CHƯƠNG X
TRÊN BƯỚC ĐƯỜNG CÙNG
Quân
tử lúc cùng thêm thẹn mặt
Anh
hùng khi gấp cũng khoanh tay.
Lễ các Thánh (1-11) là một trong những lễ quan trọng của
Giáo Hội Thiên Chúa Giáo. Đối với Tổng Thống Diệm, ngày lễ này mang nhiều ý
nghĩa và khi còn sinh thời, bao giờ ông cũng sửa soạn từ mấy ngày trước như
xưng tội, cầm lòng… và làm một vài việc có ý nghĩa nhất để gọi làm bó hoa
thiêng liêng dâng lên Thượng Đế.
Lễ Các Thánh đối với tín đồ Thiên Chúa Giáo mộ đạo là một dịp
sống đạo và cầu nguyện cho trở nên Thánh và mỗi ngày sống cho thánh thiện. Lễ
này được lập nên để kính các vị Thánh vô danh của giáo hội.
Nói nôm na, cũng tương tự như ngày lễ kỷ niệm các chiến sĩ
anh hùng vô danh. Tuy là ngày nghỉ song sáng 1-11, Tổng Thống Diệm phải tiếp Đô
Đốc Felt cùng đi với Đại Sứ Cabot Lodge. Ông Nhu đã quá lạc quan và chủ quan.
Kể cả trong giờ phút tướng tá họp ở Bộ Tổng Tham Mưu ông vẫn tin vào thế khả
năng của mình. Chính vì sự lạc quan và chủ quan này cho nên những người thân
cận nhất của anh em Tổng Thống Diệm cũng mắc bệnh lạc quan và chủ quan như vậy.
Do đó, 10 giờ sáng 1-11 , Đại Tá Lê Quang Tung (Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt)
cũng như Trung Tá khôi (Tư Lệnh Lữ Đoàn Liên Binh Phòng Vệ Tổng Phủ Thống) đã
vào Tổng Tham Mưu như thường lệ. Tất nhiên là trong đầu óc họ không đặt một
chút hoài nghi nào và cũng vì thế nên không cần báo cáo lên thượng cấp. Các
Tướng tá hội họp hàng tuần như vậy là một thông lệ.
Tổng Nha Cảnh Sát Quốc Gia (Đại Tá Nguyễn Văn Y) Trung Ương
tình báo và sở nghiên cứu chính trị (do Trung Tá Đường thay thế BS Trần Kim
Tuyến)… Tất cả mấy cơ quan trên tuy hoạt động ngày đêm song về chuyện đảo chính
vẫn không thấy động tịnh gì cả. Và chỉ là việc đang theo dõi, tìm kiếm, khám
phá.
Tóm lại, trong suốt buổi sáng ngày 1-11, ông cố vấn Nhu
không nhận được một tin tức nào về đảo chánh ngoài việc khám phá âm mưu của Đại
Tá Có. Ông vẫn chủ quan tin vào lực lượng phản đảo chánh của ông.
Nếu một khi đảo chánh xảy ra ông sẽ trao cho Thanh Niên
Cộng Hòa phận sự giữ gìn an ninh trật tự tại thủ đô tạm thời thay thế cảnh sát
(vì kinh nghiệm vụ đảo chính hụt 11-11-1960 Đô Thành coi như bỏ ngỏ, Cảnh sát
thì tự động biến mất). Về quân sự thì quân đoàn III đã có Tướng Tôn Thất Đính.
Về Hải Quân, ông Nhu tin tưởng nơi Đại Tá Hồ Tấn Quyền… Đại
cương, ông Nhu vẫn tin tưởng với cả sự lạc quan vào lực lượng của chính quyền
có thể đương đầu với bất cứ một cuộc đảo chánh nào. Từ khoảng tháng 8-1963 đã
có nhiều nguồn tin theo đó ông Cố Vấn Nhu sẽ đảo chánh để lật đổ bào huynh và
chính ông sẽ nắm quyền lãnh đạo. Nguồn tin này có lẽ được thêu dệt qua lời
tuyên bố của ông Nhu trước hội nghị các đại biểu Ấp Chiến Lược. Ông Nhu nói
rằng, nếu chính quyền bất lực và không còn phục vụ được nhân dân và Tổ Quốc thì
chính ông là người đầu tiên đứng lên đảo chánh chứ không cần đợi ai đảo chánh.
Lời tuyên bố này nhắm cảnh cáo một số cán bộ tắc trách và đồng thời cảnh cáo
trước mọi âm mưu phiến loạn. Sự việc chỉ có thế.
CHẾT VÌ CHỦ QUAN HAY CHẾT VÌ PHẢN BỘI?
Các nhân vật thân cận cho hay, vào cuối tháng 10 chính
quyền lại có vẻ vững vàng hơn bất cứ lúc nào. Điều làm cho chính quyền lo ngại
nhất là các đơn vị của Lữ Đoàn Nhảy Dù. Sau cuộc đảo chính hụt 11-11-1960,
chính quyền mới nhận chân được khả năng sung yếu của các đơn vị Mũ Đỏ.
Tuy nhiên, sau ngày 11-11- 1960, Lữ Đoàn này đã được trao
cho một sĩ quan thân tín tức Đại Tá Cao Văn Viên ngoài ra một số đơn vị trưởng
ở cấp Tiểu Đoàn và Trung Đoàn đã được Sở nghiên Cứu móc nối và được coi như
người trong nhà.
Từ tháng 5 năm 1963 ông Cố Vấn Nhu đã tiên liệu trước sau
rồi thế nào cũng có đảo chánh nhưng ông vẫn yên chí vì có thể dập tắt được ngay
vì những tướng tá âm mưu đảo chính đều không có quân trong tay kể cả Trung
Tướng Trần Văn Đôn, quyền Tổng Tham Mưu trưởng cũng sẽ không làm gì được hơn vì
trên thực tế, ông Đôn vẫn là tướng không có quân.
Vì chủ quan quá mức như vậy nên ông Cố Vấn Nhu vẫn bình
thản trầm ngâm với điều thuốc lá Job trong cùng thời khắc đó tướng lãnh đang
quyết định lật đổ chế độ… 12 giờ trưa. Tổng Thống Diệm theo thông lệ vẫn lần
hạt đọc kinh trước khi dùng bữa. Cũng thời khắc đó, trên xa lộ gần Thủ Đức, Đại
Tá Hồ Tấn Quyền đã bị bắn chết. Cái chết của Đại Tá Quyền cũng bất ngờ và
tức tưởi như cái chết của hai anh em Tổng Thống Diệm.
Ông Cố Vấn Nhu đã nắm vững được những yếu tố nào để có thể
an tâm và chủ quan như vậy được ? Kể từ khi Mỹ ngưng viện trợ và tìm mọi
áp lực để Tổng Thống Diệm phải khuất phục đi theo đường lối của họ, ông Cố Vấn
Nhu đã tìm được một đồng minh khác khả dĩ có thể hỗ trợ chế độ trong nhất thời
và cũng là cách tạo nên một thế tựa để làm điều kiện với Mỹ.
Trong 9 năm cầm quyền anh em Tổng Thống Diệm chua xót về
viện trợ Mỹ và thế nào là đồng minh theo tầm nhìn của Mỹ. Đồng minh này không
ai khác hơn là Pháp. Kể từ năm 1945, chưa bao giờ mối bang giao Việt Pháp tạo
được nhiều điều kiện thân hữu rất tốt như năm 1963.
Lúc bấy giờ về phía nội bộ, vụ Phật giáo được coi như tạm
yên. Phe đối lập gồm một số tướng lãnh mà ông Nhu tin rằng họ không thể làm gì
được trừ phi Mỹ quyết tâm song sự quyết tâm của Mỹ cũng chỉ có thể trong vòng
bí mật. Tất nhiên Mỹ không thể công khai hỗ trợ bất cứ một phe nhóm nào dùng võ
lực để lật đổ chính quyền hợp pháp. Vì còn dư luận quốc tế, còn Pháp, Anh. Ông
Nhu vẫn tỏ ra coi thường thực lực của phe âm mưu đảo chánh. Theo ông điều giản
dị là họ không có quân không có uy tín trong quần chúng. Một số tướng tá đang
nắm thực quyền chỉ huy các đơn vị và nha sở đều là người tin cẩn của chế độ… Sự
tin tưởng của ông Nhu cũng hữu lý vì giả thử nếu Đại Tá Đỗ Mậu (Giám Đốc Nha An
Ninh Quân Đội) cũng như Tướng Đính không theo phe đảo chánh, dầu cho Mỹ hỗ trợ,
phe đảo chánh cũng khó lòng thành công.
Tuy nhiên, cái lầm lỗi nhất của ông Nhu vẫn là bệnh chủ
quan và đặt quá nhiều tin tưởng vào một số nhân sự mà ông cũng như Tổng Thống
Diệm cho đến giờ phút cuối cùng vẫn không thể ngờ được rằng, họ phản mình. Sự
thật là hầu hết các tướng lãnh đều là đảng viên đảng Cần Lao như Chủ Tịch Quân
Ủy đảng Cần Lao vốn là Tướng Lễ (nhiệm kỳ I) Tướng Chiểu (nhiệm kỳ II) cho đến
ngày 1-11-1963 các Tướng Đôn, Nghiêm, Oai, Tám, Khánh, Cao… các Đại Tá Đỗ Mậu,
Nguyễn Văn Chuân, Lâm Văn Phát. Các Trung Tá Đỗ Khắc Mai, Nguyễn Văn Thiệu… đều
là đảng viên Cần Lao.
Một số Tướng Tá thân tín của chế độ chủ quan tin tưởng như
vậy cho nên trước nguồn tin sẽ có đảo chánh, Đại Tá Hồ Tấn Quyền vẫn tuyên bố
với mấy sĩ quan cận thân của ông: “Nhảy Dù mình cũng nắm vững, Hải Quân là
do nơi tôi. Chỉ cần huy động hai Tiểu Đoàn Thủy Quân Lục Chiến là có thể dẹp
tan được đảo chánh.”
Trước sau có thể nói chính quyền vừa quá chủ quan và khả
năng tình báo quá yếu. Ông Nhu cũng chỉ vì chủ quan nên thản nhiên chờ đợi phe
đảo chính ra tay trước. Ông ta tin rằng với lực lượng mà ông được nắm vũng sẽ “hốt” được trọn ổ. Giới thân cận cho biết
nếu cuộc đảo chánh chậm lại vài ngày nữa thì quả thực ông Nhu sẽ bắt được trọn
ổ hoặc là ông cứ ra tay trước vào những ngày 27, 28 thì phe chủ chốt nếu không
bị bắt tất cả cũng đành khoanh tay đằng này ông Nhu lại cố nấn ná để chờ cho nó
bùng nổ.
TRONG DINH
Khi từng loạt súng nổ ran ở phía Tổng Nha Cảnh Sát và được
báo cáo cho biết có một số binh sĩ Thuỷ Quân Lục Chiến đang tiến vào thành phố
cho đến lúc này ông Nhu vẫn bình tâm và ông Vỹ được gọi vào Dinh. Kể từ 1g30
trong Dinh Gia Long, Bộ Tham Mưu cao cấp không còn ai khác hơn là hai anh em
ông Tổng Thống Diệm và ông Cao Xuân Vỹ.
Tại sao chỉ có bằng ấy người. Thực ra khi có binh biến như
vậy anh em Tổng Thống Diệm hay ở địa vị ai cũng chỉ còn trông cậy vào quân đội.
Phía dân sự nếu có nhiều người thì chỉ làm bận chân.
Dinh Gia Long gọi điện thoại lên Bộ Tổng Tham Mưu thì không
một ai trả lời (đường giây đã bị cắt) khi gọi điện thoại cho Biệt Khu Thủ Đô,
Quân Đoàn III thì hai nơi này cũng bặt tin. Khi quay sang Bộ Tư Lệnh Hải Quân
gọi Đại Tá Quyền cũng không còn tiếng chuông reo. Tuy nhiên Dinh Gia Long vẫn
còn liên lạc được với một số cơ quan dân sự đầu não như Tổng Nha Cảnh Sát Quốc
Gia, Thanh Niên Cộng Hòa, Trung Ương Tình Báo. Bộ Công Dân Vụ. Việc đầu tiên là
Tổng Thống Diệm gọi điện thoại cho Phó TT Thơ và một số Bộ Trưởng để chỉ thị
cho họ một số điều cần thiết như tạm thời ấn náu giữ vững tinh thần.
Vị Bộ Trưởng trốn lẹ nhất không ai khác hơn là Nguyễn Đình
Thuần, Bộ Trưởng Phụ Tá Quốc Phòng kiêm nhiệm Bộ Phủ Tổng Thống. Cho đến quá
chiều Dinh Gia Long vẫn còn bắt liên lạc được với một số Tỉnh tại Cao Nguyên và
Trung Nguyên Trung Phần cũng như Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn I và Quân Đoàn II. Nhưng
không sao bắt được liên lạc với Quân Đoàn IV của Tướng Huỳnh Văn Cao. Kể từ
1g30 đến khi anh em ông Diệm ra khỏi Dinh Gia Long được với Bộ Tham Mưu, Quân
Đoàn I và Quân Đoàn II là hai đại đơn vị mà Tổng Thống Diệm vẫn liên lạc được
cho đến phút chót và Tướng Nguyễn Khánh cũng là một tướng lãnh duy nhất cho đến
phút chót qua đường giây liên lạc vẫn tỏ bày lòng cương quyết trung thành với
Tổng Thống Diệm và cho biết Quân Đoàn II Tướng Khánh còn lưu ý với Bộ Tham Mưu
Dinh Gia Long: “Các toa phải ráng giữ, đừng có nghe lời tụi nó. Không tin
mấy thằng đó được Quân Đoàn II sẵn sàng phản công phe đảo chánh.”
ĐƯỜNG GIÂY ĐÃ ĐỨT
Sau vụ đảo chánh hụt 11-11-1960, Sở Nghiên Cứu Chính Trị đã
áp dụng một kế hoạch chống đảo chánh rất hữu hiệu. Nhờ kế hoạch này, một số đơn
vị nòng cốt trong Lữ Đoàn Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Thiết Giáp, Biệt Động
Quân đều được Sở Nghiên Cứu “chinh phục và tìm bạn” trong hàng Sĩ Quan
mà hầu hết là ở cấp Tiểu Đoàn Trưởng.
Tháng 9-1963 Bác Sĩ Trần Kim Tuyến được lệnh cấp tốc lên
đường nhận nhiệm vụ mới và Trung Tá Đương chính thức thay thế (Trung Tá Đương
còn là chánh văn phòng của ông Nhu).
Tuy đã bàn giao công việc song công việc của Sở Nghiên Cứu
không đơn giản như các cơ sở khác, giấy tờ hành chánh chỉ là phần phụ.
Còn bao nhiêu vấn đề nhiêu khê rắc rối mà phải là người chủ
động mới có thể nắm vững. Do đó, người thay thế dù là cận thân của ông Cố
Vấn Nhu cũng không thể nắm vững các “đường giây” được móc nối tại các đơn vị chủ lực,
kể từ tháng 9-1963 gần như tê liệt hoàn toàn. Đó cũng là một khuyết điểm lớn
lao nhất là bao giờ cũng đặt tình cảm cá nhân như một căn bản cho lòng tin
tưởng và tinh thần phục vụ. Cho nên với cá nhân ông này thì thuộc cấp hết lòng
phục vụ cá nhân ông kia họ lại thờ ơ, bất hợp tác.
Cho nên cũng không thấy làm lạ khi người cũ ra đi với bao
luyến tiếc của thuộc cấp, thì người mới khi đến tiếp nhận phải cần có một thời
gian, phải có sự khôn khéo và có đủ uy tín may ra mới điều khiển nổi cơ sở ở
mức bình thường. Khi BS Tuyến ra đi rồi thì từ một lý do này hay lý do kia,
Trung Tá Đường không đã không nắm được các “cảm tình viên” đúng ra những
“noyeaux” đặt trong một số đơn vị từng được coi là có khả năng làm đảo chánh
hay chống đảo chánh rất hữ hiệu. Kế hoạch “nuôi
ba năm dùng một giờ” đã trở
thành vô hiệu quả. Nhiều đơn vị trưởng khi nhận được lệnh chuyển quân
hướng về Saigon đã không biết cấp báo cho ai.
Đây là vấn đề quan hệ đến sinh mạng cho nên không thể cấp
báo cho bất kỳ ai mà họ chưa có lòng tin cậy, sự tin cậy đặt trên tình nghĩa và
thân hữu. Sau vụ 11-11-1960, Sở Nghiên Cứu Chính Trị cạnh Tổng Thống Diệm đã cố
len lỏi vào các đơn vị và tìm bạn.
Công tác tìm bạn coi như được hoàn tất vào năm 1962.
Những người bạn này không cần nhận một công tác nào cả. Duy chỉ có một điều họ
sẽ được bảo vệ nếu gặp sự bất công ngược đãi của cấp trên hoặc tuỳ trường hợp
sẽ được giúp đỡ theo nhu cầu và ước muốn của mỗi cá nhân.
Người bạn này không làm công tác tình báo cũng
không có phận sự đối với Sở Nghiên Cứu. Tóm lại, họ chỉ là bạn thuần tuý về
phương diện tình cảm và không liên hệ một mảy may đối với tổ chức và công việc
của Sở Nghiên Cứu. Tuy vậy, họ luôn luôn được căn dặn một điều, nếu khi nào
thấy có lệnh chuyển quân hướng về Saigon, hoặc có điều gì khả nghi trong việc
động binh thì cấp báo ngay cho người có trách nhiệm của Sở Nghiên Cứu, và cấp
báo trực tiếp, đưa tin đến nhà hoặc điện thoại theo các đường giây riêng. Theo
Lương Khải Minh, không những “tìm bạn” theo kiểu này tại các đơn vị cấp Tiểu
Đoàn và Trung Đoàn, Sở Nghiên Cứu còn tìm bạn trong các cơ quan đầu não của Bộ
Quốc Phòng và Bộ Tổng Tham Mưu, thường thường là sĩ quan cấp úy thuộc ngành
truyền tin, Quân vận, phòng II phòng III v.v…
Từ tháng 10-1963 các “đường giây” được thiết lập
theo hệ thống “bạn”kể trên
nếu không nói là tan rã, thì cũng không được kết hợp và phối trí do một người
duy nhất điều động. Trong khi đó, ông Nhu lại quá tin tưởng vào một số tướng tá
chỉ huy các đại đơn vị không hiểu tại sao ông Nhu lại quên hẳn bài học “Nguyễn Chánh Thi” trong vụ
đảo chánh 11-11-1960.
Ông vẫn dùng một số tướng tá thân tín để chống lại mọi âm
mưu đảo chánh. Song ông Nhu đã không thể ngờ được rằng, khi các tướng tá
trên tạm thời liên hiệp với phe âm mưu đảo chánh thì một sớm một chiều chế độ
của ông đã trở thành chế độ trắng tay không có quân để bảo vệ (ngoài Lữ Đoàn
PVPTT và một số đơn vị Lực Lượng Đặc Biệt đã bị phân tán). Thật là một sự
tính sai hay đúng một rủi ro của chủ quan. Đây cũng có thể coi là sự lầm lẫn do
sự thiếu tế nhận về tâm lý và thực trạng của vấn đề nhân sự trong Quân Đội.
Hải Quân (trong đó có Thủy Quân Lục Chiến) là một thí dụ
giúp chúng ta có thể dễ dàng phán đoán cái may cũng như cái rủi từ hai phía
(phía đảo chánh và phía chính quyền). Sau vụ oanh tạc Dinh Độc Lập 27-2-1962,
Hải Quân được lòng tin cậy của Tổng Thống Diệm. Đại Tá Hồ Tấn Quyền vẫn tự nhận
là Hải Quân có công trong vụ bắn hạ chiếc máy bay của phi công Phạm Phú Quốc,
và chính Hải Quân đã đem xác chiếc phi cơ AD-6 của phi công Quốc ra trưng
bày coi như một chiến lợi phẩm. Hành động này đã làm phật lòng và chạm đến tự
ái của Không Quân (sau đó chiếc AD-6 được không quân đem về căn cứ Tân Sơn
Nhất) Từ vụ 27-2-1962, Đại Tá Quyền được coi như là người thân tín của chế độ
(cho đến nay Hải Quân đã trải qua mấy vị Tư Lệnh song giới Hải Quân vẫn công
nhận Đại Tá Quyền là vị Tư Lệnh khá nhất xét về nhiều mặt như tư cách chỉ huy,
tình cảm v.v… mặc dầu ông hơi yếu về các phương diện cấp bằng so với các Tư
Lệnh sau ông, cũng vì vậy phe đảo chánh không tìm cách móc nối Đại Tá Quyền.
THÀNH BẠI TRONG GANG TẤC
Cho đến sáng ngày 1-11-1963, Đại Tá Quyền vẫn không hay
biết gì về cuộc đảo chánh sẽ bộc phát vào lúc 1g30 cùng ngày.
Ngày hôm ấy cũng là ngày sinh nhật của ông, Đại Tá
Quyền theo thông lệ những ngày nghỉ vẫn đến sân quần vợt của Bộ Tư Lệnh
Hải Quân để cùng dượt với các sĩ quan. Trong số sĩ quan hiện diện quần vợt
sáng hôm ấy, có Thiếu Tá Nguyễn Tấn Lực.
Thiếu Tá Lực vốn là bạn thân của Đại Tá Quyền và
cũng là chỉ huy trưởng của một ngành trong Hải Quân. Vào khoảng quá 10 giờ
sáng, sau khi đánh banh xong, viên Thiếu tá này mời Đại Tá Quyền lên Thủ Đức
dùng cơm, với lý do nhân ngày sinh nhật ông Quyền, Thiếu tá Lực muốn có cái hân
hạnh được mời ông đi ăn nhậu, và cũng là một người bạn thân thiết. Đại Tá Quyền
nhận lời ngay, và cả hai cùng đi bằng một chiếc Citroen dành cho Tư Lệnh Hải
Quân.
Khi lên xa lộ, Thiếu Tá Lực mới ngỏ ý với Đại Tá Quyền theo
phe đảo chánh. Cho đến giờ phút đó Đại Tá Quyền mới rõ sẽ có đảo chánh thật, và
không còn là chuyện dư luận đồn đại nữa. Đại Tá Quyền không chấp thuận.
Kết quả là Đại Tá Quyền bị hạ sát ngay trên xa lộ. Đêm
1-11, Thiếu tá Lực “lò mò” tìm đến Bộ Tư Lệnh Hải Quân
nhưng khi đi qua Sở Thú thì bị Lữ Đoàn bắt giữ. Thiếu tá Lực tưởng lầm là quân
của phe đảo chính nên tiết lộ với Đại Úy Lễ: ông đã hạ sát Đại Tá Quyền theo
chỉ thị của Trung Tướng Dương Văn Minh. Quân của Lữ Đoàn PVPTT định hạ sát ngay
Thiếu Tá Lực. Đại Úy Lễ xin chỉ thị của Bộ Tư Lệnh nhưng chỉ được trả lời “Giữ
ông Lực lại và không được động chạm đến ông ta”
L’ÉTAT C’EST MOI
Trở lại biến cố 1-11-1963 và cái chết của hai anh em Tổng
Thống Diệm. Như mọi người đã biết, Tổng Thống Diệm đã chết như một người bị ám
sát. Mặc dầu lúc 4g30 hội đồng QNCM, đã điện đàm với anh em Tổng Thống Diệm.
Với lời hứa rằng, nếu Tổng Thống Diệm và Bào Đệ chịu từ bỏ quyền hành và rời
khỏi Dinh Gia Long, HĐQNCM sẽ cam kết bào vệ tính mạng cho hai anh em ông và sẽ
để anh em Tổng Thống Diệm ra ngoại quốc với nghi lễ dành cho một vị Tổng Thống.
Tổng Thống Diệm đã nói như hét: “Tướng
Tá mô?”
Tất nhiên Tổng Thống Diệm đã không chấp nhận sự đầu hàng
như vậy. Ông lãnh đạo quốc gia trong vòng quan niệm Dân Cử theo quan niệm của
ông và tổng hợp với quan niệm Thiên Mệnh, trong Nho Giáo. Với một người cứng
rắn quá mức như Tổng Thống Diệm cùng với tự ái quá cao và tự tôn tất
nhiên là ông đã coi các tướng lãnh chỉ là những thuộc hạ võ biền (võ biền
theo quan niệm của một nhà nho) nên đề nghị của Tướng Minh đối với Tổng Thống
Diệm như một hành động xúc phạm đến uy quyền tối cao của Quốc Gia mà ông là
tiêu biểu (Tổng Thống Diệm đã từng nói: sau Hiến Pháp còn có tôi. Thực ra ông
lãnh đạo Quốc Gia với một mặc cảm tự tôn: Quốc
Gia là ta, L’état
C’est moi). Điều này sẽ
giúp ta rõ ràng giải thích tại sao Tổng Thống Diệm khước từ sự “đầu hàng”
và dù trong một tình thế nguy nan nhất, ông vẫn giữ vững lập trường đòi các
tướng lãnh phải cử đại diện đến Phủ Tổng Thống gặp ông. Theo Đại Úy Lê Công
Hoàn, Tổng Thống Diệm đập bàn rồi bảo với ông Nhu:
“Chúng nó đến đây rồi thì muốn chi thì muốn”.
Tổng Thống Diệm có “cầu cứu” Cabot Lodge không? Riêng ông, có điện
đàm với viên Đại Sứ này, song chỉ có ý phiền trách và yêu cầu người Mỹ chấm dứt
ngay sự hỗ trợ phe đảo chánh. Ông Nhu thì chỉ yêu cầu Cabot Lodge đóng vai trò
trung gian giữa Dinh Gia Long và Hội Đồng QNCM. Song Cabot không thỏa mãn lời
yêu cầu này. Cũng tương tự như Tướng Minh, khoảng 4g30 Đại Sứ Cabot
Lodge yêu cầu anh em Tổng Thống rời khỏi Dinh và đến tị nạn tại Tòa Đại
Sứ. Sau đó ông ta sẽ thu xếp để anh em Tổng Thống xuất ngoại. Trong điều kiện
này thì ông Lodge mới bảo đảm tính mạng của hai anh Tổng Thống Diệm và gia
đình. Song như đã trình bày ở trên Tổng Thống Diệm đã khước từ dứt khoát. Tổng
Thống Diệm cũng như ông Nhu vẫn mong ở thế khả thắng của mình. Qua Đài Phát
Thanh lúc 4 giờ Tổng Thống Diệm nghe rõ giọng nói của 22 vị tướng tá xướng danh
để áp đảo tinh thần Dinh Gia Long. Tổng Thống Diệm bảo Đại Úy Bằng và các sĩ
quan tùy viên: “Các Tướng bị
bọn nó bắt cóc làm con tin đấy thôi”. Cũng
vì vậy khi Thiếu Tá Nguyễn Hữu Duệ xin Tổng Thống cho đem quân lên Bộ Tổng Tham
Mưu để “giải thoát” các tướng Tá thì Tổng Thống khước từ với lý do: “mình đem quân lên giải cứu bọn nó
sẽ giết hết các tướng để từ từ coi”. Cũng
vào lúc 4g30 Trung Tướng Đôn có điện đàm với Tổng Thống Diệm yêu cầu Tổng Thống
Diệm và ông Nhu từ bỏ quyền hành và xuất ngoại, vì quân đội đã đứng lên
đảo chánh và đã vây chặt thành Cộng Hòa, Dinh Gia Long. Tổng Thống Diệm
nói như quát: “Quân mô? Vây ở mô?” Sự thực, lực lượng đảo chánh
không đáng kể… Quân của Sư Đoàn 5 vẫn còn ở bên ngoài Đô Thành. Phía Phú Lâm,
Chợ Lớn, cầu Chữ Y, Khánh hội, Thị Nghè còn bỏ trống. Theo Thiếu Tướng Lâm Văn
Phát thì vào giờ đó, Hội Đồng Tướng Lãnh chưa biết phải làm gì và hoàn toàn
giao động vì vị nào cũng tưởng rằng, khi đọc hiệu triệu trên đài phát thanh thì
các cánh quân của Quân đoàn III (trong đó có Sư Đoàn 5) đã vây chặt
thành Cộng Hòa và Dinh Gia Long cũng như đã làm chủ tình hình Saigon Gia Định
Chợ Lớn, nhưng ngược lại, các cánh quân chủ lực của cuộc đảo chánh vẫn còn rời
rạc lẻ tẻ và chưa vượt qua cầu Phan Thanh Giản và cầu Thị Nghè thì
đã bị Lữ Đoàn LBPVPTT chặn đứng tại Đa Kao và Sở Thú.
4g30, một cú điện thoại từ Bộ TTM gọi cho Thiếu Tá Duệ: “kéo
thắng lên đây đánh thốc vào BTTM, ở đây chỉ lèo tèo vài đại đội tân binh và
lính truyền tin”. Thiếu
Tá Duệ hỏi: “Tướng lãnh làm gì trên đó?” Ông Duệ được trả lời:“Cha con mấy
trự đang xanh mặt “té đái…” Sự thực Chiến Đoàn Vạn Kiếp của Trung Tá Vĩnh
Lộc cho đến lúc ấy vẫn còn án binh phía bên kia cầu Phan Thanh Giản. Khoảng
4g30, khi Đại Tá Phát đến một căn nhà ngay ngã tư Phan Thanh Giản – Đinh Tiên
Hoàng được coi như bản doanh tiền phương của Sư Đoàn 5 và chiến đoàn Vạn Kiếp
thì lúc ấy Trung Tá Vĩnh Lộc đang say ngất ngư và cũng như chưa biết phải tiến
quân như thế nào… Sĩ quan cũng như binh sĩ vẫn còn ngơ ngác không biết
phải làm gì… chỉ thị của thượng cấp hết sức mơ hồ.
Tướng Lâm Văn Phát cũng tiết lộ, vào giờ phút đó, các Tướng
Tá tại Bộ TTM gần như tuyệt vọng, ai nấy xanh mặt và chuẩn bị valise để lên
đường tẩu thoát. Trung Tá Nguyễn Cao Kỳ trách nhiệm phần vụ “nếu thất bại
sẽ dùng mấy chiếc Dakota của Liên đoàn Vận Tải để đưa các tướng tá qua Thái
Lan”
Các Tướng Tá hồi hộp từng phút giây theo dõi cuộc tiến quân
của Quân Đoàn III nhưng chỉ nghe thấy tiếng nổ xa xăm… 4g30, Trung Tá Kỳ dẫn 2
phi công vào trình diện Hội Đồng Tướng Lãnh – 2 phi công này lái AD nhào lộn
oanh kích khu vực thành Cộng Hòa và sự hiện diện của 3 chàng Không Quân này tựa
hồ như cơn gió mát giữa cơn nồng nặc nghẹt thở trong phòng Hội Đồng.
Trung Úy Niên thấy tình hình rất lâm nguy. Bỗng nhiên, ông
nhận được tin từ Hội Đồng Tướng Lãnh cho biết: Đại Tá Lâm Văn Phát tạm thay Đại
Tá Nguyễn Văn Thiệu, thống lãnh Sư Đoàn 5 để thanh toán Dinh Gia Long và thành
Cộng Hòa. Được tin này, Trung Tướng Dương Văn Minh biến sắc. Một số Tướng Lãnh
gỉ tai nhau: “Thôi hỏng rồi… tại sao Đính lại giao cho Phát như thế tụi nó
quật ngược lại bọn mình rồi“. Không khí nghẹt thở.
Đại Tá Lâm Văn Phát sáng ngày 1-11 đến Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn
III để chờ trình diện Tướng Đính trước khi xuống Mỹ Tho nhậm chức vụ Tư Lệnh Sư
Đoàn 7. Cho đến lúc ấy ông Phát vẫn không hiểu mô tê gì cả nhưng ông đã linh
cảm thấy một sự lạ nào đó. Chiều Đại Tá Phát trở vào Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III.
Giữa lúc Tướng Đính đang xao xuyến vì sự di chuyển chậm trễ của Sư Đoàn 5, ông
yêu cầu Đại Tá Phát tạm nắm quyền chỉ huy sư đoàn này để tốc chiến tốc thắng.
Đại Tá Phát nhận lời. Tướng Đính phải cho người vào kho lấy bộ đồ trận cho
Đại Tá Phát vì ông Phát mặc đồ vàng. Kể từ phút đó, Đại Tá Phát
chính thức lâm trận. Ông được thăng Thiếu Tướng vào lúc 1g30 đêm ngày 1-11-1963
khi cuộc tấn công Dinh Gia Long đang mở màn.
RA ĐI KHI TRỜI CHƯA SÁNG
Xin trở lại giờ phút quyết định số mạng của hai anh em Tổng
Thống Diệm. Khoảng 4 giờ sáng thứ hai ông Cao Xuân Vỹ hoàn toàn mất liên lạc
với hai em Tổng Thống Diệm. Trong suốt buổi tối từ khi đến nhà Mã Tuyên, ông
Nhu vẫn thường xuyên liên lạc với ông Vỹ và một số nhân vật thân tín khác. Ông
Nhu quyết định sẽ ra đi trước khi trời sáng. Những người thân tín của ông đã
nhận được chỉ thị thu xếp cho anh em ông tìm đường lên Cao Nguyên. Công việc
thu xếp kể như tạm xong chỉ còn chờ anh em Tổng Thống Diệm quyết đi hay ở… sở
dĩ có sự chưa dứt khoát như vậy vì Tổng Thống Diệm không chịu trốn không chịu
cải trang. Ông Diệm đã nói với ông Nhu và ông Cao Xuân Vỹ: “Mình là Tổng
Thống thì mình phải giữ tư thế của vị Tổng Thống. Dầu mình chết cũng là vị
Tổng Thống.” Theo lời tường thuật lại thì tại nhà Mã Tuyên, dù ông Nhu
nhiều lần đề nghị ông Diệm thay quần áo và cải trang cho dễ lẩn trốn trong dân
chúng. Ông Diệm khước từ một cách bực tức. Ông Nhu đã có sẵn một bộ đồ hóa
trang, song vì người anh không chịu, ông đành thúc thủ.
Ông Diệm vẫn tin rằng, phe đảo chánh sẽ không dám làm gì
ông, và đã không dám làm gì ông thì cũng không thể giết ông Nhu.
Quyết định cuối cùng của ông Diệm là nếu chết thì chết cả
2. “Tôi đi đâu chú đi đó”.
Cũng vì vậy trong giờ phút cuối cùng tại Nhà Thờ Cha
Tam,Tổng Thống Diệm một lần nữa khước từ không chịu mặc tấm áo “Soutane” của Linh Mục, mặc dù ông Diệm đã có
lời tuyên bố phần sống như một tu sĩ.
Dinh Gia Long vẫn chìm đắm trong bóng tối và lặng lẽ. Vấn
đề cấp thiết nhất là lương thực. Dinh Gia Long không có kho lương nào. Thiếu Tá
Hưởng cũng như Thiếu Tá Lạc cùng tất cả các sĩ quan đều đồng ý giữ Dinh Gia
Long bất cứ giá nào. Tinh thần họ chỉ lên cao nhờ binh sĩ cũng một lòng như vậy.
Đơn giản, họ chỉ là những quân nhân phục vụ chế độ với lòng trung thành.
Từ khi Tổng Thống Diệm và ông Nhu ra đi, Dinh Gia Long
không có gì thay đổi, ba đại đội của Lữ Đoàn Liên Binh Phòng Vệ đóng chung
quanh Dinh ra đến tận chợ Bến Thành, Thiếu Tá Lạc cũng như Thiếu Tá Hưởng và
Đại Úy Hoàn kéo nhau ra đường đi vòng quanh quan sát rồi dừng chân trước Bộ
Quốc Phòng. Khi trở lại, có điện thoại gọi cho Hoàn, Hoàn quay lại nói với mấy
sĩ quan: “Liên nó gọi cho moa” tức (Thiếu Tá Nguyễn Bá Liên Tham
Mưu Trưởng Thủy Quân Lục Chiến, người chỉ huy TQLC trong cuộc đảo chánh)
Lúc đầu Thiếu Tá Nguyễn Bá Liên chiêu hồi dụ dỗ Đại Úy Hoàn
và cho rằng nên hàng đi là hơn. Sau Thiếu Tá Liên nhường máy cho mộ số Đại Tá,
Trung Tá nói chuyện thẳng với Hoàn. Đó là cách áp đảo tinh thần Dinh Gia Long.
Các Đại Tá, Trung Tá lần lượt lên tiếng trong đó có Trung Tá Vĩnh Lộc, Trung Tá
Thảo rồi đến lượt Trung Tá Nguyễn Văn Thiệu. Nghe xong Hoàn bỏ máy xuống quay
lại nhìn anh em mỉm cười.
Đại Úy Bằng theo Tổng Thống Diệm và ông Nhu đến Chợ Lớn ở
lại một lúc thì Tổng Thống Diệm cho ông về. Ông Bằng không quên mang về
một chai Martell, một tút thuốc lá “tăng
cường sức sống cho Dinh Gia Long”.Súng vẫn nổ, thỉnh thoảng một trái
mortier rơi gần Dinh, mấy sĩ quan trong Dinh vẫn bình tĩnh cụng ly. Đại Úy Hoàn
say ngất ngư cùng mấy sĩ quan khác ngồi tâm sự chuyện đời.
Thiếu Tá Nguyễn Bá Liên từ bên ngoài gọi điện thoại kêu
Dinh gia Long đầu hàng lần thứ 3. Đại Úy Hoàn cảm ơn tình bạn của ông Liên và
từ chối.
Quân Cách mạng đã làm chủ tình hình thủ đô vòng vây mỗi lúc
một siết chặt quanh Dinh gia Long. Thiếu Tá Phạm Văn Hưởng đặt Bộ Chỉ Huy hành
quân ngay ở công viên trước Dinh Gia Long. 12 giờ thì ông được thành Cộng Hòa
thông báo cho biết đã bỏ thành. Bẩy sĩ quan từ thành Cộng Hòa đang tìm cách về
Dinh. Nhưng đến đường Phùng Khắc Khoan thì đành chịu và rủ nhau trốn vào nhà
Kiến Trúc Sư Ngô Viết Thụ. Nhà ông này đi vằng hết, chỉ còn lại một gia nhân.
Sau đó đám sĩ quan này mượn quần áo cải trang rồi kéo nhau vào nghĩa trang Mạc
Đỉnh Chi.
Ngoài Dinh Gia Long vẫn còn 3 đại đội của Liên Đoàn Phòng
Vệ và trong Dinh có thêm một đại đội cận vệ đặt dưới quyền Thiếu Tá Lạc. Súng
vẫn nổ. Trong Dinh lặng lẽ như tờ. Viên Đại Úy phụ trách truyền tin xin Thiếu
Tá Hưởng cho tháo máy và di tản qua Tòa Án lấy cớ rằng nếu Dinh bị pháo kích,
máy truyền tin vẫn còn an toàn (Mấy ngày sau Đảo Chánh, Đại Úy này được Cách
Mạng vinh thăng Thiếu Tá với lý do góp công với Cách mạng bằng cách tháo gỡ máy
truyền tin. Không hiểu nguyên nhân nào, một tuần sau ông mất lon thiếu tá ).
Vào khoảng 2 giờ ngày 2-11-1963 súng bắt đầu thi nhau
nổ. Đại Úy Hoàn bàn bạc với Thiếu tá Lạc là trong tình thế này không thể
nào giữ được Dinh nữa rồi thế nào quân đảo chánh cũng sẽ đánh lớn và thanh toán
thành trì cuối cùng này. Hơn nữa Đại Úy Hoàn cho rằng Tổng Thống Diệm đã ra đi.
Thiếu Tá Lạc cho là phải và đồng ý với Đại Úy Hoàn là phải báo tin cho Tướng
Khiêm rõ. Sau đó Đại Úy Hoàn điện thoại cho Tướng Khiêm báo ông biết. Tổng
Thống Diệm và ông Nhu đã ra đi và xin Tướng Khiêm ra lệnh ngưng tấn công Dinh
Gia Long. Tướng Khiêm trả lời: “được,
để qua lo liệu”.
Lúc ấy, Bộ Chỉ Huy nhẹ của Đại Tá Phát đặt ngay tại trường
Đại Học Văn Khoa… ông Phát trực tiếp cuộc tấn công Dinh Gia Long.
Nhưng hầu hết đều bắn lên trời. Thủy Quân Lục Chiến đã
tiến gần đến Dinh. Một đại đội khác của LĐLBPVPTT vẫn còn giữ được vườn Tao
Đàn. Nơi đây được coi như yếu điểm số một trong việc bảo vệ Dinh Tổng Thống.
Bộ Chỉ Huy Dinh Gia Long không còn hy vọng được ai tiếp
cứu.
Mấy mật báo viên của Thiếu Tá Hưởng được sai xuống Phú Lâm
xem Sư Đoàn 7 đã về chưa. Cuối cùng họ trở về báo cáo, có thấy lính của Sư Đoàn
7 đang di chuyển về Thủ Đô nhưng không có súng.
Thiết giáp mỗi lúc một tiến gần hơn. Khẩu pháo đặt ở bộ
Quốc Phòng bị thổi bay. Trước đó khoảng 9g30, một tướng lãnh ở Bộ Tổng
Tham Mưu gọi điện thoại cho Thiếu Tá Lạc bảo đầu hàng. Ông Lạc trả lời rằng
Dinh Gia Long không thể đầu hàng được vì phải đợi lệnh của Tổng Thống. Một lúc
sau, Đỗ Thọ từ nhà Mã Tuyên gọi điện thoại về Dinh và chuyển lời của Tổng Thống
Diệm đại ý, Tổng Thống Diệm cảm ơn tất cả và bảo Thiếu Tá Lạc cố giữ Dinh và
chờ lệnh của Tổng Thống. Khoảng 3g30 sáng ngày 2, từ nhà Mã Tuyên Chợ Lớn, Tổng
Thống Diệm vẫn chỉ thị cho Thiếu Tá Lạc “Một mất một còn để bảo vệ Dinh”. Nhưng ông Nhu thất vọng “Không
thấm vào đâu, mình yếu họ mạnh” - Theo
nhật ký Đỗ Thọ, Tổng Thống Diệm cho rằng: “Vậy đổ nát, chết chóc, không lợi
chi cả“.
Từ 4g30 đêm, Dinh Gia Long như con hổ đã lọt vào bẫy, cố
vùng vẫy nhưng kiệt sức, Thiếu Tá Lạc tính chuyện đầu hàng. Thiếu tá Lạc liên
lạc thằng với Thiếu Tướng Trần Thiện Khiêm. Tướng Khiêm nói rằng: “Nếu thấy
không thể giữ nổi thì hàng để tránh đổ máu.” Tướng Khiêm chỉ thị thêm:
“Các Thiếu Tá trong Dinh phải bật hết đèn pha
để làm dấu hiệu đầu hàng”.Thiếu Tá Lạc xin được chậm chậm một chút vì ông Lạc cũng
như một số sĩ quan vẫn còn do dự để đợi lệnh cuối cùng của Tổng Thống
Diệm.
Lúc ấy Bộ Chỉ Huy của Thiếu Tá Hưởng đã di tản qua tòa Đại
Sứ Lào. Súng nổ chát chúa nhưng hầu hết đều bay lên trời.
Đêm đen như mầu mực. Rồi 6 giờ, trời tang tảng sáng… Dinh
Gia Long quỵ hẳn thay vì bật đèn pha để làm dấu hiệu đầu hàng, ông Lạc lại lấy
tấm drap trắng trải giường cột vào đầu gậy chạy ra bao lơn “phất phất”.Phía
Thủy Quân Lục Chiến cũng như trong Dinh nhiều người không trông thấy lá cờ đầu
hàng, trong Dinh lại nổ một loạt súng và làm ngã gục mấy TQLC. Phía TQLC
nổi giận xông lên.
Súng nổ từng loạt chát chúa. Rồi im bặt, Dinh Gia Long
thất thủ lúc 6g25. Trung Úy Tiêm còn mặc bộ đồ ngủ đi lè phe ở hành lang Dinh.
Mọi sự thế là xong. Bỗng đâu một viên đạn bay vèo. Trung Úy Tiêm ngã gục. Ông
chết vào giờ thứ 25 và nâng tỉ số thương vong của Lữ Đoàn Phòng Vệ lên 7 người.
Dinh Gia Long chỉ có một người chết.
Thiếu Tướng Phát công nhận rằng, cuộc tấn công Dinh Gia
Long quả là gay go. Binh sĩ phía đảo chánh thì dè dặt, cấp chỉ huy phải hối
thúc hò hét khản cổ họ mới chịu tiến. Khi Dinh Gia Long thông báo đầu hàng lính
trong Dinh vẫn nổ súng từng loạt. Một chiếc thiết giáp tiến lên ngang hông Bộ
Quốc Phòng phía đường Pasteur thì bị “thổi bay”. Lửa bốc cháy thiêu rụi con cọp
sắt vào đúng giờ thứ 25 của trận đánh. Chiếc thiết giáp của Đại Úy Bùi Nguyên
Ngãi lao lên tiếp cứu. Thiếu Tướng Phát trực tiếp hối thúc Đại Úy Ngãi phải tốc
thắng ổ chống cự cuối cùng của Dinh Gia Long. Xe của ông Ngãi tiến gần đến
chiếc thiết giáp đang bốc cháy thì bỗng đâu, từng loạt đạn nổ ran. Đại Úy Ngãi
vừa thò đầu ra khỏi xe thì bị bắn gục. Con cọp sắt thứ hai bốc lửa. Đại Úy Ngãi
gục ngã vào giờ thứ 25.
6g30 Dinh Gia Long nằm gọn trong tay phe đảo chánh, Thiếu
Tướng Nguyễn Văn Thiệu vẫn đeo lon Đại Tá kéo theo một trung đội tiến vào Dinh
tiếp thu thành trì cuối cùng của Đệ Nhất Cộng Hòa tiêu biểu cho uy quyền tối
thượng của VNCH.
TỪ HẦM DINH GIA LONG ĐẾN NHÀ MÃ TUYÊN
Trung Sĩ Mộc, Thủy Quân Lục Chiến cho biết ông đã cùng toán
quân của ông là những người thứ nhất đặt chân lên thềm Dinh Gia Long và sau đó,
ông xuống hầm làm nhiệm vụ lục soát.
Hầm này thế nào? Đây là nơi Tổng Thống Diệm mà trong 7
tiếng đồng hồ của buổi chiều ngày 1-11 đã cùng bào đệ ẩn trú và tính kế. Hầm
hoàn thành xong ngày 28-10 nằm phía sau Dinh Gia Long, chiều dài 25 thước tây
đi từ cánh trái của Dinh phía đường Pasteur đến cánh phải phía đường Công Lý.
Hầm có hai cửa nhưng có 5 lối xuống hầm. Một lối thông với phòng ngủ của Tổng
Thống Diệm ở lầu 2, một lối khác ăn thông với căn phòng của gia đình ông bà Nhu
phía đường Pasteur. Bên trên hầm là sân cỏ sát với sân quần vợt với hai trụ
thông hơi với một cửa ra vào dành riêng cho lực lượng cận vệ. Cửa hầm bằng sắt
dày. Hầm phân ra hai khu một dành cho Tổng Thống Diệm, một dành cho ông Nhu. Về
phía Tổng Thống Diệm hầm được ngăn ra thành 3 phòng nhỏ: một phòng khách, một
phòng ngủ và một phòng tắm.
Nhưng từ khi súng nổ, Tổng Thống Diệm xuống hầm thì tất cả
các bộ phận đầu não đều tập trung trong căn phòng khách nhỏ hẹp của Tổng Thống
Diệm với một chiếc bàn tròn, một chiếc ghế bành, một chiếc tràng kỷ. Ông Nhu đi
đi lại lại phía trên hành lang sâu hút của chiếc hầm. Từ khi súng nổ, ông Nhu
vẫn đi như thế đầu cúi thấp, từng bước chậm chậm.
Buổi chiều nặng nề trôi qua. Tổng Thống Diệm chăm chú nghe
lời nói của ông em “Hừ hừ… Mỹ nó biểu làm thì làm… Mỹ nó cho mỗi đứa vài
ngàn đô la là xong.” Ông Nhu
búng tán thuốc, gương mặt chĩu nặng :”Đính, Mậu nó làm như rứa…”
Tổng Thống Diệm lặng thinh. Khoảng 6 giờ ông già Ẩn mang
xuống một tô cháo gà để Tổng Thống Diệm lót lòng. Ông Tổng Thống với cử chỉ uể
oải, chán nản tột cùng, cấm thìa múc cháo như chừng không còn đủ sức nuốt cho
hết. Ông nhìn mọi người rồi bảo ông già Ẩn: “Múc vài tô nữa cho anh em ăn
với “. Nhưng đây là tô cháo
cuối cùng của đầu bếp Dinh Gia Long.
Khoảng 7 giờ, ông Nhu nói với bào huynh: “Thôi mình đi“. Tổng Thống
Diệm quay lại hỏi: “Đi mô?” Ông Nhu nói nhát gừng: “Cứ đi rồi
tính“. Tổng Thống đứng lên nói: “Đi
thì đi...” Tổng Thống Diệm sai già Ẩn lên lấy lầu cặp da. Trung Úy Sung
thì thu xếp hành trang cho ông Nhu.
Tổng Thống Diệm nói với các sĩ quan tùy viên cùng Bác Sĩ
Đinh Xuân Ninh và Trung Tá Kỳ Quan Liêm: “Đi
một đứa thôi. Đi nhiều không nên“. Tất cả mọi người có mặt, đều có vợ con
riêng. Đỗ Thọ thì còn độc thân. Đại Úy Đỗ Thọ tình nguyện đi theo Tổng Thống.
Đại Úy Thọ quay lại nói với Đại Úy Hoàn: “Hoàn ở lại. Tao độc thân đi theo
Cụ nếu có chết cũng không sao.” Khi
già Ẩn đem chiếc cặp xuống trao cho Tổng Thống, nghẹn ngào, Tổng Thống Diệm
trao chiếc cặp da cho Hoàn, đôi mắt ông vẫn lơ đãng, xa vời. Đỗ Thọ đỡ chiếc
cặp da bước theo Tổng Thống rời khỏi hầm Dinh.
Chiếc xe Chevaux loại fourgonnette đậu sẵn tại sân cỏ.
Tổng Thống Diệm bước lên xe theo sau là ông Nhu và Đại úy Bằng – Đại Úy Đỗ Thọ
ngồi băng trước cạnh tài xế. Tổng Thống Diệm ngồi phía sau lưng lái xe và bên
cạnh là ông Nhu. Xe rồ máy băng qua cửa nhỏ cửa Dinh phía đường Pasteur rồi
tiến vào sân sau tòa Đô Chánh sau đó rẽ qua phía đường Lê Thánh Tôn chạy ngang
qua rạp Rex, rẽ tay phải đi theo ngã đường Lê Lợi trực chỉ Chợ Lớn dọc theo đại
lộ Trần Hưng Đạo. Ông Cao Xuân Vỹ bỏ đi không tháp tùng Tổng Thống Diệm và khi
xe sắp chuyển bánh ông Vỹ thấy Tổng Thống Diệm và ông Nhu ngồi trên sàn xe coi
bộ thê lương quá nên ông quay vào Dinh lấy tấm nệm mousse để Tổng Thống Diệm và
ông Nhu ngồi tạm nhưng khi mang nệm ra thì xe đã đi.
Trong Dinh Gia Long lúc này chỉ còn lại duy nhất một mình
ông Cao Xuân Vỹ là người có thẩm quyền quyết định. Ông không thể bỏ đi ngay
được vì phải ở lại đôn đốc một số công việc nhất là lo việc ẩm thực cho anh em
binh sĩ. Vì vậy, thay vì tháp tùng xe Tổng Thống Diệm. Ông trở lại Dinh gọi
điện thoại cho Trung Tá Phước biết có hai người khách sắp đến. Đồng thời nhân
vật này cũng chỉ thị cho Trung Tá Phước nếu xe của hai vị khách tới nơi sẽ cho
thay xe khác và thay tài xế và chính Trung Tá Phước phải tự lái xe đem hai nhân
vật đến tạm trú tại nhà Mã Tuyên và đợi ở đó ông Vỹ sẽ đến.
Trước sau, anh em Tổng Thống Diệm đã trở thành kẻ cô
đơn trong cơn khói lửa, và phải lo liệu tất cả mọi chuyện. Bộ Trưởng Phụ
Tá Quốc Phòng cũng như Bộ Trưởng Nội Vụ không còn một liên lạc nào với vị lãnh
tụ “anh minh” của họ!
Khoảng 9 giờ đem hôm đó, Trung Tá Phước đưa hai anh em Tổng
Thống Diệm đến tạm trú tại nhà Mã Tuyên cùng với tùy viên Đỗ Thọ trên cùng một
chiếc xe Land Rover. Sau khi lãnh một số chỉ thị cần thiết, Trung Tá Phước trở
về bản doanh của Thanh Niên Cộng Hòa (đặt tại khu Đại Thế Giới). Từ lúc đó trên
lầu II nhà Mã Tuyên chỉ còn Tổng Thống Diệm, ông Nhu và Đại Úy Đỗ Thọ. Riêng
Đại Úy Bằng khi theo Tổng Thống Diệm đến Đại Thế Giới thì được Tổng Thống Diệm
cho tự ý lo liệu. Một lát sau ông Cao Xuân Vỹ đến nhà Mã Tuyên và cũng chỉ ở
lại nhà Mã Tuyên trong ít phút sau khi đã thảo luận với hai anh em Tổng Thống
Diệm và lãnh chỉ thị cuối cùng.
Lời căn dặn cuối cùng của Tổng Thống Diệm là ông Vỹ phải
dồn mọi nỗ lực để giữ an ninh công cộng và nhất là bảo vệ đồng bào về tài sản
và sinh mạng. Ông Vỹ được lệnh trở về bản doanh của Thanh Niên Cộng Hòa để điều
động mọi việc. Kể từ đó mọi việc liên lạc đều do đường giây điện thoại. Ông Vỹ
có trở lại một lần nữa để bàn thảo kế hoạch và lãnh thêm chỉ thị mới. Đây là
lần sau chót ông Vỹ gặp mặt Tổng Thống Diệm và vị Thủ Lãnh Thanh Niên Cộng Hòa.
Vào khoảng 4 giờ sáng ngày 2 ông Cao Xuân Vỹ mất liên lạc với Tổng Thống Diệm và
ông Nhu. Tổng Thống Diệm đến nhà Mã Tuyên là một sự tình cờ. Trước đó, ông Tổng
Thống đã khước từ đề nghị đưa ông và ông Nhu vào một tu viện trong Chợ Lớn.
Tổng Thống Diệm lắc đầu: “Êm thì không nói là chi. Nếu có sao sau này phiền
lụy đến các Cha”. Do đó mà
ông Vỹ và Trung Tá Phước bắt buộc phải tạm thời dùng nhà Mã Tuyên làm “Dinh
Tổng Thống” cho qua đêm. Khi
được Trung Tá Phước báo tin, Mã Tuyên ra tận cửa đón chào anh em Tổng Thống
Diệm. Từ 9 giờ tối chiếc xe Dodge trang bị máy truyền tin hoạt động không ngừng
và ở đây thu lượm tin tức của Dinh Gia Long và Thành Cộng Hòa cũng truyền chỉ
thị của hai ông.
RUỘT THỊT
Được biết, theo kế hoạch đã bàn thảo, Tổng Thống Diệm và
ông Nhu mỗi người sẽ đi theo một ngã và cố tránh không để lọt vào tay phe đảo
chánh. Ông Nhu sẽ cải trang như một thường dân lao động và tìm cách ra khỏi Đô
Thành rồi theo lộ trình nào an ninh nhất, ông sẽ lên Cao Nguyên. Tổng Thống
Diệm sẽ lánh tạm tại một nơi an toàn tại Thủ Đô. Sau đó, khi lên tới Cao
Nguyên, ông Nhu sẽ huy động lực lượng quân đội do Tướng Nguyễn Khánh trực tiếp
điều khiển và sẽ tiến về Saigon phản công.
Về mặt chính trị, ông Nhu vẫn tin tưởng là ông đã nắm vững
được cả“nội lực và ngoại diện” khả
dĩ có thể giúp ông thắng thế không những đối với phe đảo chánh mà kể cả Hoa Kỳ.
Ông Nhu đã trình bày cho Bào Huynh biết nếu phe Tướng Lãnh
bắt được Tổng Thống, họ cũng không dám làm gì có thể nguy hại đến an ninh cá
nhân của Tổng Thống. Song chính ông, ông Nhu cũng đã hiểu rằng, nếu phe Tướng
Lãnh bắt được ông, họ có thể thanh toán ông ngay không một chút ngần ngại. Hơn
nữa, ông cũng biết rằng người Mỹ không ưa gì ông. Dù đã trình bày cặn kẽ, “ai nên ở, ai nên đi” song
Tổng Thống Diệm vẫn cương quyết không cho bào đệ của ông ta đi “Tôi ở đâu
thì chú ở đó chết thì chết cả hai”. Chính vì tình thương ruột thịt
nồng thắm như vậy cho nên ông Nhu không thể cưỡng lại lời anh và ngược lại Tổng
Thống Diệm cũng không thể đành lòng để cho ông em một mình ra đi.
Cho đến giờ này, giới thân cận nhất của Tổng Thống Diệm
cũng không hiểu nổi từ một nguyên nhân tâm lý nào đã khiến cho Tổng Thống
Diệm tính sai như vậy khi ông cương quyết không cho ông Nhu ra đi, và cũng
khước từ cả đề nghị để ông Nhu tự do định đoạt còn Tổng Thống Diệm tạm thời
lánh vào một tu viện.
GIỜ THỨ 25
Một người như Nguyễn Khánh, vẫn bị ông Nhu nghi ngờ không
mấy tin tưởng vào tánh nết của Tướng Khánh. Song trọn đêm ngày 1 rạng sáng ngày
2, Tướng Khánh đã biểu lộ trọn vẹn lòng trung thành đối với Tổng Thống Diệm và
ông Nhu cho nên không lấy làm lạ cho đến phút cuối cùng khi biết được thành
Cộng Hòa và Dinh Gia Long bị hạ và đã mất hết liên lạc với Tổng Thống Diệm,
Tướng Khánh mới cam đành đánh công điện về ủng hộ Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng.
Không những Tướng Khánh đã xử sự như vậy mà nhiều tướng tá khác vẫn giữ thái độ
“chờ đợi” và chỉ đánh
điện ủng hộ HĐQNCM khi biết chắc chắn chế độ đã sụp đổ. Nhiều Đơn Vị Trưởng
hoặc Tỉnh Trưởng tuy được đài phát thanh nêu tên tuổi và ghi nhận là họ đã
theo phe cách mạng song qua đường giây liên lạc với Dinh Gia Long, họ vẫn cam
kết trung thành, và sẵn sàng phản công lại phe đảo chánh.
Tuy nhiên sau khi đảo chánh thành công, Hội Đồng Quân Nhân
Cách Mạng đã đặc cách thăng thưởng cho nhiều tướng tá trong trường hợp kể trên.
Và đó cũng là cái may cho những ai còn giữ được lòng trung thành, đồng thời lại
gặp vận nhận được cái “hên” do tình cờ của lịch sử.
Mỗi vị thêm một lon cũng như Tướng Khánh được đặc cách
Trung Tướng vì có công ơn đối với Cách Mạng.
Trong cuộc binh biến và thay chủ đổi ngôi nào mà không có
những may rủi tình cờ cũng như oan khiên cừu hận.
Nếu tin là có phần số do trời đã tiền định cho mỗi con
người thì cái chết của anh em Tổng Thống Diệm cũng do phần số vậy. Có thể nói
được như vậy vì biến cố 1-11-1963, anh em Tổng Thống Diệm có nhiều yếu tố
khả thắng khác hẳn với biến cố 11-11-1960 lúc ấy lại có nhiều yếu tố khả bại.
Những yếu tố khả thắng này gồm những yếu tố bên trong và bên ngoài. Kể từ đầu
tháng 10, mỗi ngày càng thuận lợi cho chế độ Tổng Thống Diệm măc dầu áp lực của
Mỹ rất nặng nề. Cũng chỉ vì quá chủ quan và tin vào những yếu tố bên trong và
bên ngoài này nên ông Nhu đã khinh xuất và“chơi” một canh bài quá bạo
gan. Trong 9 năm, khi còn được Mỹ ủng hộ cơ quan CIA đã giúp cho chế độ của
Tổng Thống Diệm rất nhiều tin tức tình báo quan hệ. Bất cứ một âm mưu nào
nhằm lật đổ chế độ mà CIA đang ủng hộ đều bị khám phá kịp thời… hoặc là chính
CIA ra tay phá những âm mưu đó từ trong trứng nước. Song kể từ khi hai Đại
Tá Richardson (chỉ huy CIA tại Tòa Đại Sứ Mỹ) bị gọi về nước, ta có thể
coi từ lúc đó, chính quyền của Tổng Thống Diệm không còn trông cậy vào sự cộng
tác của CIA (mặt nổi phía Tòa Đại Sứ Mỹ). Tuy vậy, Saigon vẫn là trung tâm
của nhiều tổ chức tình báo… Phòng nhì Pháp có, Trung ướng tình báo Bắc Việt
cũng có rồi Trung Cộng, Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam… Nhờ sự mâu thuẫn giữa các
tổ chức này và nhất là biến chuyển tốt đẹp về ngoại giao giữa Pháp và Việt
đã giúp cho anh em Tổng Thống Diệm có một số “bàn tay bí mật” cung cấp
những tin tức quan hệ nhất đến sống còn của chế độ. Nhưng lịch sử vẫn còn những
cái bất ngờ xoay chuyển cả đại cuộc. Nào ai có thể tiên liệu được cái bất ngờ
của lịch sử. Tổng Thống Diệm lưu lạc đến nhà Mã Tuyên nào ông Nhu đâu có ngờ
xảy ra như thế.
Cái bất ngờ đã đưa người Hoa Kiều Mã Tuyên đến một đoạn
đường thê lương suốt 3 năm.
Vậy Hoa Kiều Mã Tuyên là người như thế nào?
Sau đảo chánh Mã Tuyên được tô vẽ như một hùm xám ở Chợ Lớn
với gia tài lên đến hàng tỷ bạc. Sự thực có như thế không?
Mã Tuyên là một nhà giàu có. Song gia tài của ông so với
giới Hoa Kiều giàu có khác đã không thấm vào đâu. Đối với giới này Mã Tuyên mới
chỉ thuộc vào hàng trung lưu. Mã Tuyên đã có sẵn uy tín trong giới Hoa Kiều từ
trước năm 1954. Vào khoảng năm 57-58, Mã Tuyên không những là Bang Trưởng mà
còn là chủ tịch của 11 Bang các bang Hoa Kiều. Không phải chỉ ở Saigon Chợ Lơn
mà trên toàn quốc Mã Tuyên thường được đồng bào gọi là Kiều Lãnh. Chỉ một chức
vụ quan trọng này, Mã Tuyên đã có một đời sống dư giả, sung túc và quyền thế mà
tập thể Hoa Kiều đã dành cho ông trong tư thế lãnh tụ của họ.
Vào khoảng năm 1959, Tổng Nha Cảnh Sát được mật báo Mã
Tuyên là một tay kinh tài cho Trung Cộng và có liên hệ đến những hoạt động của
Cộng Sản tại Chợ Lớn. Nguồn tin mật báo này xuất phát từ đám “mã thầu dậu”
mà cơ quan an ninh đã xử dụng một thiểu số trong đám đó làm mật báo viên. Do đó
Mã Tuyên đã bị mời lên Tổng Nha để điều tra. Vì vụ tố cáo này Mã Tuyên luôn
luôn bị đám “mã thầu dậu” quấy rầy và cơ quan an ninh cũng nhân cơ hội
đó gây cho ông ta không biết bao nhiêu phiền phức khác. Vào khoảng năm 1960,
Đại Sứ Trần Văn Lắm gặp BS Tuyến có than thở là ông có mấy người bạn Huê Kiều
bị Công an quấy rầy không sao làm ăn nổi. Người thứ nhất Huê Kiều Phú Lâm Anh
chủ nhà hàng Mỹ Cảnh trước đây.
Người thứ hai là Mã Tuyên sống nghề mại bản cho một ngân
hàng. Đại Sứ Trần Văn Lắm cả quyết cả hai người này đều không phải là cán
bộ kinh tài của Trung Cộng. Qua sự giới thiệu của ông Đại Sứ Trần Văn Lắm, BS
Tuyến can thiệp ngay. BS cho gọi viên Chánh Sở Cảnh Sát Đặc Biệt đến để cho
biết qua về hoàn cảnh của Mã Tuyên và Phú Lâm Anh.
Ông yêu cầu Cảnh Sát Đặc Biệt chấm dứt mọi phiền hà đối với
hai Hoa Kiều này. Có thể nói, kể từ đó Hoa Kiều Mã Tuyên mới được thành thơi
làm ăn. Tuy BS Tuyến can thiệp cho Mã Tuyên song ông cũng chưa hề gặp mặt Hoa
Kiều này. Riêng Phú Lâm Anh tỉnh thoảng hai ông Tuyến và Đại Sứ Trần Văn Lắm có
ghé qua nhà hàng của y.
Năm 1961 trong cuộc vận động bầu cử Tổng Thống, BS Tuyến có
mời một số Bang Trưởng Hoa Kiều đến văn phòng của ông để nói chuyện về cuộc bầu
cử và yêu cầu các ông Bang Trưởng dùng uy tín để vận động cho liên danh Ngô
Đình Diệm – Nguyễn Ngọc Thơ. Đây là lần đầu tiên Mã Tuyên được gặp BS Tuyến và
chỉ có lần đó cho đên ngày Đảo Chánh.
Khi Thanh Niên Cộng Hòa được thành lập, ông Cao Xuân Vỹ làm
Phó Tổng Thủ Lãnh Thanh Niên Cộng Hòa, Đô Thành được trao cho Trung Tá Phước
(phó đô trưởng Nội An) là thủ lãnh, thì Mã Tuyên với tư cách đai diện của giới
Hoa Kiều Chợ Lớn được để cử làm Thủ Lãnh Thanh Niên Cộng Hòa tại quận V.
Thân hình, khuôn mặt và đời sống của ông ta tiêu biểu đầy
đủ cho một dân Trung Hoa chánh gốc. Ông có đến 4 vợ chánh thức và trên 20 người
con.
Mã Tuyên chưa hề gặp mặt ông Ngô Đình Nhu và kể cả Cao Xuân
Vỹ. Mã Tuyên chỉ quen biết Trung Tá Phước mà thôi. Thanh Niên Cộng Hòa là đoàn
thể duy nhất mà ông ta tham dự.
Ông ta cũng chỉ được Tổng Thống Diệm bắt tay vào những dịp
Quốc Khánh, khi cùng các phái đoàn Dân Chính đến chúc mừng Tổng Thống và riêng
Mã Tuyên với cương vị đai diện Hoa Kiều.
Buổi tối hôm 1-11-1963 lần đầu tiên, gia đình Mã
Tuyên được đón tiếp anh em Tổng Thống Diệm. Liên hệ giữa Hoa Kiều Mã Tuyên và
chế độ Tổng Thống Diệm trước sau chỉ đơn giản có thế.
Sau ngày đảo chánh, Mã Tuyên bị bắt và được mô tả như
một tay kinh tài khét tiếng của chế độ Ngô Đình Diệm.
Ông ta còn bị tịch biên tài sản. Có điều đáng ghi và cũng
là điều đáng ca ngợi về tình đồng hương của giới Hoa Kiều là khi vật dụng gia
sản của ông bị tịch biên và đem bán đấu giá, thì chính đồng hương của ông đã bỏ
tiền túi ra mua lại và đem trả cho gia đình Mã Tuyên. Trong thời gian ông bị
giam cầm thì chính đồng bào ông đã tự động góp kẻ ít người nhiều chu cấp cho vợ
con ông. Đó cũng là số phận của mỗi con người. Giả thử rằng nếu anh em Tổng
Thống Diệm không vào nhà Mã Tuyên ẩn náu một đêm thì chắc chắn Mã Tuyên đã
không bị tù đầy trong bốn năm trường từ Khám Chí Hòa đến Côn Đảo và Biên Hòa.
Những người thuộc chế độ cũ cùng bị giam với Mã Tuyên đều ghi nhận, Mã Tuyên dù
bị oan ức song không hề oán thán và vẫn một lòng tử tế như xưa.
Có thể nói, Mã Tuyên chỉ có một cái tội của kẻ gặp tai bay
vạ gió. Giả thử Mã Tuyên can tâm phản bội biết đâu ông ta không trở thành anh
hùng trong những anh hùng của Cách Mạng. Ông ta chỉ cần cho vợ con đi cấp báo
với phe đảo chánh, tất nhiên anh em ông Diệm sẽ không còn phương thế nào để
chống đỡ và anh em ông tất đã bị phe đảo chánh bắt ngay vào đêm 1-11-1963. Song
gia đình Mã Tuyên không đang tâm như vậy. Ngược lại đã đón tiếp Tổng Thống Diệm
với tất cả lòng cung kính.
ĐÊM DÀI NHẤT
Mã Tuyên dành riêng một căn phòng trên lầu cho anh em Tổng
Thống Diệm, và tự tay ông ta làm mọi việc cung phụng hai vị thượng khách. Mã
Tuyên cho vợ con xuống ở hết nhà đưới, không một ai được lai vãng lên lầu và
chính Mã Tuyên cũng chỉ đóng vai trò phục dịch.Từ lúc anh em ông Diệm đến đây
cho đến khi qua nhà thờ Cha Tam, Mã Tuyên đã thức trắng đêm để túc trực phục
dịch.
Tuy nhiên ông ta không hề được biết gì hơn, nghe gì hơn
ngoài mấy câu thăm hỏi của Tổng Thống Diệm và ông Nhu. Vợ con Mã Tuyên cũng chỉ
được một lần nhìn khuôn mặt vóc dáng của anh em Tổng Thống Diệm và cả nhà gữ
yên lặng và cung kính đầy kinh ngạc.
Mặc dù súng nổ lớn trong khắp Đô Thành. Mã Tuyên cũng
chỉ mơ hồ cảm thấy một điều gì có lẽ quan hệ lắm đang xảy ra.
Trong đêm 1 rạng ngày 2, văn phòng Tổng Thống VNCH đã đặt
ngay tại nhà một thương gia Hoa Kiều đã bao nhiêu năm vui hưởng an lạc nhưng
bỗng nhiên từ một tình cờ lịch sử lại trở thành một trung tâm của Đại
Sứ. Song một ngày sau cả gia tài cơ nghiệp nhà Mã Tuyên bị sụp đổ tan
tành.
Đêm ấy tự tay Mã Tuyên pha từng bình trà nóng thứ hảo hạng
và tự tay ông từ dưới nhà bưng lên lầu với sĩ quan tùy viên đem vào phòng cho
hai anh em Tổng Thống Diệm. Đêm ấy gia đình Mã Tuyên hoàn toàn lặng lẽ trong
không khí của sự trang nghiêm vì trước mắt họ và trong lòng họ, họ đang được
sống trong khung cảnh thần thoại của một nước Trung Hoa cổ: Trong đó một anh
dân giả bình thường đang sống yên vui với gia đình bỗng có một vị Hoàng Đế xa
giá đến nhà, chủ nhà vừa ngơ ngác vừa run sợ hoang mang trước một tình cờ như
phép mầu hay đúng hơn như một giấc mơ.
Có lẽ chưa một lần nào một anh dân giả như Mã Tuyên lại
được gặp một cảnh ngỡ ngàng như thế trong từng giấc mơ của một định mệnh,
thoáng qua một đêm và những ngày tới là đổ vỡ kinh hoàng mang theo ảo mộng.
GIÂY PHÚT CUỐI CÙNG
Ông Nhu đề nghị lần cuối với bào huynh: ông sẽ cải tranh
trốn lên vùng 2 với Tướng Khánh còn Tổng Thống Diệm sẽ đi vùng 4 – hai người đi
hai ngả cho tiện bề lo toan. Tổng Thống Diệm không bằng lòng. Theo Đỗ Thọ, ông
Nhu thấy Tổng Thống Diệm tỏ vẻ giận dỗi nên ông bỏ ra ngoài một lúc mới trở vào
phòng và đành theo quyết định của ông anh. Mọi liên lạc đã đứt đoạn. Người nắm
kế hoạch đưa hai ông đi là Trung Tá Phước thì ông Phước đã bị phe đảo chánh bắt
giữ. Gần sáng, Tổng Thống Diệm và ông Nhu bất thần thay quần áo. Hai ông đều
bận complet và rời nhà Mã Tuyên lúc 5g15. Tự tay Đại Úy Thọ lái chiếc xe Land
Rover đưa hai ông đến nhà thờ Cha Tam.
Hơn một giờ sau, Dinh Gia Long thất thủ. Trung Tá Phạm Ngọc
Thảo dò hỏi biết hai ông vào Chợ Lớn và trú ẩn tại nhà Mã Tuyên, thế là ông
Thảo tức tốc đem quân đi đón hai ông. Tất cả thành bại đối với nhóm ông Thảo là
ở chỗ này: bắt được Tổng Thống Diệm và ông Nhu – nói là bắt thì không đúng.
Theo kế hoạch của nhóm Trung Tá Thảo thì phải làm thế nào “nắm”được Tổng Thống Diệm để
làm điều kiện áp đảo một số phe nhóm khác và lật ngược thế cờ. Đó cũng là lý do
dễ hiểu tại sao Tướng Khiêm biết được Tổng Thống Diệm đã rời Dinh Gia Long từ
lúc 3 giờ sáng mà vẫn không tiết lộ tin này cho Hôi Đồng Tướng Lãnh biết. Có lẽ
Tướng Khiêm muốn để Tổng Thống Diệm và ông Nhu có đủ thời gian lo toan để thoát
cơn hiểm nghèo.
Theo kế hoạch dự trù thì khi đảo chánh thành công phải “nắm” Tổng Thống Diệm và để ông Nhu xuất
ngoại. Lúc ấy Tổng Thống Diệm sẽ trở thành chánh nghĩa của nhóm phe ông Thảo và
nhóm ông Thảo sẽ dựa vào uy thế của Tổng Thống Diệm để nắm quyền chủ động trong
Hội Đồng Tướng Lãnh, nhờ vậy nhóm Đôn, Kim, Xuân, Minh sẽ không thao túng được.
Theo Trung Úy Vọng, khi vào nhà Mã Tuyên không gặp được Tổng Thống Diệm
cũng không biết tung tích 2 ông ở đâu, Trung Tá Thảo biến sắc rồi thẫn thờ
nói với Vọng:
“Thôi nguy rồi Vọng ơi” !
Phe của Trung Tá Thảo không có uy thế ở mặt nổi nhưng có
quân – Phe các Tướng Đôn, Kim, Minh, Xuân không có quân nhưng có uy thế nhất
lại được Đại Sứ Cabot Lodge hết lòng tán trợ. Theo kế hoạch của nhóm Trung
Tá Thảo thì với tình trạng mâu thuẫn và xáo trộn trầm trọng kể từ tháng 5-1963
Miền Nam không thoát được một cuộc đảo chánh quân sự để lật đổ chế độ Ngô Đình
Diệm. Nhưng vấn đề quan trọng là phe nào, Tướng Tá nào cầm đầu cuộc đảo chánh?
Trung Tá Thảo vạch ra một kế hoạch “đảo
chánh hớt ngọn”. Nghĩa là nắm vững các đường giây liên lạc với các đơn vị
cấp Tiểu Đoàn và Trung Đoàn từ Nhảy Dù đến Thủy Quân Lục Chiến Sư Đoàn 5 và Sư
Đoàn 7. Nếu phe nào âm mưu đảo chánh và có uy thế móc nối thì xáp vô nhưng
sẽ ra tay hành động vào phút chót để nắm thế chủ động. Trung Tá Thảo chủ trương
đảo chánh để hòa giải các mâu thuẫn quân bình chính trị và hòa giải các mầm
mống chống đối chia rẽ nhưng vẫn duy trì chế độ, bảo vệ sự liên tục của chánh
sách quốc gia và đồng thời tiếp tục phát triển và củng cố Ấp Chiến Lược. Nhóm
Trung Tá Thảo chủ trương phải giữ Tổng Thống Diệm làm một cái thế tinh thần và
tiêu biểu cho quyền lực quốc gia. Ông Nhu tạm lánh mặt ra ngoại quốc để giảm áp
lực của Mỹ và đồng thời hòa giải với Phật Giáo cùng với nhóm chống đối… Với một
chủ trương như vậy, sự hiện diện của Tổng Thống Diệm là một điều tối cần cho
nhóm ông Thảo nhưng Tổng Thống Diệm và ông Nhu đã ra đi mất rồi.
Trong Nhật
Ký Đỗ Thọ, người tùy viên trẻ tuổi trung tín ấy đã ghi lại buổi bình minh
cuối cùng của anh em Tổng Thống Diệm như sau:
“Trong nhà thờ đèn nến đã sáng trưng. Có lẽ buổi lễ đầu sắp
sửa đến, Tổng Thống Diệm và ông Nhu quỳ xuống ở hàng ghế đầu. Tôi đứng ở đằng
sau lưng thường tình của một sĩ quan tùy viên trong các lễ Thiên Chúa Giáo mà
Tổng Thống tham dự.
Tôi nghe được tiếng cầu kinh của Tổng Thống và ông Ngô Đình
Nhu họp lại. Nếu tôi không lầm thì Tổng Thống và ông Ngô Đình Nhu khởi đầu
kinh xưng tội. Như đã viết, tôi là Phật Tử nên không thông thạo về các
kinh và lễ của Thiên Chúa Giáo.
Tổng Thống và ông Ngô Đình Nhu lễ sáng khoảng ngoài 15 phút
có lẽ đây là buổi lễ sáng lâu nhất của Tổng Thống Ngô Đình Diệm đối với thường
nhật ở Dinh Gia Long. Và đây cũng là buổi lễ bất ngờ với ông Ngô Đình Nhu trừ
những ngày chủ nhật.
Khi Tổng Thống Diệm đứng dậy, ông Nhu uể oải đứng dậy theo.
Lúc bấy giờ ngoài đường đã có tiếng động của khu vực buôn bán này.
Người đi lễ nhà thờ đã đến, tôi thấy vài người đi vào sân,
có lẽ nhiều hơn nữa nhưng vì cánh cửa khép hờ nên tôi không trông được bao
quát.
Ông Nhu tiến vào sát ông Tổng Thống Diệm rồi nói: “mình vào gặp Cha một xíu”, không đợi Tổng Thống Diệm trả lời, ông
Ngô Đình Nhu đã bước về phía bàn thờ lễ, Tổng Thống Diệm và tôi chậm rãi đi
theo.
Khi vào gặp vị lãnh đạo tinh thần tôi đứng phía ngoài nên
nghe được câu mất câu còn. Không biết Tổng Thống Diệm và ông Ngô Đình Nhu nói
những gì. Tôi được nghe giọng nói của vị lãnh đạo tình thần, đại khái là khuyên
Tổng Thống lưu lại ngôi nhà thờ này. An ninh bí mật hoàn toàn bảo đảm.
Cả ba người nói chuyện khá lâu và có lẽ buổi lễ sớm bắt đầu
nên vị lãnh đạo tinh thần đi ra để chủ lễ. Tổng Thống Diệm và ông Ngô Đình
Nhu đi theo và cũng xem lễ thêm.
Trong nhà thờ đã có một số người dự lễ. Phần nhiều là những
người già cả, người Hoa Kiều. Tôi đoán chắc rằng họ không để ý đến Tổng
Thống Diệm và ông Ngô Đình Nhu. Vì họ không thể ngờ được Tổng Thống lánh nạn
đến đây.
Nếu hôm đó tôi mặc quần áo nhà binh, thì người ta có thể
ước đoán. Tuy nhiên tôi bắt gặp được bộ mặt của người đàn ông đang ngồi về phía
góc trái của nhà thờ. Ông ta không già lắm. Người đàn ông này chăm chú nhìn về
phía Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Có lẽ người này ngờ ngợ tự hỏi: “Đó có phải
là Tổng Thống Ngô Đình Diệm không?” và người đàn ông này tôi bắt gặp khi
ông ta đang đứng nhìn Tổng Thống Diệm sửa soạn lên M113.
Theo tôi nghĩ thì buổi lễ hôm nay có vẻ rút ngắn, vị lãnh
đạo tình thần trông có vẻ hấp tấp, lo lắng. Vì ông ta đang đứng trước cảnh biến
động của Tổng Thống trốn chạy. Vả lại vị Tổng Thống đó còn là một người Thiên
Chúa Giáo, một con chiên ngoan đạo.
Buổi lễ sáng chấm dứt bình thản. Tôi đã nghe tiếng thì thầm
của một đám người đi lễ. Họ dừng lại ở cánh cửa chính nhìn Tổng Thống Diệm và
ông Nhu lẫn tôi đang đứng trước mặt Cha Xứ. Trong những người này có cả người
đàn ông mà tôi đã nói trên.
Tôi viết như vậy để nói lên rằng một số con chiên ở xứ đạo
cha Tam đã nhận diện được Tổng Thống Diệm, một điều bất ngờ ngạc nhiên nhất.
Tổng Thống Diệm, ông Nhu và tôi theo chân Cha Xứ vào bên
trong. Tổng Thống nói với Cha Xứ là đến đây quá đường đột phiền cha. Nhưng sẽ
đi nữa, chứ không lưu lại làm liên lụy, khổ sở cho nhà thờ, Cha Xứ trả lời là
Tổng Thống đừng nghĩ điều đó. Nhà thờ là nước Chúa ai đến cũng được đâu phải
riêng cho Tổng Thống. Tổng Thống và ông Cố Vấn yên tâm ở lại đây, ra đi lắm
phần nguy hiểm.
Ông Nhu ngồi yên lặng thật lâu rồi nói:
- Thưa Cha! Tổng Thống nói vậy nhưng chúng con không
đi đâu nữa. Dầu sao cũng liên lạc với các Tướng Lãnh để bàn việc ra đi của Tổng
Thống cho đúng nghi lễ quốc gia.
Sau lời nói của ông Nhu, tôi nghĩ ngay đến cuộc dàn xếp
giữa Tổng Thống Diệm và Hội Đồng Tướng Lãnh sẽ xảy ra.
Nhưng hiện nay Tổng Thống Diệm ở trong thế yếu chắc rằng
tướng lãnh sẽ ép Tổng Thống nhiều điều kiện.
Sau vài tách trà ở nhà xứ. Bên ngoài trời sáng tỏ. Tổng
Thống Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình Nhu quyết định liên lạc với Hội Đồng Tướng
Lãnh tại Tổng Tham Mưu. Tổng Thống Diệm ra lệnh cho tôi lấy điện thoại nhà xứ
gọi về Tổng Tham Mưu và cố gắng gặp cho được Tướng Trần Thiện Khiêm.
Tôi cầm điện thoại gọi ngay về bộ Tổng tham Mưu. Bên kia
đầu giây xưng danh Đại Tá Đỗ Mậu. Tôi nói ngay: “Thọ đây thưa chú“.
Đại Tá Đỗ Mậu hỏi: “Chú mày ở đâu đó, ông Cụ đi đâu rồi?” Tôi đáp lại: “Tổng Thống muốn nói
chuyện với Tướng Lãnh”. Đại Tá Đỗ Mậu trả lời: “Các Tướng chưa ai đến , chỉ có
Tướng Khiêm túc trực ở đây. Chú mày muốn nói gì thỉ nói”
Tôi đợi trong nháy mắt thì nghe tiếng của Tướng Trần Thiện
Khiêm.
Tôi trình bày ngay là tôi được lệnh Tổng Thống liên lạc với
Hội Đồng Tướng Lãnh và hiện Tổng Thống đang ở nhà thờ Cha Tam Chợ Lớn. Hội Đồng
Tướng Lãnh cử đại diện đem xe đến rước Tổng Thống về Bộ Tổng Tham Mưu.
Tướng Trần Thiện Khiêm đáp: “Được rồi, qua sẽ trình lên Trung
Tướng Chủ tịch. Nói với Tổng Thống yên tâm sẽ có Tướng Lãnh xuống”.
Tôi gác ống nói trình lại với Tổng Thống Ngô Đình Diệm là
đã nói chuyện với Tướng khiêm và ông ta sẽ cho đại diện xuống đây.
Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình Nhu cùng Cha Xứ
yên lặng không còn ai muốn nói gì cả. Và giờ phút đợi chờ bắt đầu.
Từ giờ phút đó một âm thanh động cơ nào chuyển động bên
ngoài cũng khuấy động tình thần tôi (trích
nhật ký Đỗ Thọ tr. 260-265 Hòa Bình xuất bản 1970).
Sau này Linh Mục Jean đã tiết lộ, Linh Mục tìm mọi cách
thuyết phục anh em Tổng Thống Diệm không nên gặp các tướng lãnh nhưng Tổng
Thống Diệm nhất định từ chối.
Linh Mục Jean: Tổng Thống và ông Cố Vấn không nên e ngại, tôi sẽ làm tất
cả khả năng của tôi. Tổng Thống và ông Cố Vấn ra đi lúc này vô cùng nguy hiểm.
Tổng Thống Diệm: Cảm ơn Cha, tôi thấy
không có gì nguy hiểm cả. Cá nhân tôi, tôi dâng trọn cho ý Chúa và Mẹ Maria
nhưng tôi vẫn cón là nguyên thủ quốc gia, tôi còn trách nhiệm với dân.
Linh Mục Jean: Xin Tổng Thống và ông Cố Vấn nghĩ lại. Chính tôi sẽ đưa
Tổng Thống và ông Cố Vấn đến một nơi an toàn nhất.
Linh Mục Jean có đề nghị Tổng Tống Diệm và ông Cố Vấn Nhu
nếu không muốn tỵ nạn trong tu viện hoặc trong nhà thờ thì Cha Jean sẽ tìm cách
tốt nhất để đưa hai ông đến tỵ nạn tại tòa Đại Sứ Pháp hoặc Đại Sứ Trung Hoa.
Tổng Thống Diệm từ chối lần cuối cùng. “Xin cảm ơn Cha, tôi
không có tội gì với quốc dân và quốc gia này, tôi không thấy có lý do gì phải
lẩn tránh!”.
Trong khi đó, tại Bộ Tổng Tham Mưu, khi nhận được tin anh
em Tổng Thống Diệm đang ở nhà thờ Cha Tam thì nhóm Tướng Đôn hết sức vui
mừng nhưng cũng vô cùng lo ngại. Phải làm thế nào bây giờ?
NHỔ CỎ NHỔ TẬN GỐC
Thiếu Tướng Đỗ Mậu cho biết là quyết định thanh toán anh em
Tổng Thống Diệm không phải do toàn thể Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng và riêng
Tướng Mậu cũng như Tướng Đôn, Tướng Khiêm chỉ tán đồng giải pháp đẹp
nhất là đưa hai ông ra ngoại quốc. Riêng Tướng Đôn đã cho sửa soạn căn
phòng cạnh văn phòng TTM Trưởng để hai ông tạm nghỉ. Tuy nhiên, ngay từ sáng
1-11, Hội Đồng này đã phân hóa và nghi ngờ lẫn nhau,vì không thể biết ai thực
tâm với ai. Tuy nhiên, có bốn Tướng Lãnh tạm đoàn kết với nhau hơn ai cả,
đó là các Tướng Minh, Xuân, Kim, Đôn. Tướng Đính còn bị “chôn chân” tại trại Lê Văn Duyệt, để điều động
các cuộc hành quân. Tuy nhiên không có sự hiện diện của Tướng Đính ở Bộ Tổng
Tham Mưu quả là một điều rất hay cho cho phe đảo chánh, vì Tướng Đính vốn ăn
nói bạt mạng, một thứ Wantard incorrigible (theo từ ngữ của Chaffard express số
909). Chính điều này đã làm cho Tướng Lãnh “ngán”
ông Đính. Cho nên, Tướng Đính đã không được mời tham dự vào cuộc biểu quyết về
số phận của anh em Tổng Thống Diệm. Nói là cuộc biểu quyết thì không đúng, đây
chỉ là những ý kiến “rỉ rả” không
một tướng lãnh nào dám công khai đưa ra đề nghị.
Trước hết, Thiếu Tướng Lễ cho rằng đã “nhổ cỏ thì nhổ
tận gốc“. Ông còn kề cà dẫn chứng một số thí dụ trong truyện Tàu. Ý kiến
trên được Tướng Xuân tán đồng.
Tướng Kim dè dặt mặc dầu ông là một tướng lãnh bị chế độ Ngô
Đình Diệm “bỏ quên” trong 9 năm. Các tướng lãnh khác không
công khai tỏ rõ thái độ. Tướng Dương Văn Minh vẫn im lặng một cách khó hiểu.
Sau một hồi bàn rỉ rả và cuộc đối thọai của Tướng Lễ, Tướng Xuân, Tướng Dương
Văn Minh…”tiêu lệnh” nhổ cỏ nhổ tận gốc đã được quyết định với đa số
7/9 (2/9 không tán thành là lá phiếu của 2 Tướng Đỗ Mậu và Tướng Trần Thiện
Khiêm? Và đây cũng chỉ là thứ phiếu “tùy hứng” mà thôi). Một quyết
định hết sức mơ hồ cho nên chính người đồng ý giải pháp này cũng không hiểu sẽ
được thi hành như thế nào? Sẽ bắt ông Nhu ông Diệm rồi đem ra xử tòa hay đưa ra
ngoại quốc? Song không ai nói lên thắc mắc của mình cả. Hội Đồng Quân Nhân Cách
Mạng vẫn bao trùm không khí nghi kỵ và đề phòng lẫn nhau. Vị tướng lãnh kể trên
cho biết rằng kể cả Tướng Minh với tư cách chủ tịch Hội Đồng Quân Nhân Cách
Mạng, vẫn không dám đơn phương quyết định hoặc thi hành quyết định của Hội Đồng
Quân Nhân Cách Mạng mặc dù với tư thế của ông, ông hoàn toàn có quyền
quyết định. Song, Tướng Minh đã không thực thi quyền hành tối thượng đó có thể
nói việc gì ông cũng phải tham khảo ý kiến với Đại Sứ Mỹ. Nếu ông Lodge quyết
tâm bảo vệ sinh mạng cho anh em Tổng Thống Diệm thì sự việc đã khác. Thái độ
của ông Lodge lúc đó rất lờ mờ với luận cứ “không can thiệp đến nội bộ Việt
Nam” (?) Thái độ của ông
Lodge trái hẳn với thái độ của Tướng Harkins. Ngay từ khi ông Lodge nhậm chức
tại Việt Nam, mối bất hòa giữa Lodge, Harkins càng ngày càng rõ rệt. Harkins có
cảm tình với ông Nhu hơn là Tổng Thống Diệm, Tướng Harkins đã dùng uy tín của
mình đối với Tướng Đôn để làm cách nào phe tướng lãnh bảo vệ tính mạng cho anh
em Tổng Thống Diệm.
Đại sứ Lodge không tỏ thái độ rõ rệt. Tướng Minh thì im
lặng một cách khó hiểu trong khi đó một số tướng lãnh khác lại chủ trương “thanh
toán” ngay anh em ông Diệm và sẽ coi như một “việc đã rồi” đối
với người Mỹ đồng thời đối với quốc dân sẽ tìm cách ngụy tạo dư luận. Mọi việc
đâu cũng sẽ về đấy miễn sao anh em ông Diệm phải “vắng mặt” vĩnh viễn.
Mấy tướng lãnh này đã quan niệm đơn giản như vậy. Kể từ sáng 2-11 phe đảo chánh
coi như đã làm chủ tình hình tại thủ đô và trên toàn quốc. Sự phân hóa lại càng
trở nên rõ rệt giữa nhiều phe nhóm: Phe mạnh với mặc cảm tự tôn cho rằng mình
là thành phần chủ chốt, có công đối với cách mạng. Phe này gồm Tướng Đôn, Minh,
Xuân,Kim, Đính. Phe “yếu”
với mặc cảm chạy theo vào phút chót nên hoàn toàn thu động và chờ đợi ân huệ
của cách mạng. Phe ôn hòa gồm Tướng Khiêm và Tướng Mậu.
Tất nhiên là phe mạnh đã hoàn toàn khuynh loát, nhiều quyết
định mật của phe này mà phe kia không được biết.
Cho nên quyết định “diệt thảo trù căn” tuy có đặt thành vấn đề thảo luận
chung, nhưng cũng chỉ là để thảo luận mà thôi. Quyết định tối hậu vẫn do nơi
Tướng Dương Văn Minh. Người có nhiều ảnh hưởng Tướng Minh về chính trị và
giao tế là Tướng Kim. Người được Tướng Minh tin cậy về mưu kế và phép thuật đối
nội là Tướng Xuân. Nếu Tướng Đính hăng say thì sự hăng say đó cũng chỉ có tính
cách trình diễn với ảo tưởng anh hùng lãng mạn nào đó. Nhưng sự hăng say
của Tướng Xuân kể từ sáng 2-11 có tính cách đe dọa, vì ông muốn tỏ cho mọi
người biết là ông quyết liệt và có thể ra tay làm được tất cả đồng thời ông
muốn có dịp cho mọi người thấy biện pháp cực mạnh ấy sẽ như một lời cảnh cáo
quyết liệt nhất để hiểu rằng “đừng
có ai cựa quậy” Có thể đó
cũng là lý do khiến Tướng Xuân tự nguyện đến nhà thờ Cha Tam đón anh em Tổng
Thống Diệm?
“JE RESTE NEUTRE”
Cùng đi với ông Xuân, như trên đã viết, có Đại Tá Dương
Ngọc Lắm, Đại Úy Nguyễn Văn Nhung (sĩ quan tổng quát và tuỳ viên của Tướng
Dương văn Minh từ năm 1955), Đại Úy Phan Hòa Hiệp, Thiếu Tá Dương Hiếu Nghĩa.
Xét về khía cạnh “bất mãn” đối với chế độ của Tổng
Thống Diệm, thì Tướng Minh không có gì gọi là “bất
mãn“… Nhưng sau cuộc đảo chánh hụt 11-11-1960, Tướng Minh không còn được
chế độ này tín nhiệm như xưa. Có lẽ bắt nguồn từ thái độ của ông đối với cuộc
đảo chánh đó khi ông tuyên bố với báo chí ngoại quốc “JE RESTE NEUTRE” (Tôi
trung lập. Báo J.E.O ngày 13-11-1960). Cho dù vậy, hành động của Tướng Minh đối
với anh em Tổng Thống Diệm quả là khó hiểu. Nhưng Tướng Xuân thì sự bất mãn có
vẻ sâu xa hơn ai cả, kể từ khi ông mất chức Giám Đốc Nha An Ninh Quân Đội. Ông
Xuân vẫn cho rằng mình có công với chế độ trong vụ đánh dẹp Bình Xuyên, và
chiến dịch bình định tại Miền Đông Nam Phần. Tuy không xuất thân từ một trường
võ bị nào, ông Xuân chỉ là một công thức cao cấp trong ngành mật thám liên bang
(Sécurité fédérale) sau được đồng hóa vào ngành ANQĐ với cấp bậc Đại Tá. Tuy
nhiên khi mất chức Giám Đốc, ông vẫn được Tổng Thống Diệm cho giữ chức Chỉ Huy
Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung cho đến ngày đảo chánh. Trong ngành
Cảnh Sát, tướng Xuân vẫn còn một số cộng sự viên cũ, thuộc giới già phục vụ
trong ngành Mật Thám Liên Bang rất lâu năm. Còn một vài lý do “tế nhị” khác đã khiến Tướng Xuân hăng hái nhất
trong việc tình nguyện đi đón anh em Tổng Thống Ngô Đình Diệm, mặc dầu trên
nguyên tắc HĐQNCM không chính thức chỉ định tướng Xuân đi đón anh em Tổng Thống
Diệm, chỉ có Đại Úy Nhung được chỉ định đi theo với tư cách “đặc phái viên”
của riêng Tướng Chủ Tịch HĐQNCM.
Khi vào nhà thờ anh em ông Diệm vẫn tỏ ra bình thản. Ông
Nhu vẫn tiếp tục hút thuốc nhả khói.
TRƯỚC GIỜ LÂM CHUNG
Trong nhà thờ này, từ hàng ghế trên cùng, gần Cung Thánh,
Tổng Thống Diệm và bào đệ của ông đã đọc kinh ăn năn tội trước Đấng Thượng Đế mà
riêng ông Diệm, đức tin nơi Thượng Đế đã như sắt thép. Tổng Thống Diệm và bào
đệ đã xưng tội. Đối với đời sống tôn giáo như Thiên Chúa Giáo thì hai anh em
ông Diệm đã làm tròn phép đạo trước khi lìa trần.
Nhà Thờ Cha Tam vẫn lặng lẽ, tiêu sơ. Nếu không có những
tình cờ lịch sử đã đưa anh em Tổng Thống Diệm đến đây thì ngôi Thánh Đường này
cũng như trăm ngàn ngôi Thánh Đường khác ở vào những nơi yên tĩnh bao giờ cũng
trầm lặng, thanh khí. Rồi bỗng có một loạt súng nổ từ phía ngoài (lời thuật của
ông già Hoa Kiều). Cho đến lúc này, ông ta vẫn có mặt trong Thánh đường, ở vào
hàng ghế ngoài, phía bên trái, cuối cùng ông nghe tiếng xe tăng, tiếng người
nói lao xao.
Chiếc xe tăng cồng kềnh (tức chiếc M113) đã thực sự tiến
vào nhà thờ, rú lên những âm thanh ghê rợn. Rồi hai ba chiếc khác tiếp theo
(tức là những chiếc Jeep) và còn một vài chiếc khác đậu ở phía bên ngoài đường,
họng súng chĩa vào phía trong như sẵn sàng nhả đạn.
Có thể nói, cho đến lúc này, anh em Tổng Thống Diệm vẫn
bình thản đọc kinh, ông Nhu quay ra nhìn và đứng lên trước Tổng Thống. Trái
lại, ông Diệm vẫn thản nhiên đọc cho hết kinh. Lúc bấy giờ từ ngoài một viên sĩ
quan khác mở rộng cánh cửa chính, hai bên hông nhà thờ đều có sĩ quan đứng rải
rác, tay cầm súng như sẵn sàng nhả đạn.
Đại Tá Lắm tiến vào phía Cung Thánh, và gặp anh em Tổng
Thống Diệm đi ra. Ông giơ tay chào theo lối nhà binh, và nhường bước để
anh em Tổng Thống Diệm đi ra trước. Khi đến thềm, anh em mới đứng lại quay sang
trò chuyện với Đại Tá Lắm, ông Nhu thản nhiên châm thuốc. “Hình ảnh lúc ấy
tôi khó có thể quên được trong đời tôi” (lời
cha Jean) ông Nhu bước xuống thềm theo sau Tổng Thống. Lúc ấy tùy viên đi sát
Tổng Thống Diệm, tay xách chiếc cặp da đen lớn. Sau thì chiếc cặp da này được
trao cho một sĩ quan cấp tá và ông này chuyển cho Tướng Xuân. Một lát sau Tổng
Thống Diệm được nghe Đại Tá Lắm trình bày quyết định của Hội Đồng Quân Nhân
Cách Mạng lên Tổng Thống. Ông Diệm chỉ gật đầu rồi quay sang hỏi ý ông Nhu. Ông
Nhu đáp lại bằng mấy câu tiếng Pháp ngắn ngủi.
Ông Nhu tỏ vẻ bực tức, nóng giận phản đối cách thức đi đón
Tổng Thống của phe đảo chánh. Ông Nhu nhấn mạnh rằng “Tổng Thống là Tổng
Thống của nhân dân chứ có phải là tù binh đâu tại sao các anh lại đưa xe bọc
sắt đến đón Tổng Thống như thế này”.
Trong giờ phút đó, Đại Tá Dương Ngọc Lắm vẫn giữ cử chỉ và
ngôn ngữ cung kính đối với một vị Tổng Thống quyền uy đang thất thế. Ông Nhu
lầm bầm tức giận. Mặt Tổng Thống Diệm đỏ gay. Tổng Thống Diệm bảo Đại Tá Lắm: “Đại
Tá đưa tôi và ông Cố Vấn về qua Dinh Gia Long rồi hãy lên Tổng Tham Mưu”.
Ước vọng cuối cùng của Tổng Thống Diệm là trở lại Dinh Gia
Long lần cuối. Lúc ấy 8g30. Dinh Gia Long tràn ngập dân chúng già trẻ trai gái
đủ loại. Phòng khách danh dự của vị Nguyên Thủ Quốc Gia trở thành chốn vui chơi
của từng đoàn thành niên nam nữ. Phòng ngủ của vị Tổng Thống trơ trọi một chiếc
divan gỗ, bộ salon cũ nhưng lại trở thành nơi thu hút bao nhiêu khách hiếu kỳ.
Những bức tranh vô giá, quà của quốc gia bạn tặng quốc gia Việt Nam phút chốc
tiêu tan… những bảo vật quí giá nhất lưu giữ từ thời Quốc Trưởng Bảo Đại bỗng
dưng một phút không cánh mà bay. Dinh Gia Long một phút trở thành chốn vô chủ
bệ rạc, hoang tàn… Cũng từ phút đó, nơi tiêu biểu cho quốc gia này lại là văn
phòng của Tướng Chủ Tịch Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng đặt tại Bộ Tổng Tham Mưu.
Ước vọng cuối cùng của Tổng Thống Diệm đã bị khước từ. Đại
Tá Lắm nói với Tướng Mai Hữu Xuân, đại cương ông Cụ muốn cuộc hành trình qua
Dinh Gia Long, ông Cụ đang muốn tìm một tài liệu gì đó. Tướng Xuân cho biết,
dân chúng đang đổ xô ra đường, Dinh Gia Long bị tràn ngập cho nên vì an ninh lộ
trình nên không chiều theo ý Tổng Thống Diệm được.
Đại Tá Lắm thưa lại như vậy, Tổng Thống Diệm cúi đầu, mắt
long lanh. Thiếu Tướng Xuân giục giã:
- Bây giờ xin mời Cụ và ông Cố Vấn lên xe cho.
Ông Cố Vấn Nhu cương quyết: “Thiếu Tướng nên biết cho
đến giờ này Tổng Thống vẫn còn là Tổng Thống và tôi là Cố Vấn của Tổng Thống,
không có lý do gì các anh lại đi đón Tổng Thống bằng xe bọc sắt như vậy“.
Thiếu Tướng Xuân quay lưng bước đi không nói một cậu hai sĩ
quan nhảy lại đẩy Tổng Thống Diệm về phía chiếc xe M113. Ông Cố Vấn Nhu trợn
mắt cầm điều thuốc hút dang dở ném thẳng vào mặt viên Đại Úy hung tợn này rồi
ông nhảy lại xô viên Đại Úy khác, ông Nhu nặng lời la mắng hai viên sĩ quan có
cử chỉ vô lễ với Tổng Thống. Một viên Đại Úy rút khẩu rouleau chỉa thẳng về
phía ông Nhu. Tổng Thống Diệm mím môi quắc mắt. Viên sĩ quan vội cho súng vào
bao rồi quay lưng đi.
Nhật báo Công Luận do Tướng Tôn Thất Đính làm chủ nhiệm qua
loạt bài “Cái chết của Diệm Nhu” số 875 ra ngày 18-11-1970 đã viết lại
như sau:
“Tổng Thống Diệm quắc mắt nhìn thẳng vào mặt viên sĩ
quan này. Bắt gặp nhãn tuyến dữ tợn của một vị Tổng Thống từng được 9 năm suy
tôn, tự nhiên sĩ quan thấy mình thiếu mất một phần can đảm, tay súng buông
thòng xuống, khẩu rouleau được đút lại vào bao da
Một số chiến sĩ thiết giáp thấy ông Diệm, ông
Nhu dằng co với hai viên sĩ quan vội nhảy ra khỏi xe và tiến lên bực thềm nhà
thờ với những khẩu Carbine đã lên đạn mũi súng chĩa thẳng về hai ông Diệm, Nhu.
Tùy viên Đỗ Thọ toan nhảy tới trước đám quân
thiết giáp này, ông muốn làm một hành động, nhưng rồi ông chùn bước. Đỗ Thọ
biết rằng trong khung cảnh đằng đằng sát khí này, bất cứ một hành động chống
đối nhỏ nhoi nào của ông cũng đều có thể mất mạng như chơi. Ông Diệm ông Nhu uy
quyền như vậy mà chịu bất lực thì ông làm sao mà chống chỏi được.
Sau khi trả lại khẩu rouleau ngắn này vào bao
da, viên sĩ quan toan bắn ông Nhu nhìn ông Diệm gằn giọng:
- Chúng tôi mời quí vị lên xe. Giờ này, nơi đây
không còn ai là Tổng Thống ai là Cố Vấn nữa. Nếu quí vị từ chối, chúng tôi buộc
lòng phải áp dụng biện pháp cứng rắn.
Nói xong viên sĩ quan này đẩy nhẹ ông Diệm
xuống sân nhà thờ. Ông Nhu bây giờ lại có vẻ quyết liệt, ông xô viên sĩ quan ra
và quát:
- Không được vô lễ với Tổng Thống.
Biết tình thế không thể thay đổi được, ông Diệm
nắm lấy vai áo ông Nhu:
- Thôi chú! Mình đi hè!
Ông chưa nói hết câu thì viên sĩ quan thứ hai
đã đầy mạnh ông Nhu xuống trước. Tổng Thống Diệm bước theo, tùy viên Đỗ Thọ và
Cha Xứ đi theo hai người.
Cửa chiếc xe Thiết vận xa M113 được mở ra, bên
trong nồi chảo, hành lý cá nhân của các chiến sĩ thiết giáp ngổn ngang. Khung
cảnh chẳng có vẻ gì đã được thu dọn để đón môt vị Tổng Thống. Rõ ràng đây là
một cuộc “áp giải” một cách đột ngột thiếu chuẩn bị.
Ông Diệm ông Nhu chùn bước. Cả hai đều hiểu
rằng với một sự đón rước cứng rắn như vậy, hy vọng hai ông được đưa ra ngoại
quốc hết sức mong manh.
Đối với các tướng lãnh, uy quyền của hai ông
chắc cũng đã hết. Hiểu như vậy thì quá muộn. Trên mặt thềm của ngôi nhà thờ buồn
tẻ này người ta thấy khuôn mặt của tuỳ viên Đỗ Thọ rất thảm thương. Có lẽ ông
đã hình dung được số phận sẽ được dành cho hai ông Diệm Nhu. Trong giờ phút
nặng nề này, chỉ có ông Diệm là còn giữ được sự bình tĩnh cần thiết, nên không
một phản ứng nào mặc cho số phận đưa đẩy.
Còn ông Nhu trông gương mặt hốc hác tiều tụy
của một đêm thức trắng, đôi mắt ông long lên cơn giận như bốc lửa khi thấy đám
đông dân chúng đằng xa chỉ trỏ về phía mình như một con hổ sa cơ, ông muốn trút
sự nóng giận cho bất cứ một người nào, nhưng cuối cùng ông dằn được”.
BƯỚC CHÂN CUỐI CÙNG
Khi ấy chiếc M113 đã nổ máy quay đầu ra phía cổng.
Thiếu Tá Nghĩa thì chạy lăng xăng. Đại Úy Nhung hai tay
chống nạnh, mặt mày rất hung dữ, và thốt ra nhiều lời lỗ mãng, tục tằn. Một sĩ
quan khác cũng có mặt tại đây, và ông Nhu đã từng biết mặt. viên sĩ quan này là
Đại Úy Hiệp. Đại Úy Hiệp cũng như Nhung thốt ra những lời lỗ mãng nặng nề. Tổng
Thống Diệm vẫn làm ngơ, song ông Nhu quay lại quắc mắt mắng Hiệp: “Không
được ăn nói cư xử như vậy với Tổng Thống“.
Như cố ý lánh mặt, Tướng Xuân vẫn ngồi ngoài xe đậu phía
bên kia đường. Thiếu Tá Nghĩa đã hộ tống anh em Tổng Thống Diệm đến tận chiếc
M113. Ông Nhu vẫn dằng co, “các
anh để Tổng Thống đi xe nào? Sao lại đi xe này? Sao lại thế này?” Một đại úy đã xô ông Nhu vào
phía cửa sau.
Ông Nhu lảo đảo rồi đứng khựng lại. Ông lớn tiếng nặng lời
với mấy sĩ quan đứng cạnh ông và Tổng Thống Diệm. Theo ông già Khá, Tổng Thống
Diệm vẫn có vẻ từ tốn.
Trong nhật ký Đỗ Thọ có ghi lại như sau:
“Họ đẩy mạnh ông Nhu xuống sân nhà thờ. Tổng
Thống Ngô Đình Diệm, tôi và cha Jean theo sau. Trong khi đó trục máy của chiếc
M113 buông thả cửa xe. Lính đảo chánh áp dụng cứng rắn đẩy ông Nhu lên xe, ông
Nhu cự nự quay lại nửa người và đưa Tổng Thống Diệm lên trước. Tôi chạy đến đưa
chiếc cặp da, chiếc ba-toong cho Tổng Thống. Nhưng Đại Úy Nhung đã giật lấy
những món này. Đồng thời họ không cho tôi được phép đến gần Tổng Thống Ngô Đình
Diệm. Tôi đứng lại nhìn, cửa sau chiếc M113 đóng lại. Tôi không thể ngờ đó là
nơi an nghỉ của Tổng Thống Diệm trong quan tài bọc sắt. Tôi lên GMC về Tổng
Tham Mưu” (Nhật Ký Đỗ Thọ trang
267)
Trên lộ trình về Bộ Tổng Tham Mưu đột nhiên đến cổng xe lửa
đường Hồng Thập Tự thì đoàn công voa dừng lại. Báo Công Luận số ra 882 ngày
26-11-1970 đã ghi lại:
“Giờ phút kết liễu cuộc đời của hai ông Nhu Diệm xảy ra
lúc đoàn “công voa” về tới cổng xe lửa đường Hồng Thập Tự. Đoàn công voa vừa
tiến đến đây thì gặp có một chiếc xe lửa chạy qua nên phải ngừng lại.
Đại Tá Lắm ngồi với Thiếu Tướng Mai Hữu Xuân
trong một chiếc xe jeep chạy giữa đoàn, thấy đoàn xe bất thần dừng lại, ông
không biết chuyện gì nên đã thét vào máy truyền tin:
- Ai cho lịnh các anh ngừng lại?
Tiếng quân nhân trên thiết giáp đi đầu trả lời:
- Thưa Đại Tá, kẹt xe lửa. Có một chuyến xe lửa
sắp chạy qua, cổng rào đã đã kéo xuống.
Đại Tá Lắm “à” một tiếng; rồi tiếp tục nói
chuyện với Thiếu Tướng Xuân. Chừng vài phút sau, giữa tiếng chuyển động ầm ầm
của chuyến xe lửa chạy qua, ông nghe mơ hồ có nhiều tiếng súng nổ, nhưng hỏi
phía trước không có một báo cáo nào cho ông biết có chuyện gì bất ngờ xảy ra.
Những tiếng súng khô khan chen lẫn tiếng động
cơ ầm ỹ của chuyến xe lửa đi qua, đó là tiếng súng của Đại Úy Nhung.
Trong không khí nặng nề của đoàn công voa rước ông Diệm ông Nhu từ nhà thờ Cha
Tam về Bộ Tổng Tham Mưu, thừa cơ hội chiếc xe thiết vận xa, chở ông Diệm ông
Nhu ngừng lại, Đại Úy Nhung đã bất thần từ chiếc xe jeep đi kèm nhảy qua chiếc
thiết vận xa. Khẩu rouleau ngắn nòng được rút ra khỏi vỏ và ông đã nhả đạn, sau
đó dùng dao kết liễu đời hai ông Diệm, Nhu.
Hai nhân vật đầu não của chế độ nằm xuống. Vĩnh
viễn nằm xuống, không một phản ứng nhỏ nhoi nào. Cái chết này rất ít người được
biết rõ ràng và chứng kiến.
Chính Đại Tá Lắm, người chỉ huy trực tiếp đoàn
“công voa” lúc bấy giờ cũng không hay biết. Sau này, Đại Tá Lắm đã có lần nói
với chúng tôi là ông không thể ngờ một việc như vậy xảy ra.
Sau khi chuyến xe lửa đã đi qua, đoàn công voa
tiếp tục cuộc hành trình. Đại Tá Lắm lúc đó vẫn tin tưởng mọi việc đều bình
thường, là không có một điều gì xảy ra. Cho đến khi đoàn xe về tới Bộ Tổng Tham
Mưu. Chiếc thiết vận xa M113 chở Tổng Thống Diệm và ông Cố Vấn Nhu đột nhiên
tách rời khỏi đoàn và chạy qua sân vận động Quân Đội “.
“C’EST COMME CA”
Đoàn xe dừng lại tại sân cờ, Đại Úy Nhung từ trên M113 lẹ
chân nhảy xuống trước. Lúc ấy Trung Tướng Chủ Tịch HĐQNCM đang đứng trên bao
lơn. Nhung chạy theo sau Thiếu Tướng Xuân tiến lên thềm tam cấp của Bộ Tổng
Tham Mưu. Tướng Minh từ trên giơ cao hai tay, cử chỉ giống như Tướng De Gaulle
giơ tay lên cao biểu lộ sự chiến thắng để chào mừng quốc dân. Khi Đại Úy Nhung
cùng Tướng Xuân bước lên thềm Bộ Tổng Tham Mưu, một tướng lãnh trông thấy tay
áo của Nhung dính đầy máu. Ông hất hàm hỏi Tướng Xuân “sao vậy” thì Tướng Xuân khẽ
nhún vai chỉ đáp gọn: “C’EST COMME CA” rồi ông và Nhung lên thẳng lầu để gặp
Tướng Minh báo cáo các công tác mà họ vừa hoàn thành. Mấy tướng thở dài, quay
lưng đi thẳng lên lầu. Một vài tướng khác và mấy đại tá kéo nhau xuống phía sân
để coi tử thi. Khi đến nơi, mấy ông đứng khựng lại, rồi ở thế “nghiêm”
giơ tay chào từ biệt anh em Tổng Thống Diệm. Thiếu Tướng Đỗ Mậu vùng vằng nói
lớn “các anh phải chịu trách nhiệm trước lịch sử”. Tướng Dương Văn
Minh lạnh lùng nhún vai không nói một câu. Tướng Khiêm sa sầm nét mặt, hiện rõ
sự đau thương. Một tướng lãnh khác vào phòng của Tổng Tham Mưu rủ Đại Tá Lu
Conein ra coi xác chết của hai anh em “Nhu
Diệm”. Lu Conein lắc
đầu: “Tôi nói ra sao được người ta sẽ có lý do cho rằng người Mỹ có dính
dáng vô“.
Xác của anh em Tổng Thống Diệm được khiêng xuống đặt trên
đất của sân cờ. Hai anh em ông Diệm nằm chỏng chơ như vậy. Miếng ông Nhu há
hốc, mắt nhắm, máu ở miệng trào ra hai bên mép và ở cổ, máu đã trở thành đen.
Trời hôm ấy không nắng lắm và nhiều mây, từ lúc ấy sân Bộ Tổng Tham Mưu trở nên
vắng lặng không một ai được lai vãng trừ một số tướng tá và một số
người có phận sự. Người Hạ Sĩ Quan trên chiếc M113 trước khi lên xe rời khỏi
sân cờ, ông ta đã rút chiếc khăn “mouchoir”trong túi, phủ lên mặt Tổng
Thống Diệm. Hai thi thể nằm chơ vơ như thế đã khá lâu vì HĐQNCM chưa có một
quyết định nào. Từ cổng Bộ TTM đã được lệnh canh chừng nghiêm mật nhất là
đề phòng các ký giả ngoại quốc.
Tuy nhiên sau đó không đầy 1 giờ ngoại giao đoàn cũng như
báo chí ngoại quốc tại Saigon đều đã nhận được đầy đủ tin tức về cái chết của hai
anh em ông Diệm. Ai giết? Tại sao giết?
Theo ký giả Robert Shaplen (tác giả cuốn The Lost Revolution) thì có
một luận cứ tin được đó là Nhung đã ra tay hạ sát theo lệnh của Tướng Dương Văn
Minh. Song rõ rệt nhất là những viên đạn đó được chế tạo tại Hoa Kỳ. Nếu Đại Úy
Nhung cầm súng nảy cò thì ông ta cũng là người thi hành lệnh thượng cấp. Một
đại úy như Nhung dù là Sĩ Quan tùy viên của Chủ tịch HĐQNCM ông ta cũng chưa
thể “điên” đến mức độ tự
mình bắn anh em Tổng Thống Diệm. Điều này thật giản dị và rõ rệt. Và những viên
đạn này chỉ là kết quả của một âm mưu đã được sửa soạn từ tháng 5-1963 và tiến
hành vừa tinh tế, vừa có nghệ thuật, thứ nghệ thuật đảo chánh mà Đại Sứ Cabot
Lodge rất am tường – Những viên đạn kết liễu đời anh em Ông Diệm và chế độ của ông
không phải chỉ là những viên đạn đồng đơn giản mang dấu hiệu USA – những viên
đạn đã được đúc rất công phu từ những trục John Kennedy – Cabot Lodge, Cabot
Lodge – Hilsman, CIA Smith – Cabot Lodge và cuối cùng Cabot Lodge đại diện cho
những trục này để giao tiếp với một số trục bản xứ có thể mô tả: Cabot Lodge –
Tướng Khiêm qua trung gian Harkins và Tướng Đôn – Harkins và Tướng Kim, Xuân,
Minh – Cabot Lodge qua trung gian Smith… Cuộc đảo chánh được châm ngòi
phải kể đến cái ngòi thứ nhất Đôn – Harkins. Vì Tướng Đôn với tư cách Tổng Tham
Mưu Trưởng nên ông có dịp giao tiếp hàng ngày với các Tướng tá Mỹ. Một số
tướng tá này trở thành trung gian giữa Cabot Lodge – Đôn và một số Tướng
lãnh khác.
Đại Sứ Cabot Lodge và những người Hoa Kỳ có hay biết gì
trước giải pháp “nhổ cỏ tận gốc” không?
Sự thực, từ khi tiếng súng đảo chánh bùng nổ, Đại Sứ
Lodge đã túc trực tại văn phòng của ông, và theo dõi thường xuyên tin tức “cách mạng“.
Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ và các cơ sở liên hệ như USAID sẽ mở rộng
cửa để đón tiếp các phần tử thuộc phe đảo chánh khi sự mưu đồ bất thành.
CHƯA PHẢI LÀ HẾT
Khi xác của hai anh em Tổng Thống Diệm nằm chơ vơ dưới sân
thì các tướng trong Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng bắt đầu ngồi vào thảo luận.
Theo Tướng Đỗ Mậu, không khí lúc ban đầu thật nặng nề, khó thở, nhiều ông Tướng
chỉ cúi đầu không nói một lời. Tướng Mậu mô tả: “Tôi theo Tổng Thống
Diệm từ năm 18 tuổi bao nhiêu tình cảm sâu xa giữa tình thày trò… Thấy
xác hai ông tôi không còn khóc được, đau quá – đau đến cùng độ”.
Vấn đề cấp thiết lúc ấy làm thế nào biện minh về cái chết
của hai anh em Tổng Thống Diệm đối với ngoại giao đoàn, dư luận., quốc tế và
quốc nội. Có lẽ Tướng Dương Văn Minh cho đến lúc đó mới nghĩ đến những hậu quả
mà ông không lường trước. Riêng Tướng Kim là người hiểu rõ uy tín của anh em
ông Diệm trong giới ngoại giao đoàn nhất là Tòa Khâm Sứ và Đại Sứ Anh dù cách
nào Đại Sứ Lodge cũng phải kiêng nể.
Tướng Khiêm cũng như Tướng Kim là người đã lượng tính trước
về uy tín ảnh hưởng của Tổng Thống Diệm trong số 2 triệu tín đồ Thiên Chúa
Giáo. Từ những lượng tính về hậu quả qua nhiều phía do cái chết này sẽ tạo
ra và có thể lật ngược thế cờ hay nếu không thì Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng
cũng sẽ gặp nhiều khó khăn lớn lao. Do đó Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng hội họp
trong một không khí giao động, bế tắc , đến lúc này mấy Tướng “chủ động” trong việc “thanh
toán nhanh, thanh toán lẹ” mới ngỡ ngàng không thể hiểu nổi giết một
vị Tổng Thống lại gặp nhiều lôi thôi, rắc rối đến như thế. Mặt khác Tướng Đính
đã làm cho mấy ông trong Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng càng thêm bối rối giao
động vì Tướng Đính “la hét
chửi thề” tùm lum – Bây giờ biết làm thế nào? Đường giây điện thoại giữa
Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng và Đại Sứ Lodge lại hoạt động liên miên.
Trong khi đó xác anh em Tổng Thống Diệm được dời về Bộ Chỉ
Huy thiết giáp trong vòng thành Bộ TTM. Trên xe có một viên y sĩ Đại Úy thuộc
bịnh xá Bộ TTM. Xác không phải chỉ có vết đạn trên đầu mà còn nhiều vết đâm
trên ngực. Có lẽ vì chiếc xe Hồng Thập Tự đi lắc lư mạnh nên tôi (lời Hạ Sĩ
Cam) thấy đầu của Tổng Thống Diệm nằm trên “brancard” cứ lắc lư trông dễ sợ máu đỏ tươi chảy
phọt ra hai bên mép mặc dầu ông đã chết lạnh khô. Máu ở trên tóc dính bệt đổi
màu và se thâm lại.
Cùng lúc đó Tướng Đính đưa ra hai điều kiện một là phải
chôn cất đàng hoàng hai là phải làm thông cáo như thế nào để trấn an dư luận.
Ông Đính nói: “Chết cha tôi rồi…. rồi đây phải ăn nói sao đây“.
Ngay sau khi đươc tin anh em Tổng Thống Diệm bị thảm sát,
tòa Đại Sứ Pháp có thông cáo ngay cho Khâm Sứ Tòa Thánh tại Saigon (vị Khâm Sứ lúc
ấy là niên trưởng ngoai giao đoàn). Một viên chức cao cấp của tòa Khâm Sứ đã
điện thoại hỏi Đại Sứ Cabot Lodge. Không gặp ông. Viên tham vụ trả lời rằng Hội
Đồng Quân Nhân Cách Mạng cho biết anh em Tổng Thống Diệm đã tự sát. Viên chức
tòa khâm Sứ phủ nhận ngay nguồn tin ấy vì đối với người Công Giáo đều không
được phép tự sát. Vì đó là trọng tội đối với Thượng Đế và sẽ mất hết mọi ân
phước. Một người Công Giáo như ông Diệm thì chuyện này không thể xày ra.
Một lát sau, viên tham vụ này gọi điện thoại cho tòa Khâm
Sứ báo tin rằng ông Đại Sứ Lodge cho anh biết anh em Tổng Thống Diệm đã chết
như trường hợp ngộ nạn. Một đại úy vô kỷ luật đã bắn anh em ông. Sau đó Hội
Đồng Quân Nhân Cách Mạng ra thông cáo rẳng anh em Tổng Thống Diệm đã tự sát.
Sau đây chúng tôi ghi lại bản phúc trình của giới hữu trách
Quân Đội mang tên “Sơ lược
tài liệu về hai ông Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu sau khi chết ngày 1-11-1963
lúc 11 giờ 15 đến ngày an táng 8-11-1963 lúc 21 giờ” Nguyên văn:
SƠ LƯỢC TÀI LIỆU VỀ HAI ÔNG NGÔ ĐÌNH DIỆM VÀ
NGÔ ĐÌNH NHU SAU KHI CHẾT NGÀY 2-11-1962 LÚC 11 GIỜ 15 ĐẾN NGÀY AN TÁNG
8-11-1963 LÚC 21 GIỜ 00.
I – Ngày 2-11-1963 vào lúc 11g15, đoàn xe hộ tống đưa
hai xác của ông NGÔ ĐÌNH DIÊM và ông NGÔ ĐÌNH NHU nằm trên hai chiếc
barancard để trong chiếc xe M113 vào Bộ Tổng Tham Mưu đặt tại sân Bộ Chỉ Huy
Thiết Giáp Binh Trại Trần Hưng Đạo từ 11g 15 đến 17g 00. Y sĩ trưởng Bệnh xá
Tổng Hành Dinh Tổng Tham Mưu đến khám nghiệm tử thi của hai ông DIỆM và NHU, và
thành lập hồ sơ khai tử do Phòng Tổng Quản Trị Tổng Tham Mưu phụ trách.
Trong khoảng thời gian nói trên chờ ông bà Trần
Trung Dung, cựu Bộ Trưởng Phụ Tá Quốc Phòng, cư ngụ tại số 123 đường Đoàn Thị
Điểm Saigon, xin xác hai ông DIỆM và NHU đưa về tư thất.
Lúc 17 giờ 30 ngày 2-11-1963 do Thiếu tá Đại
Đội Trưởng Đại Đội Tổng Hành Dinh Tổng Tham Mưu, Đại Úy Đại Đội Phó và Đại Úy Y
Sĩ Trưởng Bệnh Xá Tổng Hành Dinh Tổng Tham Mưu đảm nhận việc di chuyển hai
xác của ông Diệm và Nhu ra bệnh viện Saint Paul bằng một chiếc xe Hồng Thập Tự
(Ambulance) với hai quan tài do thiếu tá Đại Đội trưởng Đại Đội Tổng Hành
Dinh Tổng Tham Mưu mua của hãng TOBIA, giao lại cho ông bà TRẦN TRUNG DUNG nhờ
hãng bán hòm TOBIA lo việc liệm và an táng.
Khi tẩn liệm xong, hai quan tài để tại một
phòng riêng trong nhà xác Bệnh Viện Saint Paul thì Trung Tướng Tổng Trấn Đô
Thành Saigon và Ủy Viên Quân Vụ Thị Trấn Saigon theo sự yêu cầu ông bà TRẦN
TRUNG DUNG, sắp đặt tổ chức việc an táng hai ông DIỆM và NHU tại nghĩa trang
của người Pháp ở đường Mạc Đỉnh Chi Saigon, vào ngày 3-1-1963 khoảng 12 giờ 00
trưa, chôn tại lô đất số 3 nơi đây đã đào sẵn hai huyệt đã xây kim tĩnh.
Trong khi ông bà TRẦN TRUNG DUNG nhờ
Tổng Trấn tổ chức việc mai táng thì học sinh và dân chúng Đô Thành cũng tổ chức
Ban Chỉ Đạo để đến nhà xác Bệnh Viện Saint Paul hoặc đến đất Thánh ở đường Mạc
Đỉnh Chi cướp hai quan tài của ông DIỆM và NHU để tế các vị Sư đã tử vì Đạo cho
thỏa dạ của dân chúng và học sinh.
II – Vào khoảng 20 giờ 00 ngày 2-11-1963, theo sự yêu cầu của
Ông Bà TRẦN TRUNG DUNG nhờ Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng cứu nguy và cho
gửi hai quan tài của hai ông DIỆM và NHU trong một bệnh viện của Quân Đội để
tránh sự cướp phá nói trên.
Lúc 21 giờ ngày 2-11-1963, do lệnh Trung Tướng
Quyền Tổng Tham Mưu Trưởng bảo liên lạc với ông bà Trần Trung Dung lo việc di
chuyển hai quan tài về để một nơi trong Bộ Tổng Tham Mưu đồng thời Trung Tướng
Tổng Trấn Saigon cho lệnh hủy bỏ việc an táng hai ông DIỆM và NHU tại nghĩa
trang ở đường Mạc Đỉnh Chi Saigon, mặc dầu hai huyệt đã đào và xây kim
tĩnh rồi.
Lợi dụng trong giờ giới nghiệm đúng 1 giờ 30
ngày 3-11-1963, Ông Bà TRẦN TRUNG DUNG viết thư cho bà Soeur Supéireure
Giám Đốc Bệnh Viện Saint Paul nhận lãnh hai quan tài giao lại cho Quân Đội chở
về Bộ Tổng Tham Mưu để tại Phòng Hội Đại Đội Tổng Hành Dinh Tổng Tham Mưu, đúng
2 giờ 00 ngày 3-211-1963. Trong thời gian hai quan tài của hai ông DIỆM và NHU
để tại Bộ Tổng Tham Mưu, việc canh gác đươc tổ chức cẩn mật.
Đến ngày 6-11-1963 thì bỗng nhiên quan tài của
ông Nhu bị xì hơi bay mùi khó chịu.
Ngày 7-11-1963, vì nhận thấy tình
trạng học sinh và dân chúng Đô Thành vẫn còn phẫn nộ không thể an táng hai
ông DIỆM và NHU tại Saigon hay đưa về Huế được, phần thì một quan tài đã xì hơi
hôi thúi, nên Ông bà TRẦN TRUNG DUNG gửi thư yêu cầu Trung Tướng,
Quyển Tổng Tham Mưu Trưởng cho mượn một khu đất trong trại Trần Hưng Đạo Bộ
Tổng Tham Mưu để tạm án táng hai quan tài của hai ông DIỆM và NHU trong một
thời gian rồi sẽ đem cải táng sau (bản sao bức thư đính kèm). (1)
Tiếp theo thư yêu cầu của ông bà Trần Trung
Dung đề ngày 7-11-1963, Trung Tướng Quyền Tổng Tham Mưu Trưởng chỉ định khoảng
đất và Ủy Ban Kiểm Soát để tạm an táng hai quan tài của ông DIỆM và NHU tại Bộ
Tổng Tham Mưu, do Sự Vụ Văn Thư số 835/TTM/VP ngày 7-11-1963
III – Ngày 8-11-1963 đúng 20 giờ 00, hai quan tài của ông
DIỆM và NHU do Quân nhân thuộc Đại Đội Mai Táng của Quân Vụ Thị Trấn Saigon
dưới sự chỉ huy của Đại Úy Đỗ Văn Giương, Đại Đội Trưởng Đại Đội Mai Táng, được
di chuyển bằng hai chiếc GMC, từ Phòng Hội Đại Đội Tổng Hành Dinh Tham Mưu đến
đặt trên hai huyệt đã xây kim tĩnh sẵn tại khu lăng Võ Tánh, sau chùa Hưng Quốc
Tự, phía Đông Bắc.
Khi đó có sự hiện diện của ông bà Trần Trung
Dung và Linh Mục Claude Larre, Đại Diện Tòa Khâm Mạng Saigon do ông bà Trần
Trung Dung mời đến hành lễ từ 20 giờ 00 đến 20 giờ 50 ngày 8-11-1963. Đúng 21
giờ 00, sau khi Linh Mục làm lễ xong, hai quan tài được hạ xuống hai huyệt đã
xây kim tĩnh sẵn, với sự hiện diện của:
- Ông Bà TRẦN TRUNG DUNG
- Linh Mục CLAUDE LARRE
- Ủy Ban Kiểm Soát
- Tất cả chi tiết đều có chụp ảnh (trừ lúc
chết)
IV – Huyệt
- Huyệt xây kim tĩnh gạch 1o, tô ciment, sâu
1th30, ngang 1th20, dài 2th50.
Hai huyệt nằm song song, cách nhau về bề ngang
1 thước.
- Khi hai quan tài hạ xuống hai huyệt xây kim
tĩnh, đổ đầy cát, trên miệng đậy 2 tấm đanh gắn ciment kín.
Mộ
- Mộ nằm về phía Đông Bắc lăng Võ Tánh mé bên
phải mộ ông Lê Văn Phong, bào đệ Tả Quân Lê Văn Duyệt.
Đầu hướng về phía Tây sau chùa Hưng Quốc Tự.
Chân đưa về phía Đông, khu nhà thờ Phát Diệm.
- Hai nấm một tô đá rửa, trong lòng mộ dưới đổ
cát, trên để một lớp sỏi trắng. Nền mộ cao 0 thước 40 dưới đổ đá, trên tráng
ciment, chung quanh nền xây cao 1th80. Bốn góc có 4 trụ. Trước mộ có sân tráng
ciment 1th50, có cửa và bậc thang vào mộ. Chu vi dài 7 thước, ngang 6 thước.
- Vòng quanh khu đất mộ nói trên có rào kẽm gai
và trụ ciment, 1 cửa vào, và có đặt thường trực một vọng gác trần.
CHƯƠNG XI (Chương Cuối)
SAU 7 NĂM PHONG TRẦN
Ngày 2-11-1965, ngày
giỗ đoạn tang Tổng Thống Diệm và ông Cố Vấn Nhu. Chiến cuộc đã bắt đầu gia
tăng. Chỉ một tuần lễ cuối tháng 10-1965 số quân nhân thương vong lên đến 1.600
người, tính trung bình mỗi ngày có 200 quân nhân hy sinh vì chiến cuộc.
Quốc lộ số I từ Long Khánh qua Phan Rang, Khánh Hòa, Phú
Yên cho tới Quảng Trị hoàn toàn bị cắt đứt. Hàng Không trở thành phương tiện
duy nhất nối liền Saigon với các tỉnh miền Trung và Cao Nguyên Trung Phần.
Công trình Ấp Chiến Lược bị phá hủy toàn bộ kể từ đầu năm
1964. Các địa điểm dinh điền trở thành hoang phế.
Số cố vấn quân sự Mỹ trước năm 1963 là 14.000 người và chỉ
ở cấp Sư Đoàn thì cuối năm 1965, đã tăng gấp 2 lần hơn và có mặt khắp đơn vị
Quân Binh Chủng từ cấp Tiểu Đoàn đến Chi Khu.
Đầu năm 1965, Tòa Đại Sứ Mỹ rất thỏa mãn vì đạt được ước
vọng mà trước đó 2 năm tòa Đại Sứ này đã tìm mọi cách thuyết phục Tổng
Thống Diệm chấp thuận nhưng ông Diệm quyết tâm từ chối.
Đó là việc Tòa Đại Sứ Mỹ thiết lập tại mỗi vùng chiến thuật
một cơ cấu mệnh danh Cơ Quan Dân Sự Vụ do một giám đốc người Mỹ chỉ huy. Kể từ
đây viên Giám Đốc này được coi là cố vấn dân sự Mỹ tối cao tại Đại Biểu Chính
Phủ Tòa Hành Chánh Tỉnh đều có cố vấn dân sự Mỹ đảm trách cố vấn về hành chánh,
an ninh, xây dựng nông thôn, viện trợ kinh tế Mỹ và kể cả giáo dục học chánh.
Tại trung ương, các Bộ đều thiết lập một cơ quan dành riêng
cho viên chức cố vấn Mỹ kể cả ngành văn hóa giáo dục đến xã hội y tế.
Trước năm 1963, tòa Đại Sứ Mỹ chỉ có một phòng Trung Ương
Tình Báo nhưng nay tòa Đại Sứ Mỹ lại thiết lập thêm cơ sở mệnh danh cơ quan An
Ninh Dân Sự do một giám đốc đứng đầu. Ngoài tổ chức CIA lại còn có tổ chức CID
đặt cơ sở vào hoạt động trên toàn cõi Việt Nam. Hình ảnh người lính MP Mỹ xuất
hiện như một thứ uy quyền mới. Hải cảng Cam Rang trở thành căn cứ tiếp vận vĩ
đại của Mỹ mang tên “Camranh city” –
Long Bình, Biên Hòa, An Khê, Qui Nhơn đều là căn cứ lớn lao bậc nhất của
Lục Quân Mỹ tại Đông Nam Á.
Số cố vấn Mỹ được tăng thêm 5000 người vào tháng 6-1964
(cộng với 14.000 người trước năm 1963). Nhưng sau vụ tàu Maddox (2-8-1964) số
cố vấn được gia tăng rất mau. Đầu tháng 8-1964 phản lực cơ F102 của Không Lực
Mỹ lần đầu tiên được gửi qua Việt Nam tham chiến.
Chiến tranh mở rộng. Quân lực Mỹ ào ạt đổ bộ lên Việt Nam.
Quân số lên tới 526.000 gồm Thủy, Lục, Không quân. Tiếp theo là quân
đội Đại Hàn, Tân Tây Lan, Úc Đại Lợi rồi Phi Luật Tân và Thái Lan sau này cũng
ào ạt tiến vào Nam Việt Nam.
Ba tháng sau khi anh em Tổng Thống Diệm qua đời, Tướng
Nguyễn Khánh lại làm đảo chánh và mệnh danh là “chỉnh lý” vào
ngày 30-1-1964 và Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng ra quyết định chấm dứt nhiệm vụ
của Ban Chấp Hành Hội Đồng thành lập ngày 1-11-1963. Tướng Nguyễn Khánh ra thông
cáo giải thích lý do của cuộc chỉnh lý là vì “Từ 3 tháng nay, tình hình suy
sụp về mọi mặt, chính quyền tỏ ra bất lực và phản cách mạng, một số người chạy
theo Thực Dân và Cộng Sản do đó một lần nữa Quân Đội phải đứng lên can thiệp”. Các Tướng Kim, Xuân, Đôn, Đính
bị giam giữ. Thủ Tướng Nguyễn Ngọc Thơ bị bắt đem vào Bộ Tổng Tham Mưu và do
chỉ thị của Thiếu Tướng Dương Văn Đức, Đại Úy Chi Khu rút giây lưng ra trói tay
ông lại và dẫn đi ở sân cờ Bộ Tổng Tham Mưu. Thật là “bức tranh vân cẩu vẽ người
lao đao”. Sau đó, ông Thơ được phóng thích và xin từ chức cùng với
toàn thể nội các của ông.
Ngày 17-2-1964, Sĩ quan Báo Chí Bộ Quốc Phòng chính
thức tiết lộ: “Thiếu tá Nguyễn Văn Nhung – Sỹ quan tổng quát và tùy viên
của Trung Tướng Dương Văn Minh bị bắt giữ hồi đêm 30-1 và giam tại Lữ Đoàn Nhảy
Dù trại Hoàng Hoa Thám – ông Nhung tự vận bằng giây giầy” Ông Nhung chết
năm 39 tuổi. Ông được vinh thăng Thiếu tá sau ngày đảo chánh 1-11-1963 và cho
đến nay vẫn được coi là “tác giả” bắn
vào đầu và đâm vào lưng anh em Tổng Thống Diệm. Theo tài liệu đặc biệt của báo
Dân Ý, từ số 140 ngày 1-10-1970 đến số 160 thì Thiếu Tá Nhung vốn là người
ngang ngạnh hung dữ. Dân vùng Phú Hưng Chánh Hưng mệnh danh ông Nhung là “cọp
đen”. Ông Nhung vốn là sĩ quan thân tín của Tướng Dương Văn Minh và rất
được Tướng Minh yêu thương (Thiếu Tá Nhung có máu nghệ sĩ, hay đánh lộn và say
mê tuồng cải lương cùng “món” lục huyền cầm và sáu câu vọng
cổ). Theo tài liệu đã dẫn thì Thiếu Tá Nhung bị đá bể lá lách sau khi ông đã
khai hết tất cả những bí mật trong vụ thanh toán anh em Tổng Thống Diệm. Lời
khai của ông được thâu băng và trao cho Tướng Khánh.
Kể từ biến cố 1-11-1963 cho đến khi thành lập Đệ Nhị Cộng
Hòa ngày 1-11-1967, trong vòng 4 năm, Miền Nam đã trải qua 4 chính phủ: Chính
phủ Nguyễn Khánh (quân nhân), Chính Phủ Trần Văn Hương (độc lập), chính phủ
Phan Huy Quát (Đại Việt), chính phủ Nguyễn Cao Kỳ (quân nhân).
Ngày 2-1-1969, hàng ngàn người đến viếng mộ phần của anh em
Tổng Thống Diệm tại nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi. Phu nhân Tổng Thống Nguyễn Văn
Thiệu cũng đến đây thắp hương trên mộ phần Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Ngày
2-1-1970 nghĩa là 7 năm sau, theo lời tường thuật của các báo Độc Lập, Chính
Luận, Tia Sáng, Đuốc Nhà Nam và hầu hết các báo Saigon (ra ngày 3) thì: “Lần
đầu tiên sau 7 năm bài ca Suy Tôn Ngô Tổng Thống đã trỗi lên trong buổi hành lễ
tại nhà thờ chánh Hố Nai chiều 1-1″ với
trên 5000 người tham dự. Tại Saigon, 9 giờ sáng ngày 2-2, một buổi lễ cầu hồn
trọng thể đã được tổ chức tại Vương Cung Thánh Đường do Đức Tổng Giám Mục Saigon
chủ lễ với sự tham dự của nhiều Nghị Sĩ Dân Biểu và đặc biệt gồm có sự hiện
diện của DS Ngô Khắc Tỉnh, đương kim Tổng Trưởng Thông Tin cùng trên 5000 giáo
dân. Sau đó, trên 5000 người đã hàng ngũ chỉnh tề trên xe lam 3 bánh, hay xe
hơi, xe đạp đi bộ đã kéo nhau đến Nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi để dự lễ làm phép
cho anh em Tổng Thống Diệm. Ngay từ sáng sớm, các vỉa hè trước nghĩa trang trở
thành chợ hoa.
Chiều ngày 2, một buổi lễ cầu siêu cũng đã được tổ chức tại
chùa Phổ Quang trong nghĩa trang Bắc Việt nơi có mộ phần ông Ngô Đình Cẩn (một
phần mộ duy nhất có cây thánh giá biểu tượng cho một tín đồ Thiên Chúa Giáo an
nghỉ nơi đây). Dịp này, ảnh của ba anh em Tổng Thống Diệm đã được đặt trên bàn
vong với hương khói nghi ngút cùng với âm thanh trầm buồn của những hồi chuông,
tiếng mõ của lời tụng niệm.
Tối ngày 31-10-1970, Tướng Trần Văn Đôn mở cuộc tiếp tân
tại tư thất để tưởng nhớ ngày cách mạng 1-11-1963. Cũng trên nhật báo Công Luận
số đặc biệt cách mạng (số ngày 1-11-1970) cựu Trung Tướng Trần Văn Đôn linh hồn
của biến cố 63 đã lên tiếng qua bài “Những cơ hội đã mất”.
“Ngày 1-11-1963: Một cuộc đảo chánh đã thành công, chấm
dứt nền Đệ Nhất Cộng Hòa. Khí thế Cách Mạng dâng lên thành một cao trào. Người
người mong muốn một cuộc cách mạng thực sự sẽ đem lại một trật tự xã hội mới
trong một nền dân chủ chân chính.
- Ngày 1-11-1963 vì thế được gọi là ngày cách
mạng mở đầu cho một vận hội mới của dân tộc. Những người của ngày 1-11-1963 đã
thành công trong đảo chính, nhưng đã thất bại trong việc cầm quyền. Bị đặt trước
những nhiệm vụ mới và lớn lao, lại không có kinh nghiệm cầm quyền, họ bị tình
thế xô đẩy và tràn ngập trong các vấn đề phải giải quyết”.
“Ngày 1-11-1963 rút lại chỉ còn là một ngày đảo
chính mở ra một giai đoạn lịch sử đầy hỗn loạn với bao nhiêu là bấp bênh: hết
chỉnh lý lại đến đảo chánh, quyền hành chuyển từ tay nọ qua tay kia và xã hội
càng ngày càng thiếu ổn định.
Trong khi đó thì Cộng Sản không ngừng phát
triển chiến tranh…”
Trên nhật báo Hòa Bình, mục “VINH NHỤC ngày
1-11-1963″ (số ra ngày
7-12-1970) cựu Thiếu Tướng Lâm Văn Phát cũng đã bày tỏ cảm nghĩ của ông như
sau:
“Vì nền Đệ Nhất Cộng Hòa lâm thế kẹt, nên cần
một biến cố để mở lối thoát. Vì thế nên tôi mới tham dự biến cố 1-11 vào phút
chót, cuộc đảo chánh đã thành công, nhưng việc giết Tổng Thống Diệm làm
tôi thất vọng trước tiên.
Sau biến cố, đáng lẽ các tướng lãnh đạo nên
trao quyền cho dân sự, thì lại vẫn cầm quyền và vì không quen nên thế cách mạng
lúc đầu sôi sục trong lòng dân chúng đã xẹp dần. Chẳng những không có kế hoạch
trao quyền lại cho dân sự, các Tướng còn định nắm thêm quyền bằng cách định để
Tướng Lê Văn Kim làm Thủ Tướng vì thế tôi tham gia cuộc chỉnh lý 31-1-1964.
Nhưng rồi Nguyễn Khánh lại quá nhiều tham vọng nên làm hỏng việc, khiến cho đất
nước bị xáo trộn liên tiếp. Đó là về chính trị.
Còn về quân sự, thất bại lớn lao nhất là việc
“Mỹ hóa chiến tranh”.
Cố Tổng Thống Diệm đã cưỡng lại sự can thiệp
của người Mỹ. Cho đến khi Đệ Nhất Cộng Hòa bị lật đổ, người Mỹ đã ồ ạt can
thiệp vào Việt Nam, khiến chủ quyền Việt Nam bị xâm phạm. Nếu người Mỹ can
thiệp vào Việt Nam, mà sự can thiệp đó đem lại một tình trạng ổn định, thì còn
đỡ. Đằng này, Mỹ đã can thiệp, đã “Mỹ hóa chiến tranh” Việt Nam, và công cuộc
Mỹ hóa đưa đền thất bại hoàn toàn, thất bại cho Mỹ và Việt Nam phải chịu hậu
quả của sự thất bại đó “.
Sau buổi giỗ trọng thể anh em Tổng Thống Diệm lần thứ 7, đã
có nguồn dư luận cho rằng đang có phong trào vận động tích cực để phục hồi chế
độ Ngô Đình Diệm và phục hồi danh dự cho anh em Tổng Thống Diệm.
Theo chúng tôi, dư luận đã có một sự nhầm lẫn to tát hoặc
tầm nhìn phiến diện hoặc vì mâu thuẫn giữa các tập thể có liên quan đến biến cố
63 hoặc vì tị hiềm thù nghịch phe đảng. Vì giản dị, không một ai, một phe nhóm
nào có thể làm được công việc ấy (dù muốn làm). Bởi cái danh dự của một vị Tổng
Thống như ông Ngô Đình Diệm thì tự cuộc đời ông mới có đủ thành tố để quan định
rõ rệt và chỉ lịch sử mới đủ thẩm quyền phê phán và nói lên cái danh dự ấy. Cái
danh dự của Tổng Thống Diệm đã có thì không thể mất và đã gắn liền với lịch sử
thì không có chuyện phục hồi. Lịch sử chỉ nói lên sự thật chứ lịch sử không bao
giờ làm chuyện phục hồi cho một nhân vật này hay một nhân vật kia. Còn vấn đề
phục hồi tái lập chế độ Ngô Đình Diệm ở vào không gian và thời gian 1970 và
trong thực tại miền Nam như hiện nay thì đó chỉ là chuyện giả tưởng trên mây.
Pháp quốc luôn luôn tự hào với chế độ quân chủ sáng chói của Hoàng Đế Nã Phá
Luân nhưng không phải vì thế, vì ca ngợi những hào quang sáng chói của thời Nã
Phá Luân mà có thể nói người Pháp sống dưới chế độ Đệ Ngũ Cộng Hòa – Thời đại
của Tổng Thống Pompidou lại đang mưu định phục hồi để tái lập chế độ Nã Phá
Luân. Cũng như vậy, vào năm 1970 và mãi mãi sau này. Dân Tộc Việt Nam đều
một lòng tự hào ca ngợi thời đại huy hoàng, thịnh trị dưới thời Vua Lê Thánh
Tôn nhưng không phải vì tự hào và ca ngợi như vậy mà nhất đán nói rằng, sự
ca ngợi và tự hào kia là cố ý phục hồi để tái lập chế độ quân chủ sáng chói của
Vua Lê Thánh Tôn giữa không gian và thời gian 1970 này.
Viết về biến cố 1963, một biến cố quan trọng của lịch sử
cận đại kéo dài từ tháng 5 đến ngày 1-11-1963 cùng với cái chết bi thảm của anh
em Tổng Thống Ngô Đình Diệm- chúng tôi – Tác giả thiên bút ký này – chỉ đơn
giản ước mong có một điều là đi
tìm sự thực của lịch sử cùng
với những người đã sống trong biến
cố lịch sử ấy và còn sống
trong dòng lịch sử này để cùng nhau ghi lại đôi điều trông thấy tai nghe mắt đọc cùng với đôi điều nhận định ước mong
sao có thể giúp cho các sử gia sau này dễ dàng soi sáng qua từng sự kiện lịch
sử với biến cố của lịch sử và chứng nhân của nó để từ đây lịch sử làm công việc
của lịch sử.
Người Việt Nam phần nhiều không có thói quen viết hồi ký.
Vì lý do này hay lý do khác, những chứng nhân quan trọng của biến cố lịch sử
thường im lặng mỗi khi biến cố qua đi cũng chỉ vì quan niệm “quá giả vãng
nhi bất thuyết” (chuyện đã
qua rồi, không nói nữa). Những chứng nhân lịch sử ấy, theo thời gian lãng quên
chuyện cũ rồi một khi qua đời thì chuyện xưa cũng chôn vùi dưới lòng đất. Đây
là sự thiệt thòi rất lớn cho các Sử Gia sau này muốn truy tầm và nghiên cứu
nguyên nhân của mỗi sự kiện cùng biến cố lịch sử theo trình tự diễn tiến của nó
trong tương quan bối cảnh, nhân vật, thời thế, thực tại chủ quan và khách quan.
Riêng chúng tôi (Cao Thế Dung) vì có quen biết nhiều với các nhân vật thuộc chế
độ Ngô Đình Diệm cũng như hai tập thể Phật Giáo và Công Giáo – Sự quen biết chỉ
có tính cách bằng hữu, tín nhiệm nhau, tri kỷ cùng nhau qua những sinh hoạt
bình thường trong một vũ trụ tình cảm vượt hẳn ra ngoài mọi khuôn khổ sinh hoạt
quốc gia cũng như tôn giáo, chủ nghĩa và đảng phái. Cũng vì vậy mà một vài
người bạn của chúng tôi đang là Giáo Sư Sử học tại các trường Đại Học Saigon,
Đà Lạt, Huế có ý thúc đẩy chúng tôi đi tìm các chứng nhân lịch sử trong 9 năm
của chế độ Ngô Đình Diệm nhất là biến cố 63 để ghi lại những điều mà các chứng
nhân ấy đã đóng vai chủ động, hoặc trung gian hoặc nghe thấy, trông thấy. Và
chúng tôi đã làm công việc đó cùng với Lương Khải Minh – Một người mà thân thế
đã gần như gắn liền với chế độ Ngô Đình Diệm trong suốt 9 năm, và thường được
coi là một thành phần hiểu biết nhiều về những chuyện “bên trong” của chế độ ấy. Lương Khải Minh vì tình
thân hữu cũng như sự tín nhiệm và tôn trọng lẫn nhau đã cung cấp cho chúng tôi
(Vị Hoàng Cao Thế Dung) những tài liệu sống và căn bản đồng thời đưa dẫn chúng
tôi đến các con đường tìm tài liệu cũng như nhân chứng liên quan đến biến cố để
hoàn thành tập bút ký này. Trước sau, Lương Khải Minh không đưa ra một phê phán
nhận định nào về các nhân vật của biến cố. Phần này ông dành riêng cho chúng
tôi để ngòi bút được tự do với trách nhiệm và vai trò của nó.
Vẫn biết rằng, viết về biến cố 1963 giữa một tình thế cực
kỳ phân hóa của một thời đại hoài nghi và đầy ngộ nhận như hiện nay sẽ không
sao tránh khỏi những sự hiểu lầm từ phía này hay phía kia. Tuy nhiên, với một
niềm tin còn lại nơi chính mình, chúng tôi tự không cho
phép chính mình được do dự hoặc hoài nghi về một điều nào khác hơn là cố gắng
tìm hiểu sự thực và viết lên sự thực.
Saigon, Mùa Đông 1970
LƯƠNG KHẢI MINH và
VỊ HOÀNG CAO THẾ DUNG
Chân Thành Ghi Ân
Quý thượng tọa, linh mục, đại đức, quý nhân sĩ, quí vị
tướng lãnh và sĩ quan, quí văn nhân ký giả cùng các nhân chứng trong biến cố và
thân hữu của chúng tôi đã cung cấp cho chúng tôi những tài liệu sống và quan
yếu nhất để hoàn thành thiên Bút Ký này.
Lương Khải Minh
và
Cao Vị Hoàng tức Cao Thế Dung
và
Cao Vị Hoàng tức Cao Thế Dung
Vài nét về Sử Gia Cao
Thế Dung
Sử gia Cao Thế Dung, giáo chức lâu năm của hệ thống giáo
dục Lasan Taberd Sài Gòn , nguyên Phụ Tá Viện Trưởng Viện Khoa Học Giáo Dục Sài
Gòn , nguyên Phó Khoa Trường Đại Học Bách Khoa Nông Nghiệp Viện ĐHHH tại Sài
Gòn. Năm 1973, GS Dung làm Tổng Quản Trị Hiệp Hội Nông Dân Trung Ương thuộc Bộ
Canh Nông, một tổ hợp nông doanh lớn vào bậc nhất của VNCH. Di cư qua Mỹ năm
1975, GS Dung được cơ quan văn hóa THE FORD FOUNDATION cấp cho học bổng toàn
thì (Research Fellowship) để nghiên cứu thị trường lúa gạo (1975-1977), đồng
thời trở lại trường theo học tại đại học Georgetown, Columbia. Sau khi tốt
nghiệp văn bằng tiến sĩ (Ph.D), GS Dung trở thành chuyên gia phân tích thị
trường, chuyên biệt về phó sản và gạo lúa, hiện là Tham Vấn Viên cho Tổ Hợp
Khảo Sát Tài Nguyên Kinh Tế Đông Nam Á.
Về văn nghệ và báo chí: 1959 GS Dung cùng với nhà văn Thế
Phong thành lập nhóm Đại Nam Văn Hiến. Từ 1966, ông trở thành một trong mấy cây
viết trụ cột của nhật báo Chính Luận. Cùng với nhà thơ Nguyên Sa, phụ trách mục
“Một Bông Hồng Cho Văn Nghệ” trên báo Sống của nhà văn Chu Tử. Chủ bút tạp chí
tranh đấu Quần Chúng (SG 1968-1970), thư ký tòa soạn tạp chí Giáo Dục (Viện
Khoa Học Giáo Dục Sài Gòn 1970-1972), chủ nhiệm, chủ bút tạp chí Hành Trình (
Hoa Kỳ 1978-1979)
Tác phẩm đã xuất bản: Khúc Ca Nhược Tiểu (thơ ĐNVH-Saigon
1960 bút hiệu Cao Đan Hồ), Văn Học Hiện Đại (Thi Ca Thi Nhân-Phê Bình Văn Học
1969), Làm Thế Nào Để Giết Một Tổng Thống (Bút ký lịch sử, 1971), Lịch Sử Văn
Minh Nông Thôn (Đại học BKNN,1974).
Tác phẩm Anh ngữ đã hoàn tất: “The Role of the Chinese
Merchants in VN’s rice maket 1865-1965″ ( Luận án tiến sĩ, 1980).
Đang thực hiện: “Vietnam’s Biographical Dictionnary” và
“Việt Nam Trăm Năm Máu Lửa” (…từ Cách Mạng Tháng Tám đến Điện Biên Phủ- sự thực
về Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản Việt Nam)
Vài nét về Bác Sĩ LƯƠNG
KHẢI MINH
Lương Khải Minh là bút hiệu của Bác Sĩ Trần Kim Tuyến. Ông
đậu cử nhân Luật khoa năm 1952 tại Đại Học Hà Nội, tốt nghiệp khóa đầu tiên của
Đại Học Quân Y Hà Nội năm 1954 với cấp bậc trung úy. Sau khi chế độ Đệ Nhất
Việt Nam Cộng Hòa thành lập, Bác Sĩ Trần Kim Tuyến được Tổng Thống Ngô Đình
Diệm ủy thác thành lập cơ sở tình báo chiến lược chính trị dưới danh xưng:” Sở
Nghiên Cứu Chính Trị Và Xã Hội Phủ Tổng Thống” mà ông là giám đốc cho đến tháng
9 năm 1963; và Bác Sĩ Trần Kim Tuyến đã trở thành nhân vật quyền uy hàng đầu
của Chế Độ.
Trong 9 năm làm ngành Tình Báo Chiến Lược, Bác Sĩ Trần Kim
Tuyến nổi tiếng về đức thanh liêm, nhiều tình cảm và nghệ sĩ. Ngoài ra, ông còn
là cây bút trụ cột của nhật báo Xây Dựng, và là bình luận gia thường trực của
nhật báo Chính Luận (1964-1975). Bác Sĩ Trần Kim Tuyến viết báo dưới bút hiệu
Thảo Lư, và là dịch giả cuốn “Thân Phận Con Người” (La Condition Humaine) của
Le Comte De Noue (1953).
Trưa ngày 30 tháng Tư năm 1975, trên đường chạy đến Tòa Đại
Sứ Pháp tị nạn, bác sĩ Trần Kim Tuyến được một ký giả ngoại quốc cứu thoát.
Hiện nay ông cùng với gia đình tị nạn tại Anh Quốc trong một cuộc sống rất đơn
sơ, thanh bạch.
(Cơ sở Văn Hóa Đông Phương)
Theo tôi biết, Bác Sỹ Trần Kim Tuyến không phải do "Một ký giả ngoại Quốc" cứu thoát mà là một ký giả Việt Nam làm việc cho Báo Ngoại Quốc và người đó cũng là Thiếu tướng, AH LLVTND của Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Điều này chắc là cả ông Cao và ông Lương (người trong cuộc) hiểu rỏ???
Trả lờiXóa