khó phòng thủ đâu. Họ cũng không thể bỏ Cam Ranh vì Cam Ranh có tầm chiến lược quá quan trọng trong vùng Đông Nam Á. Họ đã bỏ lại quá nhiều súng ống đạn dược mà chúng tôi đã cung cấp cho họ, họ đã bỏ lại tất cả hệ thống hạ tầng kiến thiết mà chúng tôi đã từng hảnh diện và đã phải đổ vào đó hàng tỷ đồng. Lẻ ra họ phải giữ được thêm một thời gian nữa cho chúng tôi có đủ thì giờ di tản êm thắm những người mà chúng tôi đã thuê mướn!"

Người Mỹ thật là quá khả ố. Họ đã phản bội rồi mà còn nghĩ là họ có quyền đòi hỏi người Việt Nam phải biết ơn họ, phải nhớ đến những sự hy sinh của họ...trong khi họ bỏ rơi QLV NCH và cố tình giao Miền Nam VN cho cộng sản .....Phải chăng sự tan rã của một quân đội như vậy là không tiền khoáng hậu ?

Không cần chi phải lật lại cho nhiều trang sử, những sự kiện mới đây đã nhắc cho người Pháp chúng ta trận La Marne, một trận chiến mà sau một cuộc lui quân trong hổn loạn, nhờ sự lanh trí của cấp chỉ huy và lòng can đãm của binh sĩ, và cũng nhờ một sai lầm của địch mà quân đội Pháp đã chiếm lại được những gì bị mất trước đó. Có cần phải nhắc lại cho người Pháp chúng ta cái nhục của năm 40 ? và tại sao chỉ trong vòng 60 ngày mà tất cả quân đội Pháp chúng ta phải chịu đầu hàng và nước Pháp chúng ta phải chịu sống dưới đế giày của bọn Đức quốc xã ? Gần đây nhất, làm sao chúng ta quên được trận rút quân ra khỏi Lạng Sơn năm 1950 sau tổn hại nặng ở Cao Bằng. Tuy cũng có vài đơn vị đã chiến đấu thật anh dũng, còn thì tất cả đều tự động rút quân hết, dọc theo tỉnh lộ 4, mặc dầu không có địch, chưa có giao tranh, và cũng chưa có lệnh gì cả. Làm sao chúng ta quên được nổi hốt hoảng lo sợ của quân đội Pháp chúng ta trên khắp miền trung châu Bắc Việt lúc đó? ngay tại Hà Nội kiều dân Pháp bán đi các cửa tiệm, các khách sạn và các hiệu ăn với một giá rẽ mạt, vị tướng lảnh chỉ huy quân đội Pháp ở Bắc Việt đã dự trù một cuộc tháo chạy về Miền Nam và đang sắp sửa di tản hết quân đội L.H.P. ra khỏi Bắc Việt...thế nhưng rất may là tướng De Lattre De Tassigny đã tới vừa kịp lúc. Nếu không......

Phải chăng chúng ta cần nhắc cho người Mỹ vốn hay mau quên rằng năm 1951 làm thế nào mà 16 sư đoàn Trung Cộng tại sông Yalu đã chiếm và quét sạch toàn bộ đoàn quân viễn chinh Hoa Kỳ ở Nam Hàn xuống đến tận cùng của bán đảo Triều Tiên, gây cho quân đội đồng minh thiệt hại nặng nề và một cuộc bại trận đau thương chưa từng có, mà sau đó chỉ có nhờ một cuộc hành quân quy mô từ bên ngoài vào mới thay đổi được tình thế .... Cũng giống như nước Pháp sau chiến bại chua cay năm 1940, thì chỉ có nhờ lực lượng đồng minh bốn năm sau đó, từ bên ngoài can thiệp vào mới cứu vãn được những gì mà chúng ta gọi là lỗi lầm tai hại năm xưa.

Tất cả những kỷ niệm nói trên không phải được nhắc lại để bào chữa hay đổ tội, nhưng chúng ta cũng nên đánh giá lại cho đứng đắn quân đội Miền Nam Việt Nam; sự tan rã của QLVNCH làm cho những ai đã từng biết qua thành tích hào hùng của họ trong quá khứ đều hết sức ngạc nhiên đến sửng sờ, làm cho cả dân chúng Miền Nam Việt Nam phải kinh hoàng, và ngay như quân xăn lăng Bắc Việt là kẽ đã chiến thắng rồi mà cũng vẫn ngờ ngợ chưa chịu tin đó là sự thật.

MỘT QUÂN ĐỘI DO PHÁP THÀNH LẬP... VÀ ĐƯỢC MỸ HÓA SAU ĐÓ

Tướng De Lattre de Tassigny cho thành lập QLVNCH vào mùa xuân năm 1951, khi ông hiểu rằng trong một cuộc "chiến tranh cách mạng" kiểu cộng sản, một đạo quân ngoại quốc dù có nỗ lực cách mấy cũng không thể thành công được, nếu không có sự trợ chiến của một quân lực người địa phương, vì chính người dân địa phương mới ý thức được nhiệm vụ giữ đất nước của họ và họ phải chiến đấu để tránh hiểm họa cộng sản cho chính họ và cho Tổ Quốc của họ.

Quân lực Việt Nam đầu tiên được thành lập thật nhanh chóng, đạt quá mau một mức quân số hùng hậu, đó là một bằng chứng hùng hồn nhất để nói cho người cộng sản biết rằng Bắc Việt không phải chống giặc xăm lăng ngoại quốc như họ đã từng tuyên truyền, mà thực sự họ đang chống một quân đội được thành lập từ con dân của đất nước Việt Nam của họ.

Bên cạnh lực lượng của Liên Hiệp Pháp, Quân đội Viêt Nam dù vừa được thành lập nhưng đã chiến đấu rất anh dũng, chứng tỏ khả năng trưởng thành của mình. Và vào năm 1955 lúc quân đội Pháp rời khỏi Đông Dương, nếu lực lượng nầy không được hùng mạnh như một quân đội cao tuổi đời hơn mình thật, nhưng cũng là một quân lực có giá trị chiến đấu cao, khả dĩ có thể đương đầu rất hữu hiệu với quân cộng sản lúc nầy vừa mới vào chiếm đóng lãnh thổ Miền Bắc Việt Nam như Hiệp Ước Genève đã quy định.

Sau đó người Mỹ thay chân cho người Pháp, tạo ra một không khí bài Pháp khắp Miền Nam Việt Nam . Người ta cho duyệt lại tất cả những gì còn chịu ảnh hưởng của người Pháp, người ta cho hạ xuống không thương tiếc đài chiến sĩ trận vong ở Sài Gòn, trên đó có hai chiến binh Pháp Việt thể hiện tình huynh đệ chi binh thật thắm thiết và đậm đà. Người ta đốt hết "lon" kiểu Pháp, thay vào một loại cấp bậc và huy hiệu theo kiểu của quân đội Mỹ: theo Mỹ là một cái kiểu cách (mode) của thời đại lúc bấy giờ.

Làn sóng bài Pháp nầy nổi lên là do thất bại trong chánh sách của người Pháp chúng ta đã nhường cho cộng sản một nữa nước Việt Nam phía Bắc, tuy nhiên cao trào nầy lên nhanh thì cũng xẹp xuống cũng nhanh, người ta rồi cũng tỉnh ngộ lại.

Nhưng dầu sao thì người dân Miền Nam Việt Nam cũng đã phải chịu Mỹ-hóa rồi. Người ta loại những cấp chỉ huy và những ai còn có "hơi hướng" nguồn gốc Pháp, và huấn luyện lại các cấp quân nhân theo lối Mỹ, người ta gởi họ đến các trường quân sự của Hoa Kỳ, công tác tiếp vận cũng được tổ chức lại theo quan điểm và cung cách Hoa Kỳ: quân đội phải răm rấp tuân thủ thôi.

Nhờ có một khả năng tiếp thu nhanh và một trí nhớ đặc biệt của người Việt Nam nên quân đội và chánh phủ đều dùng tiếng Anh. Tiếp sau đó thì các giới buôn bán, nhơn viên ngân hàng, các hiệu ăn, các quán giải trí bình dân, các tiệm bán hàng mỹ nghệ, các trung tâm giao dịch v.v...trật trúng gì họ cũng líu lo dăm ba tiếng Mỹ, rất cần thiết để tiếp cận và kiếm được tiền từ tay các "ông hoàng của thời đại".

Nhưng giới thượng lưu trí thức thì vẫn tiếp tục dùng tiếng Pháp, vì tiếng Pháp là ngôn ngữ được thông dụng trong chương trình giáo dục tại Miền Nam Việt Nam từ xa xưa lâu rồi, và người ta cũng còn quen dùng các món ăn ngon nấu nướng theo lối Pháp. Cứ như thế là người ta quay trở lại nếp sinh hoạt cũ rất nhanh. Có người đã nghiên cứu và nói về cú pháp của ngôn ngữ Việt Nam : người ta có nhận xét là cú pháp có thay đổi theo chìu hướng hợp lý như ngữ vựng của Pháp vậy. Do đó mà bài toán được đặt ra là liệu giới trẻ với một cấu trúc não bộ đã tiêm nhiễm một nền học vấn Việt Pháp từ lâu có bị một chấn động tư tưởng nào không, khi người ta bắt họ phải theo một nền văn hóa nhật-nhĩ-mãn (anglo saxon). Việc bài Pháp nầy không đi xa hơn nữa được, và đại sứ Hoa Kỳ đã nói với người Pháp rằng:

"Chúng tôi không có đủ giáo viên để đưa vào thay thế cho các giáo viên của các ông, chúng tôi chẳng thấy có lợi ích gì để phải chống lại người Pháp các ông, mà có chống cũng không đi đến đâu, dần dà rồi đâu cũng vào đó thôi."

Có nhiều tướng lãnh chống lại sự việc phải thuyết trình tình hình bằng tiếng Anh, và việc nầy đã có gây tai tiếng không tốt. Các vị cố vấn quân sự Mỹ bên cạnh những đơn vị VN phải cố gắng "chạy theo" tập tục Việt Nam để cho các đơn vị trưởng chấp nhận ý kiến của họ thường khuyên bảo.

Người ta nhớ lại là trong chiến dịch đập phá bài Pháp lúc bấy giờ, người ta đã bỏ sót một tượng đài kỷ niệm nhỏ hết sức cũ kỹ, gần sân bay Tân sơn Nhứt, do có người tốt bụng cất dấu lại vì không nở phá đi. Trên bia kỹ niệm có ghi lại những thành tích dũng cảm của những chuyến bay liên lạc giữa Sài Gòn và Paris trong đệ nhất thế chiến, trên một mặt bia có khắc bằng chữ quốc ngữ, mặt bên kia bằng tiếng Pháp, ghi lại một đoạn thơ của đại uý Thụy, một anh hùng phi công của không quân Pháp bị bắn rơi trong trận thế chiến 1914-1918. Thơ nói rằng:

-"Bởi vì tôi là một người dân AnNam (danh từ khi xưa chỉ cho Việt Nam bây giờ) và bởi vì tôi cũng là công dân Pháp, nên tôi phải có bổn phận hai lần phục vụ cho Tổ Quốc tôi". (nguyên văn)

Khi những người lính Mỹ đầu tiên thuộc Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến Mỹ đổ bộ lên Đà Nẵng để tiếp viện cho Miền Nam VN đang bị cộng sản tấn công mạnh, họ được các cô nữ sinh rất đẹp đón tiếp và choàng vòng hoa tươi vào cổ, theo như kiểu cách ở quần đão Polynésie vậy. Sau đó các đơn vị Mỹ tiếp tục đến Miền Nam Việt Nam , đồng đô-la cũng ào ào đi theo với họ. Từ đó quân đội Việt Nam được tổ chức theo lối Mỹ, một lối tổ chức hoàn toàn theo quân đội chánh quy, không thích hợp để xử dụng trong một cuộc "chiến tranh cách mạng" mà để xử dụng trong một cuộc chiến tranh quy ước. Quân Lực VNCH lúc bấy giờ mang một bộ mặt của một anh bà con nghèo lúc phải ngữa tay xin từng chiến cụ, từng cây súng từng viên đạn. Dưới tầm nhìn và theo dư luận của dân chúng Việt Nam, của người ngoại quốc nhứt là người Mỹ cũng như của các nhà báo, thì thật là một điều phí phạm khi để cho những anh "lính nhà quê ngây ngô" nầy xử dụng các chiến cụ hạng sang như vậy, các thứ mà chỉ có những "quân nhân nhà nghề" giàu có mới là người được sờ tới...Tuy nhiên rồi mọi việc cũng đều vui vẻ hết thôi, vì đồng đô la được tuôn ra quá nhiều. Dĩ nhiên cũng có một vài phút căng thẳng nhưng cũng kín đáo được người ta khéo léo dàn xếp cho qua... Cho đến mãi về sau nầy, đến giai đoạn Hoa Kỳ cho "việt-nam-hóa" cuộc chiến và rút quân rời khỏi Việt Nam thì tinh thần quân đội Miền Nam mới thấy được thơ thới thoãi mái hơn mà thôi.

VIỆT-NAM-HÓA CHIẾN TRANH

Việt-Nam-Hóa ! Danh từ nầy tuy được người Mỹ dùng nhưng phía Chánh Phủ Việt Nam Cộng Hòa không chấp nhận, vì danh từ nầy ngụ ý nói rằng cho đến giờ nầy QLV NCH không có tham chiến. Việt-Nam-Hóa không phải chỉ có việc cung cấp chiến cụ cho Hải Lục Không quân của VNCH, mà còn phải cung cấp quân dụng, vũ khí đạn dược để trang bị cho khoảng 12 sư đoàn bộ binh. Con số nầy đã được Ngủ Giác Đài và Bộ Quốc Phòng ước định cho là vừa đủ trong công tác phòng thủ lãnh thổ VNCH mà thôi, không tính đến số lượng phải cung ứng thêm cho chiến trường bên Lào và Cam Bốt, cũng không kể đến việc QLVNCH liều lĩnh tấn công ra Miền Bắc, điều mà Hoa Kỳ không bao giờ chấp nhận mặc dầu các tướng lãnh của họ thường khuyến cáo như vậy.

Sự việc Hoa Kỳ có được cơ hội để rút chân ra khỏi bải lầy nguy hiểm nầy bằng cách cho Việt-Nam-Hóa chiến tranh để đưa quân về nước, thực ra đã giúp cho người Việt Nam lần đầu tiên có được một nền độc lập thật sự, hoàn toàn tự chủ trong trách nhiệm của mình, mặc dầu còn phải lệ thuộc vào một sự viện trợ "không có không được" của ngoại quốc. Cuối cùng rồi Quân Lực của Miền Nam Việt Nam lần đầu tiên được hoàn toàn tự do gánh lấy trách nhiệm của quốc gia mình, mà chính yếu là phòng thủ lảnh thổ của đất nước mình.

Chỉ trong vòng vài tháng thôi, mọi việc đều thay đổi hẳn, từ dân chúng đến chánh phủ rồi trong quân đội. Mặc dầu bị bắt buộc phải đưa quân trám vào những khoảng trống quá rộng do 500.000 quân Mỹ và đồng minh TháiLan, Đại Hàn, Úc Đại Lợi, và một vài đơn vị của một vài quốc gia khác rút đi, nhưng QLVNCH rất vui vẻ được làm chủ vận mạng của mình. Các quân binh chủng lần lượt được nhận một số trang bị tối tân, - tuy cũng có một vài đơn vị nhận có hơi chậm - dù còn xa mới sánh kịp với quân dụng của quân đội Hoa Kỳ, nhưng như thế quân đội cũng tương đối có đủ phương tiện để có thể làm tròn sứ mạng của mình đối với đất nước.

Cây dù không quân chiến lược của Hoa Kỳ vẫn còn tiếp tục được duy trì thêm một thời gian nữa, và Không Lực của Miền Nam vốn có nhiều trực thăng loại chuyên chở cộng với những phi cơ phản lực có tốc độ nhanh, cũng cảm thấy có một niềm hảnh diện cho quân chủng của mình.

Hải Quân của Miền Nam nhận được khá nhiều tàu chiến tuy thuộc loại cũ nhưng cũng đủ để làm tròn nhiệm vụ tuần duyên hoặc an ninh trên sông rạch. Vấn đề tu bổ các loại chiến cụ nầy cũng là một bài toán cho QLVNCH . Các tướng lảnh Hoa Kỳ có nhiệm vụ trao quân chiến cụ cho VNCH đã theo dỏi sát công tác tu bổ các loại chiến cụ nói trên, đều không tiếc lời khen ngợi về kỹ thuật của các công xưởng và các trung tâm sửa chữa, cũng như sự khéo tay của các quân nhân trong đơn vị.

Người lính VNCH thì ở đâu cũng hảnh diện trong bộ quân phục chỉnh tề, tươm tất và duyên dáng của mình, giày luôn luôn được đánh bóng. Các loại chiến cụ nặng cũng thế thôi, từ chiếc xe thiết giáp, xe vận tải, khẩu pháo binh đến chiếc tàu chiến của Hải Quân hay chiến đấu cơ của Không Quân..tất cả đều được săn sóc và bảo trì đúng mức, cho nên dù là quân cụ thuộc loại cũ nhưng vào tay của QLVNCH thì xem như còn mới nguyên, làm cho tất cả quan khách viếng thăm đều hết sức ngạc nhiên và ca tụng.

Về hành chánh thì QLVNCH được Tổng Tham Mưu Trưởng quản trị. Về nhân sự và chiến thuật thì vị lãnh đạo quốc gia đích thân trách nhiệm, có một phụ tá là một tướng lãnh phụ trách tập trung mọi tin tức và thảo kế họach.

LẦN THỬ LỬA ĐẦU TIÊN

Sự thử thách đến ngay sau đó. Kết quả thật là đáng khích lệ và người ta phải tuyên dương công trạng một quân đội còn quá trẻ trung nầy

Năm 1992, phải chăng để dò dẫm, Bắc Việt đã tung ra một cuộc tổng tấn công được coi là có tính toán rất kỹ lưỡng về mặt chiến lược. Cũng rất là quan trọng, vì lần đầu tiên họ dùng chiến xa của Nga Sô. Bất chấp hiệp ước Genève và không cần biết đến vùng phi quân sự giữa hai miền Nam Việt và Bắc Việt, mủi dùi tấn công của Bắc Việt đánh thẳng từ phía Bắc xuống Nam, cuộc tấn công nầy đã gặp một sức kháng cự quyết liệt. Một mủi tấn công khác từ biên giới Cam Bốt đánh qua phía KonTum Pleiku, làm cho tất cả các tiền đồn đều bị nhổ sạch, áp lực đè nặng Vùng nầy đến độ phải đưa sư đoàn bộ binh từ Banméthuột lên để tiếp viện. Từng đợt liên tiếp, hai cuộc tấn công nầy càng ngày càng mạnh hẳn lên trên cả hai mặt trận. Gộng kềm đang siết dần chung quanh thị trấn KonTum. Ở mặt trận phía bắc, Bộ Chỉ Huy địa phương thành lập từng bộ phận lưu động nhỏ để cho dễ điều động, nhưng cũng vì thế mà trở thành khó chỉ huy và hậu quả là tuyến phòng thủ bị vỡ. Thành phố Quãng Trị thất thủ ngay sau đó, và các đơn vị tranh nhau chạy về Hué.

Trung Tướng Trưởng, Tư Lệnh Quân Đoàn IV và Vùng 4 Chiến Thuật (Miền Tây) được gởi ngay ra Hué với nhiệm vụ là tái lập trật tự tại đây. Hai Sư Đoàn tổng trừ bị, sư đoàn dù và sư đoàn thủy quân lục chiến đến giờ nầy vẫn còn tại Sài Gòn, được đặt dưới quyền xử dụng của tướng Trưởng. Một sư đoàn bộ binh khác từ Vùng 4 đồng bằng sông Cữu Long (sư đoàn 21 bộ binh) đang được đặt trong tình trạng báo động, dự trù sẽ được bốc luôn ra Hué, thì bất thình lình địch quân tấn công vào An Lộc, bao vây thị trấn nầy, đe dọa Sài Gòn vốn chỉ cách đó trên dưới 100 cây số. Tình hình lúc bấy giờ hết sức căng thẳng, và nếu trể nữa giờ nữa thì không còn kịp cho ngưng chuyến đi ra Hué của sư đoàn bộ binh nói trên để chuyển hướng cho sư đoàn nầy đi thẳng lên An Lộc nhằm bảo vệ cho thủ đô Sài Gòn. Sự việc xảy ra sau đó là một điều phi thường. Và đây là một điểm son danh dự dành cho Quân Lực V NCH và cho các cấp chỉ huy trong quân đội trẻ trung nầy.

Tướng Trưởng phải bỏ bữa cơm trưa tại dinh Tổng Thống để cấp tốc bay ra ngay nhiệm sở mới, cố đô Hué lúc nầy đang ở trong tình trạng hỗn loạn vô trật tự. Trung tướng Trưởng, 37 tuổi, trước kia là hạ sĩ quan trong một tiểu đoàn nhảy dù Pháp, là người đã từng hảnh diện nhận cấp bằng nhảy dù do tướng Gilles ký tại Paris, - lúc bấy giờ là tướng thanh tra binh chủng nhảy dù của quân đội Pháp -, với một sự bình tỉnh đáng kính phục, không có một trách phạt hay quy lỗi cho một ai, ông đã vãn hồi được trật tự trong hàng ngũ quân sĩ và đặt lại ngay một hệ thống an ninh phòng thủ trên sông Mỹ Chánh, sẳn sàng chờ một loạt tấn công mới của quân Bắc Việt sau khi họ đã chiếm được một phần đất khá sâu và đang muốn tiến sâu xuống phía Nam khai thác thành quả chiến thắng vừa đạt được. Ông đã biết lợi dụng được sự già nua của cán bộ cộng sản Bắc Việt, khai thác được bệnh đa nghi và nặng về giấy tờ trình báo của họ vốn là những tật xấu cố hữu của bộ máy cộng sản. Vị Tướng Bắc Việt chỉ huy mặt trận lúc đó thay vì ngồi trên xe jeep chạy phon phon như một kẻ thắng trận vào nội thành Hué thì ông cho dừng quân lại chờ ông báo cáo chiến thắng và nhận chỉ thị mới. Hà Nội rất tức giận về việc nầy, ra lệnh sa thải ngay vị tướng nhác gan và gởi thượng tướng thứ trưởng bộ quốc phòng vào thay thế. Khi thượng tướng nầy đến nơi, phải mất một thời gian là 27 ngày mới nắm được quân tình để tiếp tục khai thác chiến quả, một thời gian quá đủ cho tướng Trưởng kiện toàn xong hệ thống phòng ngự. Ông chẳng những đã chận đứng được đợt tấn công của địch mà còn phản công dò dẫm ở một vài điểm, làm cho địch quân phải lúng túng và chùng bước tiến công của họ lại. Ông đã nhận được lệnh phải tiêu diệt 4 sư đoàn Bắc Việt đang đối diện, bằng 2 sư đoàn tổng trừ bị là sư đoàn dù và sư đoàn thủy quân lục chiến mà ông hiện có sẳn trong tay.

CHIẾN THẮNG QUẢNG TRỊ

Ông đã làm đúng theo lệnh. Không phải bằng một cuộc phản công đại quy mô, mà bằng những cuộc tấn kích nho nhõ và liên tục, mỗi ngày một khác và ở những địa điểm không giống nhau, nhằm mục đích tiêu hao để rồi tiêu diệt địch. Ông tiếp tục hành quân phản công lấn đất dần về đến Quãng Trị; sau đó chiếm lại thành phố Quãng Trị, bao vây cổ thành, và cho dưỡng quân không đánh chờ địch phải đầu hàng, biết rằng họ sẽ thiếu lương thực và đạn dược.

Và ngày đó đã tới, Ông cho trương cờ VNCH lên cổ thành vừa chiếm lại được, sau đó nằm lại ở phía nam sông Quãng Trị, dùng con sông và phần đất phía bắc như là một vùng phi quân sự để tổ chức các tuyến phòng ngự, xử dụng trọng pháo tối đa, như lực lượng ngăn chặn chính.

Tổng kết sau khi tái chiếm xong Quãng Trị, QLVNCH đã bắt sống và tịch thu được một số lớn chiến xa, trọng pháo và vũ khí đủ loại đủ cỡ, nói lên được rõ ràng đây là một chiến thắng không thể chối cải đuợc. (Nói thêm là ngay sau chiến thắng nầy tướng Trưởng có được một cháu trai Ông đặt tên là Trị)

Tại Kontum, với một số dân đông đúc phần lớn là dân tỵ nạn, người ta chưa nghĩ là thị xã nầy sẽ bị địch vây hảm nên không có gì gọi là phòng thủ chặt chẻ cả, lại không cần đến cầu không vận mà một đại tá trẻ tuổi đã dùng trí thông minh tuyệt diệu chọi với 3 sư đoàn quân Bắc Việt, một chuyện rất hay và hiếm có đã thực sự xảy ra như vậy. "Nếu ta có thua thì chỉ có tôi là người duy nhất gánh hết trách nhiệm, nếu phải xử bắn người trách nhiệm thì cũng chỉ có một mình tôi là người duy nhất phải bị xử bắn mà thôi." ông lý luận như vậy để bác bỏ những đề nghị của một tướng lãnh Hoa Kỳ cố vấn của Ông.

Tướng Bắc Việt chỉ huy mặt trận nầy thật ra là một cựu chiến binh Điện Biên Phủ, tung từng sư đoàn một vào trận chiến từ sư đoàn thứ nhứt đến sư đoàn thứ ba (xa luân chiến), đến khi bị thiệt hại quá nặng phải buộc lòng tung cả 3 sư đoàn cùng lúc thì cả 3 anh sư trưởng đều từ chối không chịu đi theo ông ta. Tại mặt trận KonTum, sơ khởi khi quân Bắc Việt đánh tan các tiền đồn vòng đai và sau đó gây được thiệt hại không ít cho sư đoàn bộ binh Việt Nam Cộng Hòa. Do đó họ có thu được nhiều quân dụng trong số đó có nhiều máy truyền tin mà họ cho sửa chữa để dùng lại.
Nhưng các máy truyền tin nầy vẫn còn ở một tần số mà Miền Nam đang xử dụng, do đó mà chuyện lạ đã xảy ra: Anh đại tá trẻ của KonTum kiểm thính được tất cả mọi lệnh lạc liên quan đến từng giai đoạn, từng diễn tiến hành quân của phía Bắc Việt, từ đó mà anh bố trí các bẫy phục kích cho họ vào, hoặc cho họ tấn công vào chỗ không người để sau đó phản công tiêu diệt họ từ phía sau lưng, tất cả cũng chỉ với một đại đội thiết giáp xa (10 chiếc chạy xích), mà mỗi khi xuất trận về phải tận lực sửa chữa mới kịp. Quân Bắc Việt 3 lần dùng chiến xa tấn công vào, chỉ còn cách 100 thước là đến Bộ chỉ huy của anh đại tá. Nhưng rồi bộ binh địch không theo được các chiến xa nầy vì bị quân ta từ phía sau đánh tới, làm cho các chiến xa không còn ai che chở, bị quân ta dùng hỏa tiển T.O.W. (của Mỹ được VN cho ghép lại thành từng nhóm 6 chiếc một) hạ gần hết, nằm rãi rác đầy đường trong thành phố KonTum hoang tàn.
Thị trấn sau trận nầy bị thiệt hại nặng. Nhưng anh đại tá trẻ thì nhận được một ngôi sao cấp tướng và sư đoàn của anh đựơc tuyên dương là một trong những đơn vị xuất sắc của QLVNCH. Giám Mục Seitz, một vị Giám Mục người Pháp duy nhất tại VN đã ở lại tại thị trấn KonTum với con chiên của Ông trong suốt thời gian chiến trận. Uy tín của Ngài rất cao, và Ngài rất là can đãm. Ngài rất vui thích khi có việc thiện phải làm, và luôn luôn nêu gương tốt cho mọi người. Sau 30/4/75 Ngài đã ở lại KonTum với đồng bào Thượng của Ngài: Ngài là nước Pháp ! Cộng Sản đã mắng trách Ngài và cuối cùng đã trục xuất Ngài.

AN LỘC ! TRẬN VERDUN CỦA VIỆT NAM

An Lộc là một quận lỵ nhõ của một tỉnh miền đông Nam Việt. Quân Bắc Việt đã vây hảm quận lỵ nầy, nả vào đó đủ mọi loại trọng pháo, hỏa tiễn, và tấn công vào đó nhiều lần.
Sư đoàn 21 bộ binh từ Vùng 4 Chiến Thuật (đồng bằng sông Cữu Long) lẻ ra được đưa ra Hué cho tướng Ngô quang Trưởng, được hấp tấp thả xuống một vùng nằm giữa An Lộc và Sài Gòn với nhiệm vụ sơ khởi là chận địch lúc bấy giờ đang tự do tiến bọc vòng quanh An Lộc, bao vây cô lập thị xã nầy cốt không cho trong ngoài liên lạc được với nhau. Người ta ngăn chận được phần nào ý định của địch nhưng không giải tỏa được An Lộc, và phải thú thật đây không phải là một chuyện dễ làm. Tuy nhiên An Lộc vẫn đứng vững. Để so sánh và cũng để thực sự thấy được giá trị của QLVNCH, chúng ta phải nói rõ là thị xã An Lộc giống như Điện Biên Phủ, nằm dài trên hai bên suờn đồi của một lòng chảo mà vành đai của lòng chảo nầy địch đã làm chủ. An Lộc không có nhiều binh sĩ như Điện Biên Phủ nhưng có hai chục ngàn dân, chẳng những không giúp ích được gì mà trái lại còn là một gánh nặng cho quân trú phòng nữa. Quân số Bắc Việt bao vây An Lộc nhiều hơn quân số đã bao vây Điện Biên Phủ trước kia; họ cũng tiến hành cuộc tấn công bằng cách đào chiến hào đi lần vào trung tâm thị trấn, giống như ở Điện Biên Phủ vậy, tiến đến đâu lấp hầm đến đó. Lực lượng pháo binh Bắc Việt nhiều hơn lúc ở Điện Biên Phủ, nhưng họ ít pháo vào trung tâm thị xã mà chỉ dùng súng cối 130 ly và hỏa tiển, nên phố xá nhà cửa trong thị xã gần như bị các loại nầy phá nát hết.

Quân trú phòng không có thiết giáp, nhưng Bắc Việt lại dùng loại chiến xa T.54 của Nga Sô mà Phòng nhì VNCH cũng như Hoa Kỳ không rõ bằng cách nào họ mang được loại chiến xa nặng nầy đến tận cửa An Lộc được. Nhưng điều bất ngờ là các chiến xa Nga Sô nầy lại được hỏa tiển TOW của Hoa Kỳ niềm nở đón tiếp, và có một số lớn T.54 bị bắn cháy hay bị bỏ lại rãi rác trong thị xã như là chiến lợi phẩm đặc biệt của đội quân trú phòng. Số tử thương tại An Lộc nhiều hơn ở Điện Biên Phủ. Quân Bắc Việt còn tiếp tục bao vây An Lộc, nhưng tình hình có vẽ sáng sủa hơn, khi Tổng Thống Thiệu quyết định dùng trực thăng đáp xuống ngay An Lộc. Cùng đi với Ông còn có Tướng Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng, Tướng Minh, Tư Lệnh Vùng 3 Chiến Thuật, và một số sĩ quan khác, trong số nầy có một tướng lãnh ngưởi Pháp muốn hưỡng một chút thú vị kiêu hảnh là được tham dự vào một trận phục thù cho Điện Biên Phủ. (Lời người dịch: Đó chính là tác giả quyển sách nhỏ nầy, Đại Tướng Vanuxem. Ông được quân trú phòng "anh hùng An Lộc" tặng cho một lá quốc kỳ VNCH trong chuyến đáp xuống An Lộc nầy, gọi là để kỹ niệm trận "Bình Long anh dũng", và sau nầy trước khi qua đời tại Pháp năm 1982 Ông đã trao lá quốc kỳ nầy lại cho Trung Tướng Trần văn Trung, Chủ Tịch Hội Cựu Chiến Sĩ VNCH tại Pháp.) Hai chiếc trực thăng đáp xuống và cất lên ngay thật nhanh sau khi các vị tướng lãnh vừa nhảy xuống xong thì các loạt đạn pháo Bắc Việt cũng vừa tới. Người ta đi thăm Bộ Chỉ Huy Hành Quân, phát sao, gắn "lon", "huy chương", tuyên dương công trạng khen thưởng các cấp v.v...sau đó đi thăm và ủy lạo các đơn vị, (binh sĩ các cấp nhảy lên khỏi chiến hào để hoan hô ầm ỉ vị Tổng Tư Lệnh của họ), thăm và an ủi các thương bệnh binh, đến tận các xác chiến xa Nga T.54 để sờ các pháo tháp hay xem cái vỏ thép của loại chiến xa nầy, người ta cũng đi viếng các nghĩa trang "bất đắc dĩ" nằm trên các vỉa hè đường phố, và trước một nấm mồ Tướng Thiệu quì xuống cầu nguyện...Người ta cũng có cầu nguyện như vậy giữa sân của một nhà thờ đã bị đổ nát, chỉ còn trơ lại có một pho tượng lớn của Chúa đang giăng hai tay nhân ái ra coi như để chúc lành cho phái đoàn. Tổng Thống Thiệu thản nhiên như không có gì xảy ra, quỳ một gối xuống ngay trên vũng bùn, làm dấu thánh giá, và cầu nguyện...trong khi tất cả đều đứng ngay ngắn, nghiêm trang... Đâu đây bên bìa rừng gần đó có một vài tiếng nổ của đạn rốc kết..

Chuyến về của phái đoàn cũng như chuyến đáp xuống. Tất cả quan khách đều đứng dưới các hố cá nhân, chờ. Khi các trực thăng đáp xuống, tất cả đều nhảy lên thật nhanh để trực thăng vọt đi ngay, vì trước đó ai cũng được báo cho biết là nếu không lên kịp thì sẽ bị ở lại An Lộc.

Tất cả đều về đến Bộ Chỉ Huy tiền phương của Quân Đoàn III ở Lai Khê, và đến lúc đó người ta mới thấy là đã bỏ quên lại một người: đó là Trung Tướng Mỹ, cố vấn QĐ.III. Ông ta không trách cứ gì cả, nhưng ngày hôm sau ông ta đã trở thành "anh hùng An Lộc", một loạt pháo đã gây tử thương cho ông khi trực thăng của ông vừa đáp xuống.

An Lộc đã trở thành một biểu tượng, đó là một khi quân đội và dân chúng đã cương quyết một lòng thì khẳng định là chận đứng được quân thù. Đó là tinh thần của trận chiến Verdun của VNCH, một chiến trận mà V NCH đã làm lễ kỹ niệm thật long trọng để xác nhận ý chí quyết chiến quyết thắng của quân dân Miền Nam Việt Nam. Tiếc rằng ngày lễ quốc khánh của VNCH đã trót được chọn là ngày 1/11 rồi, nếu không thì người ta nghỉ có lẽ nên chọn ngày mà An Lộc hoàn toàn được giải tỏa để nói lên biểu tượng Tự Do của quốc gia nầy.

Đó là những sự việc đã xảy ra năm 1972. Lúc đó có ai dám nghỉ được rằng ba năm sau, vâng chỉ không đầy 3 năm sau thôi, một quân đội đã từng biểu diễn một pha hết sức ngoạn mục về sức mạnh, về ý chí của quân nhân các cấp, được lòng tin cậy hoàn toàn của cấp trên , lại có thể bị suy sụp đến độ phải tan rã hoàn toàn ?

Vã lại Quân Lực VNCH, với một quân số được Ngũ Giác Đài tính toán quá sít sao lúc bắt đầu Việt-nam-hóa, nên chỉ có một nhiệm vụ duy nhất là phòng ngự để gìn giữ lãnh thổ mà thôi. Sau đó lại bị hao hụt trầm trọng trong 3 năm liền, trong khi các đơn vị Miền Bắc tiếp tục được bổ sung đầy đủ, tăng cường cả về lượng cũng như về phẩm, nhất là quân chiến cụ, so sánh thì hơn xa quân đội Miền Nam, cho nên nếu ước tính tương quan lực lượng phải là 4/1, tôi nói lại là bốn trên một !

Đã được quân đội Pháp thành lập sau đó mới được Hoa Kỳ tái tổ chức lại, nên dù muốn dù không quân đội Miền Nam cũng vẫn còn giữ vài kỹ niệm về lề lối hay phương thức do quân đội Pháp để lại. Điều nầy đã đem lại nhiều chuyện không hay cho một vài tướng lãnh, tuy nhiên dù gì đi nữa thì QLVNCH cũng vẫn phải chấp nhận phương thức tác chiến học được từ quân đội Hoa Kỳ. Do đó, nếu không chấp nhận điều quân mà chỉ dùng hỏa lực không mà thôi, trong tấn công cũng như trong phòng thủ, thì phương thức nầy bắt buộc phải có phương tiện yểm trợ hùng mạnh của không quân, thiết giáp, pháo binh và của cả hải quân nữa. Điều nầy quân đội Hoa Kỳ được trang bị quá đầy đủ, nếu không muốn nói là quá dư thừa, cho nên từ khi quân đội Mỹ rút đi thì QLVNCH bị thiếu mất trầm trọng một hỏa lực yểm trợ mạnh và hữu hiệu. Tổng Thống Thiệu là một người am tường về chiến lựợc, lại là một nhà chánh trị thận trọng há đã không đề ra được một phươg thức tiết kiệm, vừa để dưỡng sức các đơn vị tinh nhuệ vừa tránh hao tốn phí phạm đạn dược hay sao? Cho nên mỗi người lính chỉ được phát 80 viên đạn và 1 trái lựu đạn trong một tháng.
Ông quan niệm rằng, trước một kẻ thù như Bắc Việt, và trên một lãnh thổ quá dài và quá hẹp của Miền Nam Việt Nam, ông không có thể điều quân được. Đã từ lâu, ông nói là chỉ với lực lượng của Miền Nam ông không thể chống lại được một cuộc tổng tấn công quy mô của Bắc Việt trên một chiến tuyến quá dài từ Bắc xuống Nam dọc theo biên giới Lào và Cam Bốt, chỉa mủi dùi thẳng vào Sài Gòn, chỉ còn cách đó dưới 100 cây số mà thôi. Ông cũng biết là địch quân tất phải chủ động, nhưng giờ thì hệ thống phòng thủ bị gậm nhấm, quân số các đơn vị bị hao hụt và tiếp vận thì quá nghèo nàn nên chắc chắn là không thể chịu nổi sức tấn công mạnh của địch, và dè dặt hơn trong trường hợp nếu được bảo đãm là có một sự tiếp viện từ phía đồng minh thì ông cũng phải đi đến chỗ phải bỏ bớt một phần lãnh thổ để tập trung lực lượng vào việc cố thủ vùng Sài Gòn và đồng bằng sông Cữu Long. Nếu quân đội Bắc Việt tiến hành một chiến dịch tấn công theo kiểu gậm nhấm tiêu hao dành dân lấn đất, thì cố thủ như vậy cũng có thể thành công được nhưng Miền Nam Việt Nam sẽ bị một chấn động tâm lý, mất hết tinh thần và rồi cũng phải thua, mất hết mà thôi. Còn nếu Miền Bắc dàn quân đánh mạnh theo chiến tranh quy ước thì tai họa lớn sẽ xảy ra, nhanh hơn .

Đã từ lâu, Miền Nam VN không áp dụng phương thức phòng thủ lưu động, nên không có khả năng để tiến hành một cuộc rút lui quy mô, một cuộc hành quân rất khó vì vừa phải lui quân vừa phải chiến đấu không ngừng với quân Bắc Việt, vốn lúc nào cũng nhẹ nhàng luồng lách, xâm nhập, đánh ngang cạnh sườn, bọc hậu, bao vây, sau lưng đánh tới, đe dọa tuyến phòng thủ... bắt buộc lực lương nầy phải rút đi càng sớm càng tốt, (nếu không sẽ bị bao vây và tiêu diệt), lần lần bị gậm nhấm rồi cuối cùng thì bị tràn ngập. Những cánh đồng lầy mênh mông vắng vẽ như sa mạc giúp cho quân Bắc Việt thâm nhập vào sâu trong Miền Nam Việt Nam quá dễ dàng, và rừng cây bao la rậm rạp làm cho vũ khí chống chiến xa vốn thuộc loại quá cũ kỹ, mất đi phần nào hữu hiệu và chính xác. Hơn thế nữa, những hỏa tiễn SAM (địa-không) do Nga Sô viện trợ đã ngăn chận được khả năng không-yểm từ các phi cơ có tốc độ chậm, chỉ có những chiến đấu cơ F.5 do Hoa Kỳ trang bị cho Không Lực VNCH là có thể thỉnh thoảng yểm trợ hỏa lực được cho các đơn vị bộ binh dưới đất, nếu không thì các đơn vị nầy phải tự lo liệu lấy mà thôi. Cuối cùng là những khinh tốc hạm phóng ngư lôi do Nga Sô viện trợ có thể vô hiệu hóa lực lượng hải quân của Miền Nam Việt Nam , vốn cũng có khá nhiều tàu chiến nhưng toàn thuộc loại cổ xưa.

Do đó mà cuộc hành quân triệt thoái của Vùng II Chiến Thuật từ Cao Nguyên về vùng duyên hải, và cuộc rút quân của Vùng I Chiến Thuật từ Hué, Đà Nẵng về hướng Nam, đã biến thành một cuộc thua chạy hỗn loạn, khiến cho không còn gom góp lại được một đơn vị nào, không còn chiến cụ vũ khí nào, trong khi Miền Nam đang cần tiết kiệm nhân lực và trang thiết bị để có thể lo cho tuyến phòng thủ ở phía Nam. Tuyến nầy mặc dầu có một số lớn hành động thật anh dũng nhưng rồi cũng vỡ ra từng mảnh thì làm sao có được chiến trận ở vùng Sài Gòn được ?

Cho nên đến sáng ngày 30/4 là coi như tất cả đều mất hết rồi ! Tướng Dương văn Minh, người đã nhận chức vụ Tổng Thống VNCH đã kêu gọi binh sĩ hảy chấm dứt cuộc chiến mà từ nay đã trở thành vô vọng và vô nghĩa. Sau một vài hành động trong thất vọng và một vài trận "tử thủ kiểu Camerone" để ít nhất nói lên lòng can đãm hy sinh của QLVNCH, một quân lực mà không có một người binh sĩ hay một cấp chỉ huy nào đã phản bội, thì đã thấy có lá cờ đỏ của quân cộng sản xăm lăng Bắc Việt được kéo lên trên nóc dinh Độc Lập. Giờ nầy đây rãi rác chỉ còn một vài binh sĩ lẽ tẽ, đi lang thang chưa chịu đầu hàng. Quốc gia mang tên Việt Nam Cộng Hòa đã bị "bức tử" rồi !!! Danh từ Việt Nam Cộng Hòa đã bị xóa không còn trên bản đồ của các quốc gia trên thế giới nữa.

CHIẾN THẮNG CỦA BẮC VIỆT CHO THẤY CỘNG SẢN VIỆT NAM CÒN NHIỀU THAM VỌNG

Ở đây người ta thấy rõ tính cách mong manh dễ sụp đổ của mọi guồng máy quân sự nào mà không tự túc được trang thiết bị, vũ khí đạn dược để tự đứng vững được mà không cần viện trợ từ bên ngoài. Và những sự dự đoán dù hết sức đứng đắn cũng có thể bị một vài biến cố làm sai lạc hẳn đi.

Về sự sụp đổ của quân đội VNCH chỉ trong vòng thời gian không quá 60 ngày, cũng không có gì lạ cho lắm, và lịch sử cận đại cũng đã cho thấy nhiều chiến cuộc được kết thúc rất mau chóng, nhất là khi mà việc kháng địch phải bị tùy thuộc nhiều vào số lượng và phẩm chất của trang thiết bị hơn là lòng can đãm của binh sĩ các cấp. Người ta cũng có thể đổ lỗi cho địa thế của chiến trường; người ta có thể nói là trước đó trong cuộc tổng tấn công thất bại năm 1972, quân Bắc Việt đã chiếm hết các tiền đồn mà QLV NCH không tái chiếm lại được và những trung tâm kháng cự đã bị tràn ngập ngay từ lúc đầu. Tất cả những nhận xét phê bình chi tiết cũng không đi đến đâu, và cũng không thể quy lỗi cho đặc điểm dễ sụp đổ đó của quân đội, dù là quân đội thiện chiến vốn rất nhạy cảm đối với từng thay đổi nhỏ về tình trạng đang rất mong manh của quốc gia họ; các nhà làm chánh trị ắt phải biết rõ điều nầy.

Chiến tranh càng ngày càng dài ra và càng ngày càng gian lao khó khăn thêm ra, những sự đổ vỡ của một vài lối thoát ghi nhận được, sau một vài chiến thắng hay sự kiện mơ hồ không rõ ràng của bên này hay bên kia, đã trở nên hoàn toàn bế tắc đáng sợ, không cho phép có được bất cứ một giải pháp nào dù là hợp lý và có tính toán trước; tinh thần bị suy sụp bất ngờ vì nhiều lý do khác nhau mà nhìn bề ngoài thì không thấy gì nguy hại cả, đã gây ra những sự đão lộn nhanh như chớp, làm cho mọi người phải bàng hoàng kinh ngạc.

Một lần nữa, lại một lần nữa có một quân đội đã bị đánh bại và quốc gia của quân đội đó bị xóa tên trên bản đồ các quốc gia trên thế giới.

Một lần nữa, trên bán cầu nầy lại có một làn sóng cộng sản tràn xuống, tiếp tục đi theo con đường mà họ đã vạch ra từ trước, chỉ vì các quốc gia bị tấn công từ chối không chịu đồng tâm hợp lực lại với nhau trên một tuyến phòng thủ chung, để rồi ai cũng bị quá đuối sức vì nỗ lực quá mức và quá lâu, đến độ người ta tin vào định mệnh quá khắt khe để rồi tự an ủi là "đúng theo tiến trình của lịch sử".

Thế nhưng lịch sử thì người ta đọc quá ít mà nhớ thì chẳng đặng bao nhiêu, nhất là những đoạn đầy rẩy những kẻ xăm lăng không biết nhàm chán, độc đi chiếm các đồng bằng phì nhiêu như những lượng sóng thần cuốn đi tất cả, hung hăn không một ai cưỡng lại nổi, và các làng mạc đô thị tự mở cửa đầu hàng, người người phải nạp vàng bạc châu báu cả đến vợ con họ nữa để làm nô lệ cho những kẻ xăm lăng, cuối cùng rồi cũng phải tự nạp nốt mạng sống của mình cho kẻ địch. Và cứ như thế, lần nào cũng như thế... cho đến một hôm có một người rồi một nhúm người , rồi một làng rồi một đô thị..... ai cũng nghĩ là dù sao cũng phải chết thì thà là chiến đấu cho xứng đáng rồi muốn ra sao thì ra không cần biết kết quả cuộc chiến sẽ như thế nào. Thường thì chiến thắng sẽ ngã về phía những người nầy.

Trong khi chờ đợi, sau sự việc xảy ra ở Việt Nam, cũng như ở Lào và Cam Bốt, sau một thời gian chống đở lâu dài, người ta chỉ còn cách nhìn theo ngón tay chỉ trên bản đồ để xem ý định tương lai của địch quân và dự đoán những mục tiêu mà địch sẽ xâm chiếm, tin chắc rằng những chiến thắng mới vốn chưa dễ gì thỏa mản được tham vọng bành trướng của họ, sẽ mở ra cho họ nhiều miếng mồi khác, ngon hơn và mới mẻ hơn.

Người ta rất lấy làm lo âu khi khảo sát lại những lý do dẩn đến sự chiến bại của QLVNCH. Một mặt người ta thấy trước đó các tiền đồn xa bị chiếm, nhất là Lào và Cam Bốt. Kế đến là sự phản bội của các quốc gia siêu cường tự coi mình là người nắm vận mệnh của các quốc gia khác, một nước thì không giữ những cam kết mà mình đã long trọng tuyên hứa, một nước thì bội tín, lợi dụng những hiệp định đã ký để tăng cường lực lượng và nỗ lực đến một mức độ quyết định. Sau đó là sự suy yếu của chánh quyền, tuy có ý chí vững mạnh mà không có khả năng rõ rệt để giải quyết tình trạng tham nhũng kéo dài, cọng thêm vào đó sự mệt mỏi của 30 năm nỗ lực và đau khổ triền miên. Đối diện đó là một thể chế độc tài coi rẻ con người và dân chúng, xử dụng họ như một công cụ hay như một vũ khí trong bàn tay sắt: vì thế mà họ thắng.

"CHÚNG TÔI KHÔNG BAO GIỜ SỢ CHẾT"

Không phải QLVNCH từ chối không chiến đấu. Bị gậm nhấm liên tục và bị thiệt hại càng ngày càng nặng, quân đội dần dần mất đi những người con ưu tú và thấy khó mà bổ sung được đầy đủ và kịp thời. Trong khi đó thì quân đội Bắc Việt được bổ sung và tăng thêm quân số, cũng như được viện trợ chiến cụ tối tân gấp bội, sự kiện nầy làm cho người quân nhân VNCH thấy mình bị quá thua kém vì chiến cụ quá cũ kỹ trước trang thiết bị tối tân của quân thù. Khi mà người lính thiếu đạn dược và xăng nhớt, khi mà cây súng trong tay trở thành vật vô dụng thì chỉ còn có mỗi một cách là "chạy" mà thôi, chạy khỏi trận chiến !!!! Và đây đó khắp nơi tình huống của người lính chiến Miền Nam là như vậy đó, mặc dầu anh ta thừa biết rằng danh dự của người lính là phải chứng tỏ lòng dũng cảm chiến đấu cho tương lai của đất nước, dù đang trong tình trạng nguy hiểm đến tánh mạng, biết đâu nhờ hành động anh dũng nầy mà đất nước được sống còn....

Quân Lực VNCH đã làm tất cả những gì họ có thể làm được. Nhưng họ thua sút kẻ địch quá nhiều, về quân số cũng như về kỹ thuật trang thiết bị. Không áp dụng được một thế phòng thủ lưu động, quân đội Miền Nam không sao đạt được những thắng lợi dài hạn và đầy đủ để chống lại tính năng nỗ của quân thù xăm lược và vì thế mà mất nước.....

Người Pháp chúng ta xưa kia đã có lý khi đoan chắc rằng sức mạnh của một đô thị nằm trong con tim của các thị dân, cũng không phải nằm trong sức chịu đựng của các bức tường hay sức chiến đấu của người binh sĩ, cũng không phải các bức tường chống đở cho người lính, mà người lính phải chống đở cho các bức tường, nói cách khác là cần cả bức tường và cũng cần cả người lính.

Ở nước Pháp chúng ta thì sao ? Chúng ta phải buộc tội cho ai đây, và phải đổ lỗi cho ai đây về những rủi ro bất hạnh trong tương lai, nếu bất ngờ có xảy ra chuyện gì, dù đó là một điều hợp lý ? Phải trút trách nhiệm cho người lính chăng ? hay cho giới trẻ thời bây giờ, đôi lúc quá say mê lý tưởng và người ta chỉ muốn đưa hết họ vào thế giới tiêu thụ ? hay cho dân chúng mà người ta dễ cám dỗ bằng ão tưởng ? Vậy những ai sẽ chịu trách nhiệm đây ?

Người ta còn nghi ngờ gì nữa không, như Tổng Thống Pháp chúng ta đã nói, là chúng ta đang sống trong một thời kỳ đầy đe dọa ??
CHƯƠNG 8
NHỮNG HẬU QUẢ MÀ QUỐC GIA VÀ DÂN TỘC VIỆT NAM PHẢI GÁNH CHỊU TẠI MIỀN NAM VIỆT NAM NGƯỜI TA KHÔNG BIẾT CƯỜI NỮA RỒI!

Tại Sài Gòn, sau cái ngày gọi là "được giải phóng" thì tất cả quyền Tự Do mà người ta thường quá lạm dụng, đùng một cái ngã lăn ra "chết" hết !

Miền Nam Việt Nam trở thành một trại giam vĩ đại mà khẩu phần ăn mỗi ngày chỉ được cho vừa đủ sống. Ở một đất nước mà người ta chỉ có biết cười, thì bây giờ dân chúng chỉ còn biết nghe theo lệnh "học tập", nụ cười đã biến mất từ đây!
Trong lúc đó thì người ta bắt buộc người dân phải xem "cười" là một nhiệm vụ hàng đầu, và mỗi buổi sáng sớm tại các ngả tư đường phố hay trong những vườn công cộng, người dân được tập hợp lại, trước khi đi làm việc, để người ta dạy cho hát những bài hát cách mạng, để học lại những biểu ngữ hồi thế kỹ thứ 15 và những bài học vỡ lòng về kinh tế mác-xít. Và người ta luôn luôn nhấn mạnh:"trước tiên là phải "cười".

Người ta phải dạy cho dân chúng cười, vì họ không biết "cười" là cái gì ! và "cười" ra làm sao nữa ? Trước hết, sau ngày "được giải phóng", thì dân chúng mất hết tất cả những gì gọi là êm ấm của cuộc đời, bù lại họ được một sự nhớ nhung thương tiếc một đất nước mà nay đã không còn nữa. Hết rồi ! ở cái quốc gia Việt Nam nầy người ta hết biết cười nữa rồi !!!!!

Ôi Tự Do, Ôi Tự Do, Chỉ vì hai chữ Tự Do nầy mà con người đã làm biết bao là tội ác giết người ! Dĩ nhiên tất cả chỉ còn là tự do vô kỷ luật, và mọi sự cố gắng cải thiện đều bất thành, dĩ nhiên luật pháp không còn được tôn trọng nữa, buông thả ham chơi đã thành tập quán rồi, đồng tiền đã đưa con người vào con đường tham nhũng, sức mạnh đạo đức của quốc gia Việt Nam Cộng Hòa nầy đã vì thế mà bị hủy diệt rồi !

Theo lý luận cùn của những anh bộ đội Miền Bắc, thì họ rất là mãn nguyện. Miền Nam tự do nầy bây giờ đã không còn một con "vi trùng tự do" nào còn sống sót được nữa, mảnh đất nầy đã được tẩy trùng sạch sẽ lắm rồi, không còn bất cứ một thứ Tự Do nào nữa. Người ta sẽ thử xây dựng một nước "Việt Nam Khác" trong sự cưỡng bách và khắc khổ.

Trong khi đó thì những người tự xưng là "cách mạng" lại muốn người dân Miền Nam Việt Nam coi họ là những người "giải phóng". Họ khẳng định là họ đã thực sự giải phóng đất nước mà họ vừa chiếm được bằng vũ lực chống lại đồng bào Miền Nam của họ. Họ nói là họ đã hành động vì sự tự do, chúng ta hãy nghe lời tuyên cáo xấc xược của họ:

- "Chiến thắng ngày hôm nay, không những là một chiến thắng của dân tộc Việt Nam, mà còn là chiến thắng của tất cả dân tộc khác, các dân tộc và những người yêu chuộng hòa bình, tự do, căn bản xem phẩm giá của con người là trọng yếu... Có độc lập và tự do rồi, thì ngày mai nầy điều gì chúng ta cũng sẽ làm được hết"

Ô Hô ! Họ đã đem cả hai thứ "Độc Lập" và "Tự Do" vào cho Sài Gòn ngày 30 tháng 4 năm 1975 !

CÒN TỆ HẠI HƠN LÀ TẮM MÁU!

Không có xảy ra một cuộc tắm bằng máu như người ta hằng trông đợi. Và một điều hết sức ngạc nhiên khi người ta thấy những người man di mọi rợ, trong khi được dân chúng đón tiếp bằng một sự khinh bỉ ra mặt, đang thử làm quen với thành phố Sài Gòn rộng lớn nầy, dân chúng thì bất thần nghiêm mặt lại, làm như không có chuyện gì vừa xảy ra, trong khi thật sự thì không còn có gì còn giống như ngày hôm qua nữa.

Làm gì có chuyện tắm máu, đó không phải là thói quen của người cộng sản ! Và người nào có ý muốn chờ xem chuyện đó thì có thể tin được như vậy . Còn quá tệ hại hơn thế nữa kia !!!

Thật vậy, người ta nghe nói có nhiều vụ xử tử sơ khởi, đó đây...không có chứng cớ:
Tại Ban mê Thuộc họ cho ám sát tất cả những cấp chỉ huy và cựu quân nhân thuộc các dân tộc thiểu số miền thượng du Bắc Việt đã chạy cộng sản di cư vào Nam từ năm 1954-1955.

Bác sĩ Vincent, d’Athis Mons, người Việt 100%, có quốc tịch Pháp, thuộc đoàn "bác sỉ không biên giới" trong Phái Bộ Y Tế do nước Pháp gởi sang Việt Nam, nên ý kiến rất là tự do và trung thực. Không cần biết đầu óc ông ta nghĩ như thế nào trước đó, khi mà tất cả phái bộ của ông được khoản đãi linh đình ở Paris ngày 1¾/75, trước khi rời nước Pháp để sang Việt Nam, do Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam tổ chức. Mặt Trận đã khuyên ông không nên bắt liên lạc với Sài Gòn và hảy tạm nằm ở Vũng Tàu chờ "quân giải phóng".
Phái bộ nghe theo lời MTGPMN, không vào Sài Gòn mà ra nằm chờ ở Vũng Tàu, thuốc men và dụng cụ y khoa được tạm gởi vào một bệnh viện dân sự của VNCH. Có vài cuộc pháo kích vào thị xã, và người ta mang lại khoản 80 người bị thương vừa thường dân vừa lính nhảy dù. Họ săn sóc cho những người nầy. Đến lượt những người man rợ đến, có lẽ chưa có chỉ thị của cấp trên, nên họ ra lệnh ngưng tất cả mọi công tác và ý định chữa trị cho những người bị thương nói trên. Rồi một toán khác lại đến, những người nầy có vẻ hiểu biết hơn, nhưng ra lệnh buộc tất cả phải rời khỏi bệnh viện nầy, vì họ đang cần dùng.
Vì các "bác sĩ không biên giới" không biết phải đưa những người bị thương mà họ đang chữa trị đi đâu, nên họ từ chối lệnh nầy. Tức thì một người chỉ huy toán "giải phóng quân" nói với bác sỉ Vincent rằng: "Đây rồi chúng tôi đã có cách." Nói xong ông ta rút súng ngắn ra, kê vào đầu một người bị thương cạnh đó, và bóp cò. Bác sỉ Vincent phản đối. Người ta lôi ông ra chỗ khác...và rồi ông nghe nhiều tiếng súng lục nổ.... đến lúc súng hết nổ thì bệnh viện đã trống, sẳn sàng cho "giải phóng quân" sử dụng!

Đó là một trong những nhân chứng và chứng cớ hiếm hoi của những cuộc hành quyết nhanh gọn. Và người ta phải rất ngạc nhiên lắm mới thấy được sự đứng đắn của những kẻ xăm lăng man rợ nầy. Một người trong phái bộ "bác sĩ không biên giới" phải thốt lên: "Thật là giống y như bọn phát xít Đức hồi năm 1940 !"

Những gì xảy ra tại Sài Gòn đều giống y như đã xảy ra tại HàNội. Và những ai đã từng có "sống" tại Bắc Việt vào những năm 1954-1955 đều phải buồn lòng và sửng sốt mà thấy vở tuồng cũ năm xưa đang được họ diễn lại tại Sài Gòn. Về sau nầy, để tránh nhân chứng gây trở ngại cho những cuộc hành quyết, ở xa trung tâm thành phố và ở vùng ngoại ô hay vùng thôn quê, lần lần bắt đầu có những cuộc thanh trừng dưới hình thức các tòa án nhân dân, xử và hành quyết ngay tại chỗ, xử những người nào bị bất cứ ai (vì tư thù hay vì đãng vụ) tố giác hay gán cho cái tội "có hành vi phản cách mạng", hay "là kẻ thù của nhân dân", không cho người tù nhân có cơ hội hối cải. Thế mà dân chúng phải buộc lòng ưng chịu, sau đó hoặc là tử hình, hoặc được đưa đi "trại cải tạo", nơi đó người ta phải chịu chết dần chết mòn, vì tinh thần bị lụn bại còn tệ hại hơn là thể xác bị hao mòn.

Những ai vẫn còn tưởng rằng cộng sản và thể chế độc tài chuyên chính của họ là nhân đạo, thì bằng cớ rành rành ở đây sẽ chứng minh một lần nữa là không phải như vậy. Người ta có thể cho những hành động vô nhân đạo nầy là của một giống dân khác, ở một quốc gia khác, có một thời tiết khác, nhưng cho dù từ miền Trung Âu hay Đông Âu, đâu đâu cũng vậy, chỉ có một âm điệu giống nhau mà thôi !

Không có gì có thể thay đổi được tính ác độc trong một guồng máy chánh quyền chỉ biết dựa vào hệ thống tố giác đê tiện và sự kềm kẹp của bộ máy công an.

Vậy hỡi những ông bạn của Thế Giới Tự Do! các bạn đã biết yêu tự do và biết giá trị của hai chữ "Tự Do" là thế nào rồi, các bạn hảy coi chừng !!!

Cũng như tại Hà Nội năm 1954, mặc dầu bộ máy chánh quyền cũ không còn nữa và có một sự lộn xộn hổn tạp xảy ra sau đó, người ta cũng rất đổi ngạc nhiên mà thấy người cộng sản lúc nào cũng hòa nhã ân cần khi đón tiếp người dân, mặc dầu họ khó chịu vì những câu hỏi tuy có hóc búa nhưng cũng dễ trả lời; cũng có khi người ta phải chịu khó điền vào một số quá nhiều giấy tờ như bộ máy hành chánh cộng sản thường đòi hỏi, nhưng không bao giờ người ta được trả lời dứt khoác,"không", mà chỉ được hẹn lại một ngày nào đó để họ có thời gian điều tra và nghiên cứu qua hệ thống tố giác của nhân dân, có lẽ "chắc ăn" hơn là từ chối thẳng thừng ngay lúc đó.

TRƯỚC HẾT LÀ MỘT SỰ HỖN LOẠN

Như vậy là ngày hôm trước hôm sau tất cả các hãng xưởng đều đóng cửa, tất cả mọi người đều chờ đợi trong căng thẳng và lo âu. Tuy nhiên tất cả những chướng ngại vật cũ đều được dẹp bỏ, không còn thấy những đường phố nào còn có rào cản, không còn những vườn chơi nào bị cấm vào, không còn một công sở nào còn có người canh gát, tất cả đều được tháo gở, dĩ nhiên mọi luật pháp của chế độ cũ cũng đều không còn nữa, người ta sống trong một sự rỗng không hợp pháp mà có một số người lợi dụng để làm điều bất chánh.

Trật tự lưu thông vì không có người điều hành nên không còn gì là quy tắc nữa, và những chiếc xe "honda" với tiếng nổ inh tai nhức óc lượn qua lượn lại như một đàn ong vở tổ, trong lúc người ta đua nhau dọn sạch các nhà ở hay văn phòng của người Mỹ, và xúm vào tháo gở hết những ô tô Hoa Kỳ đẹp bóng bị bỏ lại khắp nơi, gở rất kỹ lưỡng và sạch sẻ không bỏ sót một thứ gì, y như một đàn kiến siêng năng đang bu đen một khúc xương vậy.

Điện thoại của thành phố thì còn xử dụng được, nhưng bưu điện thì đóng cửa và mọi liên lạc ra ngoài đều bị cắt đứt, cả đài phát thanh, viễn ấn tự (télétype)cũng vậy, mặc dầu các tòa đại sứ ngoại quốc vẫn còn mở cửa làm việc. Dĩ nhiên sân bay thì ngổn ngang đủ loại xác phi cơ, ô tô, còn đường sá thì hư nát vì đạn pháo nên không thể nào vào được. Trong một cuộc họp báo của Tư Lệnh Ban Quân Quản Sài Gòn Gia Định, chánh quyền hiện hữu và duy nhất lúc nầy, thì một nhà báo có phản đối về việc đi lại không được tự do, thì được trả lời rằng "việc đi lại luôn luôn được hoàn toàn tự do, nhưng mỗi ông quận trưởng chỉ có quyền cho phép đi lại trong phạm vi trách nhiệm của quận mình mà thôi."

Không còn thấy một tý gì gọi là trù mật, là sầm uất như xưa của thành phố nữa, mặc dầu các chợ cũng còn lưa thưa một vài tiệm chạp phô và một vài quầy hàng còn bày bán một ít hàng xen lẩn với hình của Hồ chí Minh, trên cửa còn dấu vết của lá cờ vàng vừa được bôi cạo để thay vào đó màu đỏ của kẻ xăm lăng. Các quán giải khát, các quán rượu..chỉ mở hí cửa và bên trong thì trống rỗng, trong khi các cô chiêu đãi viên thì ngồi ngáp dài trước cửa, chờ đón những ông khách lạ từ xa....không mời mà đến, nhưng được mời mà không vào. Các trạm xăng công cộng thì hoặc bị lấy hết hoặc bị đốt lúc bộ đội Bắc Việt vào thành phố, nên người ta chỉ còn tìm được xăng với giá chợ đen, do một số người bán rong, xăng họ rút ra từ các xe của Mỹ còn bỏ lại hay của bất cứ xe vô chủ nào còn bỏ rãi rác trên hè phố. Sau đó thì các anh bộ đội Bắc Việt cũng bắt chước chơi theo kiểu Mỹ làm nhà cung cấp xăng cho bọn chợ đen bằng cách tự rút xăng trong xe chiến lợi phẩm của mình đang lái. Dài dài hằng 100 thước trên những con đường chánh của thành phố, nhất là sau nhà thờ Đức Bà và trên đường Lê Lợi, cả đàn ông đàn bà lẩn con nít kiên nhẫn đứng thành từng hàng mời khách bộ hành qua lại mua xăng đựng trong những võ chai rượu whít ky đủ loại .(nhưng coi chừng ! ai muốn mua phải chịu khó nếm thử để biết chắc đó có phải là xăng, là trà hay là dấm...)giá từ 250 đồng bạc một chai đến 1400 hay 1600 đồng một lít. Và cứ như vậy mà ô tô thưa thớt lần, các xe Honda cũng bớt gây ồn ào và từ đó xe đạp bắt đầu xuất hiện, một loại xe thông dụng của các quốc gia cộng sản nghèo. Giá của chiếc xe đạp cứ thế lên dần như dều, dầu vậy người ta cũng còn thấy thỉnh thoãng có người còn giữ một vài chiếc loại tốt thời xưa, sáng đạp một chiếc màu xanh chiều một chiếc màu đen, coi như để thay đổi thời trang!! Riêng những ông lãnh chúa mới thì ngồi chểm chệ trên những xe Mercédès sang trọng có dựng cờ trên đầu xe, hoặc ra vẻ vênh váo trên những xe mà họ vừa mới tịch thu được.

Trộm cắp tăng nhanh không nói được: chỉ trong khoản thời gian ngồi uống một cốc cà phê ở khách sạn Continental là chiếc xe của Đại Sứ Pháp bị đục thủng thùng xăng và chân máy đã bị tháo khỏi sườn xe rồi. Không có một người cảnh sát nào cả, người ta phải gọi những anh mặc quân phục xanh nhỏ con Bắc Việt đang thơ thẩn đâu đó, có lẽ họ cổ xúy cho hành động bất chánh kiểu nầy để có dịp khủng bố và thanh lọc dân chúng. Bộ chỉ huy ban quân quản thành phố sẽ trừng phạt nặng những người nầy, có lẽ không nhằm mục đích bảo vệ tài sản của người dân đâu mà chỉ cốt để lấy lòng dân mà thôi. Chỉ với tội ăn cắp vặt mà một em bé đã bị họ đánh gục. Và có một hôm nọ, một anh tài xế xe tải cán chết một em bé: người mẹ khóc than phản đối dử dội, và để cho bà nầy vừa lòng người ta hành quyết ngay tại chỗ người tài xế đó bất kể sự phản kháng của anh nầy, trong một không khí im lặng hết sức nặng nề của đám đông dân chúng đang cảm xúc đứng xem, không dám phản đối.

Công tác thông tin báo chí hầu như bị bải bỏ. Trước hết người ta tổ chức một nhóm sinh viên la ó phản đối một bài báo bị họ kiểm duyệt, sau đó họ mới đóng cửa hết trên 40 tờ báo của Sài Gòn mà không có một ai dám lên tiếng. Vài ngày sau đó duy nhất có một tờ báo được ra, tờ "Sài Gòn Giải Phóng", một tờ báo có cái tên mà tiếng Việt Nam có nghĩa là một sự thay đổi hết sức thô bỉ, sự thật nó chỉ là một mớ giấy tuyên truyền của chế độ cộng sản mà thôi. Dân chúng giờ đây chỉ có bám víu vào những tin đồn để mà sống qua ngày và tin đồn thì quá nhiều đến mức có thể làm cho họ say mê. Người ta nghe lén các đài phát thanh ngoại quốc, đài "Tiếng Nói Tự Do", đài BBC, đài VOA, đài Úc Châu v.v.. Tất cả các máy thâu thanh sau đó đều bị kiểm tra rất nghiên nhặt, và người ta được xem truyền hình phát từ HàNội mà sự "tuyên truyền nặng mùi quân phiệt còn rất là hiểm độc hơn của Đức quốc xả trong thời kỳ Hitler nữa", một anh nhà báo Pháp đã có nhận xét như vậy.

"ĐÊM QUA EM MƠ THẤY BÁC HỒ"!

Năm chiếc tàu hàng Nga Sô vừa cập bến chở theo toàn là "gạo" đúng lúc Việt Nam đang thiếu. Người ta phân phối gạo cho những phường đông dân trước; nhu cầu quá nhiều nên có nhiều sự phản đối. Người ta cho ngưng công tác phân phát gạo và chỉ cho tiếp tục lại vài ngày sau đó. Trong khoảng thời gian chờ đợi người ta cho nhiều toán kiểm tra đi từng nhà để thẩm định lại từng thành phần đáng nhận gạo. Một máy điện thoại hay một máy thu thanh dù là thuộc loại cổ lổ xỉ, được coi là xa xí phẩm, và người sở hữu chủ được xếp vào hạng giàu, không được hưởng phần gạo cứu đói, phần gạo nầy để cho những người nghèo cần hơn. Sự thật là ở Miền Nam giàu nghèo gì ai cũng có máy thu thanh cả !!!

Những sinh viên học sinh từ trước vẫn ham mê các tạp chí đầy hình ảnh khiêu dâm của Mỹ, tự nhiên đâm ra có nhiệt tình trong các cuộc chống đối phim ảnh, những bài hát, dĩa hát và các loại in ấn phẩm mà họ cho là đồi trụy, không lành mạnh. Các rạp chiếu bóng được cho mở cửa lại ngay, người ta cho chiếu các phim "chiến thắng Điện Biên Phủ", "đời sống bác Hồ", nhưng lèo tèo chỉ có vài khán giả bất đắc dĩ ngồi ngáp vắn ngáp dài... Cũng có nhiều người còn dấu lại một vài đỉa nhạc hay, và có người thì cố đọc ngấu nghiến lần cuối cùng một quyển tiểu thuyết đắc ý nhất của mình, nhưng rồi các cô cậu sinh viên học sinh trẻ tuổi chia nhau đi khắp thành phố lùng sục cho bằng hết các đỉa nhạc và các quyển sách còn sót, chất thành đống đốt lên như lửa trại, rồi múa hát chung quanh đó với những bài hát mới và vủ khúc bình dân Nga Sô. Các tiệm sách, các thư viện, đều được lệnh lập bản kê khai sách báo hiện có, cũng giống như các doanh-xí-nghiệp khác vậy thôi, nhưng đối với sách báo thì các bản kê khai nầy chắc phải nộp cả kílô !

Một cô gái 16 tuổi, lớp 12 của một trường trung học tại Sài Gòn đã viết một bức thư cho một vị giáo sư Pháp văn của cô: "Tôi rất buồn mà thấy bộ mặt Sài Gòn bị thay đổi, ngày trước rất là tươi vui. Đời sống đã trở nên khó khăn. Có rất nhiều gia đình không còn có gì để ăn cho đủ no. Tôi không còn một phương tiện nào để tiếp tục học. Tôi cần phải tìm bất cứ công việc làm gì để đi làm.. Nếu tôi có thể làm bồi phòng cho Thầy..."

Các trường tiểu học trong phường khóm đã được cho mở lại, các trường trung học cũng vậy. Với các em học sinh, người ta chỉ dạy "công dân giáo dục" và người ta chú trọng nhiều trong việc tập luyện phương thức căn bản trong công tác tuyên truyền, các bài hát, các khẩu hiệu, như người ta đã bắt dân chúng phải tập mỗi đêm từ 2 giờ đến 4 giờ sáng để "không bị thiệt mất giờ lao động", có hại cho việc sản suất. Với các em thiếu nhi, người ta tập họp lại rồi nhồi cho các em bài hát sau đây :


"Đêm qua, em mơ thấy bác Hồ,
Bác nhìn em bác cười,
Em vuốt râu bác, và vuốt tóc bác,
và bác nói với em:
mai nầy em sẽ là bộ đội."

Đức tin mạnh đến độ dường như có một số em nhỏ tin rằng đêm qua em mơ thấy bác Hồ thật ! Đối với các em lớn hơn thì có giáo viên hướng dẫn, có đạo hay không cũng vậy, thay vì đọc kinh cầu nguyện buổi sáng, thì người ta cho học thuộc lòng bài hát và các khẩu hiệu biểu ngữ, rồi cùng nhau đọc lên năm điều khuyên răn của Hồ chí Minh:

- Phải yêu dân tộc và yêu tổ quốc,

- Phải lao động,

- Phải sống trong kỷ luật,

- Phải biết điều độ,

- Phải giữ gìn sức khỏe để phục vụ đất nước.

Đối với các sinh viên hay ít nhất là những em có điều kiện sinh sống để có thể còn tiếp tục học, thì người ta tổ chức họ lại thành từng trung đội và trung đội trưởng là một anh "cán bộ". Anh nầy có nhiệm vụ phải đào tạo cho mỗi người phải có một nghề hữu ích nào đó trong vòng hai tháng, xong đưa họ về vùng nông thôn để học tập cho biết "lao động là vinh quang", giúp làm công việc đồng áng, và nhất là truyền bá lời hay ý đẹp của chủ nghĩa Mác Lê. Nhưng trong khi chờ đợi "được" đi lao động ở nông thôn, thì với một tinh thần "tự nguyện" đáng khen, họ được trang bị mỗi người một chiếc vá và một cây chổi để "tự giác" đi tìm dọn sạch tất cả các đống rác trong thành phố. Tất cả mọi sự hoán đổi các khoa, ngành của trường đại học đã có dự trù sẳn từ trước cả rồi: Khoa Luật và Văn Chương sẽ được đóng cửa vĩnh viễn và thay vào đó là trường đào tạo thông dịch viên, dạy tiếng Nga, tiếng Tàu và cũng có tiếng Anh. Tiếng Pháp vốn thông dụng trong ngành Y Khoa thì nay bị cấm chỉ, không cho dùng nữa, và chỉ sẽ được dùng như một chuyển ngữ mà thôi.

Tóm lại, đó là những gì mà người ta đã quyết định về một sự "cải tạo con người, tư tưởng, và nền văn hóa" của Miền Nam Việt Nam .

Những bài toán về kinh tế và xã hội đã từng làm nhức óc các nhà lãnh đạo của chế độ cũ, và bắt buộc phải có một khoản viện trợ không ít của ngoại quốc, thì nay được người ta giải quyết cũng dễ dàng một cách lạ lùng. Người ta cho kiểm tra dân số, ghép lại thành từng tổ một. Ngay đối với những người nào vẫn tưởng rằng mình không có một vấn đề gì để người ta phải trách phạt mình, thì các cuộc điều tra phỏng vấn càng tỷ mỹ và càng làm cho họ sốt ruột nóng nảy lên. Còn đối với những người nào mà chế độ cho là thuộc "thành phần nguy hiểm", thì người ta cố tình lờ đi, để cho họ chờ...

Các quân nhân nào không chạy thoát thân ra ngoại quốc được thì họ trút hết quân phục vũ khí đạn dược, rồi tìm chỗ ẩn náo, hoặc với gia đình hoặc với bạn bè của họ. Họ được gọi đi trình diện tại các địa điểm kiểm tra, xong người ta vẫn cho họ đi về sau khi cho biết là họ sẽ được đi học tập ngắn hạn ở một trại cải tạo, xong về và sẽ trở thành công dân như những công dân VN khác. Nhưng khổ nổi ngay bây giờ đây, không công ăn việc làm, không lương không tiền...chắc chắn sẽ là một bài toán khó không có đáp số.

Tất cả các công chức cũng được gọi đi trình diện, xếp theo từng loại chức vụ, ngạch trật, nhưng chúng ta phải thấy được sự nhục nhã khó chịu của họ trong bộ cánh chỉnh tề có thắt cà vạt, cúi mình trước anh "cán bộ" trước cửa tòa nhà Quốc Hội Sài Gòn. Người ta không có hứa bất cứ điều gì với họ cả.

Nhiều bản yết thị kêu gọi những người ngoại quốc đi trình diện, thường trú thì tại các văn phòng cảnh sát cũ, tạm trú thì tại Bộ Ngoại Giao. Vì số người trình diện quá đông nên họ phải xếp dặt lại cho có trật tự, phân chia từng loại theo từng gốc dân. Đối với người Pháp chúng ta thì trước hết là người Pháp chính gốc, kế đó là những người lai Pháp, sau hết là những người Việt có quốc tịch Pháp. Với loại nào cũng vậy, họ bắt điền vào những bản "vấn đáp" dài lê thê, khai rõ tên họ và lý lịch ba đời, thời gian và lý do cư trú, tình trạng xã hội, tài sản ở Việt Nam, và những máy móc dụng cụ hiện có: truyền hình, máy thâu thanh, khuếch âm nghe nhạc, máy ảnh, súng, điện thoại v.v...Có nhiều nam nữ cán bộ cố gắng giúp phụ điền giùm các giấy tờ quá nhiều nầy, lẻ ra phải được thảo ra bằng tiếng Việt. Cũng còn phải nộp cho họ hình căn cước, mà do đó nghề chụp hình căn cước nay tự nhiên trở thành một kỹ nghệ mới đắt khách nhất lúc bấy giờ.

Nhưng tất cả đều được báo cho biết rằng mọi mưu mô hay hành động chống phá cách mạng đều bị cấm, nhưng họ không nêu rõ hình phạt. Và từ đó mới bắt đầu có hành động tố giác, ngay trong những người Pháp chúng ta, vì quá lo sợ, lại được người ta khuyến khích, dù đây là một việc làm quá bỉ ổi.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét