Thứ Bảy, 13 tháng 7, 2013

LÀM THẾ NÀO ĐỂ GIẾT MỘT TỔNG THỐNG - CAO THẾ DUNG LƯƠNG KHẢI MINH - PHẦN 3


ẢNH HƯỞNG CỦA BÀ NHU ĐỐI VỚI ĐỨC CHA THỤC
Ảnh hưởng của bà Nhu đối với Đức Cha Ngô Đình Thục như thế nào? Ảnh hưởng ấy người ta chỉ có thể cảm thấy một cách bàng bạc. Mỗi khi về ở trong Dinh, Đức Cha Thục đều dùng cơm chung với gia đình ông Nhu. Trong những bữa cơm thân mật gia đình đó, anh em tỏ ra tương đắc từ chuyện hàn huyên đến việc quốc gia đại sự. Bà Nhu không những đóng trọn vai trò của một người em dâu mà luôn luôn tỏ ra một con chiên hết sức kính cẩn, vâng phục một vị Giám mục. Bà theo đạo chồng (gọi nôm na là Đạo theo) nhưng từ ngày vào ở trong Dinh bà tỏ ra một tín đồ ngoan đạo. Mặc dầu đã mấy lần bà Nhu công khai phê bình một số Linh Mục với lời lẽ phạm thượng sỗ sàng nhưng với ông anh chồng Đức Cha thì lại khác , Đức Cha Thục thường khen ngợi bà Nhu trước mặt nhiều người “Bà Cố Vấn tốt đạo lắm, siêng năng xưng tội rước lễ lắm” - chỉ một lời khen đó ta cũng thấy Đức Cha tin tưởng người em dâu như thế nào.

Về mặt tâm lý, ảnh hưởng của bà Nhu đối với Đức Cha Ngô Đình Thục cũng dễ hiểu. Dù là Giám Mục hay ở một tước vị cao sang nào cũng vẫn chỉ là con người cùng với những “yếu điểm tâm lý” của con người.
Mà người ta càng già bao nhiêu thì càng thêm nhiều “yếu điểm tâm lý“. Nhất là người già trong thế giới tu hành. Nỗi cô đơn của một nhà tu càng lớn càng mênh mông khi tuổi đời mỗi ngày một chồng chất. Những ẩn ức trong tiềm thức của một người già cô đơn lại càng dễ dàng bị chinh phục bởi những an ủi vỗ về của người thân yêu. Nhất là người thân đó lại là một cô em dâu trong gia đình. Bà Nhu đã thành công nhờ ưu điểm này. Kinh nghiệm và sách vở đã cho thấy, trong một xứ Đạo với một vị Linh Mục già thì bà quản gia mới là người có ảnh hưởng nhiều nhất đối với Linh Mục.
Vị sư già trụ trì trong một ngôi chùa thì bà vãi nào khôn khéo, đảm đang sẽ được thầy tin cậy… Sự tin cậy cũng như ảnh hưởng trên đây không hề có chuyện tội lỗi trái lại rất thành thiện và chỉ phản ứng của một dồn nén cô đơn trong tiềm thức của một nhà tu luống tuổi.
Trường hợp Đức Cha Ngô Đình Thục cũng không thoát khỏi những phản ứng tự nhiên đó.
Những phản ứng thân yêu trong trái tim con người tương tự như con người của bà mẹ đối với con người của cậu con trai hay một ông bố chồng già đối với một người con dâu hiếu thảo  khéo léo.
Mỗi khi Đức Cha Thục về Dinh Độc Lập thì bà Nhu lo toan từ món ăn thức uống và lúc đó trước mặt Đức Cha bà Nhu chỉ là một cô em gái ngoan, dịu hiền ăn nói ngọt ngào dễ thương.
Đức Cha đã dùng tất cả mọi ảnh hưởng của mình để hỗ trợ 2 dự luật của bà Nhu nhất là Luật Gia Đình. Đức Cha Ngô Đình Thục hết lòng hỗ trợ và bênh vực luật Gia Đình cũng là điều dễ hiểu vì nó đã thể hiện đầy đủ tinh thần luyến ái quan Thiên Chúa Giáo. Với một tín đồ Thiên Chúa Giáo thì việc cấm ly dị là điều hiển nhiên theo phép hôn phối.
Đối với một Giám Mục thì còn gì đáng ca ngợi đáng ủng hộ hơn một Đạo Luật đời cấm ly dị và đời sống lứa đôi chỉ một vợ một chồng. Tuy nhiên, như trên đã viết trong số 14 triệu dân Việt ở miền Nam thì tín đồ Thiên Chúa Giáo không tới 2 triệu. Vả lại, luyến ái quan Thiên Chúa Giáo lại có nhiều điểm đối nghịch với luyến ái quan của người Việt Nam bình dân và kể cả luyến ái quan Nho Giáo mà luật pháp bao giờ cũng phải xây dựng trên căn bản công bình bất phân tôn giáo giai cấp.
Nhưng một vị Giám Mục như Đức Cha Thục tất nhiên không nghĩ như vậy khi mà ông em đang là Nguyên Thủ Quốc Gia. Bà Nhu lại có sáng kiến đưa ra luật ấy lẽ dĩ nhiên, ông anh Đức Cha phải lấy làm cảm phục và cho rằng cô em dâu đã làm những việc cao quí trong tinh thần phúc âm.
Từ luật gia đình cùng những ngôn ngữ cử chỉ khéo ăn khéo nói của bà Nhu đã giúp cho bà tạo được những yếu tố sống động gây ảnh hưởng mạnh mẽ nơi Đức Cha Thục. Nhưng luật Gia Đình đã làm cho bà thất bại hơn là những dư luận đồn đại về đời tư của bà. Bởi luật đó chỉ tạo thêm những thị phi và đàm tiếu của quần chúng. Trên thực tế, trai gái vẫn cứ tự do giao du, lấy nhau cứ việc lấy nhau, hôn thú chưa phải là điều chính yếu.
Luật cấm ngoại hôn không được hưởng gia tài không được hưởng một quyền lợi của người cha nhưng thực tế người Việt Nam vẫn sống theo một thứ luật bất thành văn trên tinh thần “con nào cũng là con”.
Dư luận đàm tiếu không phải đàm tiếu về nội dung đó. Hầu hết quảng đại quần chúng có mấy ai tìm hiểu luật pháp mà biết nó hay hoặc dở. Duy có một điều Luật gia đình của bà Nhu cấm không cho đàn ông lấy vợ nhỏ nhưng cô chánh văn phòng bà (gọi là cô cho danh chính vì, theo luật ấy thì cô chưa có chồng) nhưng ai lại không biết cô là vợ nhỏ của một ông chồng văn nhân (thường tình nếu cô ta không phải là “chánh văn phòng” của bà Nhu thì chả ai chú ý thị phi vì vợ lớn vợ nhỏ cũng đều là vợ cả miễn sao được chồng yêu thương). Đằng khác dư luận giới cao cấp không ngớt bàn ra tán vào về đời tư của mấy bà “lớn” trong ban chấp hành Liên Đới. Nào là vợ nhỏ sau “đá vợ cả” của ông Tướng để lên ngôi chính thất. Nào là bà Tá B vốn đã có một đời chồng rồi sau “mèo chuột” bỏ chồng lấy ông tá B… Dự luật đàm tiếu tùm lum như vậy. Mà dự luật ấy có thật chứ không phải do thêu dệt. Nhưng từ đó dư luận được dịp phụ đề thêm “hoa lá“. Đó cũng là cái nguy cho một cá nhân trong guồng máy lãnh đạo khi cá nhân đó trở thành cái đinh của dư luận. Trong khi đó, nhờ luật gia đình cũng như công tác xã hội mà bà Nhu đề ra, càng ngày càng tăng cường ảnh hưởng của Đức Cha Thục.
ẢNH HƯỞNG CỦA BÀ NHU ĐỐI VỚI ÔNG CHỒNG
Còn ông Nhu? Giới thân cận nhất của ông đều xác nhận trước năm 1955, bà Nhu không tạo được ảnh hưởng chính trị nào đối với ông chồng “đa mưu túc kế” rất uyên thâm. Nhưng nó lại như thế này, từ ảnh hưởng tâm sinh lý của bà vợ đã dễ dàng biến thành ảnh hưởng chính trị… Trước năm 1945, ông Ngô Đình Nhu chỉ coi bà vợ như một cô em gái không biết gì về chính trị. Nhưng mấy năm sau, trong văn phòng của ông lại treo một bức hình bán thân vủa bà vợ tràn đầy nhựa sống. Một người thường thì không nói làm gì nhưng ở vào trường hợp ông Nhu và nhất là con người trí thức như ông Nhu, thì khi treo bức hình đó tại ngay văn phòng chính thức của một vị Cố Vấn Chính Trị Phủ Tổng Thống quả là điều chướng mắt… Đáng lý ra thì chỉ treo trong phòng riêng. Dĩ nhiên ông Nhu cũng cảm thấy như thế khi tự tay bà treo bức hình đó, song ông Nhu không phản đối.
Bức hình treo ở một nơi trang trọng trong văn phòng đã đủ nói lên việc ông Nhu chấp nhận sự hiện diện của bà trong đời sống của mình (vì văn phòng ấy là nơi ông Nhu tiếp khách quan ngoại quốc. Bộ Trưởng Tướng Lãnh, Nhân sĩ… nghĩa là đủ mặt mọi giới ). Qua sự kiện này đã đủ nói lên ảnh hưởng của bà Nhu, đã chinh phục toàn diện con người ông chồng mà nhiều khi chính ông Nhu cũng không biết (ảnh hưởng của bà vợ đối với ông chồng là một cuộc hành trình với những chất liệu “vô hình” thấm dần vào tim óc nói ra không được và chỉ mơ hồ cảm thấy) hoặc không thể cảm thấy và chỉ có người ngoài mới nhìn thấy rõ được.
Bởi vậy cô nhân tình của một nhà lãnh đạo nhiều trường hợp lại ảnh hưởng sâu xa đến chuyện quốc gia đại sự mà chính nhà lãnh đạo đó cũng không hay để tự cảnh giác. Do vậy, nhà lãnh đạo dù tài ba cũng cần phải đặt mình trong guồng máy lãnh đạo và phải chấp nhận mọi khám phá tình cảm và phê bình cá nhân mình qua sự phát biểu kiểm thảo của các bộ phận guồng máy.
Giới thân cận của ông Nhu biết rõ ràng ông không bao giờ nghe vợ bàn góp ý kiến. Sự thực một người tự kiêu như ông Nhu với khả năng trí thức như vậy khó lòng có thể tin theo ý kiến của bà vợ còn nhỏ tuổi mà trước mắt ông, bà chỉ vẫn là hình ảnh cô nữ sinh trường Pháp chưa đậu Tú Tài. Tuy nhiên, đã có một vài trường hợp ngoại lệ ông Nhu theo ý kiến của bà nhưng đó chỉ là ý kiến xuất phát từ khả năng trực giác dồi dào của một người đàn bà thông minh nhạy cảm (qua vụ đảo chính hụt 11-11-60). Về phần này thì người đàn ông dù tài ba đến đâu cũng đành chịu thua đàn bà. Ý kiến của đàn bà xuất phát theo trực giác phần lớn đều đúng với thực tế cả.
Nhưng ông Nhu vốn sợ “sì căng đan” đó cũng là một điểm yếu của một nhà trí thức làm chính trị. Bà Nhu vốn nóng như lửa nói năng bất chấp và dễ gây gổ làm chuyện lớn. Hễ một khi bà vợ gây gổ lớn tiếng thì ông Nhu đành im. Quá lắm thì ông Nhu chỉ đập bàn, mắng mấy câu tiếng Pháp cho thỏa rồi đành chịu thua (giới ăn học bị vợ lấn át và mang tiếng sợ vợ phần lớn cũng chung một cảnh ngộ tâm lý như vậy) TT Diệm lại cũng là người sợ sự lớn tiếng gây gổ. (Đại Úy Bằng kể lại, một lần TT Diệm bảo ông đi theo sang bên phòng ông bà Nhu. Ông Tổng Thống đang có điều gì vui mừng. Nhưng gần đến cửa phòng nghe thấy bà Nhu la lối ông chồng, TT Diệm quay gót trở về phòng khẽ lắc đầu) Cứ nhận diện ông Nhu theo tướng số thì khuôn mặt ông không phải là người “sợ vợ”.
Còn một chi tiết nhỏ này cũng đủ chứng tỏ, ảnh hưởng của bà Nhu đã thâm nhập sâu xa trong con người ông chồng: Trước kia ông muốn hút bao nhiêu thì hút. Nhưng kể từ năm 1959-1960, bà Nhu giới hạn. Mỗi ngày tự bà chia cho ông một vài điếu hút cho đỡ nhớ mà thôi. Nhiều khi một điếu được cắt làm đôi. Một người nghiện thuốc lá nặng như ông Nhu mà đành chịu như vậy thì cũng là một điều lạ lùng.
Trước năm 1955 ông Nhu là người ăn mặc xuề xòa… Khi trở thành Cố Vấn Chính Trị ông cũng vẫn thế nhưng ông anh Tổng Thống không bằng lòng vì cho rằng ăn mặc như vậy “mất cả thể thống… thím phải lo cho chú ấy ăn mặc đàng hoàng”. Từ đó, tự tay bà Nhu lo liệu cho ông chồng, bà lựa chọn cho ông từng chiếc cravate. Ngay văn phòng làm việc của ông bà Nhu cũng tự tay trang trí cho ngăn nắp mỹ thuật. Một người già mà được cô vợ trẻ săn sóc yêu thương như vậy ai mà không cảm động. Từ chỗ cảm động đến chỗ bị “chi phối âm thầm” không bao xa.
Ảnh hưởng của bà Nhu đối với ông chồng mỗi ngày càng mạnh đó cũng là điều dễ hiểu xét theo khía cạnh tâm sinh lý. Ông Nhu không phải là người ăn chơi, trước năm 1954 sống trong thế giới kín cổng cao tường của Phủ Tổng Thống. Ông Nhu cũng không phải là người quảng giao nên ít bạn bè. Rồi tuổi ông mỗi ngày một cao… Cô vợ với tuổi hồi xuân càng trở nên “ngào ngạt yêu thương” đó mới là nguyên nhân thầm kín tạo cho bà Nhu có một “uy quyền” đối với ông chồng. Thứ uy quyền chỉ có thể cảm thấy nơi ông chồng sống đời nội tâm… Bà vợ trái hẳn lại, ham mê hoạt động hòa cuộc sống với bên ngoài… Đó không phải là hai thái cực mà là hai cái “nố” mâu thuẫn để tạo thành một hậu quả chi phối đời sống vợ chồng theo một tương quan tình cảm.
Một vài nhân vật thân cận nhất của ông Nhu bị ông cho ra “rìa” vì thất sủng trước hết do sự bất hòa và bất đồng giữa các nhân vật này với bà Nhu. Nói rằng ông Nhu nghe vợ thì không đúng… nhưng quả vì sợ mà ông bỏ rơi một vài người thân cận… Thật dễ hiểu, trong đời sống phòng the, nay nghe bà vợ rủ rỉ bên tai: “thằng ấy nó như thế như thế“, mai lại nghe bà vợ phàn nàn: “ông ta như vậy như vậy”. Những lời ngọt ngào đó lúc đầu ông chồng bỏ qua vì cho rằng “chuyện đàn bà…đàn bà lắm chuyện” nhưng lâu ngày, thì chuyện đàn bá hóa thành chuyện đàn ông. Trong cái thời đại quân chủ, bao nhiêu bậc Vua Chúa đã mất ngai vì nghe vợ thủ thỉ bên tai. Ở miền Nam này cũng vậy, bao nhiêu lãnh tụ đảng phái mất cả anh em đồng chí rồi hủ hóa cũng một phần vì nghe vợ trong cung cách trên. Vậy thì vấn đề quan trọng phải đặt ra ngay: người lãnh tụ cũng chỉ là một người nên không thể dứt bỏ đời sống vợ chồng riêng tư. Nhưng nếu mưu đồ đại sự dứt khoát ngay từ lúc nhập cuộc là không để đàn bà chen lấn vào công việc của mình. Muốn loại bỏ những ảnh hưởng tiệm tiến vô hình ấy thì lãnh tụ phải được biến thể theo khách quan của thực tại lãnh đạo. Thực tại lãnh đạo gần nhứt là các đồng chí thân cận. Nếu nghe vợ hay vì cách này cách khác qua ảnh hưởng của vợ mà làm xa cách đồng chí thì sứ mệnh lãnh đạo không còn nữa. Staline hay Hitler tạo được sức mạnh tối thượng và tối đa của uy quyền lãnh đạo vì họ là con người thép không còn rung động trong chủ quan thực tại khách quan của lãnh đạo còn ông Nhu hay ai ai sau này muốn  chủ toàn sứ mệnh lãnh đạo thì trước hết phải giải quyết ngay cái mâu thuẫn giữa tình cảm cá nhân trong đời sống riêng tư và đời sống tình cảm tập thể trong đời sống guồng máy. Bông hoa hồng của bà vợ cài trên áo mình và cái đinh ốc trong guồng máy mà mình lãnh đạo cả hai đều quan trọng nhưng  làm thế nào để không vì bông hoa hồng mà làm mất đi chiếc đinh ốc của guồng máy đó mới là điều quan trọng.
Chúng tôi có đọc cuốn “La Révolution sensuelle” nói về cuộc cách mạng của Fidel Castro tại Cuba.
Đó cũng là cuộc cách mạng nhậy cảm nhờ sự tham dự ngào ngạt hương thơm của phái yếu. Vậy thì muốn mưu đồ đại sự cũng cần có yếu tố nhạy cảm và phái yếu bổ xung để gợi cảm và xung động quần chúng. Vậy thì sự thành lập Phụ Nữ Liên Đới cũng như tổ chức bán quân sự của phụ nữ (tuy chỉ có hình thức biểu dương) quả là điều cần thiết cho những chiến thuật chính trị. MTGPMN bổ nhậm phụ nữ làm Tư Lệnh phó lực lượng võ trang của họ cũng không ngoài chiến thuật chính trị để tạo được sự chú ý của quần chúng và gây được nồng độ nhạy cảm trong cuộc chiến đấu.
Nếu như bà Nhu chỉ đứng bên trong lèo lái và chọn một người tương đối xứng đáng đứng ra thành lập thì quả là tốt đẹp. Nhưng đây thì lại khác, bà Nhu vừa là tác giả lại đóng luôn vai trò diễn xuất của “kép” chánh.
Đáng lẽ chúng tôi không viết về phong trào Phụ Nữ Liên Đới của bà Nhu vì miền Nam đã có bao nhiêu Hội, Phong Trào như vậy chỉ xuất hiện như vậy để trình diễn nhất thời rồi lại tan vào lãng quên. Nhưng muốn nêu lên đây một kinh nghiệm và xác định rằng nếu ai ở thế chính quyền cũng cần phải tạo được một số thế lực của mình để hỗ trợ cho chính quyền mà mình đã nắm được. Sau năm 1963, người ta đã có mặc cảm và thiên kiến về phong trào Phụ Nữ Liên Đới của Bà Nhu.
Từ đấy đến nay cũng chưa ai đứng lên tổ chức một phong trào như vậy.
Nhưng dù thế nào cũng phải công nhận rằng: Miền Nam từ năm 1954 đến nay, Bà Nhu là người đầu tiên đã xây dựng được phong trào phụ nữ – nhất là phụ nữ bán quân sự – dù phong trào ấy như viết trên, tuy có danh mà không có thực nhưng có vẫn hơn không.
Ông Nhu cũng như TT Ngô Dình Diệm có “dính dáng” vào sự thành lập phong trào đó không? Có thể nói là TT Diệm thấy cô em dâu làm được điều tốt với chủ ý hỗ trợ chính quyền tất nhiên ai ở địa vị ông Tổng Thống cũng không có lý do gì ngăn cản, còn ông Nhu? Ông cũng không đóng vai trò giật giây phong trào đó. Khi thấy việc làm của vợ có ích lợi cho chế độ thì ai ở địa vị ông cũng không có lý do gì ngăn cản. Mà thực ra thì ông Nhu muốn cản cũng không được.
Giới thân cận được biết rằng, đối với Bà Nhu thì “việc ông ông làm, việc tôi tôi làm miễn sao tôi không chống lại ông”. Nhiều việc bà Nhu cứ “làm đại”nếu ông chồng biết thì mọi sự đã rồi. Tuy nhiên những việc “làm đại” đó đối với ông Nhu đều có vẻ hợp lý.
Dư luận trước 1963 cho rằng, ông Nhu bị vợ “chế ngự, áp đảo“… Nhưng điều đó không đúng. Trong các việc chính sự quốc gia, có bao giờ ông hỏi“ý kiến” vợ đâu. Nhưng có điều như thế này, ông Nhu cũng phải ngán sự dữ dằn nóng tính như hổ lửa của bà vợ. Một lần, bà Nhu hỏi ông chồng trước mặt một số người thân trong đó có bà Lương Khải Minh: “Tại sao mấy ông ấy (tức các ông lớn) lại khiếp tôi quá dữ đến như vậy”. Ông Nhu mỉm cười trả lời: “Tui còn khiếp bà huống chi mấy ông ấy”.
Bà Nhu áp đảo được nhiều nhân vật cỡ lớn trước hết nhờ yếu tố bạo ăn bạo nói của bà.
Trong những buổi họp ban chấp hành Liên Đới, bà Nhu chủ tọa và hầu như chỉ có mình bà ta độc thoại. Các bà khác ngồi lặng thinh lắng nghe chăm chú và luôn tỏ ra thán phục. Một lần nọ vào năm 1962 một bà Liên Đới đi họp muộn. Bà Nhu hỏi lý do thì thực thà trình bày là có một vài nhân vật Mỹ đến thăm ông chồng do đó đến muộn. Trước đông đủ mọi người bà Nhu lớn tiếng “Tiên sư cha mấy thằng Mỹ”.
Đại cương lời ăn tiếng nói của bà Nhu có những lúc sỗ sàng như vậy.
Nhưng nó lại quá sức thất lợi về phương diện giáo tế chính trị. Chửi Mỹ sỗ sàng như vậy vào năm 1963 quả là “liều” nếu không phải là bà Nhu thì không ai dám ăn nói như vậy. Nhưng bà Nhu nói, với tư cách Chủ Tịch Trong Trào Liên Đới lại là vợ một Cố Vấn chính trị thì hẳn rằng giới chức Mỹ phải đặc biệt lưu ý (trong đám người hội họp đó dĩ nhiên là phải có một vài bà về học lại với ông chồng và ông chồng học lại với Mỹ).
Cho nên cũng không lấy làm lạ khi bà Nhu qua Mỹ “giải độc” Bà đã làm chấn động Bạch Cung qua những lời tuyên bố nảy lửa mạt sát Mỹ thậm tệ. Công kích và mạt sát Mỹ là điều ai cũng thích cả nhất là quảng đại quần chúng như vị trí và tư thế của bà Nhu lúc ấy thì sự công kích Mỹ chỉ tạo nên những hậu quả nguy hiểm cho chế độ Ngô Đình Diệm.
Với tự ái dân tộc nhược tiểu cùng với bao nhiêu niềm phẫn uất phải dấu kín trong lòng thì việc bà Nhu sang tận Mỹ và lớn tiếng chửi thẳng vào bộ mặt lớn cùng chính sách sai lầm của Mỹ chúng tôi coi đó như một điều hân hoan và có thể mô tả bà Nhu như một phụ nữ Việt Nam đầu thế kỷ 20 sang tận nước Pháp đứng giữa kinh thành Paris bắc ghế và “vén váy” chủi vào mặt nước pháp. Bây giờ thì người phụ nữ đó, báo Mỹ mệnh danh là “Rồng Cái” đã chửi Mỹ thật lưu loát.
Sự công kích Mỹ của bà Nhu chỉ là cách “xả hơi” nói cho sướng miệng. Khi mà chế độ Ngô Đình Diệm đang thất lợi đối với dư luận Mỹ thì sự công kích ấy không có ích lợi gì và chỉ làm tăng sự phẫn nộ trong dư luận Mỹ. Tuy nhiên, bà Nhu đã gây được sự chú ý đặc biệt của dân chúng Mỹ nơi mà người dân luôn luôn bị kích động bởi những sì căng đan một dân tạp chủng thường xuyên quay cuồng trong một nhịp sống đổi mới không ngừng hiếu kỳ tuyệt độ.
Vốn là người nói năng bất kể…bà Nhu không kiêng nể một ai ngoại trừ anh em nhà chồng bà. Năm 1963, bà đã không tiếc lời công kích cả thân phụ bà (LS Trần Văn Chương) trước đó bà cũng đã không tiếc lời bài bác ông chú ruột của bà tức BS Trần Văn Đỗ (trong nhóm Caravelle). Cho nên bà Nhu mô tả các vụ tự thiêu của Phật Giáo với ngôn từ như “rô ti người bằng săng của Mỹ” cũng không có gì khó hiểu. Có lẽ trên đời bà Nhu chỉ khâm phục có anh em nhà chồng bà rồi đến bà.
Trước khi trở lại vụ Phật Giáo 1963 ở đây chúng tôi cũng cần phải chắc qua Trong Trào Phụ Nữ Liên Đới với bản chất của nó.
Quả thực phong trào đó là một hội đàn bà đúng nghĩa với chữ đàn bàtheo quan niệm của người Việt Nam. Giá như phong trào này chỉ chuyên tâm đến các hoạt động xã hội từ thiện thì không kể làm gì. Đó là điều rất tốt.
Ngày 20-5-1958 trong một phiên nhóm họp  Quốc Hội, bà Nhu đã đưa ra một đề nghị thành lập một Trong Trào Phụ Nữ với danh xưng “Phụ Nữ Liên Đới Việt Nam” và yêu cầu Liên Đoàn công chức để cho các bà vợ công chức được phép tham gia. Bốn năm sau Phong trào đó mới được TT Diệm chính thức chấp thuận và được thừa nhận là một Hội Đoàn Công Ích (SL 84 VN 13-4-62)
Như trên đã viết, phong trào này không đạt được “quần chúng tính“. Trước sau đây chỉ là một hội đoàn của các phu nhân, vợ công chức cùng nữ công chức và nữ quân nhân. Vì vậy mà hội đoàn ấy được xem như một hội đoàn bán chính thức của chính quyền.
Ban Chấp Hành Trung Ương  ngoài một số nữ Dân Biểu “gà nhà” của bà Nhu còn hầu hết là vợ các công chức cao cấp và tướng tá. Vai trò của các bà cao thấp tùy theo địa vị của người chồng cùng sự khôn lanh nịnh bợ bà Cố Vấn.
Một bà là vợ ông Tướng nên được làm Tổng Tư Ký, một bà là vợ ông Bộ Trưởng nên được cân nhắc làm Phó Chủ Tịch v.v…Chúng tôi không bao giờ làm công việc “bới móc” chuyện “đàn bà con trẻ” nhưng chuyện “đàn bà” của Phong Trào Phụ Nữ Liên Đới lại có sự liên hệ đến sự vong tồn của một chế độ. Thật là những sự rủi ro do những lỗi lầm tình cờ ấu trĩ và chính trị khi đàn bà xen lẫn vào chính trị. Đáng lẽ, một Phong Trào như vậy phải tìm những phụ nữ có khả năng, có học vấn (học vấn không có nghĩa là phải có bằng cấp). Nhưng ở đây thì lại khác. Tuy bà X là vợ tướng lãnh thật nhưng chỉ vì “đàn ông quan tắt thì trầy, đàn bà quan tắt nửa ngày nên quan” cho nên bà ta chỉ có trình độ “biết viết” nhưng nhờ địa vị của chồng nên phút chốc đã leo lên hàng “lãnh tụ” của phong trào. Như vậy phong trào ấy làm sao có lãnh tụ tốt, có sáng kiến tốt cho được. Tuy phong trào cũng có một vài bà Luật Sư nhưng đa số chỉ là độc giả của báo “SM” và khán giải mộ điệu của tuồng “cải lương“… nếu không thì chỉ lại lo toan affaire làm giầu. Bởi vậy mới có một bà Liên Đới phu nhân của một Bộ Trưởng khi ngồi vào bàn hội nghị với tư cách chủ tọa bà lên tiếng ngay “Thưa chị em hôm nay đại diện bà Cố vấn tôi tuyên bố bế mạc hội nghị “. Cả hội trường đều ngỡ ngàng tại sao chưa khai mạc mà đã bế mạc, sau mới rõ bà Bộ Trưởng xử dụng chữ bế mạc thay cho chữ khai mạc! Rồi một phu nhân khác trong một dịp đi vận động bầu cử. (khóa III 65) đến một trại gia binh đã nói với các bà vợ quân nhân ở đây rằng:
Chồng tôi làm đến Bộ Trưởng… chồng tôi chức như vậy tôi đâu có ham nhưng vì thương chị em tôi mới đứng ra ứng cử để bênh vực quyền lợi cho chị em”. “Bằng một giọng” lớn lối như vậy các bà vợ lính la ó… nhún vai nhỏ nước bọt… Bà ứng cử viên Dân Biểu  phải chuồn lẹ. Đại cương các bà có những lỗi lầm ấu trĩ… nhưng mấy bà lại “đua nhau” tham gia công tác phong trào để được bà Cố Vấn súng ái rồi chỉ định ra tranh cử Dân Biểu (khóa III QH phong trào Liên Đới đạt 22 ghế Dân Biểu).
Tất nhiên cùng không ai quá khắt khe chấp nhất những “lỗi lầm đáng bỏ qua” của quí bà. Nhưng có điều quan trọng thế này: Các bà đã làm cho các ông mâu thuẫn nhau, hiềm khích nhau…Rồi chính phủ trở thành “Chính phủ đàn bà”.
Bà Nhu trao cho bà Tướng X công tác A. Bà Tướng X hoàn toàn “mù tịt”nhưng cứ nhận bừa rồi về nhà trao trách nhiệm thực hiện cho ông chồng. Ông chồng lại gọi thuộc viên vào trao phó… Thuộc viên hùng hục làm cho xong vì họ đã thuộc nằm lòng tiêu chuẩn “lệnh của bà mới là điều quan hệ!!” Bà Nhu lại trao cho bà Bộ Trưởng Y công tác B…Bà Bộ Trưởng cũng cứ “nhận đại” rồi về trao phó cho ông chồng… Ông chồng nào (nể vợ) thì làm hay ông nào “cứng đầu” với vợ thì làm qua loa. Hậu quả không những các viên chức cao cấp phải làm thêm công việc Liên Đới của các bà vợ mà còn tạo nên sự ganh tị suy bì… Bà X tâng công “Việc của em Bà Cố trao phó cho em làm xong ngay còn việc của chị X… chị ấy dựa vào thế lực của chồng chị ấy chỉ có chỉ tay năm ngón !”
Các bà chia thành phe cánh ra lườm vào nguýt, cũng là điều dễ hiểu nhưng các bà lại kéo theo các ông… Thói thường cái gì bà không thích thì cho dù ông không nghe theo nhưng lâu ngày thủ thỉ bên tai cuối cùng ông cũng về phe bà mà không thích như vậy. Nhiều ông với những “cái yếu”nhất của con người…cũng cố giúp vợ sao cho đắc lực để bà Cố Vấn tin cẩn nhờ đó vợ sẽ giữ địa vị cho chồng bảo vệ địa vị một cách hữu hiệu. Đàn bà Việt Nam không có gì đẹp hơn là làm nội tướng trong gia đình giúp chồng trong sự giao tế trông nom con cái lúc ấy hình ảnh bà không còn gì đẹp hơn nhưng khi các bà nhẩy ra sân khấu để diễn xuất (mà lại diễn xuất trật lất hết trơn) lúc ấy kẻ đứng ngoài quan sát thấy nó chướng mắt lắm. Các Bà Liên Đới cận thân Bà Nhu đã diễn xuất nhiều sự chướng ta gai mắt như vậy. Lẽ tất nhiên không lôi kéo được quần chúng. Đây cũng là bài học cho các phu nhân của những ai đang và sẽ ở vào thế lãnh đạo xứ sở.
Fénelon nói một câu thật có lý: “đàn bà, khó thương kể cả má của tôi”…Cái khó thương trong dễ thương mà càng dễ thương trong tình yêu gia đình thì lại càng khó thương trong đời sống công cộng ít nhất là chính trị.
Trong cái hội Phong Trào Liên Đới cũng như nhiều hội đoàn thiếu nữ khác thì sự ganh tỵ như là bản chất (vì máu nghen là bản chất của đàn bà, nó đẹp và dễ thương khi đàn bà ghen trong tình yêu). Chúng tôi thí dụ: Dạo năm 1959, một phái đoàn phụ nữ sang Tân Gia Ba tham dự Hội Nghị Phụ Nữ Đông Nan Á, một nhân vật cận thân của ông Nhu đã dặn vợ trước khi bà ấy lên đường là khi sang đó phải cố gắng làm sao đừng cho báo chí họ đề cao hay nói đến mình quá nhiều cũng đừng để báo chí chụp hình. Vì nhân vật này hiểu rõ quý bà nên tránh ngộ nhận cho nó được “êm tai” để làm việc. Khi phái đoàn trở về Tân Sơn Nhất, báo chí Việt Nam cũng làm cái việc thông thường là phỏng vấn chụp hình…
Khi nhân vật này biết được như vậy ông đã phải điện thoại cho khắp báo quán xin “thông cảm” đừng tường thuật cái có dính dáng đến tên vợ“vì như vậy phiền lắm” ông cũng lưu ý các báo đừng đăng hình nào nếu có mặt vợ ông. Sau được biết nhật báo Saigon Mới của bà Bút Trà lại in hình vợ ông trong bài tường thuật. Nhân vật này xin báo Saigon Mới “tha tội“ nhưng báo đã in được 5000 số, ông cũng đành nói với bà chủ nhiệm: “Trước đây vì ơn nghĩa với nhau Bà có quà cho vợ chồng tôi nhưng tôi không nhận. Thôi bây giờ bà cho tôi 5000 số báo đã in. Nhờ bà cho đục các bản kẽm có hình nhà tôi dù tốn phí thế nào cũng xin chịu” Bà chủ nhiệm Saigon mới vui vẻ nhận lời.
Tuy vậy 5000 số báo đã in xong để rồi cho vào kho bán “ký” thế nhưng một vài tờ cũng vẫn lọt ra ngoài và một bà Liên Đới đã sốt sắng đưa vào trình bà Cố Vấn. Bà Nhu lại tức giận cho rằng “Đi hội nghị chỉ lo đề cao cá nhân“… Nhưng thực tình thì bà Nhu không muốn ai nổi bật ngang mình hay hơn mình. Phân tách ra thì đây cũng chỉ là “mạc cảm lãnh tụ” của phái yếu.
Còn một điều đáng nói hơn nữa là dư luận quần chúng quanh bức tượng Hai Bà Trưng dựng tại công trường Mê Linh (Bến Bạch Đằng tháng 3-1962). Bức tượng Hai Bà Trưng sáng ngày 2-11-1963 đã bị làn sóng biểu tình của SVHS hè nhau kéo đổ rồi chặt đầu lôi quanh các đường phố chỉ vì bức tượng đó giống bà Nhu và con gái bà tức Ngô Đình Lệ Thủy. Bức tượng ấy quả có giống hai mẹ con bà Nhu thật.
Nhưng nguyên do từ đâu mà lại giống như vậy? Có phải mẹ con bà Nhu làm mẫu cho điêu khắc gia Nguyễn Văn Thế tạc tượng ấy không (ông Thế đạt được giải Á Nguyên La Mã về điêu khắc).
Bức tượng Hai Bà Trưng thật “kính chả bỏ phiền“. Bao nhiêu lời đàm tiếu chung quanh bức tượng đó. Mà sự đàm tiếu cũng rất phải vì đây là sự bôi lọ anh hùng lịch sử. Khách bàng quan ai đi qua bến Bạch Đằng nhìn thấy pho tượng cũng không khỏi hổ thẹn. Lạ thay càng nhìn kỹ pho tượng càng giống hệt hai mẹ con bà Nhu. Cũng vì vậy mà pho tượng trở thành trung tâm của bao lời phê phán nghiệt ngã. Người thức giả trung dung cũng phải lên tiếng :”pho tượng sừng sững thế kia còn gì là thể thống quốc gia. Lịch sử còn gì giá trị nữa” Rồi người ta suy luận rằng: “Bà Nhu dám can đảm dựng tượng mình như vậy thì chuyện gì bà ta không dám làm?”
Sự thực pho tượng ấy do điêu khắc gia Nguyễn Văn Thế thực hiện. Người được chỉ định làm mẫu để tạc pho tượng này không ai khác hơn là cô Cao Xuân Châu Phố (dạo ấy còn là sinh viên luật khoa). Nhưng tại sao nó lại giống hai mẹ con bà Nhu, đó là cả vấn đề bí ẩn không lẽ trong lúc sáng tác ông Thế lại mắc bệnh ám thị về hình ảnh hai mẹ con bà Nhu! Hay là có một bàn tay bí mật nào muốn sa đọa hơn chế độ tạo nên một đối tượng cho dư luận mỉa mai đồng thời tạo nên tác dụng tuyên truyền trong quần chúng mà đối phương mong muốn, đây cũng chỉ là một giả thuyết. Tuy nhiên theo Đại Úy Bằng, sĩ quan hầu cận, thì chính điêu khắc gia Nguyễn Văn Thế, trước ngày Phật Đản 63 đã từ Huế về Saigon rồi đi thẳng vào Dinh Gia Long báo cáo với TT Diệm “Thưa Cụ Phật Giáo ngoài Huế họ làm chi mà lố hết sức chẳng tôn trọng luật lệ quốc gia. Gần Lễ Phật Đản mà con thấy Huế cả một rừng cờ Phật giáo”. Điêu khắc gia Thế lại nói tiếp:“Chẳng hề có Quốc Kỳ chi cả. Ở Châu Âu cờ Công Giáo đâu có treo như vậy”…Phải chăng do lời báo cáo này mà TT Diệm nổi giận rồi tức khắc gọi ông Đổng Lý Quách Tòng Đức và đọc cho ông Đức viết bức công điện “Cấm treo cờ Phật giáo ngoài đường“. (năm 1964 ông Thế được Tướng Khánh cho phép xuất ngoại qua Âu Châu).
Cách ăn mặc của bà Nhu cũng tạo nên nhiều dư luận bất lợi trong quần chúng. Bà luôn luôn “lancé” các kiểu áo dài phụ nữ. Kiểu áo hở cổ mà hiện nay các bà các cô thường mặc thì chính bà Nhu đã “lancé” từ dạo 1958. Rồi một số bà Liên Đới cũng ”a dua” mặc theo kiểu này. Bà Nhu phỏng theo kiểu áo dài Việt Nam và áo dài của phụ nữ Chiêm Thành. Áo dài của bà lại thường thêu hoa lá và chim phượng hoàng. Một bức ảnh cho ta thấy, bà Nhu mặc chiếc áo dài hở cổ, ngay trước ngực thêu một con chim phượng hoàng… Bà nhu coi đó là việc “cách mạng” chiếc áo dài Việt Nam.
Bà Nhu không muốn một ai phê bình mình. Tất nhiên như vậy thì chỉ chấp nhận sự ca ngợi tán tụng. Bất kỳ ai một ai tỏ ra nổi hơn bà một chút, khác hơn bà một chút cũng đủ bị “thất sủng“. Khi bà vợ bị thất sủng thì ông chồng cũng dễ dàng bị thất sủng. Người đàn bà có tài và thông minh hầu như đều mắc phải cái tật xấu này. Bà Nhu bị nhiều người ghen ghét, bị dư luận dân chúng chỉ trích nặng nề và nghiêm khắc trước hết do sự xuất hiện nặng phần trình diễn của bà cùng tính cao ngạo và cố tạo ra vẻ có uy quyền để được mọi người thán phục tôn trọng.
Nếu so với nhiều bà tai to mặt lớn hiện nay thì sự trưng diện quần áo của bà Nhu cũng hãy còn giản dị lắm. Nhiều bà lớn bây giờ đeo cả hạt xoàn kim cương đáng giá 3, 4 triệu đồng với kẻ hầu người hạ như một nữ lãnh chúa cùng sự ăn chơi bài bạc vô cùng sa đọa. Nhưng chỉ có một giới nào đó biết rõ mà thôi. Song bà Nhu dù có mặc đồ nội hóa, không đeo kim cương hạt xoàn lộng lẫy xa hoa, thế nhưng dân chúng mọi giới đều chúi mũi vào bà. Tại sao? Giản dị vì bà tiêu biểu cho một phần uy quyền của chế độ, uy quyền ấy không được chính thức công nhận nhưng thực tế thì không ai chối cãi được.
Gia đình bà Nhu ở trong Dinh Tổng Thống với hai phòng không được rộng rãi lắm.
Bà nổi tiếng là người “keo kẹt”, chi tiền chợ hàng ngày. Ông Nhu thì vợ cho ăn uống như thế nào thì ăn uống như vậy, không đòi hỏi. Những người hầu cận cho biết, nhiều khi ông Nhu đi săn mang về theo ít thịt nai hoặc thịt mấy con chim thì bà Nhu lại bớt tiền chợ và dùng đồ săn đó bắt ông chồng ăn cả hai ba bữa. Hai căn phòng của ông Nhu trang hoàng không có gì xa hoa lộng lẫy trái lại có vẻ bình thường trung lưu.
Bà Nhu sống trong cảnh kín cổng cao tường cho nên dễ dàng trở thành nơi thâm cung bí sử. Dân chúng bao giờ cũng tò mò muốn tìm hiểu sự thật cho nên khi thấy cảnh bà Nhu đi xe hơi lộng lẫy, ăn mặc diêm dúa, lính tráng theo hầu canh gác cẩn mật, bằng thứ ấy làm dân chúng dễ dàng liên tưởng đến sự xa hoa đài các. Rồi thân hình của bà Nhu nữa, căng đầy nhựa sống và trang sức như một tài tử, dân chúng lại càng liên tưởng từ một ẩn dụ sinh lý. Bởi vậy mới có dư luận hàng ngày cho bà Nhu tắm bằng sữa tươi giữ cho da được tốt.
Sau 1-11-1863, đã biết bao nhiêu dư luận được tạo dựng chung quanh bà Nhu… nhất là một số tình ái lăng nhăng… Không hiểu xuất phát từ đâu, có một số hình ảnh lõa lồ của bà Nhu và mấy bà Liên Đới được tung ra công chúng và nói rằng bà Nhu buộc các bà Liên Đới phải chụp ảnh lõa lồ như vậy để bà giữ làm điều kiện, ấy thế mà dư luận có vẻ tin thực. Chúng tôi xem tấm hình lõa thể của bà chủ nhiệm báo Saigon Mới… trông qua thì có vẻ giống nhưng nhìn kỹ thì một người già như vậy không thể nào có cặp giò tròn trĩnh chắc nịch như vậy. Tấm hình lõa thể của bà Nhu cũng vậy, nhìn qua thật là giống nhưng so sánh, một người Việt Nam như bà dù nở nang nhưng với 4 mặt con và trên 40 tuổi không thể nào có bộ ngực và cặp giò tròn trĩnh chắc nịch như vậy. Tấm thân từ cổ xuống phải là tấm thân của một cô gái Tây phương khoảng 22-23 tuổi.
Sự thực ai cũng biết rằng, những hình ảnh trên đã dược các tay thợ ảnh lành nghề nối ráp lại. Nhiều bà tai to mặt lớn đã bị bọn “bất lương“ tống tiền bằng cách đe dọa đem đăng báo hình ảnh lõa thể (ngày nay hồi tưởng lại mới thấy ngán trò đời thâm độc thật. Cao Miên sau cuộc đảo chánh LonNol hình ảnh Hoàng Hậu Monique cũng được ráp nối lại và trở thành Monique dâm loạn truyền tay nhau để thưởng thức). Thành ra trò đời đâu cũng giống đâu về những âm mưu thâm độc.
Sau cuộc đảo chánh 63, bà Nhu được mô tả như một “ác phụ dâm loàn” Tại sao như thế? Giản dị trong quá khứ bà đã gây nên nhiều nỗi bất bình nhất là ở giới thượng lưu.
NGÔ ĐÌNH NHU: MỘT HỌC GIẢ UYÊN THÂM
Ông Nhu đậu cử nhân văn chương đại học Sorbonne Ba Lê và tốt nghiệp trường Chartes.
Danh từ riêng “Chartiste” chỉ những người tốt nghiệp trường Chartes của Pháp cũng đồng nghĩa với sự uyên bác, thông thái. Trường Chartes không tới 100 sinh viên nhưng thư viện lại chứa đựng 100.000 tài liệu và sách thuộc mọi ngành. Giáo sư hầu hết là Học Giả và các ông Hàn Lâm. Mỗi lớp chỉ giới hạn khoảng 20 sinh viên. Tuy ấn định tú tài II được thi vào, nhưng sinh viên đều phải học qua hai năm luyện thi vào trường Chartes(tại trường danh tiếng Henri IV). Cố Giáo Sư Nguyễn Thiệu Lâu, bạn học của ông Nhu cũng theo học tại Chartes nhưng bị loại vì sự thi cử rất khắt khe, trong 4 năm học Sinh viên chỉ có quyền thi trượt một lần và mỗi năm chỉ có một kỳ thi lên lớp. Mỗi khóa năm thứ nhất vào khoảng 20 sinh viên thì tốt nghiệp chỉ lọt chừng một nửa. Chương trình học thật là mênh mông. Tiếng La Tinh là ngôn ngữ thông dụng.
Sinh viên phải am tường về cổ tự phải học về công văn thư, học Pháp chế sử… Ông Ngô Đình Nhu đã được đào tạo trong môi trường khoa bảng uyên thâm dó.
Khi về nước, ông trở thành Quản Thủ Thư Viện. Tại Tổng Thư Viện Hà Nội ông được mô tả như “con mọt sách“. Quả thực một nửa đời người như ông đã chìm đắm trong thế giới suy tư và chữ nghĩa kim cổ.
Hai tác giả mà ông Nhu say mê và nghiên cứu rất kỹ đó là Thánh Ghandi và Mao Trạch Đông (tức là từ triết lý bất bạo động đén triết lý cách mạng bạo động).
Cho đến nay nhiều người vẫn phê bình ông Nhu là thâm hiểm và quá hẹp hòi. Sự thực thì ông quá kiêu ngạo và tự tôn. Hơn nữa ông lại vụng về lúng túng trong sự giao tế. Ông nói rất kém (tiếng Việt cũng như tiếng Pháp) và lại là người ít nói. Nhưng ông lại là người có khả năng tiên liệu, đa mưu túc kế. Với cuộc sống khép kín nên ngay với cộng sự viên cận thân của ông trong 7, 8 năm cũng khó hiểu ông.
Cuộc đời ông Nhu được coi “phong trần” kể từ năm 1945. Khi chiến tranh Việt Pháp bùng nổ tại Hà Nội thì ông Nhu cùng Hoàng Bá Vinh chạy thoát ra vùng ngoại ô Hà nội. Rồi ngày đêm qua sự hướng dẫn của Hoàng Bá Vinh ông Nhu trốn thoát về Phát Diệm và lưu ngụ tại Nhà Chung. Ở đây ít ngày, ông Nhu được hướng dẫn vào Thanh Hóa (vùng Thanh Hóa Phát Diệm đang bộc phát phong trào chống Cộng. Các cán bộ Công Giáo cũng như VNQDĐ vẫn hoạt động mạnh mẽ. Ở đây cũng xin tưởng niệm hương hồn Cố văn sĩ Mai Nguyệt Đái Đức Tuấn ủy viên quân sự tỉnh đảng bộ VNQDĐ Thanh Hóa là một trong số những cán bộ quốc gia hoạt động mạnh mẽ tại vùng Thanh Hóa).
Người hướng dẫn ông Nhu từ Phát Diệm vào địa phận Thanh Hóa là Bác Sĩ Trần Kim Tuyến. Dạo ấy ông Tuyến vừa đậu Tú Tài II – ba lô trên vai với chiếc xe đạp “cuốc” ômg Tuyến làm hướng dẫn viên. Ông Nhu thì ngồi trên chiếc xe kéo bánh gỗ che kín. Ở lại Nhà Chung Thanh Hóa trong 3 tuần lễ rồi ông Nhu lên thẳng Bái Thượng, ông Nhu được Linh Mục Trọng hướng dẫn lên châu Thường Xuân Hòa Bình.
Ở đây ít ngày, ông lại được một vị Linh Mục thuộc họ đạo Mường đưa ông qua Sầm Nưa (Lào) theo ngả đường rừng.
Trong thời gian này, ông chịu ơn các Linh Mục địa phận Thanh Hóa. Sau này, ông còn nhớ mãi ân nghĩa đó. Linh Mục Trọng đã phải cho ông Nhu mượn áo “Sourane” Linh Mục để hóa trang trên bước đường trốn tránh.
Hoàng Bá Vinh ở lại Phát Diệm cùng với Lê Quang Luật tổ chức phong trào Xã Hội Công Giáo để hậu thuẫn cho ông Nhu sau này. Ông Lê Quang Luật là một trong mấy cán bộ trụ cột và đã giúp anh em TT Diệm một cách đắc lực ngay từ giai đoạn 1946-1954.
Khi trở về Saigon ông Nhu “thất nghiệp chính trị” và “trùm chăn” để chờ thời. Từ đó, sinh kế trong gia đình đều do một tay bà vợ lo liệu. Trong thời gian này, ông công tác chặt chẽ với Linh Mục Parell trong việc nghiên cứu chính trị xã hội.
Vốn là con người lạnh lùng nên đời sống tôn giáo của ông cũng lạnh lùng. TT Diệm mộ đạo bao nhiêu thì ông Nhu thờ ơ bấy nhiêu. Đức tin của ông thật mạnh mẽ nhưng ông không biểu lộ đức tin đó bằng những hình thức nghi lễ. TT Diệm thì xưng tội rước lễ thường xuyên, ông Nhu trái lại không mấy khi rước lễ, xưng tội. Đại Úy Bằng một người sống lâu năm trong gia đình họ Ngô cho biết, có khi cả năm sống trong Dinh cũng không thấy ông Nhu xưng tội rước lễ.
Mỗi lần xem lễ trong Dinh, hai hình ảnh thật trái ngược: TT Diệm thì đăm đăm đọc kinh, coi sách lễ, ông Nhu tuy cũng quỳ gối nhưng hình như chỉ quỳ thế thôi. Lần nào ông anh cũng mở từng tranh sách lễ rồi trao sách lễ cho ông em, chỉ rõ từng trang. Ông Nhu cầm lấy nhưng chỉ cầm chiếu lệ mà không đọc.
Một cộng sự viên thận cận khi đề cập đến Thiên Chúa Giáo đã nói với ông Nhu: “Thành Bernard cho rằng trong nhà thờ người ta thờ Chúa bằng chén vàng chén bạc, ngoài cửa nhà thì con chiên chết đói” ông Nhu gật đầu đắc ý: “Đúng, đúng như rứa!..” Mỗi lần nghe thấy tin nhà thờ họ đạo này xây nhà thờ nguy nga, họ đạo kia dựng tượng Đức Mẹ rất lớn, ông Nhu lại nhăn mặt khó chịu vô cùng, nói với chung quanh rằng: “tại sao không xây nhà thương trường học mà cứ phải xây nhà thờ”.
Ông Nhu rất ít tiếp xúc với các vị Linh mục trừ một số Linh Mục thân thiết với gia đình. Mỗi khi phải tiếp một vị Linh Mục nào ông coi như là chuyện bất đắc dĩ và tiếp cho mau chóng.
Ông thường tâm sự: “Nhiều cha hay lợi dụng lắm chỉ lo làm afffaire này kia”.
Dư luận cho rằng, ông chống lại hàng giáo phẩm nhưng Lương Khải Minh nhận định: “Ông theo đạo một cách khác. Ông không coi thường các hàng giáo phẩm nhưng không cho là quan trọng đến mức độ phải tôn thờ, quỵ lụy”.
Con người ông Nhu thật khó hiểu vì ông không bao giờ tâm sự với ai, dè dặt mọi cuộc tiếp xúc, không muốn đi ra ngoài và dè dặt từng lời nói. Người ta vẫn có thành kiến ông Nhu thâm độc và chủ trương độc tài. Trái lại ông có vẻ phóng khoáng và có tầm nhìn cởi mở của một chánh khách Tây phương. Người độc đoán phải là TT Diệm ông Nhu thì lại khác. Nhiều sự kiện đã chứng tỏ điều này.
Thí dụ về kết quả về cuộc bầu cử Quốc hội khóa II (31-8-1959) trong đó BS Phan Quang Đán dẫn đầu tại Quận II với 33.166 phiếu và tiếp theo là cụ Phan Khắc Sửu , ông Nguyễn Trân (nguyên Tỉnh Trưởng Mỹ Tho) TT Diệm quyết định phải loại bỏ ba Dân Biểu này bằng mọi cách nhất là ông Phan Quang Đán và ông Nguyễn Trân.
Cả tháng trời TT Diệm cho gọi các luật gia như ông Trần Chánh Thành và GS Vũ Văn Mẫu, để nghiên cứu làm thế nào dùng biện pháp của luật để loại các Dân Biểu.
Ông Nhu nói vói BS Trần Kim Tuyến: “Làm chi mà quá như vậy. Thì người ta đắc cử để người ta vô Quốc hội người vô làm được cái gì… Có ba người như vậy đâu có nhiều mà phải làm vậy…” Ông Nhu tỏ ra rất khó chịu và hoàn toàn bất đồng với TT Diệm về việc này. Cuối cùng, để chiều ý ông anh, ông Nhu đành chịu. Tuy vậy, riêng cụ Phan Quang Sửu vì biết rõ uy tín cũng như đức độ của cụ trong dân chúng nên ông Nhu đã ủy cho ông Bộ Trưởng Huỳnh Hữu Nghĩa liên lạc với cụ Sửu và dàn xếp mời cụ Sửu vào Dinh Độc Lập gặp riêng ông Nhu. Cuộc gặp gỡ giữa cụ Sửu và ông Nhu lâu hơn cả một giờ. Theo BS Tuyến thì cụ Sửu cũng như ông Nhu tỏ ra thông cảm và cởi mở (cụ Sửu bị bắt trong cuộc đảo chính hụt 11-11-60 song cụ Bà vẫn được tiếp tục lãnh lương Dân Biểu).
Thu xếp xong vấn đề cụ Phan Khắc Sửu nhưng còn hai trường hợp ông Phan Quang Đán và Nguyễn Trân, ông Nhu để ông anh mặc quyết định.
Hơn nữa, đối với ông Nhu thì cụ Phan Khắc Sửu mới là điều quan trọng vì không ai phủ nhận được đời sống đạo đức và thành tích tranh đấu của cụ trong dĩ vãng.
Sau đó thì Ủy Ban Hợp Thức Hóa quyết định không thừa nhận 2 Dân Biểu nói trên. Đây cũng là một vết đen lớn của Quốc hội Đệ Nhất Cộng Hòa và dù cách nào hay dựa trên căn bản pháp lý cũng không thể biện minh cho sự sai phạm thể chế dân chủ một cách quá rõ ràng như thế.
Việc loại trừ BS Phan Quang Đán ra khỏi Quốc Hội xét về tâm lý cũng dễ hiểu. BS Đán trúng cử tại một đơn vị chính TT Diệm đi bỏ phiếu và ở ngay khu trung tâm Saigon. Vả lại TT Diệm đã biết rõ con người ông Đán, từ khi gặp ông Diệm bên Mỹ. Ông Nhu thì cho rằng ông Phan Quang Đán không quan trọng “cứ để hắn vô” nhưng TT Diệm không chấp nhận. Đây cũng là điều quá hẹp hòi và sai lầm. Nếu cứ để cho ông Đán vô QH thì sớm muộn gì ông Đán cũng bị “cháy” do chính ông “đốt” ông. Nhưng khi loại ông Đán thì chính là cơ hội cho ông Đán thêm nhiều uy tín tiếng tăm trong dân chúng mà thực ra uy tín đó hết sức bấp bênh.
Dạo đó dư luận đồn đã rằng, chính quyền Ngô Đình Diệm cố loại Phan Quang Đán vì ông Dán có thể tranh cử Tổng Thống và ông Đán sẽ là “con bài nặng ký” của Mỹ. Dư luận cũng cho ông Ngô Đình Diệm ghen tức với uy tín của ông Phan Quang Đán. Sự thực thì năm 1955 chính quyền Ngô Đình Diệm đã chấp thuận cho ông Đán hồi hương mà không do áp lực của Mỹ. Một vài lần TT Diệm có ý dành cho ông Đán một ghế Bộ Trưởng không mấy quan trọng nhưng ông Đán lại quá nhiều tham vọng và muốn trở thành một lãnh tụ đối lập trong khi ông không có lực lượng nhân dân, không có một số cán bộ cần thiết. Điều đó ông Nhu biết rất rõ nên để mặc ông Đán ăn nói rộng rãi trước các Sinh viên Y Khoa năm V và SV trường Cán Sự Y Tế. Khi về nước, BS Đán được mời vào dạy môn y tế công cộng và y tế dự phòng tại 2 trường Y Khoa và Cán Sự Y Tế.
Ông Nhu chấp nhận những cá nhân đối lập cùng những ý kiến đối lập. Cũng vì vậy, TT Diệm quyết định loại trừ Phan Quang Đán và Nguyễn Trân thì ông Nhu lại không đồng ý và cho rằng cứ để họ vô QH. Với một Phan Quang Đán, ông Nhu đã nhiều lần “miệt thị” và sẵn một thành kiến là Phan Quang Đán hèn, hết chạy theo Pháp và Bảo Đại bây giờ lại trở cờ.
Khi qua Mỹ Phan Quang Đán móc nối được mấy tay Thượng Nghị Sĩ và một vài viên chức CIA thì Phan Quang Đán lại trờ cờ theo Mỹ. Ông cũng biết rõ, Phan Quang Đán không có một thực lực nào, đảng dân chủ của ông chỉ là đảng ma và thứ đảng phái “cò mồi” cho Mỹ. BS Phan Quang Đán vẫn tự hào về thành tích lập đoàn khất thực trong trận đói tại miền Bắc 1945 và Phong trào Ngũ Xã tại Hà Nội (chống Việt Minh). Thành tích của ông chỉ có bấy nhiêu thôi. Còn sau này, từ Mỹ qua Phi Luật Tân rồi trở về nước định làm một “cú” đối lập nhưng ông không làm nên chuyện gì cả. Ngay những người quốc gia đối lập thuộc thành phần đảng phái từ Nguyễn Bảo Toàn, Trần Văn Tuyên, Trần Văn Văn, Hồ Văn Nhật cũng không ưa gì Phan Quang Đán vì đã biết “tẩy” của ông Đán, một số người vốn khoa trương thanh thế nhưng chỉ có mỗi thực lực là dựa vào thế của Mỹ qua mấy tay Thượng Nghị Sĩ Dân Chủ (trong khi đảng Cộng Hòa của Eisenhower đang cầm quyền).
Về việc dựa vào thế lực Mỹ như thế nào thì Đại Tá Lansdale đã bắn tiếng cho ông Nhu biết rõ. Nhiều người thân thiện giới chức Mỹ của phòng Chính Trị Tòa Đại Sứ Mỹ thì lại được biết rằng ông Phan Quang Đán vẫn đi cửa sau với ông Đại Sứ Durrbow.
Sau ông nổi tiếng và được dân chúng dành cho nhiều cảm tình là nhờ tờ báo Thời Luận của ông Nghiêm Xuân Thiện. Cộng tác với ông Thiện được ít lâu  và nhờ tờ Thời Luận mà có tiếng tăm thì ông lại trở cờ phản phé ông Thiện và trong khi viết báo đối lập ông vẫn bí mật liên lạc với chính quyền và tìm cách gặp riêng ông Nhu.
Hiểu rõ bản chất thực của những cá nhân đối lập như vậy nên ông Nhu cho rằng không có gì quan trọng mà phải cấm đoán họ. TT Diệm thì lại nghĩ khác. Nhận xét về BS Phan Quan Đán ông Diệm nói: “Hắn dị hợm lắm không dùng được”.
Tuy vậy việc gạt Phan Quang Đán và Nguyễn Trân ra khỏi QH đã gây nhiều bất mãn trong dân chúng nhất là đám dân chúng cử tri Quận II và Đô Thành. Việc này ông Nhu không sao can thiệp được với ông TT Diệm.
Hầu hết những chính khách đối lập tại miền Nam nếu không quen ông Nhu thì cũng từng là chỗ quen biết ông Diệm, những chính khách độc lập ông Nhu không quan tâm vì ông chủ trương chấp nhận đối lập cá nhân và các lập trường dị biệt, nhưng có một điều quan trọng này: ông Nhu không chấp nhận đảng phái đối lập. Phải chăng những ngày dài đọc Lenine và nghiên cứu chiến lược cách mạng bạo động của Mao Trạch Đông (ông Nhu rất ưa thích Mao Trạch Đông) ông Nhu đã dứt khoát mà nói với cộng sự viên thân cận nhất: “Các đảng phái ở Á Châu và các nước chậm tiến không giống như Tây Phương. Đối lập với chính quyền đối với họ là hoàn toàn chống lại chính quyền và tìm mọi cách cướp chính quyền lật đổ chế độ”. Nhận xét kể cũng đúng nếu tìm hiểu các Đảng phái ở Indonesia cũng như bán đảo Ả Rập và lại càng đúng hơn nữa ở Việt Nam. Ngay năm 1954 ông Diệm vừa về nước chấp chánh thì đảng Đại Việt của ông Hà Thúc Ký đã kéo quân ra Ba Lòng lập chiến khu rồi năm 1955 VNQDĐ tại Nam Ngãi kéo quân ra bưng lập chiến khu.
Đó là quan niệm của ông Nhu còn nó có hợp tình hợp lý không thì lại là chuyện khác.
Ngay trong Dinh Độc Lập đã có sự đối lập rồi. Một bên TT Diệm với các ông Võ Văn Hải v.v… Một bên là ông Nhu với mấy cộng sự viên cận thân. Ông Võ Văn Hải theo TT Diệm từ thời thiếu niên, một Phật tử thuần thành nhưng đối với ông Nhu như “mặt trăng mặt trời“. Sau cuộc đảo chánh hụt 11-11-1960 ông Hải bị nghi oan có liên hệ với phe đảo chánh, ông tức giận làm một bản phúc trình dài gửi thẳng lên TT Diệm và kết luận đại cương: “Tôi theo Tổng Thống, trung thành với Tổng Thống tôi chỉ biết một lòng với Tổng Thống mà thôi”
Bản phúc trình ấy có ý nói gián tiếp không cần biết ông Nhu, ông Nhu được xem bản phúc trình đó không biết lòng dạ ông như thế nào nhưng ông không tỏ một thái độ gì cả. Rồi mỗi người mỗi việc, mỗi phận sự.
Nói năng kém hoạt bát, giao tế lại ngượng ngùng. Đó là cái yếu nhất của một nhà chính trị. Ông Nhu mấy lần cũng cố gắng mở các cuộc tiếp xúc với một số chính khách nhưng cũng vì sự giao tế ngượng ngùng nên kết quả không đi đến đâu, không tìm được sự hợp tác.
Sau cuộc đảo chánh hụt 11-11-1960 ông Nhu được khuyến cáo cần phải mở rộng chính quyền phải kết hợp các thành phần vẫn được gọi là đối lập. Một cộng sự viên của ông Nhu ủy cho vai trò móc nối và dàn xếp. Nếu mời các chính khách vào Dinh Độc Lập thì rất bất tiện. Vả lại các vị này vốn có mặc cảm sợ mang tiếng “luồn lót”. Do đó, phải tổ chức cuộc gặp gỡ ở bên ngoài.
Lần thứ nhất, cuộc gặp gỡ tổ chức tại nhà riêng của GS Vũ Quốc Thúc. Nhưng khi ông Nhu đến thì ông lại trở thành người cô đơn lạc lõng. Mấy vị chính khách thì ngồi tận xa và mình ông trơ trọi trên chiếc ghế bành kết quả không đi đến đâu không cởi mở với nhau được những gì cần phải thẳng thắn cởi mở.
Lần thứ hai tại nhà riêng bác sĩ Phan Huy Quát. Lần này khá đông. Nhưng khi ông Nhu đến thì mọi người né tránh, ông vẫn là người trơ trọi. Vốn ít nói lại nói “trọ trẹ” khó nghe nên ông lại càng thêm trơ trọi. Trong khi đó không ai gợi chuyện hiểu tính nhau và tìm đường thông cảm nhau.
Người ta cho rằng, ông Nhu thâm hiểm, sự thực, như trên đã viết, tâm hồn ông quá khép kín, vui buồn không bộc lộ ra ngoài, không mấy khi tâm sự với một ai kể cả những người thân. Ông lầm lì, trù tính những gì không ai hay biết.
Nhưng ông lại là người biết nghe cộng sự viên trình bày điều hợp lý, phải lẽ. Ông nghe kể cả những nguyện vọng của quần chúng. Nhưng có mấy ai trình bày nguyện vọng thực của quần chúng để ông có thể nhìn rõ thực trạng.
Đối với một việc dù quan hệ đến đâu nếu do tay ông giải quyết thì ông giải quyết ngay, không do dự.
Thí dụ năm 1957 nhân một chuyến di dạo quanh đô thành, TT Diệm đi qua bến Bạch Đằng… ông đùng đùng nổi giận vì cảnh bến sống thật là “bê bối“… Hàng quán san sát chiêu đãi viên cùng thực khách đùa giỡn lả lướt, TT Diệm sau đó chỉ thị cho giới chức đô thành phải giải tỏa ngay, ông Tổng Thống cho rằng thủ đô là tiêu biểu cho thể thống quốc gia để cho hàng quán tùm lum ở bến sông, ở hè phố như vậy còn gì là thể thống. Đô Trưởng Saigon khẩn cấp ra lệnh giải tỏa. Hàng ba trăm bạn hàng dọc theo bờ sông Bạch Đằng và một số khác ở các vỉa hè lớn bị giải tỏa. Trước khi giải tỏa họ chỉ được thông báo và thông báo một cách cấp kỳ như vậy trong một thời gian quá ngắn làm sao thu xếp được công ăn việc làm.
Các bạn hàng cấp tốc qui tụ lại thành một nghiệp đoàn để tranh đấu (đặt dưới sự bảo trợ của Tổng Liên Đoàn) do ông Nguyễn Văn Vượng là chủ tịch và dự định biểu tình làm lớn chuyện.. Ông Nhu biết được như vậy thì tìm cách gải quyết ngay. Ông cho gọi Nguyễn Văn Vượng vào Dinh.
Không phân biệt địa vị sang hèn, ông Nhu đã tiếp đại diện các bạn hàng lâu cả hai giờ đồng hồ. Đến nay, ông Vượng vẫn không thể quên được hình ảnh ông Nhu trong buổi yết kiến này, ông Vượng được hướng dẫn đến văn phòng Cố Vấn Chính Trị. Một lát sau ông Nhu đi ra, hất hàm hỏi: “Ai đây” nhân viên cho biết: “Ông Cố Vấn cho gọi người này vào hầu chuyện” Ông nhu gật đầu: “À, à… vô đây” Ông Nhu vừa ngồi xuống ghế vừa chỉ mặt ông Vượng “Tranh đấu hỉ? Anh quá khích ! Quá khích. Rồi ông lại ôn tồn nói: “Bây chừ thế nào, ra sao nói coi”. Rồi trong suốt hai giờ liền, ông Nhu yên lặng ngồi nghe người đại diện trình bày hoàn cảnh và nguyện vọng (cũng nên ghi chú: ông Vượng là người đầu tiên “sáng chế” ra món “bia cốc” bán tại bờ hồ Hoàn Kiếm. Sau ông tổ chức cả một xe bán lưu động trong khắp thành phố. Món “bia cốc” rất thịnh hành tại Hà Nội trước năm 1954).
Một người tự tôn như ông Nhu mà nghe đại diện hàng quán nói thao thao cả 2 giờ như vậy thì ông Nhu cũng không phải là người không biết lắng nghe tìm hiểu.
Sau đó chỉ một tuần lễ, các bạn hàng được chính quyền lo giải quyết và khu Dân Sinh trở thành khu giải trí lành mạnh.
Nếu TT Diệm quá khắt khe trong quan niệm luân lý và thuần phong mỹ tục thì ông Nhu lại tỏ ra rộng rãi mặc dù ông không phải là người bài bạc ăn chơi. Đây là một thí dụ:
Khoảng năm 1959 TT Diệm đi xe từ Quang Trung về, khi đến ngã ba Chú Ía (gần nhà thương Cộng Hòa) thì có cả hàng mấy chục cô giang hồ phấn son lòe loẹt đứng bên đường vẫy tay cười nói, Ông Tổng Thống mặt mày đỏ bừng bừng: “Mấy con mụ đó nó làm chi mà dị hợm rứa? (chữ dị hợm này TT Diệm đã dùng để nhận định về con người BS Phan Quang Đán). Viên sĩ quan Tùy viên cứ tình ngay nói thẳng: “Bẩm Cụ mấy đứa đó là bọn gái giang hồ, vùng này nhiều lắm”. Ông Tổng Thống lại hầm hầm mặt đỏ gay: “Thằng Tỉnh Trưởng nó làm chi đó hỉ?”
Khi trở về Dinh, TT Diệm cho gọi Đại Úy Bằng đến hỏi kỹ về chuyện này. Sau đó, ông bảo Tổng Giám Đốc CSCA, Giám Đốc CSĐT, Tỉnh Trưởng Gia Định và Trung Tá Cao Văn Viên phải tuân hành lấy xe đi một vòng kiềm soát xem thực hư thế nào. Các viên chức này trở về Dinh đều xác nhận là có nhiều gái giang hồ tại mấy vùng ngoại ô như Lăng Cha Cả, vùng nhà thương Cộng Hòa. Ông Giám đốc CS Đô Thành (Trần Văn Tư) phải một phen xanh mặt. Mấy hôm sau TT Diệm ra lệnh bãi chức một loạt Cảnh Sát Trưởng thuộc đô thành và Trưởng Ty Cảnh Sát Gia Định. Vụ này làm “rung động” giới chức cảnh sát cao cấp. Ông Nhu cứ nhăn mặt lắc đầu: “làm chi mà quá đáng như rứa”. Ông cũng thường nói với cộng sự viên: “Cấm là cấm vậy thôi chứ nạn mãi dâm làm sao hết được tập trung bọn nó sang cả vùng Cầu Hàn cho dễ kiểm soát bệnh tật.”
Ông Nhu quan niệm rộng rãi như vậy cũng dễ hiểu vì ông không lạ gì nạn mãi dâm tại thành phố Ba Lê nơi ông đã lưu trú nhiều năm. Theo Lương Khải Minh ông Nhu khác hẳn TT Diệm, ông không quan tâm đến những chuyện vụn vặt như ông A phóng đãng ông B ăn chơi trác táng. Điều quan trọng đối với ông là “chơi thì cứ chơi nhưng kín đáo đứng gây nên tai tiếng”. Ông thường nói: “Bọn cán bộ CS cao cấp nó cũng ăn chơi hủ hóa ghê lắm nhưng nó kín đáo…chơi thì chơi nhưng chịu làm việc suy nghĩ” - Cái chết của tướng Hồ Văn Tố bị bệnh thượng mã phong làm cho TT Diệm mặt chảy dài, thở phì phì vì tức giận…Ông Nhu chỉ lắc đầu: “làm thì không lo làm… lúc nào cũng chỉ có “con chim” trên đầu” Nhưng ông có cái rộng rãi này thì vấp phải những định kiến hẹp hòi khác nhiều khi rất quá đáng nếu ở tư thế một nhà chính trị. Trường hợp đối xử với một số đồng bạn cũ cũng gây tai tiếng không ít và do đó người ta cho rằng ông Nhu theo chính sách“vắt chanh bỏ vỏ”.

CHƯƠNG VII
CHẾ ĐỘ NGÔ ĐÌNH DIỆM VÀ NGƯỜI MỸ

Description: tap1-7

Sau vụ biến cố đẫm máu tại Đài Phát Thanh Huế 4 ngày, ông Nhu đã cho nổ một trái bom làm rung động ngoại giao Mỹ. Khi ông tuyên bố với phái viên tờ Washington Post: “Cho đến lúc này Chánh Phủ VNCH không thấy cần thiết một số cố vấn quân sự quá lớn, cho nên VNCH có thể yêu cầu chính Mỹ cho rút một nửa số cố vấn quân sự Mỹ, tức là chỉ nên duy trì khoảng 7, 8 ngàn là đủ”. (Washington Post 12-5-1963) Cũng vào thời gian này ông Nhu nói với GS Bửu Hội: “Đã đến lúc mình phải xét lại sự hợp tác và viện trợ của Mỹ. Anh có thể giúp tôi tìm sự ủng hộ thân hữu của Pháp và các quốc gia Bắc Phi. Trong tình thế này chúng ta phải đi đến một modus vivendi thỏa ước với Bắc Việt”.
Description: http://baovecovang.wordpress.com/wp-includes/js/tinymce/plugins/wordpress/img/trans.gif?m=1207340914g
Sáng chủ nhật hôm ấy ông Nhu cũng lập lại như vậy với một vài cộng sự viên thân cận. Nhưng ai nấy đều cho rằng con đường mà ông Nhu sắp đi tới nguy hiểm. Nhưng ông Nhu vẫn chủ quan cho rằng kế hoạch Ấp Chiến Lược và đường lối ngoại giao mới qua trục Ba Lê và Á Phi sẽ tạo cho miền Nam đủ tư thế chấp thuận thỏa ước với miền Bắc. Nhưng ông Nhu quên mất rằng với 16000 cố vấn Mỹ và mỗi ngày Mỹ phải chi trên một triệu đô la cho cuộc chiến tại Việt Nam (63) thì không dễ dàng gì Mỹ có thể để cho ông Nhu tự do hành động khác với đường lối của họ
MỘNG ƯỚC HIỆP THƯƠNG HAI MIỀN NAM BẮC
Trước đây năm 1961 Ngoại Trưởng Pháp Couve De Murville sau cuộc tiếp xúc với ông Nhu tại Ba Lê (61) đã phê bình “Ngô Đình Nhu là một người có nhiều ảo tưởng”. Ông Murville cũng như BS Trần Kim Tuyến cho rằng phê bình như vậy cũng có phần đúng. Theo BS Tuyến “ông Nhu là một chính khách có suy tư về chính trị, có khám phá sáng tạo trên bình diện chiến lược. Nhưng thực tại chính trị miền Nam chính nó đã làm cho những suy nghĩ của ông Nhu trở nên ảo tưởng”. Một buổi sáng trời trong xanh, ông Nhu mỉm cười mô tả một cách đầy thi vị nói với ông Tuyến: “Buổi sáng Việt Nam trời mầu pha lê, toa thấy chiến tranh phi lý quá hỉ? Nhưng bọn nó (tức Cộng Sản) có bao giờ muốn hòa bình đâu. Chiến lược chiến tranh cách mạng vô sản mà. Nhưng nếu bọn nó ngưng bắn hiệp thương thì mình cũng chấp nhận, mấy thằng tư bản phiêu lưu nó sẽ phá moa, toa thấy thằng Nghị Sĩ Mansfield gầm thét chưa. Bọn nó (tức Mỹ), như con hổ bị thương, chúng sẽ cho dollar để Phật Giáo phá moa…Nhưng chế độ này phải tồn tại.”
Khi ông Nhu toan tính bắt tay với Bắc Việt thì trước hết ông đã gặp phản ứng hết sức bất lợi cho kế hoạch của riêng ông. Phản ứng đó xuất phát ngay từ tập thể Thiên Chúa Giáo và nhất là khối di cư.
Khối người đó từng hậu thuẫn vô giá cho chế độ Ngô Đình Diệm từ những ngày đầu năm 1954-1955. Tuy toan tính của ông Nhu không mấy ai biết nhưng hẳn nhiên không thể qua mắt được các Đức Giám Mục Thiên Chúa Giáo. Đức Cha Lê Hữu Từ có thể là người được biết khá thông suốt về những toan tính của ông Nhu. Điều này Cha Jean (một Linh Mục người Pháp hiện sống tại Sài Gòn) đã có nhiều cơ hội được am tường một cách tương đối rành rẽ. Sau cuộc biểu tình dữ dội của Phật giáo ngày 17-7, phản ứng của Mỹ hoàn toàn bất lợi cho chính quyền Ngô Đình Diệm. Đài VOA thông tin và bình luận một cách có thiện cảm hay đúng hơn đã gián tiếp ca ngợi cuộc tranh đấu của Phật Giáo. Cha Jean được mời vào gặp ông Nhu. Cuộc gặp gỡ kéo dài trong trong 2 tiếng đồng hồ. Ông Nhu đề cập về cuộc xuống đường của Phật Giáo ngày 17, ông nói: ” Tôi có bằng chứng là hiện nay Cộng Sản đã thao túng Phật Giáo. Rất nhiều cán bộ Cộng Sản cải trang vào đó với tư cách Phật tử hay các nhà sư”.
Cha Jean chỉ lắng nghe mà không đáp. Ông Nhu với thái độ giận dữ: “Tôn giáo là tôn giáo, quốc gia là quốc gia. Tổng Thống không thể nào nhượng bộ họ được nữa. Đã đến lúc chính phủ phải có biện pháp mạnh. Nếu chính phủ hạ lệnh thì chỉ trong vòng một ngày, Quân đội và cảnh sát có thể dẹp tan phong trào đấu tranh này “.
Cha Jean đáp: “Thưa ông Cố Vấn, đây là vấn đề nguy hiểm và tế nhị. Ông Cố Vấn có thể nào tìm cách giải quyết tốt đẹp hơn là đàn áp không? Theo tôi đàn áp thì dễ, Cộng Sản sẽ chỉ mong chính phủ đàn áp Phật Giáo”.
Ông Nhu lừ mắt nhìn Cha Jean, ông lắc đầu: “Đến nay thì không còn cách nào giải quyết tốt đẹp nữa. Hiện các Tướng lãnh và Sĩ Quan cao cấp đang bất mãn với Phật Giáo, họ đang xúi Tổng Thống hạ lệnh cho họ được phép dẹp cho yên” Cha Jean không còn biết nói gì hơn. Ông Nhu lại tiếp tục: “Tôi hiểu, CS cũng như Hoa Kỳ đang âm mưu gây rối miền Nam theo tư lợi của họ… chính phủ không thể tha thứ bất cứ một cuộc nổi loạn nào”.
Bất chợt ông Nhu hỏi Cha Jean: “Phía Hoa Kiều Chợ Lớn cha thấy thái độ chung của họ như thế nào?“ Cha Jean đáp: “Hoa Kiều tại Việt Nam như ông Cố Vấn đã rõ họ chỉ biết làm ăn buôn bán”. Ông Nhu nói: “Cha có thể giúp tôi một việc riêng?” Cha Jean đáp: “Tôi sẵn sàng nếu thấy có khả năng“. Ông Nhu ngần ngại rồi đi thẳng vào câu chuyện: “Cha có thể giúp tôi một việc quan trọng này mà ngoài Cha, Tổng Thống không muốn ủy thác cho một ai”.
Ông Nhu lại yên lặng hút thuốc lá lâu hàng 5, 7 phút. Đoạn ông nói: “Cha sang Đài Loan giúp chính phủ được không?” Cha Jean chưa trả lời, ông Nhu nói tiếp: “Cha có đủ uy tín nói chuyện với chính phủ Đài Bắc, Cha làm sáng tỏ cho họ rõ là chính phủ Việt Nam không bao giờ chủ trương và kỳ thị tôn giáo. Cuộc tranh đấu của Phật Giáo đang bị Cộng Sản sách động giật giây!!” Cha Jean đáp: “Thưa ông Cố Vấn, tôi nghĩ việc này ông Cố Vấn nên tiếp xúc thẳng với Đại Sứ THDQ hoặc nếu không ông Cố Vấn có thể ủy thác cho ông Bộ Trưởng Ngoại Giao”.
Sự từ chối khéo của Cha Jean làm ông Nhu mất bình tĩnh: “Bộ Trưởng Ngoại Giao ấy à? Ông ta không làm được cái chi hết. Còn ông Đại Sứ THDQ cũng đang bị dư luận đầu độc. Tôi muốn Cha sang Đài Loan nói cho chính phủ của Tưởng Giới Thạch biết rõ sự thực và cha nói dùm chính phủ Đài Bắc phải chấm dứt ngay chiến dịch báo chí ở Đài Loan hiện đang xuyên tạc chính phủ Việt Nam và họ đang cổ võ cho cuộc tranh đấu của Cộng Sản dưới chiêu bài tôn giáo”.
Cha Jean nói: “Xin ông Cố Vấn cho tôi trình bày ý kiến. Theo tôi, có thể CS len lỏi vào hàng ngũ đấu tranh của Phật Giáo nhưng tôi tin rằng cuộc đấu tranh này vẫn có tính cách tôn giáo đó chứ. Tôi không tin Thượng Tọa Tâm Châu hay ông Mai là CS. Đại Sứ THDQ cũng đã nói với tôi như thế. Xin ông Cố Vấn thông cảm sự khó khăn của tôi, tôi không thể nói gì khác hơn là như vậy”.
Ông Nhu hỏi: “Ngay cha cũng tin vào dư luận là Tổng Thống sẽ thương thuyết với CS Bắc Việt?” Cha Jean đáp: “Đó là điều tôi ngạc nhiên“. Cha hỏi lại: “Chắc chắn ông Cố Vấn có theo dõi hoạt động của Ủy Ban Hòa Bình phục Hưng Miền Nam” (Comite pour la Paix et Renovation du Sud VN) Ông Nhu “à” một tiếng khá lớn lắc đầu với thái độ khinh miệt. “Tôi biết tổ chức ấy là một con số không do một số người Pháp đỡ đầu. Trần Văn Hữu chắc Cha đã biết rõ?” Cha Jean đáp: “Tôi có gặp mặt ông ấy một vài lần.” Ông Nhu bỗng cao hứng nói một hơi thật dài. Đến nay Cha Jean chỉ còn nhớ lại vài nét chánh, đại cương ông Nhu nói “Trần Văn Hữu hiện nay đang được nhóm Paul Devinat Bolaert, Pignon đỡ đầu, hắn đòi gì biết không? Hắn đòi phải lật đổ chánh phủ này nghĩa là xóa bỏ chế độ này sau đó tổ chức một chánh phủ liên hiệp có Mặt Trận Giải Phóng tham gia và miền Nam sẽ trung lập”. Cha Jean lại hỏi: “Thưa ông Cố Vấn ông cố vấn nghĩ như thế nào về đề nghị của ông Hữu?” Ông Nhu đáp: “đó là một đề nghị trẻ con tôi không quan tâm nếu có nói chuyện trung lập thì chỉ nói với CS Bắc Việt thôi chớ MTGP chỉ là một tổ chức phiến loạn.” Cha Jean nhân cơ hội này lại hỏi: “Thưa ông Cố Vấn ông có nghĩ đến vấn đề nói chuyện với Bắc Việt không?” Ông Nhu mỉm cười: “Đó là vấn đề chính mà hôm nay tôi cần gặp Cha và nhờ Cha giúp tôi”.
BẮT TAY VỚI CỘNG SẢN
CHỈ LÀ CHIẾN THUẬT
TRẢ ĐŨA HOA KỲ
Qua cuộc tiếp xúc với ông Nhu, Cha Jean nhận thấy ông Nhu đang trải qua cơn giao động với một thái độ quyết liệt. Về vấn đề bắt tay với Cộng Sản Bắc Việt ông Nhu tỏ ra hết sức dè dặt. Ông vẫn không tin tưởng vào thế trung lập mà liên hiệp với CS lại càng không thể có. Ông Nhu nhắc đi nhắc lại với Cha Jean “Cha đã hiểu rất nhiều về Cộng Sản… Cha cũng rõ Tổng Thống ghét CS như thế nào“. Sau đó ông rất dè dặt tâm sự: “Trong tình thế này Hoa Kỳ cứ gây khó khăn mãi cho chánh phủ Việt Nam tôi phải lựa chọn” Ý ông Nhu nói là ông phải lựa chọn một thế đứng mới làm điều kiện trả đũa áp lực của Hoa Kỳ. Cha Jean cũng nhận thấy chưa bao giờ ông Nhu tỏ vẻ tức giận Hoa Kỳ như vậy. Trong cuộc gặp gỡ hôm ấy ông Nhu muốn nhờ Cha Jean qua Đài Loan rồi trở qua Ba Lê. Về việc qua Đài Loan ông Nhu cho biết ông muốn nhờ Cha Jean nói với nhà cầm quyền Đài Loan biết rằng TT Diệm vẫn giữ vững lập trường chống Cộng không có vấn đề trung lập liên hiệp tuy nhiên ông Nhu nhấn mạnh: “Tuy nhiên nếu quốc gia chống Cộng như Trung Hoa Dân Quốc không giúp đỡ tích cực VNCH và không làm cách nào cho Hoa Kỳ bớt gây rối miền Nam thì buộc lòng VNCH phải chọn lựa nghĩa là sẽ có nói chuyện ngưng bắn và thiết lập quan hệ bình thường với Bắc Việt” Cha Jean đã tìm cách từ chối không qua Đài Loan.
Điểm sau cùng mà ông Nhu nhấn mạnh “Chánh phủ Việt Nam hoàn toàn ủng hộ THDQ và chính vì thế Hoa Kiều tại Việt Nam đã hưởng mọi ân huệ. Nếu tình thế thay đổi nghĩa là khi chánh phủ Việt Nam buộc lòng phải bắt tay với CS Bắc Việt thì lúc ấy Hoa Kiều không còn được hưởng ân huệ như vậy và các tổ chức chìm nổi của chánh phủ Đài Loan tại Việt Nam cũng sẽ gặp khó khăn rồi tự nó tan rã”.
Trước khi ra về ông Nhu nắm chặt tay Cha Jean tiễn ra tận hành lang ông nhắc đi nhắc lại: “Bất cứ một người Công Giáo nào cũng không thể nghi ngờ được lập trường chống Cộng của Tổng Thống”. Ông Nhu ngập ngừng khẽ nhún vai dáng điệu ấy cho đến nay Cha Jean vẫn chưa thể quên. Ông Nhu nói: “Lập trường chống Cộng phải đi song song với lập trường dân tộc. Nếu Hoa Kỳ không tôn trọng quyền tự quyết của dân tộc Việt Nam thì buộc lòng Tổng Thống sẽ phải xét lại công cuộc viện trợ. Chắc Cha cũng đã rõ, nhiều quốc gia sẵn sàng viện trợ cho Việt Nam, Tổng Thống sẽ cân nhắc lựa chọn”.Trong buổi tiếp xúc này, ông Nhu có vẻ muốn thanh minh hai điểm quan trọng:
1/ Không có chuyện đàn áp Phật Giáo.
2/ Tập thể Công giáo cứ yên tâm và tin tưởng vào lập trường chống cộng của Tổng Thống Diệm.
Từ Cha Jean đến BS Trần Kim Tuyến và giới lân cận ông Nhu đều nhận định rằng ông Nhu muốn thoát ảnh hưởng của Mỹ, muốn tìm một thế đứng mới nhưng chuyện mưu đồ bắt tay với CS chỉ là chiến thuật  trả giá với Hoa Kỳ. Nhưng Hoa Kỳ lại dùng “gậy ông lại đập lưng ông” quật ngã ông Nhu, khi họ cố tình cho rằng ông Nhu định bắt tay với CS. Một số tướng lãnh và sĩ quan cao cấp Việt Nam đã bị Hoa Kỳ lung lạc tinh thần bằng cái dư luận: Ông Nhu định điều đình với CS. Thực sự cơ quan CIA không thiếu gì phương tiện, nhất cử nhất động của ông Nhu không qua khỏi con mắt CIA. Có lẽ vấn đề ông Nhu bắt tay với CS không làm Mỹ lo ngại bằng cho vấn đề bang giao Việt Pháp mỗi ngày càng thêm tốt đẹp sau nữa là thái độ quá cứng rắn của TT Diệm trước những đề nghị của Mỹ mà TT Diệm cho rằng xâm phạm đến chủ quyền Việt Nam (như vụ Cam Ranh. Đề nghị đặt Cố Vấn Mỹ cạnh Tỉnh Trưởng Việt Nam, lập phòng Dân Vụ Mỹ cạnh tòa Đại Biểu Chánh Phủ. Sau năm 1963 những đề nghị này được hậu các chánh phủ sau đảo chánh thỏa mãn ngay)
Trước năm 1962, bang giao Việt Pháp vẫn tẻ lạnh như buổi chợ chiều. Chánh phủ De Gaulle không một chút thân thiện nào đối với VNCH. Theo những tài liệu mà chúng tôi tìm hiểu thì TT Diệm do sự thúc đẩy của ông Nhu đã gián tiếp ngỏ ý muốn qua hành hương tại Lourder và nhân cuộc hành hương này Tướng De Gaulle sẽ chính thức mời TT Diệm thăm viếng Ba Lê. Song điều đó bất thành.
CHẮP NỐI DUYÊN XƯA
Theo Cha Jean thì không phải chỉ năm 1963 ông Nhu mới nghĩ đến chuyện bang giao phát triển Việt Pháp và tìm mọi điểm tựa mới trong chính phủ De Gaulle. Năm 1961 trong chuyến du hành qua Maroc dự lễ đăng quang đức vua Hanssan II ông Nhu nhân dịp này ghé qua Ba Lê với tư cách riêng. Tuy vậy ông Nhu cũng đến thăm xã giao Ngoại Trưởng Pháp Couve De Murrville. Tuy với tư cách riêng Ngoại Trưởng Couve De Murrville cũng mở dạ tiệc khoản đãi ông Nhu với sự hiện diện của Đại Sứ Lalouette và ông Étienne Manach đặc trách Á Châu sự vụ tại Bộ Ngoại Giao Pháp. Tuy không đạt được một kết quả nào cụ thể nhưng chuyến thăm viếng Ba Lê lần này ông Nhu đã phá được bầu không khí tẻ lạnh giữa Pháp Việt. Kể từ năm 1961, ông Étienne Manach trở thành nhịp cầu thông cảm giữa hai quốc gia Việt Pháp. Hơn nữa vấn theo Cha Jean, ông Étienne Manach rất có thiện cảm với ông Nhu – một cựu sinh viên trường Cổ Học Ba Lê – đó cũng là một điểm hào quang dễ dàng thu hút sự cảm phục của giới ngoại giao Pháp. Trước năm 1960, các cha thừa sai Pháp (MEP) từng tỏ ra lạnh nhạt đối với chính quyền Ngô Đình Diệm nhưng năm 1960 thái độ đã thay đổi. TT Ngô Đình Diệm trở lại ưu ái các cha thừa sứ Ba Lê đặc biệt những cha hoạt động trên vùng Cao Nguyên thì Tổng Thống mỗi ngày thêm tín nhiệm và kính phục. Đó cũng là tia sáng soi đường cho giai đoạn thân thiện với Pháp. Một trí thức cỡ như Ngô Đình Nhu tất nhiên dễ dàng thông cảm với Pháp hơn. Cái văn minh cơ khí của Mỹ có tiền dollars viện trợ dù to tát như thế nào cũng khó lòng đè bẹp được cái tinh hoa văn hóa Pháp đã tiêm nhiễm quá sâu xa trong con người trí thức như Ngô Đình Nhu.
Đó cũng là điều dễ hiểu khi ông Nhu giơ bàn tay tiếp nhận người bạn Pháp. Đó cũng là lý do đễ hiểu tại sao những năm 1960-1961, chính quyền Ngô Đình Diệm cho mở hàng loạt tòa Đại Sứ tại các quốc gia Á Phi thuộc ảnh hưởng Pháp. Trong một bài báo nhan đề “La Paix manquée , của ký giả Georger Chaffard (express số 909) nhận định rằng trong cuộc gặp gỡ Couve De Murrville – Ngô Đình Nhu (1961) đã không đạt được kết quả vì ông Nhu quá tự ái. Couve De Murrville lại tỏ ra lạnh nhạt. Chaffard viết: ” Ông Couve De Murrville tin rằng thế nào chuyến sang Pháp lần này ông Nhu cũng ve vãn Pháp nhưng ông Couve De Murrville đã thất vọng vì trong suốt bữa tiệc ông Nhu chỉ đề cao chánh sách của anh em ông, ca ngợi khu trù mật và tự hào chế độ Ngô Đình Diệm đang mạnh. Vẫn theo Chafffard thì ông Étienne Manach linh cảm rằng, ông Nhu sang Pháp không phải chỉ để nói những lời “suông” như vậy… Ông Étienne Manach lại bố trí cuộc hội đàm Ngô Đình Nhu - Couve De Murrville từ Ratbat (Maroc) trên đường về ghé qua Ba Lê. Cuộc hội đàm không đi đến đâu… nhưng đó là cái mốc lớn mở đầu cho giai đoạn mới mà Đại Sứ Labouette đóng vai trò quan trọng. Đại sứ Labouette đã hiểu rõ sự rạn nứt trong mối tình đồng minh Việt Mỹ. Sự mâu thuẫn giữa Việt Mỹ càng ngày càng gia tăng và ông Nhu đã hơn một lần gián tiếp ngỏ ý cho Đại Sứ Labouette hay rằng đã đến lúc Pháp Việt phải cải thiện bang giao tại Bán Đảo Đông Dương. Đại Sứ Labouette trở thành người bạn thân của TT Diệm lẫn ông Nhu. Labouette đóng vai trò biện hộ cho chế độ Ngô Đình Diệm trước thái độ nghi ngờ của tướng De Gaulle – vì  De Gaulle vẫn chưa quên bài học đau đớn 1954-1955, một mặt bị Mỹ đá khỏi Việt Nam một mặt chính quyền Ngô Đình Diệm tẩy chay Pháp. Theo George Chaffard nhận định thì theo ông Đại Sứ Labouette anh em TT Diệm quá nhiều tự ái dù anh em ông Diệm có muốn ve vãn Pháp đến mức nào chăng nữa, anh em TT Diệm cũng không nói thẳng ra được. Dần dần, tướng De Gaulle ngã theo hướng thuyết phục của Đại Sứ Labouette.
Nghĩa là: Với sựu mâu thuẫn Việt Mỹ, khi mà ông Nhu muốn dân Mỹ tìm một thế đứng mới thì đây là cơ hội tốt nhất để Pháp nhẩy vào Đông Dương, đóng vai trò mới.
Tưởng cũng nên ghi lại một số biến cố ngoại giao đáng cho Hoa Kỳ lo ngại. Tháng 2-63 một phái đoàn Dân Biểu Việt Nam chính thức sang thăm viếng Pháp quốc do ông Trưỡng Vĩnh Lễ hướng dẫn gồm có các dân biểu Nguyễn Hữu Chỉnh, Hà Như Chi, Nguyễn Quốc Hưng, Trần Văn Thọ. Phái đoàn Dân Biểu Việt Nam được đón tiếp một cách khác thường, Tổng Thống De Gaulle đã tiếp phái đoàn tại điện Elysée và cuộc hội kiến kéo dài 35 phút. Báo chí Pháp trong ngày 14-2-63 đã nhận định về cuộc hội kiến này. Tờ Le Monde cũng như France Soir coi đây như một biến cố lớn, một khúc quanh quan trọng trong cuộc bang giao Việt Pháp. Ngày 15-2, Thủ Tướng Murrville đã thảo luận rất lâu với phái đoàn Dân Biểu Việt Nam về chương trình hợp tác và viện trợ kinh tế văn hóa. Phòng thương mại Ba Lê cũng mở dạ hội khoản đãi phái đoàn DBVN với sự tham dự gần như đủ mặt giới doanh thương và kỹ nghệ Pháp. Người hoan hỉ nhất trong dịp này là Đại Sứ Labouette. Ông Đại Sứ đã thành công trong chặng đầu… Từ đó trở đi Đại Sứ Labouette trở thành một Đại sứ quan trọng sau Đại sứ Hoa Kỳ tại Saigon. Phản ứng của Hoa Kỳ như thế nào? Dĩ nhiên Hoa Kỳ không thể công khai phản đối mối tình Việt Pháp nhưng Hoa Thịnh Đốn bắt đầu phản công lại.
Đại Tá Lansdale cũng như Fishel người đã từng ủng hộ hết lòng TT Diệm trong thời gian 1954-1955 thì 1963, ông lại là người tích cực vận động lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm. Fishel từng lưu ngụ tại Việt Nam đã từng cộng tác với chính quyền Ngô Đình Diệm thì 1963 ông lại chủ trương phải lật đổ ngay Ngô Đình Diệm dù phải dùng biện pháp máu sắt kể cả việc thanh toán cá nhân TT Diệm.
NGÔ ĐÌNH NHU – TƯỞNG KINH  QUỐC  Và GÃ CHỦ NỢ KEO KIỆT 
Trong 9 năm dấn thân vào hành động, Ngô Đình Nhu vẫn chỉ là con người cô đơn. Ông lại có quá nhiều kẻ thù. Kẻ thù nguy hiểm đối với ông vẫn là Cộng Sản nhưng sau CS thì người bạn Hoa Kỳ tuy vẫn có cái tình đồng minh nhưng cuộc hôn nhân Việt Mỹ theo tháng ngày trôi qua cùng với áp lực nặng nề thì cái tình ấy đã mong manh như giây tơ cuối cùngcòn tình đâu nữa mà thù đấy thôi”. Đến nay bao nhiêu biến cố thăng trầm Cha Jean vẫn thấy lời ông Nhu nói vừa hữu lý vừa thấm thía.
Thưa cha, người thông cảm sự đớn đau của Việt Nam không ai hơn TT Tưởng Giới Thạch và Lý Thừa Vãn. Đối với người Mỹ, chúng tôi chỉ là những kẻ đi vay nợ lãi”. Cha Jean cho biết sau cái chết của TT Diệm và ông Nhu, TT Tưởng Giới Thạch than thở: “Người Mỹ có trách nhiệm về vụ ám sát xấu xa này. Trung Hoa Quốc Gia mất đi những đồng chí tâm đầu hợp ý”. Tướng Tưởng Kinh Quốc vẫn không thể quên hình ảnh một Ngô Đình Nhu, ông ta bàng hoàng trước tin Ngô Đình Nhu bị giết và sau này gặp Cha Jean Tưởng Kinh Quốc than thở: “người Mỹ đã lầm lỗi lớn ở Miền Nam, ông Nhu, là người chống Cộng có suy nghĩ, có chiến lược… Tôi đã khâm phục ông Nhu là một lãnh tụ lớn” (Viết theo lời Cha Jean)
Ở đây chúng tôi trình bày một vài điểm nhỏ để độc giả thấy rõ cái gọi là tình đồng minh giữa Việt  Nam và Trung Hoa Dân Quốc đã thông cảm nhau đến mức độ nào. Và cũng là nguyên do làm cho ông Nhu phát ngán người bạn” Mỹ.
Riêng Trung Hoa Dân Quốc và miền Nam trải qua cơn khủng hoảng vào nhưng năm 1956-1957 vì vụ TT Diệm ký sắc lệnh cấm Hoa Kiều không được hành nghề hai loại nhất là vụ Hoa Kiều nhập tịch Việt. Nhưng sau đó chính phủ Đài Loan đã cải thiện thái độ và thông cảm Chánh phủ Việt Nam. Năm 1957 Phó TT Trần Thành qua viếng thăm Việt Nam thì hai quốc gia đã tạo được một cơ hội tốt đẹp nhất để cùng phát triển tình huynh đệ. Hơn nữa chuyến công du của TT Diệm qua Đài Loan đã được TT Tưởng Giới Thạch mô tả như một biến chuyển lịch sử của tình huynh đệ trong cùng một chiến tuyến chống Cộng. Nhưng đây mới là hành động cụ thể của Chính Phủ Đài Loan để chứng tỏ tình huynh đệ ấy:
Năm 1959 BS Trần Kim Tuyến theo lời mời của Đại Tướng Chủ Nhiệm Quốc Gia An Toàn Cuộc (cơ quan Tình Báo) qua thăm viếng Đài Loan. Dịp này đôi bên đã trao đổi kinh nghiệm chuyên môn cũng như kỹ thuật tình báo chiến lược.
Quan điểm của Đài Loan là công cuộc chống Cộng phải đặt lên hàng đầu vượt khỏi những bất đồng về quyền lợi. Đại Tướng Chủ Nhiệm Quốc Gia An Toàn Cuộc cũng hướng dẫn phái đoàn thăm trung tâm kiểm thính (Service d’écouter) một trung tâm vĩ đại đặt dưới lòng đất có chiều dài cả cây số và được coi là một trung tâm tối tân nhất ở Á Châu. Phái đoàn Việt Nam ngỏ ý muốn được một trung tâm như thế nhưng đành bất lực  không đủ tiền bạc. Lời ngỏ ý này được Đài Loan đặc biệt lưu tâm. Một chi tiết làm cho phái đoàn Việt Nam hết sức cảm động là Tướng Tưởng Kinh Quốc đã tiếp phái đoàn không bằng hình thức nghi lễ. Ông đã cư xử với phái đoàn VN như những đồng chí từ một trận tuyến trở về gặp nhau. Ngày đầu lưu ngụ tại Đài Bắc, Tướng Tưởng Kinh Quốc mời BS Trần Kim Tuyến ra nhà hàng dùng cơm một cách thân thiện và đôi bên cũng trao đổi kinh nghiệm về Cộng Sản. Tướng Tưởng Kinh Quốc cho rằng Đài Loan tự thấy có bổn phận phải sát cánh với Việt Nam. Sau đó Tướng Tưởng Kinh Quốc đã bất chấp khó khăn và quyết định giúp Việt Nam một trung tâm kiểm thính.
Quyết định này làm cho Hoa Kỳ tức giận không ít và có thể nói “chiến tranh lạnh” Việt Mỹ âm thầm mở màn từ vụ này (xin gọi là vụ kiểm thính)
NGƯỜI MỸ “NÓ” VIỆN TRỢ CÓ ĐIỀU KIỆN NHƯ RỨA
Tại sao Hoa Kỳ lại tức giận trước sự giúp đỡ tận tình của Đài Loan đối với Việt Nam? Sự thực thì không có gì khó hiểu bởi người Mỹ vẫn quen thói chủ nhân. Vụ kiểm thính tuy rất nhỏ nhưng đã nói lên một phần nào cái nguyên nhân mà ông Nhu nóng lòng muốn bứt bỏ người chủ nợ khó tính Hoa Kỳ.
Trước khi Pháp triệt thoái khỏi Việt Nam thì Phòng Nhì Pháp vẫn có một sở kiểm thính nhưng quá cổ lỗ nghèo nàn. Và sở kiểm thính này chỉ hoạt động theo một tầm mức hạn hẹp. Trước sự tiến bộ vượt bực của ngành kỹ thuật tính báo chiến lược thì một cơ sở kiểm thính như vậy không thể nào thỏa mãn được những đòi hỏi cấp bách và hữu hiệu. Chính quyền Việt Nam đã nhiều lần ngỏ ý với Hoa Kỳ yêu cầu Hoa Kỳ viện trợ cho một trung tâm nhưng Hoa Kỳ đều từ chối vì họ thấy không cần thiết có nghĩa là không có lợi gì cho họ vì lực lượng Mỹ tại Thái Bình Dương đã có một trung tâm kiểm thính tối tân. Hơn nữa Hoa Kỳ chỉ chỉ đồng ý đặt tại VN một trung tâm kiểm thính tối tân với điều kiện phải có chuyên viên của họ và dưới quyền điều khiển của họ. Điều kiện này TT Diệm bác bỏ ngay. Sự thực lúc ấy Hoa Kỳ cũng lơ là không mấy sốt sắng cho nên vấn đề “trung tâm kiểm thính” rơi vào quên lãng.
Sau trận chiến tranh Cao Ly ngoài Mỹ và Anh, Trung Hoa Quốc Gia là nước (ngoài Cộng Sản) có một trung tâm kiểm thính tối tân ngoại hạng. Nhờ trung tâm kiểm thính này với máy móc điện tử tuyệt hảo, Đài Loan có thể kiểm soát được toàn bộ các làn sóng điện trên Hoa Lục. Một sư đoàn của Trung Cộng di chuyển từ điểm A đến điểm B cũng không qua khỏi kiểm soát  của Trung Tâm kiểm thính Đài Bắc (nhờ khả năng bắt các làn sóng điện từ hệ thống vô tuyến điện của địch). Chính quyền VN ao ước thèm thuồng có được một trung tâm như thế thì khả năng tình báo chiến lược sẽ gia tăng vượt mức. Nhưng Hoa Kỳ từ chối viện trợ, VN đành bó tay.
Sau chuyến thăm viếng Đài Bắc của BS Trần Kim Tuyến thì Quốc Gia An Toàn Cuộc của Trung Hoa Dân Quốc quyết định viện trợ vô điều kiện cho VN cả chuyên viên lẫn máy móc để thành một trung tâm kiểm thính (gồm một số đài cỡ nhỏ máy móc tối tân). Hành động này đã chứng tỏ sự giúp đỡ thực tâm của Đài Loan nhưng Hoa Kỳ nhất là phía CIA tuy không công khai phản đối nhưng ngấm ngầm đã phát tức giận.
Sự tức giận của Hoa Kỳ cũng có lý vì máy móc kiểm thính của Đài Loan đưa sang Việt Nam lại chính là những máy móc do Mỹ viện trợ cho Đài Loan. Những máy móc ấy được đóng thùng rồi bí mật gởi qua Saigon mà không có một lời nào thông báo cho Mỹ, khi người Mỹ biết được thì sự đã rồi. Hơn nữa dù không bằng lòng cũng không thể nói gì khác hơn là im lặng. Hơn nữa, ai cũng biết Tướng Tưởng Kinh Quốc là một nhân vật uy quyền của Đài Loan vừa với tư cách Tổng Thư Ký Hội Đồng An Ninh Quốc Gia lại vừa là Tổng Thanh Tra Quân Đội (1959) nên ông có đủ thẩm quyền quyết định viện trợ đặc biệt cho Việt Nam như vậy và qua mặt Mỹ “cái vù“. Vả chăng Tưởng Kinh Quốc vẫn nổi tiếng là con người không ưa gì Mỹ.
CHÍNH HOA KỲ ĐÃ ĐẨY ÔNG NHU VÀO THẾ CHÂN TƯỜNG
Kể từ khi Trung Hoa Quốc Gia thiết lập một số đài kiểm thính tại Việt Nam (chẳng hạn đài kiểm thính Phú Bài Huế) thì hiệu năng tình báo gia tăng mạnh mẽ. Điều đáng kể những đài kiểm thính này đều đặt dưới quyền kiểm soát trực tiếp của Sở Nghiên Cứu Chính Trị. Nhân viên Trung Hoa Quốc Gia tự coi như nhân viên của Sở Nghiên Cứu Chính Trị Việt Nam. Không những đài kiểm soát được toàn bộ các làn sóng điện của Bắc Việt, Lào Quốc mà còn bao trùm cả miền Hoa Nam. Tuy nhiên có một điều Hoa Kỳ không vừa ý là vì kết quả khai thác của Đài Kiểm Thính đã không được chuyển giao cho Hoa Kỳ. Mãi sau này, khi chiến cuộc bộc phát mạnh, Hoa Kỳ mới thiết lập một trung tâm kiểm thính khác (1962) gần Bộ Tổng Tham Mưu để họ xử dụng riêng trong phạm vi cơ quan MACV. Qua vụ đài kiểm thính ta cũng thấy rõ một phần nào bản chất của viện trợ Mỹ tại xứ này. Rồi vụ đài Phát Thanh Sài Gòn nữa. Khoảng đầu năm 1960 TT Diệm muốn gia tăng hiệu năng vô tuyến thanh mà Đài Saigon lại quá yếu. Ngân sách không cho phép phát triển theo ý muốn hầu có thể đương đầu với hiệu năng quá lớn mạnh của Đài Phát Thanh Hà Nội. Tất nhiên là phải yêu cầu Hoa Kỳ viện trợ. Song người Mỹ chỉ đồng ý viện trợ máy móc tối tân cùng với chuyên viên điều khiển của họ. TT Diệm cho rằng đây là một trò chơi nguy hiểm. Ông Nhu cũng lo ngại vì nếu như máy móc đặt trong tay chuyên viên Hoa Kỳ thì nếu có một biến cố lớn nào xảy ra, Hoa Kỳ có thể chơi xấu và phá đám bằng khả năng kỹ thuật của họ. Phía Việt Nam có đề nghị Hoa Kỳ huấn luyện chuyên viên Việt Nam và chỉ cần viện trợ máy móc cũng đã quá đủ. Đề nghị này không được Hoa Kỳ chấp thuận, cuối cùng TT Diệm bỏ qua không nhắc nhở đến nữa.
Kể từ năm 1962 thế lực Mỹ mỗi ngày một gia tăng và bao trùm nhiều ngành sinh hoạt quốc gia, chiến tranh càng lan rộng thì thế lực Mỹ cũng có nhiều cơ hội thuận tiện nhất để khống chế chính quyền Ngô Đình Diệm. Theo BS Tuyến ông Nhu tâm sự rằng: “Ngân sách Quốc Phòng tăng như rứa viện trợ như rứa…buộc phải tìm lại thế quân bình. Chiến tranh càng kéo dài càng bất lợi cho chế độ”. Theo ông Nhu (thường thổ lộ với BS Trần Kim Tuyến cũng như một số cộng sự viên thân cận) thì chiến tranh sẽ phải sớm chấm dứt. Một là dốc toàn lực để đè bẹp Cộng Sản. Nếu hai bên còn nghiêng ngửa và chiến tranh chiều hướng kéo dài thì phải tìm cách chấm dứt bằng giải pháp chính trị. Ông Nhu tin tưởng Ấp Chiến Lược là một căn bản và một ưu thế cho giải pháp chính trị để chấm dứt chiến tranh. Khi khả năng quốc phòng và chiến tranh phải tùy thuộc vào viện trợ  Mỹ thì sự mất mát chủ quyền là một điều khó có thể tránh được. Theo Lương Khải Minh cũng như những nhân vật trọng yếu gần TT Diệm thì vấn đề chủ quyền quốc gia đối với TT Diệm là vấn đề số I. Chủ quyền quốc gia gắn liền với tính tự ái quá cao của ông Tổng Thống. Bằng chứng là năm 1961-1962 các cố vấn quân sự Mỹ khuyến cáo chính quyền Ngô Đình Diệm bãi bỏ ngành Hiến Binh. Lúc đầu TT Diệm có vẻ thuận ý qua lời trình bày của Bộ Trưởng Nguyễn Đình Thuần. Ông Thuần cũng chỉ trình theo đề nghị của cố vấn quân sự Mỹ. TT Diệm có một do dự là ngành Hiến Binh đang phục vụ đắc lực, ông TT vẫn tin tưởng vào Hiến Binh vì cho rằng Hiến Binh “làm việc đúng đắn rành pháp luật“. Nhưng sau đó, TT Diệm cho xếp lại và vẫn duy trì ngành Hiến Binh. TT Diệm bảo ông Thuần: “Cứ thư thả, không có thay đổi gì hết, họ (tức Hoa Kỳ) nói sao mình cũng làm vậy thì còn gì là thể thống quốc gia”. Sự thực lúc đầu TT Diệm cũng nghiêng theo lời trình bày của ông Thuần nhưng bỗng hầm hầm nổi giận khi ông Thuần cho biết, Cố vấn quân sự Mỹ muốn bãi bỏ ngành Hiến Binh chỉ vì quân đội Hoa Kỳ không có ngành này (MP đảm trách mọi việc). Cố vấn quân sự Mỹ cho rằng đã cóQuân Cảnh rồi thì Hiến Binh không cần thiết và sẽ có riêng loại Quân Cảnh Hiến Binh. Cố vấn quân sự Mỹ cho biết, nếu không bãi bỏ ngành Hiến Binh thì Hoa Kỳ không để dành một ngân khoản viện trợ cho một ngành không cần thiết như vậy. TT Diệm coi đây là một áp lực và vô tình xúc phạm đến tự ái của một vị Tổng Thống cai trị dân theo quan niệm “thiên mệnh”. Do đó mà ngành Hiến Binh bao nhiêu lần có tin đồn bãi bỏ rút cuộc vẫn được duy trì cho đến sau ngày đảo chánh 1-11-1963.
Trên đây là một vài sự kiện trong bao nhiêu những sự kiện đau lòng khác và đó cũng là một nguyên nhân đẩy ông Nhu vào một lựa chọn mới.
KHÔNG THỂ LÀM TAY SAI MỘT CÁCH TRƠ TRẼN
Mâu thuẫn Mỹ Việt càng trầm trọng khi chiến cuộc mỗi lúc càng gia tăng. Trước hết Việt Mỹ đã xung khắc ngay từ buổi đầu của cuộc hôn nhân. Nói đúng hơn, miền Nam trở thành một phận gái hẩm hiu do cảnh ngộ của lịch sử mà phải ép duyên gán nợ cho anh chồng trọc phú. Xin trở lại vụ Đài Phát Thanh để dễ dàng sáng tỏ tính chất xung khắc qua cuộc hôn nhân miễn cưỡng này. TT Diệm khao khát có được một Đài Phát Thanh tối tân và hiệu năng của nó có thể tương đương với đài Hà Nội, trước hết vì đòi hỏi có một chiến lược chính trị trường kỳ tại Bắc Việt với hiệu năng lớn mạnh của Đài Saigon thì chính quyền miền Nam mới để dành một chương trình đặc biệt hướng về toàn thể miền Bắc và xa hơn nữa là đi Ai Lao, Bắc Thái Lan là những nơi có hàng ngàn Việt Kiều cư ngụ. Đài Saigon không đủ khả năng hoạt động trong một khu vực rộng lớn như vậy. Chính quyền miền Nam đành bó tay vì Hoa Kỳ từ chối lời yêu cầu tối tân hóa Đài Saigon. Trong khi đó thì Hoa Kỳ sẵn sàng viện trợ cho Việt Nam một đài tiếp vận địa phương (mà ngân khoản tổn phí có thể gấp đôi ngân khoản tối tân hóa Đài Saigon).
Tại sao lại có vụ mâu thuẫn kỳ cục như vậy? Điều giản dị là Hoa Kỳ muốn độc quyền truyền thanh “tiếng nói chống cộng” của họ qua bức màn sắt, Hoa Kỳ không muốn miền Nam được quyền “chia xẻ”… Cho đến nay, Đài Saigon không có gì khả quan hơn xưa. Điều mà trước năm 1963 TT Diệm ước ao có một một chương trình phát thanh đặc biệt hướng về miền Bắc (với một hiệu năng tối đa) thì nay đã có (1964-1970) nhưng chương trình ấy lại nằm trong hệ thống đài VOF (Voice of Freedom) tuy Đài đặt ngay tại Thủ Đô Saigon và do nhân viên người Việt đảm trách nhưng thực chất nó là của Hoa Kỳ qua miệng người Việt.
Tóm lại, Hoa Kỳ quan niệm Đài Phát Thanh Sài Gòn chỉ có một nhiệm vụ thông tin tuyên truyền trong lãnh thổ miền Nam , còn miền Bắc đã có Hoa Kỳ lo liệu (trước hết là Đài VOA sau là Đài VOF). Trí thức Ngô Đình Nhu thúc thủ trong một thực tại viện trợ như vậy thì chỉ còn một con đường là cam phận làm tay sai một cách thiếu thông minh trơ trẽn. Ông Nhu lựa chọn một thế đứng mới tức là lựa chọn một con đường giải thoát anh bạn chủ nợ keo kiệt. Tiếc thay con đường đó lại đem đến sự giải thoát vĩnh viễn cả ba anh em ông Nhu. Nói ra những mâu thuẫn Việt Mỹ thì nhiều lắm, mâu thuẫn về quan điểm lập trường… mâu thuẫn về chiến lược, chiến thuật. Khi ông Nhu trở lại thân thiện với Pháp, thì chỉ một chiến thuật tạo thế chân vạc và cũng là điều kiện dọa Hoa Kỳ “Nếu anh bắt bí tôi quá tôi bỏ anh”…
Tôi sẽ không cô đơn. De Gaulle đã sẵn sàng”. Một khi De Gaulle thân thiện với miền Nam thì lẽ tự nhiên Sihanouk sẽ không thể theo đuổi chính sách thù nghịch với miền Nam nữa và cũng là con đường đưa đến thỏa hiệp với miền Bắc. Trước sau cái gút của vấn đề chỉ là Pháp. CIA không khi nào để cho miền Nam một mặt sống vì viện trợ Mỹ, một mặt lại đưa tay nắm bàn tay De Gaulle (vẫn bị coi là kẻ thù của Mỹ) CIA không e ngại nhưng toan tính của ông Nhu trong việc tìm thế thỏa hiệp với Cộng sản Bắc Việt nhưng CIA coi việc Miền Nam thân thiện với Pháp là một biến cố nguy hiểm và phải đập vỡ ngay từ trong trứng nước.
MỸ MUỐN VIỆT NAM CÓ MỘT THỨ CIA KIỂU MỸ
Năm 1963 Hoa Kỳ chủ trương phải leo thang chiến tranh mạnh và quyết liệt .
Trong một chiều hướng như vậy thì làm sao ông Nhu có thể lựa một thế đứng mới ? (dựa vào Pháp để cân bằng thế lực Mỹ và giảm thiểu thế lực ấy sau mới tính chuyện với Cộng Sản) nhưng nực cười thay, giai đoạn mà chế độ Ngô Đình Diệm toàn thịnh, miền Bắc đang phải đối phó với cuộc khủng hoảng kinh tế và hậu quả của cuộc đấu tố đẫm máu thì Hoa Kỳ lại chủ trương không can thiệp vào miền Bắc, duy trì sự bình thường giữa hai miền Nam Bắc như hai quốc gia !!!
Đây là những sự kiện rõ rệt chứng tỏ chủ trương của Hoa Kỳ trong giai đoạn 1957-1958 .
Khi Sở Nghiên Cứu Chính Trị được thành lập do ông Vũ Tiến Huân làm Chánh sở thì Hoa Kỳ muốn đặt sở này vào vai trò tính báo chiến lược tương tự như CIA của họ. Với vai trò như CIA thì Sở Nghiên Cứu Chính Trị chỉ có nhiệm vụ hoạt động tại quốc ngoại, nhưng thân phận của một nhược tiểu như Việt Nam thì vai trò ấy quả không cần thiết. Chả lẽ Sở Nghiên Cứu lại gửi người qua Ấn Độ để gây xáo trộn và lật đổ chính phủ Ấn Độ? Chả lẽ Sở Nghiên Cứu lại cho nhân viên qua Indonesia để âm mưu lật đổ Sukarno? Dù có muốn thế chăng nhưng phương tiện ở đâu và để làm gì? Theo phương thức của Hoa Kỳ thì Sở Nghiên Cứu Chính Trị Việt Nam là một thứ CIA lo phần quốc ngoại. Cảnh sát Công an là một thứ FBI lo phần quốc nội. Quốc ngoại là những đâu? Quanh đi quẩn lại chỉ có mấy quốc gia láng giềng như Thái Lan, Ai Lao, Cambodge. Thái lan và Ai Lao thì chỉ có Việt Kiều là phạm vi hoạt động đáng kể. Vậy thì hoạt động quốc ngoại của Sở này chỉ có Cambodge là đáng kể nhất – nếu không muốn nói là duy nhất sau đó là đến miền Bắc vẫn được tạm coi là một “quốc gia” (về mặt chuyên môn và thực tại chánh trị của nó)
Ở đây chúng tôi chỉ nói sơ qua về công tác tính báo tại Cambodge và Bắc Việt để một lần nữa thấy rằng, người Mỹ khó hiểu lắm và chớ lầm tưởng họ dại khờ. Cá nhân họ có thể dại khờ nhưng cả một hệ thống cộng đồng Mỹ thì vô cùng tinh xảo và khôn lanh tuyệt mức dưới cái lớp vỏ dại khờ của mỗi cá nhân.
Đó cũng là lý do dễ hiểu tại sao Đại Tướng Hakkins (Tư Lệnh MACV 1963) cũng như Đại Tá Richardson (Giám đốc CIA tại Việt Nam 1963) ủng hộ TT Diệm và dành cho Tổng Thống một cảm tình nồng hậu nhưng cuối cùng chế độ Ngô Đình Diệm vẫn bị lật nhào. Bởi chính tổ chức này được coi là nguy hiểm chỉ vì bản chất tồn tại của nó được phát biểu bằng năng biểu “tồn tại từ mâu thuẫn cá nhân cực độ trong đồng nhất tổ chức và toàn bộ” .
CÁI THẾ CỦA KẺ KHÓ ĂN ĐONG
Riêng những công tác tính báo tại miền Bắc (phần đầu đã nói sơ qua) thì Hoa Kỳ và chính quyền miền Nam đã bất đồng sâu xa. Chính quyền miền Nam muốn chú trọng về tình báo chiến lược. Hoa Kỳ ngược lại chỉ chấp thuận những hoạt động có tính cách tình báo chiến thuật. Phương tiện hoạt động của Sở Nghiên Cứu lúc đầu đều tùy thuộc vào khả năng viện trợ Mỹ. Mà Mỹ viện trợ cho từng điệp vụ và những “vụ” này phải là những công tác phối hợp tay đôi (Việt Mỹ). Năm 1957, chính quyền miền Nam rất muốn thực hiện một kế hoạch tình báo chiến lược tại miền Bắc, trước hết nhằm vào các vùng Thượng Du (Móng Cái, Đầm Hà, Tiên Yên, Lai Châu, Hòa Bình) sau là hai miền Bùi Chu, Phát Diệm. Nếu kế hoạch này được thực hiện cùng với phương tiện dồi dào thì sẽ tiến đến sự thành lập một Mặt Trận Giải Phóng Miền Bắc làm động cơ phát động du kích chống Cộng từ mỗi cục bộ địa phương nhằm đến toàn bộ miền Bắc.
Muốn được như thế thì phải đòi hỏi một ngân khoản quá lớn lao và một sự đài thọ liên tục và dồi dào. Cuối cùng kế hoạch ấy chỉ còn là ảo mộng vì Hoa Kỳ chỉ thỏa thuận tài trợ cho những điệp vụ phối hợp có tính cách trắc nghiệm khả năng tình báo (cả miền Bắc lẫn miền Nam) Những điệp vụ phối hợp đó chỉ nhắm thả người ra Bắc với nhiệm vụ thâu lượn tin tức, gây rối phá hoại như phá hoại đường xe lửa, ném lựu đạn đặt chất nổ, nghĩa là hoàn toàn có tính cách chiến thuật giai đoạn. Chống Cộng mà lại chống ngay trong vùng Cộng Sản (Bắc Việt) thì như thế quả là ngây ngô lố bịch vì không khác gì kẻ cho ăn đong giữa khi đói kém, khốn nỗi miền Nam lại ở vào tư thế của kẻ khó ăn đong mà Hoa Kỳ thì nắm hầu bao rất chặt.
Đại cương sự bất đồng giữa Hoa Kỳ và miền Nam là nhu vậy. Giai đoạn 1957-1958… Hoa Kỳ chỉ chủ trương chống Cộng tại miền Nam mà thôi .
CHÍNH QUYỀN NGÔ ĐÌNH DIỆM
SIHANOUK VÀ MỸ
Trong khi Hoa Kỳ cố loại bỏ ảnh hưởng của Pháp tại miền Nam thì ngược lại họ vẫn củng cố Sihanouk mặc dầu ai cũng biết Sihanouk chỉ là con cờ của Pháp phải duy trì bằng bất cứ giá nào tại Đông Dương.
- Năm 1956, ông Ngô Đình Nhu qua Nam Vang cùng với chủ trương ve vãn Sihanouk. Lúc ấy Hoa Kỳ chưa phải là thế lực đáng kể tại bán đảo Đông Dương. Và Hoa Kỳ tán trợ đường lối ve vãn Sihanouk của ông Nhu. Theo BS Trần Kim Tuyến thì ông Nhu được Sihanouk đón tiếp một cách trọng thể. Tuy không có nghi lễ chính thức nhưng Sihanouk đã dành cho ông Nhu một ngoại lệ nghĩa là tiếp ông như một Quốc Trưởng. Sau đó Sihanouk chính thức được mời qua thăm Việt Nam và dịp này Sihanouk được tiếp đón hết sức trọng thể. Cuộc hội đàm Sihanouk Ngô Đình Nhu được coi là rất tốt đẹp. Nhưng TT Diệm vốn là người không khéo léo trong sự giao tế qua hình thức nghi lễ. Vẫn theo Bác Sĩ Tuyến, trong cuộc gặp gỡ Sihanouk, TT Diệm vẫn giữ vẻ nghiêm trang đạo mạo . . . Do đó mà thiếu sự thân mật cởi mở cần phải có đối với một người xảo quyệt và có tài”diễn xuất” như Sihanouk .
Kết quả là khi trở về nước Sihanouk lại tiếp tục chính sách ve vãn CS và bất thân thiện với miền Nam. Cũng từ đó VNCH và Cambodge giữ miếng nhau. Theo BS Tuyến, ông Nhu chủ trương “phải triệt hạ cho bằng được Sihanouk ” Khi ông Nhu chủ trương như vậy thì Hoa Kỳ tiếp tục ve vãn Sihanouk. Một xa lộ thênh thang nối liền Nam Vang với Sihanoukville được Mỹ thực hiện để làm quà dâng cho ông vua xứ Chùa Tháp. Rồi một bệnh viện lớn cũng được Hoa Kỳ xây cất tại Nam Vang. Nhưng Sihanouk vẫn tiếp tục công kích Mỹ. Xa Lộ Nam Vang Sihanoukville do Mỹ viện trợ khánh thành chưa được bao lâu thì Trung Cộng lại nhảy vào viện trợ cho Cambodge và dựng lên cả một hệ thống cột điện chạy dài trên xa lộ của Mỹ. Bệnh viện tai Nam Vang do Mỹ xây cất thì lại do Nga Sô viện trợ máy móc cùng các đồ trang thiết bị thuốc men với một số bác sĩ Nga. Dù ve vãn, Mỹ vẫn bị Sihanouk đá bay khỏi Cambodge .
Tuy vậy, Mỹ vẫn cố gắng tìm mọi cơ hội ve vãn Cambodge và đồng thời ngăn chặn không cho miền Nam phá Sihanouk. Hậu quả là Mỹ vẫn “tay trắng” tại Cambodge. Nhưng Mỹ muốn tách biệt Miền Nam với Cambodge. Chúng tôi kể lại đây một câu chuyện mưu sát Sihanouk do miền Nam chủ động nhưng Mỹ lại chịu tai bay vạ gió và nồng độ chống Mỹ của Sihanouk lại càng tăng. Đây cũng là thí dụ cho biết rằng đối với Mỹ thì đừng có do dự, khúm núm và phải đặt Mỹ vào việc trước đã rồi và phải trói chặt chân họ vào biến cố. Và ta phải làm chủ biến cố đó. Chính sách chủ nhân ông độc quyền. Dân nhược tiểu phải biết điều đó. Tháng 8 năm 1963, bà Ngô Đình Nhu nói trong phiên họp Phụ Nữ Liên Đới rằng “Phải trói chân trói tay mấy thằng phiêu lưu (ám chỉ Mỹ) mà hành hạ”. Câu nói đó tuy có đại ngôn nhưng nghĩ lại cũng đáng cho ta suy nghĩ. Trở lại câu chuyện ám sát Sihanouk năm 1961 thì đó cũng là “trước ám sát Sihanouk “sau hành hạ Mỹ cho vui” . Số là, sau khi ông Ngô Trọng Hiếu rời khỏi chức vụ đại diện Việt Nam tại Cambodge thì tòa đại diện Việt Nam vẫn duy trì cơ sở như cũ. Việt Nam Căm Bốt tuy rất căng thẳng nhưng chưa đến nỗi đoạn giao. Dù vậy cơ quan tình báo Phủ Tổng Thống vẫn nhận được chỉ thị phải “hạ” Sihanouk bằng bất cứ cách nào. Âm mưu này muốn đạt được kết quả thì trước hết phải canh chừng Mỹ. Xử lý chức vụ đại diện lúc ấy là ông Phạm Trọng Nhơn, một điệp viên của Việt Nam hoạt động tại Nam Vang có biết được một kỹ sư Mỹ (có trách nhiệm thiết lập xa lộ Nam Vang Sihanoukville)là chỗ thân quen của họ Sihanouk. Bà mẹ Sihanouk lại nổi tiếng là người nhận hối lộ và quà biếu. Điệp viên này được mật lệnh của Phủ Tổng Thống là phải bám sát viên kỹ sư Mỹ và tìm cách “khai thác” ông ta nếu có thể được. Điệp viên kể trên báo cáo cho cơ quan tình báo Phủ Tổng Thống biết là viên kỹ sư Mỹ sắp lên đường về Mỹ qua ngả Hongkong . Ngày lên đường về nước viên kỹ sư Mỹ có đến chào cáo biệt Quốc Trưởng Sihanouk và Hoàng Thái Hậu. Đó cũng là ngày Saigon bật đèn xanh cho phép các điệp viên hành nghề. Réseau tại Nam Vang có chuyển về Saigon một tấm danh thiếp của viên kỹ sư Mỹ này cùng bút tích ông ta. Lập tức cơ quan tình báo phủ Tổng Thống in lại một số danh thiếp của viên kỹ sư Mỹ (rập đúng y khuôn) và trao phó cho một chuyên viên nghiên cứu tuồng chữ của ông ta và sẽ giả mạo tuồng chữ này cho công tác điệp vụ. Kế hoạch được trình bày lên ông Nhu và ông hoàn toàn tán thành. Sau đó, hai chiếc vali tuyệt đẹp được dùng giết Quốc Trưởng Sihanouk. Chiếc vali thứ nhất thì bình thường trong đựng một số kỷ vật quý giá xuất xứ tại Hongkong. Chiếc thứ hai chính nó sẽ quyết định số mạng của Sihanouk ngoài một số kỷ vật còn có một cái hộp ngà hảo hạng xuất phát từ Đài Loan, một loại chất nổ ghê gớm cực mạnh (dành cho các điệp viên) được cho vào cái hộp cùng một bộ phận cơ bấm tinh vi khác và bộ phận này được nối với nắp vali, khi mở vali thì tự động chất nổ bộc phát ngay. Sau khi hóa trang và làm dấu cẩn thận… hai chiếc vali này được giải lên lên xe mang biển số ngoại giao của ông Xử lý đại diện Phạm Trọng Nhơn. Chính ông Phạm Trọng Nhơn có nhiệm vụ chuyển hai chiếc vali này lên Nam Vang nhưng ông cũng không được biết “nội dung” ra sao và ông Nhơn cũng chỉ “cảm thấy” có chuyện gì khác lạ sắp xảy ra.
SIHANOUK THOÁT CHẾT
KẾ HOẠCH CỦA ÔNG NHU BẤT THÀNH
Nhờ mang xe số ngoại giao đoàn của ông Phạm Trọng Nhơn nên hai chiếc vali “nguy hiểm” đã vượt qua biên giới và đến tòa Đại Diện hoàn toàn tốt đẹp.
Tại Sài Gòn, cơ quan tình báo Phủ Tổng Thống theo dõi từng giây phút với bao nhiêu lo âu hồi hộp. Nếu như bị tình báo Cambodge khám phá thì bang giao Miên – Việt lần này sẽ đứt đoạn luôn không còn gì hàn gắn đươc nữa. Ông Ngô Đình Nhu cùng mấy cộng sự viên thân cận đã tính toàn thế này, nếu giết được Sihanouk thì việc đầu tiên là phải đưa Sơn Ngọc Thành về Nam Vang để làm chủ tình hình.
Ngoài mấy điệp viên chủ chốt thì Tòa Đại Diện Việt Nam không một ai hay biết gì về âm mưu này kể cả ông Đại Lý Phạm Trọng Nhơn cũng chỉ được “rỉ tai” sơ qua sẽ là có một vụ nổ lớn tại Nam Vang.
Theo kế hoạch đã dự định, điệp viên Nguyễn Nhơn cải trang thành một nhân viên của nhà thầu Mỹ nơi mà viên kỹ sư Mỹ phục vụ. Khoảng 9 giờ sáng, điệp viên Nhơn dùng xe hơi vào Hoàng Cung để trao tặng phẩm của viên kỹ sư Mỹ. Nhơn nói là viên kỹ sư Mỹ khi ghé qua Hongkong đã mua hai vali tặng phẩm này để gửi tặng Quốc Trưởng Sikanouk và ông Giám Đốc Nghi Lễ.
Giám Đốc Nghi Lễ Hoàng cung Cambodge cũng là chỗ bạn thân của viên kỹ sư Mỹ nên không do dự gì cả và ông vui vẻ nhận hai chiếc vali quý giá. Chiếc vali thứ nhất tặng viên Giám Đốc Nghi Lễ cùng với danh thiếp của viên kỹ sư Mỹ và trên danh thiếp không quên viết mấy hàng hỏi thăm viên Giám Đốc Nghi Lễ.
Sau vụ ám sát hụt này, báo chí Cambodge đã có dịp tường thuật  khá đầy đủ. Riêng về phía tình báo Phủ Tổng Thống lúc bấy giờ được báo cáo nội vụ như sau: Khi viên Giám Đốc Nghi Lễ mở chiếc vali phần tặng của ông ta thì chiếc vali này toàn chứa đựng những tặng phẩm đắt tiền. Sau đó ông ta đem chiếc vali vào phòng khách riêng của Sihanouk. Chiếc vali này niêm phong kỹ càng đề chữ “Kính tặng Hoàng Thái Hậu và Quốc Trưởng Khmer” cùng với phong thư đựng tấm danh thiếp của viên kỹ sư Mỹ với những lời lẽ rất đẹp “kính thăm” và chào cáo biệt Hoàng Thái Hậu và Quốc Trưởng Sikanouk. Phòng khách lúc ấy có mặt cả hai mẹ con Sihanouk. Nhưng lại nhằm đúng vào giờ Thái tử Sihanouk và Hoàng Thái Hậu phải ra đại sảnh để tiếp đón phái đoàn sinh viên Trung Quốc cùng đi với một số sinh viên Cambodge. 
Thái tử Sihanouk vừa cất lời khuyên nhủ sinh viên thì một tiếng nổ kinh hoàng làm rung động cả Hoàng Cung. Số là, khi Thái tử Sihanouk và Hoàng Thái Hậu ra đại sảnh tiếp sinh viên thì có nhẽ, viên giám đốc mở vali lấy quà tặng để dâng Thái Tử nên chiếc vali phát nổ, viên giám đốc Nghi Lễ chết tan thây. Cả thủ đô Nam Vang náo động. Buổi phát thanh vào lúc 12 giờ trưa đài VOA cũng như Mạc Tư Khoa đều loan tin và cho biết vắn tắt Thái tử Sihanouk thoát hiểm, nhưng dân Nam Vang lại không tin và cho rằng Sihanouk đã chết tan thây.
12 giờ trưa nghe tin đài VOA, cơ quan tình báo Phủ Tổng Thống đã lấy làm mừng và sửa soạn thực hiện giai đoạn hai nghĩa là đưa Sơn Ngọc Thành về Nam Vang nhưng chỉ ít phút sau, một tài liệu từ Nam Vang gửi về Saigon cho biết, âm mưu bất thành. Cho đến lúc ấy, tòa Đại Sứ Mỹ vẫn chưa được biết tình báo Việt Nam chủ động vụ này. Nhưng chỉ một ngày sau thì báo chí Cambodge đều chĩa mũi dùi vào Mỹ và cả quyết Mỹ âm mưu sát hại Thái tử Sihanouk. Bang giao Mỹ Cambodge lại một lần nữa thêm căng thẳng. Có một điều lạ Cambodge không hề nghi ngờ là Saigon. Hoa Kỳ lãnh đủ cơn tai bay vạ gió này. Dư luận báo chí Cambodge lại có dịp ồn ào và mạt sát Mỹ thậm tệ nhất là mấy nhật báo như La Dépeche Cambodge, Bang Khoeum Monous. Sau đó ít lâu một người Việt Nam bị bắt vì Cambodge tình nghi ông ta là nhân viên tình báo CIA có liên quan đến vu mưu sát Thái tử Sihanouk. Thực ra, Phạm Thanh Tòng (tên thật Phan Vinh Tòng) (tên đương sự) hết sức oan uổng vì ông ta chỉ làm nghề viết báo. Đương sự bị kết án tử hình. Mãi gần đến sau cuộc đảo chánh của Lon Nol ông mới được trả tự do.
Cuộc mưu sát Sihanouk bất thành nên kế hoạch đưa Sơn Ngọc Thành về Nam Vang đành xếp lại. Miền Nam bắt đầu nghiên cứu một kế hoạch mới mà Sơn Ngọc Thành sẽ giữ một vai trò chủ chốt.
Trước vấn đề nan giải này, ông Nhu hỏi BS Tuyến xem có cắt xén ngân sách và ngoại viện được không. Điều này không thể được vì sẽ lộ ngay và khi tòa Đại Sứ Mỹ biết được thì họ sẽ không bao giờ chấp nhận dùng khoản tiền ngoại viện để viện trợ cho họ Sơn. Do đó chỉ còn cách trích trong ngân quỹ đen của Phủ Tổng Thống. Nếu dồi dào phương tiện thì Sơn Ngọc Thành có đủ khả năng phát triển tổ chức của ông đến mức độ lớn mạnh. Nhưng rút cuộc, ông ta đành thúc thủ trong một hoàn cảnh hết sức thiếu thốn. Mỗi tháng Phủ Tổng Thống chỉ có thể viện trợ cho Sơn Ngọc Thành vài ba trăm ngàn bạc mặt.
Tuy có điều số tiền này được trao tận tay cho họ Sơn và ông ta có thể chi tiêu như thế nào tùy ý. Điều đó theo BS Tuyến đã làm cho Sơn Ngọc Thành cảm động vì tuy nhận tiền của Việt Nam ông vẫn không bị xúc phạm vì lòng tự ái quốc gia của một lãnh tụ lớn.
Nơi ăn chốn ở và sự đi lại di chuyển của Sơn Ngọc Thành hoàn toàn bí mật. Cơ quan CIA của Mỹ cũng biết nhưng không có một phản ứng nào vì lẽ tiền mà Việt Nam tài trợ cho Sơn Ngọc Thành không thuộc ngân sách ngoại viện. Đầu năm 1960 lực lượng họ Sơn quy tụ vào khoảng 400 tay súng phân tán trong hai vùng mật khu Châu Đốc và Bình Long. Sĩ Quan Việt Nam trực tiếp đảm nhận và huấn luyện và làm cố vấn cho lực lượng võ trang này. Tuy họ có tính thần chiến đấu hoàn toàn gan dạ nhưng lại thiếu thốn về mọi phương diện nhất là vũ khí, quân trang, quân dụng. Trong khi đó Hoa Kỳ thì vũ khí đổ đi không hết nhưng tuyệt nhiên Hoa Kỳ không viện trợ cho lực lượng Sơn Ngọc Thành lấy một cây súng Garant. Chính quyền Ngô Đình Diệm chỉ còn cách vơ vét một số khí giới thuộc loại phế thải của Pháp, như MAT 49, MAS 36 để giúp họ Sơn. Nếu nói rằng Mỹ viện trợ vũ khí cho Việt Nam và Việt Nam có toàn quyền xử dụng số vũ khí ấy thì không đúng. Cố vấn Mỹ kiểm soát một cách khắt khe nên Phủ Tổng Thống không thể dùng một khẩu Garant MI của Mỹ để tặng họ Sơn. Bởi nhất nhất đều không thể qua con mắt nhóm ngó của tình báo Mỹ. Về phía Tây, Sơn Ngọc Thành được Thái Lan yểm trợ nhưng bản doanh vẫn là Saigon.
Trên đây cũng tạm đủ nói lên sự mâu thuẫn và bất đồng giữa Việt Mỹ.
CHỦ TRƯƠNG CỦA HOA KỲ
THEO NGÔ ĐÌNH NHU LÀ MỘT SỰ LỪA GẠT XẤU XA
Kể từ năm 1959, theo Bác Sĩ Trần Kim Tuyến thì ông Ngô Đình Nhu chủ trương quyết hạ cho bằng được Sihanouk vì nếu không thì chính Sihanouk sẽ là một mũi dùi đâm ngang hông VNCH. Biên giới Việt Miên nếu còn Sihanouk thì rồi đây sẽ trở thành vùng chiến lược bất khả xâm phạm của Cộng Sản. Đối với Sihanouk, ông Nhu chỉ có hai giải pháp một là lật nhào ông ta hai là trở lại ve vãn thân thiện với ông ta. Giải pháp ve vãn thân thiện đã bất thành cho nên miền Nam chỉ còn một cách là đương đầu quyết liệt với Cambodge.
Con đường này lại đi ngược với chủ trương của Mỹ. Kể từ năm 1960 khi cuộc chiến gia tăng và nhất là trận đánh kiến phong (tháng 10-60) giữa lực lượng chính quy của Cộng Sản với tiểu đoàn I Nhảy Dù, người Mỹ mới bắt đầu nhận ra sự thực: Cambodge đã trở thành căn cứ địa an toàn của MTGPMN. Lực lượng CS đã xuất phát từ phía bên kia lãnh thổ Cambodge tiến qua đánh Kiến Phong. Tuy biết sự thật như vậy nhưng vẫn giữ chủ trương ve vãn o bế  Sihanouk. Không phải là các chiến lược gia Mỹ không hiểu rõ tầm mức quan trọng của lãnh thổ Cambodge đối với cuộc chiến tại Việt Nam. Nhưng lúc ấy Hoa Thịnh Đốn vẫn còn giới hạn cuộc chiến trong cục bộ miền Nam. Đầu năm 1963, với trận Ấp Bắc tuy không có gì đáng gọi là một trận thua lớn (sự thiệt hại giữa VNCH và MTGPMN được coi là cân bằng), nhưng Hoa Kỳ lại lợi dụng trận đánh này và ồn ào áp lực mạnh với Tổng Thống Kennedy buộc chính quyền Ngô Đình Diệm phải thay đổi chiến lược và chiến thuật. Cũng từ năm 1963, VN Task Force mà chủ chốt là Hilsman nhận định rằng, phải thay đổi thái độ với Sihanouk nghĩa là chấm dứt thái độ o bế ve vãn. Trong khi đó thì ông Ngô Đình Nhu lại làm ngược lại nghĩa là bắt tay với Pháp tìm ở De Gaulle một điểm tựa. Ông Nhu đồng thời cũng muốn hâm nóng lại mối bang giao Việt – Miên đã nguội lạnh từ lâu. Hoa Kỳ coi chủ trương này như một đe dọa cho thế đứng của họ tại Bán Đảo Đông Dương. Bởi vì khi Hoa Kỳ muốn đẩy mạnh cuộc chiến, muốn mở rộng địa bàn hoạt động thì toan tính của ông Nhu lấy Pháp làm thế tựa, tìm ở Cambodge một động thái trung lập tích cực (nghĩa là trung lập giữa VNCH và CS Bắc Việt) thì chủ trương ấy tự đã nói lên tính cách đe dọa nguy hiểm đối với toan tính Hoa Kỳ. Đó cũng là lý do khiến người Mỹ nóng lòng muốn thanh toán Ngô Đình Diệm. Ngày 19-7-1963, Nghị Sĩ Wayne L. Morse thuộc Ủy Ban ngoại Giao Hoa Kỳ tuyên bố: “Việt Nam không đáng nhận được sự hy sinh của một trẻ em Hoa Kỳ”. Ông còn nói rằng, không đồng ý cho một đô la nào nữa để ủng hộ một chế độ độc tài tàn bạo của TT Ngô Đình Diệm. Tại Sao như thế?
ĐƯỢC NHẬP TỊCH VIỆT, NGƯỜI MIÊN 1959
COI ĐÓ NHƯ MỘT THẮNG LỢI
Trong vụ tranh đấu Phật giáo 1963, Cambodge là nước được ghi nhận là nước công kích chính quyền Ngô Đình Diệm mãnh liệt nhất. Ngay từ tháng 7 năm 1963, khi cuộc tranh đấu Phật giáo trở nên mãnh liệt thì Sihanouk đã tìm mọi cách vận động khối người Việt gốc Miên tham gia cuộc tranh đấu này với chủ ý lật đổ cho kỳ được chế độ Ngô Đình Diệm.
Nhưng Sihanouk đã không thành công như ý muốn. Bởi cộng đồng người Việt gốc Miên tại miền Tây vốn có cảm tình đặc biệt với cựu Thủ Tướng Sơn Ngọc Thành và dĩ nhiên trong hoàn cảnh lúc ấy Sơn Ngọc Thành phải giữ thế trung lập giữa chính quyền Việt Nam và Phật Giáo. Nói đến cộng đồng người Việt gốc Miên thì không thể nào bỏ qua thế lực của các sư sãi Miên. Các vị sư sãi này luôn là các thủ lãnh có uy quyền với đồng bào của họ và đa số lại có cảm tình với Sơn ngọc Thành. Khi phái đoàn Phật Giáo đến yết kiến Tổng Thống Diệm vào ngày 15-5 (sau vụ nổ đài Phát Thanh Huế) Hòa Thượng Lâm Em đã phát biểu: “Được gặp Tồng Thống như thế này, tôi thấy tốt đẹp lắm”. Từ đó, tuy có tiếng trong Ủy Ban Liên Phái nhưng Hòa Thượng Lâm Em cũng như Cư Sĩ Sơn Thái Nguyên vẫn giữ thái độ ôn hòa đối với chính quyền Ngô Đình Diệm nếu không muốn nói là họ vẫn giữ sự thân thiện với chính quyền. Nhờ vậy trong suốt cuộc tranh đấu Phật Giáo năm 1963 người Việt gốc Miên tại miền Tây vẫn thụ động. Những tỉnh có nhiều người Việt gốc miên (chiếm đa số) như Trà Vinh, Sóc Trăng đều không có một phản ứng nào đáng ghi nhận… Trong 4 vùng chiến thuật thì vùng 4 và nhất là miền Tây kể từ tháng 5 đến ngày 1-11-1963 được coi là yên tĩnh về mặt Phật Giáo. Mặc dù Sihanouk với sự hỗ trợ đắc lực của tổ chức giáo vận thuộc MTGPMN song ông vẫn không sao kích động được cộng đồng người Việt gốc Miên để họ đứng lên chống lại chính phủ Ngô Đình Diệm. Được như vậy là nhờ ảnh hưởng của Sơn Ngọc Thành và uy quyền lớn lao của Hòa Thượng Lâm Em, vị thủ lãnh của các sư sãi Miên tại miền Nam. Điều đáng kể là chính quyền Ngô Đình Diệm nắm vững cộng đồng người Việt gốc Miên  chính là nhờ trục Lâm Em, Sơn Thái, Sơn Ngọc Thành. Năm 1959 đã có đề nghị yêu cầu Tổng Thống Diệm đặt người Việt gốc Miên thành thiểu số (như đồng bào Thượng) các thủ lãnh của họ phản đối.  Hòa Thượng Lâm Em cũng như sư sãi Miên cho như thế là “hạ nhục” người Miên. Đề nghị này được hủy bỏ, các thủ lãnh người Miên coi đó như một chiến thắng và một ân huệ mà TT Diệm dành cho họ.
Với chính sách ve vãn Cambodge và nắm vững cộng đồng Miên tại miền Tây, TT Diệm đã dành cho họ nhiều ưu tiên và đó cũng là cách nhằm nâng cao uy tín của thủ lãnh Sơn Ngọc Thành và vuốt ve lòng tự ái dân tộc của cộng đồng người Miên vốn có nhiều mặc cảm với người Việt. Có điều rất khó hiểu là năm 1969 người Miên lại muốn trở thành dân thiểu số tại miền Nam. Theo sự tiên liệu thì đây cũng chỉ là một chiến thuật nằm trong sách lược của ngoại bang muốn biến người Việt gốc Miên thành dân thiểu số rồi từ nhãn hiệu thiểu số sẽ dễ dàng bước qua một giai đoạn khác tức giai đoạn phát động phong trào tự trị của người Miên tại miền Tây.
Năm 1963 Sihanouk được dịp trả thù. Kể từ năm 1959 Thái Tử Sihanouk tìm mọi cách phát triển uy tín và cơ sở mật tại hạ tầng cộng đồng người Việt gốc Miên nhưng như trên đã viết uy tín của Thái Tử Sihanouk vẫn mờ nhạt trước một Sơn Ngọc Thành, và Lâm Em. Vụ tranh đấu Phật Giáo 1963 là một thất bại lớn của Sihanouk  tại miền Tây vì Sihanouk không đạt được âm mưu khuấy động tại miền Tây với anh nghĩa tranh đấu cho 5 nguyện vọng của Phật Giáo.
Trong khi đó thì tại Nam Vang Shihanouk dùng mọi nỗ lực để yểm trợ tinh thần cho cuộc tranh đấu của Phật Giáo Việt Nma. Báo chí từ phe Miên hữu đến phe tả đều nhất loạt lên án chính quyền Ngô Đình Diệm. Điển hình là nhật báo Neak Cheat Niyum, (tờ báo của chính phủ) kể từ 19-5 cho đến 1-11-1963 nhật báo này mở cả một chiến dịch tấn công chính quyền Ngô Đình Diệm về vụ gọi là “kỳ thị và tàn sát Phật giáo”. Ngôi chùa Onnalum, một ngôi chùa lớn mới được xây cất tại Nam Vang đã trở thành trung tâm tranh đấu của Phật giáo tại Miên. Trong buổi lễ khánh thành ngôi chùa này vào đầu tháng 6-1963, Thái Tử Sihanouk đã tuyên bố những lời nảy lửa lên án chính sách kỳ thị tôn giáo của chính quyền Ngô Đình Diệm. Sihanouk cũng đã dự lễ cầu siêu cho Phật Tử Việt Nam mà ông cho rằng “nạn nhân của chính phủ Ngô Đình Diệm. Chính phủ Diệm sau khi tàn sát nhiều sư sãi và Phật Tử Miên tại miền Nam nay lại ngược đãi tàn sát cả đồng bào họ theo Phật Giáo”. Ngày 6-9-1963 chính phủ Miên tổ chức một cuôc mít tinh tại chùa Onnalum để gọi là biểu dương tinh thần đoàn kết với Phật tử Việt Nam để phản kháng chính quyền Ngô Đình Diệm về sự đàn áp Phật Giáo. Hội Việt Kiều Phật Giáo do ông Trần Văn Được làm chủ tịch cũng được Cambodge dành cho mọi sự dễ dãi trong công cuộc vận động Việt Kiều chống chính quyền Ngô Đình Diệm. Ngày 16-6-1963 chính phủ Cambodge lại cho phép hội này được tổ chức một cuộc biểu tình rầm rộ trước Đại Diện VNCH tại Nam Vang để lên án chính quyền Ngô Đình Diệm và Đế Quốc đàn áp Phật Giáo Việt Nam. Trước đó 3 ngày tức là ngày 13-6, Cambodge bày tỏ lòng căm phẫn của chính phủ và nhân dân Cambodge tại miền Nam và cũng bày tỏ niềm âu lo trước các biện pháp đàn áp Phật Giáo và Phật Tử của chính phủ VNCH. Trong văn thư kể trên chính phủ Cambodge đòi hỏi chính phủ VNCH phải tôn trọng các nguyên tắc của bàn tuyên ngôn nhân quyền Liên Hợp Quốc.
Tổng trưởng Ngoại Giao Cambodge đã chánh thức mời viên Đại Lý tòa Đại Diện Việt Nam đến Bộ Ngoại Giao và trao cho ông này một văn thư gửi Bộ Trưởng Ngoại Giao VNCH. Trong văn thư ngày 16-6 Sihanouk lại tuyên bố hỗ trợ chính phủ Tích Lan của bà Sikimawo Bandaranaike về việc vận động với U-Thant, Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc để đưa vụ Phật Giáo Việt Nam ra trước Đại Hội Đồng LHQ. 
SIHANOUK TRANH ĐẤU CHO
PHẬT GIÁO VIỆT NAM
Đối với Sihanouk thì vụ Phật Giáo 1963 là một cơ hội ngàn vàng để ông có dịp tố cáo VNCH về một điều giả tạo nhưng Sihanouk vẫn cho rằng chính quyền Ngô Đình Diệm đã đàn áp giết hại người Miên và các sư sãi Miên tại miền Nam.
Sihanouk  gắn liền lới tố cáo này với chiêu bài “ủng hộ triệt để cuộc tranh đấu phật Giáo Việt Nam”. Sihanouk  không ngừng phát động cả một chiến dịch báo chí tấn công và bôi đen chính quyền Ngô Đình Diệm trong khi đó cộng đồng người Việt gốc Miên lại tỏ ra thờ ơ lạnh nhạt. Nhờ vậy mà vùng 4 Chiến Thuật không gặp một khó khăn nào trong vụ tranh đấu ngoại trừ một vài địa phương như Bến Tre và Mỹ Tho nhưng lại không đáng kể. Căn cứ theo tài liệu thì trong suốt thời gian đấu tranh của Phật Giáo, vùng 4 Chiến Thuật chỉ phải đối phó với áp lực quân sự mạnh mẽ của MTGPMN.
Miền Tây coi như không có vụ tranh đấu của Phật Giáo nếu không theo dõi báo chí và đài VOA và BBC. Khi yết kiến TT Diệm cũng như Bộ Trưởng Bùi Văn Lương, ông đại biểu Nguyễn Văn Vàng đã trình bày rõ ràng như vậy và Tướng Huỳnh Văn Cao, Tư Lệnh Vùng 4 cũng xác nhận như vậy trong tập hồi ký của ông mới xuất bản gần đây.
Tại Nam Vang ngày 2-11-1963 tức sau ngày đảo chánh và trước cái chết của anh em TT Diệm, Thái Tử Sihanouk  đã biểu lộ niềm hân hoan chưa từng có. Đêm 2-11 Sihanouk  mở tiệc liên hoan trong Hoàng Cung. Tờ La Dépeche du Cambodge ra số ngày 3 cho rằng, cái chết của Diệm, Nhu đã đem lại cho nhân dân Cambodge một niềm vui mừng vô hạn. Thái Tử Sihanouk  chính thức tuyên bố: “Ngô Đình Diêm, kẻ thù của nhân dân Cambodge và Phật Giáo đã đến tội… đó là ngày lớn của lịch sử Đông Dương“. Liên tiếp trong 3 ngày liền, Sihanouk  mở tiệc liên hoan làm như chính ông ta đã ra tay hạ đươc kẻ thù không đội trời chung của Sihanouk .
Sihanouk  biết rất rõ chính quyền Ngô Đình Diệm đã tài trợ và dung dưỡng tổ chức Khmer tự do của Sơn Ngọc Thành. Chỉ một điều này đã đủ khiến Sihanouk căm thù chính quyền Ngô Đình Diệm vì Sơn Ngọc Thành đối với Sihanouk vốn là kẻ thù bất cộng đái thiên. Sihanouk  đã dùng đủ cách để hạ sát Sơn Ngọc Thành kể cả âm mưu dùng bàn tay của phòng nhì Pháp và MTGPMN. Nhưng Sihanouk  không thể làm gì được họ Sơn bởi vì chính cái uy tín lớn lao của họ Sơn trong Cộng Đồng người Miên ở miền Nam đã tạo nên bức tường thành bảo vệ Sơn và tổ chức Khmer tự do.
MỐI THÙ BIÊN GIỚI
Trong chuyến công du Việt Nam năm 1957 Thái Tử Sihanouk  đã đặt vấn đề biên giới Việt Miên với ông Nhu. Kết quả là Sihanouk và ông Nhu đã thỏa thuận như thế này: “Hai chánh phủ Việt Miên sẽ không đặt vấn đề biên giới như một tiên quyết cho việc thiết lập bang giao Việt Miên. Tuy nhiên hai nước vẫn mặc nhiên công nhận thỏa hiệp Dupré- Norodom 1873″ Theo thỏa hiệp Dupré- Norodom ký kết giữa Thống Đốc Nam Kỳ (Đô Đốc Dupré) và Miên Hoàng Norodom thì biên giới Việt Miên được phân định bằng 124 cột trụ kéo dài từ ngã ba biên giới cho đến phía Bắc Kinh Vĩnh Tế qua sông Tonly tree, Sóc  Stroc tum, Ban Churung, Paplan.
Kết quả cuộc hội đàm giữa Sihanouk và Ngô Đình Nhu là Cambodge sẽ không công nhận chính quyền miền Bắc, nhưng vì tôn trọng tinh thần hiệp ước Genever 1945, Cambodge chỉ thiết lập bang giao với Việt Nam trên hàng Đại Diện Ngoại Giao (với cấp bậc Đặc Sứ).
Ít lâu sau Sihanouk lại làm ngược lại lời cam kết khi ông ta tính chuyện kết thân với chính quyền Bắc Việt và Trung Cộng.
Sihanouk đưa ra hai mục tiêu để gây hấn với chính quyền Ngô Đình Diệm. Trước hết là vấn đề biên giới Sihanouk lại phủ nhận thỏa hiệp Dupré.
Sihanouk thường lên tiếng tố cáo chính quyền Ngô Đình Diệm đã vi phạm và đã lấn qua lãnh thổ Cambodge, sau nữa, Sihanouk lại phủ nhận các nghị định mà các toàn quyền Đông Dương của Pháp trước đây đã ký ấn định ranh giới các tỉnh Tây Ninh và PreyVeng, Thủ Dầu Một và Kompong Chàm, Châu Đốc…Những năm 1959-1960-1961 tại các vùng biên giới Việt- Miên, lính Miên được lệnh nhổ cột trụ cắm sâu vào lãnh thổ Việt Nam cả 6, 7 cây số. Quân đội Việt Nam lại phải mở cuộc hành quân nhổ cột trụ đem vào vị trí cũ. Cứ mỗi lần như thế Shihanouk lại hô hoán là quân đội Việt Nam vi phạm biên giới. Vấn đề thứ hai là người Miên tại miền Nam, Shihanouk chống lại việc Việt tịch hóa người Miên, ông ta còn “bắn tiếng” sẽ đòi lại một số tỉnh miền Tây. Khi TT Diệm đặt tên tại một số địa danh của các tỉnh miền Tây là có ý biểu dương uy quyền quốc gia trên một số lãnh thổ còn mang nhiều di tích của người Miên (như Sóc Trăng chẳng hạn) và đó cũng là cái cách TD Diệm muốn làm sống lại một quá khứ xa xưa dưới thời Minh Mạng, Tự Đức với những địa danh như Kiên Giang, An Giang, Phong Dinh… giai đoạn vinh quang kết thúc cuộc Nam Tiến.
Trên đây chúng tôi trình bày sơ qua về mối cừu hận của Sihanouk đối với chế độ NĐD và đó cũng là lý do khiến cho Sihanouk vô cùng hân hoan trước cái chết của anh em TT Diệm. Sihanouk hận thù chính quyền Ngô Đình Diệm vì chính quyền này đã dung dưỡng và hỗ trợ Sơn Ngọc Thành. Một điều khác nữa là đã có một lần chính quyền Ngô Đình Diệm âm mưu lật đổ chế độ Sihanouk vào tháng giêng năm 1959
Giai đoạn đầu TT Diệm vẫn giữ vững chủ trương giao hảo tốt đẹp với  Sihanouk (1957-1959). Vào cuối năm 1956 Việt-Miên đồng ý thiết lập bang giao trên cấp bậc Đặc Sứ. TT Diệm hỏi ý kiến PTT Thơ về việc này và yêu cầu ông chọn một nhân vật giữ chức vụ Đặc Sứ Việt Nam đầu tiên tại Cambodge. TT Diệm đưa ra ba tiêu chuẩn để ông Thơ dễ dàng lựa chọn.1- Viên Đặc Sứ phải ăn nói hoạt bát lanh lẹ và giỏi về Pháp Ngữ. 2 Am tường nội tình Cambodge. 3- Có mưu mẹo tháo vát và quen biết nhiều các giới chức Miên, Pháp. Phó TT Thơ đề bạt người bạn tâm giao của ông tức Ngô Trọng Hiếu lúc ấy đang giữ chức vụ Tổng Giám Đốc Ngân Khố. Cũng nên ghi thêm là suốt 9 năm cầm quyền TT Diệm rất tin cẩn ông Thơ. Khi muốn tìm một người giữ chức quan trọng nào thì thường thường TT Diệm hỏi ý kiến ông Thơ. Một khi ông Thơ đề bạt ai thì người đó rất nhiều hy vọng được bổ nhậm. Mặc dầu bổ nhậm một Đặc Sứ đáng lý ông Tổng Thống phải hỏi ý kiến ông Bộ Trưởng Ngoại Giao, nhưng TT Diệm vẫn có thành kiến  là Phó Tổng Thống Thơ am tường về miền Nam và nội tình Cambodge. Khi TT Diệm nói: “Người cụ Phó giới thiệu“. Câu nói này có nghĩa là người đó đáng tin cẩn của chế độ. Người duy nhất mà ông Thơ đề bạt giữ chức vụ đặc sứ tại Miên là ông Hiếu (hai người này được coi như đôi bạn cố tri, khi ông Thơ lãnh Tỉnh Trưởng Long Xuyên thì ông Hiếu giữa chức Trưởng Ty Ngân Khố) Phó TT Thơ có trình bày với TT Diệm là Ngô Trọng Hiếu hội đủ nhưng tiêu chuẩn mà TT Diệm đưa ra. Ông Thơ cũng nhấn mạnh là Ngô Trọng Hiếu nói được tiếng Miên rất thông thạo, từng sống nhiều năm tại Cambodge và là một viên chức của ngành Ngân Khố Pháp tại Cambodge. TT Diệm đồng ý nhưng sau đó lại hỏi ý kiến ông Nhu thì ông Nhu cho rằng “Tùy Tổng Thống, cắt cử ai cũng được ăn thua là chính sách của mình, tôi thấy Ngô Trọng Hiếu cũng được“. Ông Nhu thắc mắc :“Hiếu còn hơn là dân Tây mà?” TT Diệm nói một hơi dài như thể biện minh cho ông Hiếu: “Hắn hồi Việt Tịch rồi“. Ông Nhu đáp nhát gừng: “Như vậy cũng được“.
Trước khi chính thức bổ nhậm, Ngô Trọng Hiếu phải trải qua một cuộc “thi vấn đáp” mà giám khảo là TT Diệm. Sau khi hỏi kỹ về nội tình Cambodge TT Diệm chất vấn Ngô Trọng Hiếu: “Tình hình như vậy thì đối với Miên bây giờ sẽ tính sao” – Vốn là người nói năng lưu loát, ông Hiếu đáp ngay: “Trình cụ, đối với Miên thì tôi có hai điều căn bản, môt là dùng tình cảm, hai là hối lộ mua chuộc họ” TT Diệm hỏi: “Dùng tình cảm như thế nào” Ông Hiếu đáp: “Người Miên có nhiều mặc cảm với người Việt lắm vậy ta phải làm mọi cách thân thiện với họ, đề cao họ và để họ thấy rằng ta coi họ như bạn bè”. TT Diệm lại căn vặn: “Lúc nẫy ông nói hối lộ vậy hối lộ như thế nào?” Ông Hiếu đáp: “Thưa cụ xin được tùy cơ ứng biến, bà mẹ của Sihanouk ham được hối lộ lắm”.
TT Diệm hỏi: “Ông có quen ai ở bên đó không?” Ngô Trọng Hiếu đáp: “Dạ thưa quen nhiều, tôi có quen thân ông Hoàng Monireth” TT Diệm hỏi tiếp:“Ông ta là người như thế nào?” Ông Hiếu đáp: “Theo thứ tự trong Hoàng tộc Miên thì Hoàng Thân Monireth mới là người nối vua Cao Miên chứ không phải Sihanouk” TT Diệm lại hỏi: “Ông ta với Sihanouk như thế nào?” Ông Hiếu đáp: “Hoàng Thân Monireth là cậu ruột của Sihanouk. Thời Pháp Hoàng Thân Monireth là Trung Úy trong quân đội Lê Dương của Pháp, ông ta rất được mẹ Sihanouk tin cẩn” TT Diệm hỏi lại: “Bà ta như thế nào?” Ông Hiếu đáp: “Thưa Cụ, bà ta nổi tiếng là tham lam hay nhận hối lộ”. TT Diệm lại hỏi: “Ông còn quen ai khác nữa không?” Ông Hiếu đáp: “Thưa Cụ còn một vài bạn thân như Samsary Yam Sambaur”. TT Diệm gật đầu: “Thôi được ông về lo thu xếp rồi sang bên đó giúp tôi“. TT Diệm thắc mắc: “Ông đi sang bên đó ai có thể thay ông làm Tổng Giám Đồc Ngân Khố” Ông Hiếu đáp: “nhân viên cao cấp của ngành ngân khố hiện nay hầu hết còn giữ Pháp Tịch vậy xin Cu cho Trần Văn Minh tạm thời thay quyền Tổng Giám Đốc” TT Diệm nói vắn tắt: “Thôi được, ông sang bên đó cố gắng làm sao cho tốt đẹp“. Trước khi ra về ông Hiếu được TT Diệm chỉ thị thêm: “Mình phải tạo được thế liên minh với Miên Lào thì hai nước ấy cùng một khối với mình thì mình sẽ đủ sức chống Cộng Sản”.
NGÔ ĐÌNH NHU


VỤ ĐẢO CHÍNH HỤT CỦA DAP CHOUN
Khi Tòa đại diện VN được thiết lập chính thức mở đầu cho giai đoạn bang giao tốt đẹp giữa Việt Nam và Miên thì Pháp cũng như chính Hà Nội bắt đầu lo ngại. Tòa Đại Diện Việt Nam đã thành công qua giai đoạn “thân thiện và mua chuộc theo đúng chỉ thị của TT Diệm ” Tốn phí thế nào cũng được miễn sao mua chuộc được Miên, rồi lần về Sài Gòn, Ngô Trọng Hiếu lại mua sắm đủ thứ của ngon vật lạ để dưa lên Nam Vang “hối lộ” Hoàng Hậu Kossamack. Bà ta cũng như Hoàng Thân Monireth đều có cảm tình tốt đẹp với người Việt.
Từng giỏ soài, cam, ổi sá lị của ông Hiếu dâng tặng Hoàng Hậu Kossamack đã có tác dụng ngay. Sihanouk qua ảnh hưởng của người mẹ đã có một thái độ tốt đẹp và cởi mở đối với chính quyền Sài Gòn. Tòa Đại Diện Việt Nam xử dụng phương thuật “phóng tài hóa thu nhân tâm” nên không những hối lộ quà cáp với Hoàng Hậu Kossamack mà còn mua chuộc các giới chức cao cấp của Miên cũng như Hoàng Thân Monireth bằng cách biếu quà, tổ chức tiệc tùng, săn bắn… Nhờ vậy, Ngô Trọng Hiếu móc nối được tướng Dap Choun, mệnh danh là phó vương Cao Miên, một mình ông ta thống lãnh cả vùng Siemreap miền Tây Cambodge.
Giữa năm 1958, Shihanouk thay đổi chính sách ngoại giao…việc đầu tiên là Sihanouk chấp thuận cho Trung Cộng đặt tại Nam Vang một đại diện thương mại. Đồng thời Sihanouk cũng tìm cách mở rộng bang giao với khối Cộng Sản và bắt tay với chính quyền Hà Nội. Năm 1858, Sihanouk thiên hẳn về Cộng Sản.
Sự thực Sihanouk chủ tâm gây hấn về vấn đề biên giới Việt-Miên, về Việt Tịch hóa người Miên cũng như đòi lại mấy tỉnh miền Tây chẳng qua chỉ là một chiến thuật gây rối và tạo áp lực trước hết để chính quyền Ngô Đình Diệm không tạo được cơ hôi gây rối nội bộ Miên sau nữa là nhắm đến việc sửa soạn đón tiếp “ông bạn” Bắc Việt. Sihanouk đã từng tuyên bố “Cộng Sản Bắc Việt và Việt Nam Cộng Hòa đều nguy hiểm như nhau” Nhưng Bắc Việt là mối nguy hiểm đằng xa – Việt Nam Cộng Hòa mới là mối nguy hiểm trực tiếp đối với Cambodge.
Rõ rệt nhất là sự tài trợ và dung túng tổ chức Khmer tự do của Sơn Ngọc Thành, họ Sơn là một ám ảnh lớn đối với Sihanouk đó cũng là mối thù của Sihanouk đối với chính quyền Ngô Đình Diệm. Nhưng không có mối thù nào lớn cho bằng vụ Dap Choun đã gây nên mối cừu hận giữa Sihanouk và chính quyền Ngô Đình Diệm. Đó cũng là lý do cho ta thấy tại sao liên tiếp trong 3 ngày sau đảo chánh 1-11-1963 Sihanouk đã tổ chức liên hoan như đại hội hoa đăng để ăn mừng Diệm Nhu bi thảm sát.
TƯỚNG DAP CHOUN VÀ 100 KILO VÀNG CỦA VIỆT NAM CỘNG HÒA
Vụ Dap Choun diễn tiến như thế nào? Ông Đặc sứ Ngô Trọng Hiếu trở về Sài Gòn trong chiều hướng mới của Sihanouk đối với Cộng Sản Bắc Việt và Cambodge với chiều hướng này sẽ là mối de dọa lớn cho VNCH. Ông Ngô Đình Nhu chỉ thị nếu không kéo được Sihanouk về phe mình và nếu Sihanouk trung lập thân Cộng thì chỉ còn cách mưu đồ hạ bệ ông ta. Ông Ngô Trọng Hiếu đề nghị nên làm một “cú” đảo chính Sihanouk. Về đề nghị này, TT Diệm hỏi: “Ai có thể làm được” Ngô Trọng Hiếu đáp: “Trình Cụ, tướng Dap Choun có thể làm được” TT Diệm lại hỏi ông Hiếu: “vai trò của Dap Choun hiện nay ra sao?” Ông Hiếu trình bày: “Tướng Dap Choun nắm hết quyền bính tại miền Tây Cambodge, lực lượng phòng vệ Hoàng Cung tại Nam Vang đều là tay chân của Dap Choun” TT Diệm đồng ý “ông cứ làm đi, liên lạc với Dap Choun xem sao”.
Trở lại Cambodge, ông Ngô Trọng Hiếu bắt liên lạc ngay với Tướng Dap Choun. Trong một chuyến săn tại khu rừng phía Bắc Siemrreap, ông Hiếu cùng đi với Dap Choun và tìm lời ngỏ ý…Tướng Dap Choun đang có chuyện bất mãn với Sihanouk và cho rằng Sihanouk chưa đủ trưởng thành để lãnh đạo. Dap Choun thuộc phe quân Phiệt cực hữu Cambodge và ông ta chống lại chủ trương trung lập thân Cộng của Sihanouk. Dap Choun lại có cô vợ bé người Việt mà ông ta đang sủng ái, chính người vợ bé này đã giúp Tòa Đại Diện Việt Nam trong nhiệm vụ giao liên để thuyết phục Dap Choun.
Sau nhiều lần găp gỡ thảo luận, Tướng Dap Choun đã đồng ý với Đặc Sứ Ngô Trọng Hiếu về kế hoạch đánh chiếm Nam Vang và lật đổ Shihanouk.
Tướng Dap Choun ngỏ ý, ông cần một số dollars hoặc vàng để làm phương tiện dưỡng quân trong vòng hai tháng. Điều kiện này không có gì quá khó khăn và ông Ngô Trọng Hiếu lại trở lại Saigon trình lại với TT Diệm và ông Nhu. TT Diệm nói đơn giản: “nếu thấy làm được thì cứ làm, tổn phí cũng ráng phải chịu cho nó xong việc”.
Ông Nhu cho mời bác sĩ Tuyến vào phòng để thảo luận cho kỹ lưỡng, cân nhắc lợi hại trước khi bắt tay vào hành động. Kế hoạch này tuyệt đối bí mật không một nhân vật cao cấp nào biết rõ ngoại trừ Phó TT Thơ, ông Nhu, BS Tuyến và ông Hiếu. Vấn đề khó khăn nhất là tìm đâu ra 100 kilo vàng để tài trợ cho Dap Choun? Điều này TT Diệm trao phó cho Phó TT Thơ giải quyết vì còn là Bộ Trưởng Kinh Tế nên nếu rút 100 kilo vàng trong số trữ kim của ngân khố sẽ không ai để ý, nghi ngờ và sau đó sẽ tìm cách giải quyết. Phó TT Thơ đã góp công đắc lực trong phần vụ này.
Một trăm kilo vàng được đóng vào thùng niêm phong cẩn mật và tự tay ông Hiếu dùng xe hơi trở lên tận Siemreap. Tại đây, đặt một điện đài liên lạc thẳng với Saigon và Tòa Đại Diện Việt Nam. Đặc Sứ Ngô Trọng Hiếu vẫn tiếp tục liên lạc bí mật với tướng Dap Choun và người em của Dap Choun cũng là Dân Biểu Quốc Hội Miên. Tướng Dap Choun khi nhận được 100 kilo vàng đã đánh một điện văn cảm ơn TT Diệm và cho biết ông đã nhận được quà biếu. Từ đầu tháng 1 năm 1959 hàng ngày cứ lúc 7 giờ sáng 12 giờ sáng, 12 giờ trưa và 9 giờ đêm, điện đài vô tuyến từ Dinh Dap Choun vẫn gửi tin tức đều đặn về cơ quan tình báo Phủ Tổng Thống. Phía Dap Choun và Ngô Trọng Hiếu cũng sửa soạn kế hoạch tiến đánh Nam Vang. Lần gặp gỡ cuối cùng giữa Dap Choun và Ngô Trọng Hiếu nhằm ngày 10-11-1959. Dap Choun cho ông rõ là công việc mưu đồ đang tiến hành tốt đẹp và hai bên ấn định ngày H sẽ ra tay.
Tại Saigon, ông Nhu cũng như BS Tuyến chỉ còn thảo luận về việc đem Sơn Ngọc Thành  trở lại Nam Vang. Một khi cuộc đảo chánh bùng nổ thì lực lượng của Quân Khu V (tức Quân Khu IV bây giờ) và Quân Khu II sẽ động binh tiến đến biên giới giúp Dap Choun nắm vững khu vực miền Đông Bắc Cambodge.
Sơn Ngọc Thành lại qua Vọng Các và liên lạc với chính quyền Thái Lan để hỗ trợ ông ta về phía Tây. Cũng vì Sơn Ngọc Thành qua Thái Lan nên ngày H phải hoãn lại và đó cũng là nguyên nhân làm cho âm mưu bị bại lộ.
TRƯỚC KHI TỬ HÌNH
HAI ĐIỆP VIÊN VIỆT NAM HÔ LỚN:
“VIỆT NAM MUÔN NĂM”
Nếu ngày H theo đúng kế hoạch và thời hạn ấn định thì Sihanouk không kịp trở tay. Như trên đã viết sở dĩ phải dời lại thêm 10 ngày đợi cho Sơn Ngọc Thành đi tiếp xúc với nhà cầm quyền Thái Lan. Trong thời gian này, có lẽ Tướng Dap Choun quá chủ quan cho nên âm mưu đảo chánh lọt đến tai tòa Đại Sứ Pháp. Dĩ nhiên là Pháp phải cấp báo cho Sihanouk.
12 giờ đêm ngày 21. Đại Sứ Pháp cùng Đại Sứ Nga vào Hoàng Cung gặp Sihanouk và tiết lộ âm mưu đảo chánh của Tướng Dap Choun. Hai giờ sau, Sihanouk cho lệnh động binh, trao cho Tướng Lon Nol thống lãnh lực lượng Dù mở cuộc tấn công chớp nhoáng thành phố Siemreap, 6 giờ sáng, Tướng Dap Choun còn đang ngủ, quân của Tướng Lon Nol đã tràn ngập thành phố Siemreap. Dap Choun không kịp trở tay, ông cải trang trốn thoát.
Quân của Lon Nol chiếm Dinh Thống Đốc Siemreap và bắt được đầy đủ tang vật gồm 100 kilo vàng, hai chuyên viên Việt Nam và đài vô tuyến cùng một số võ khí. Khi quân của Tướng Lon Nol tiến về Siemreap, Tòa Đại Diện Việt Nam biết rõ nhưng đành bó tay vì không còn phương cách nào cấp báo cho Dap Choun.
Tại Sài Gòn theo thông lệ 7 giờ mỗi sáng đều nhận được tín hiệu từ Dinh Dap Choun nhưng suốt buổi sáng hôm đó bặt tin. Cơ quan tình báo Phủ Tổng Thống linh cảm thấy nguy cơ… Âm mưu lật đổ Sihanouk chắc bất thành.
Ngày hôm sau, Thái Tử Sihanouk mời tất cả ngoại giao đoàn lên Siem Reap xem chiến lợi phẩm trong đó có Ngô Trọng Hiếu. Ông Hiếu ở thế “tiến thoái lưỡng nan” nhưng cuối cùng vẫn quyết định đi theo phái đoàn ngoại giao cùng với toàn thể nội các Cambodge. Ngôi sao Lon Nol bắt đầu rực sáng. Đó là thành tích huy hoàng của ông đối với Thái Tử Sihanouk. Từ thành tích này, tướng Lon Nol trở nên một cận thần có thế lực nhất sau Sihanouk.
Tại Dinh Thống Đốc Siem Reap , Sihanouk vênh vang đắc thắng nhưng không ngớt lời thóa mạ “kẻ thù dân tộc Khmer” mà Sihanouk tuy không nêu đích danh là VNCH nhưng ám chỉ bằng những danh từ “tay sai đế quốc”… Sihanouk trình bày tất cả bằng chứng 100 kilo vàng và hai điệp viên Việt nam cùng điện đài. Sihanouk quay về phía Ngô Trọng Hiếu và hỏi: “Thưa ngài Đại Diện, Ngài nghĩ thế nào về những bằng chứng rõ rệt này“. Ông Hiếu cố làm vẻ thản nhiên, đáp: “Thưa Thái Tử Quốc Trưởng, chúng tôi đến đây để được nghe ngài trình bày nên không có gì để trả lời cả”.Ngoại giao đoàn im phắc… Thái Tử Sihanouk không biết nói sao nhưng bằng chứng thật là rõ rệt, 100 kilo vàng còn giữ nguyên dấu hiệu của Ngân Khố Việt Nam. Hai chuyên viên vô tuyến người Việt Nam, lại mang theo cả giấy thông hành Việt Nam.
Tuy vậy Sihanouk vẫn không lên án đích danh VNCH mặc dù ông ta biết rõ tường tận từ bằng chứng cụ thể đến âm mưu kế hoạch. Khi ông Ngô Trọng Hiếu và ngoại giao đoàn được mời đến quan sát hai chuyên viên người Việt (bị trói chặt tay) ông Hiếu đưa tay tát yêu trên má của họ và mỉm cười không nói một lời nào. Hai chuyên viên này cũng không biết ông là Đặc Sứ của Việt Nam. Ít lâu sau bị kết án tử hình và hành quyết ngay. Trước phút lìa trần 2 chuyên viên này đồng thanh hô lớn :”Việt Nam muôn năm”. Thái độ bình tĩnh gan dạ và đầy khí phách của họ đã làm cho nhà cầm quyền Cambodge phải kính nể.
Riêng tướng Dap Choun trốn thoát vào rừng nhưng ông ta vốn nghiện thuốc phiện và ôm cả thuốc nằm gục dưới một gốc cây. Lực lượng Dù của Tướng Lon Nol bắt gặp và hạ sát Dap Choun tại chỗ.
Tại Saigon, TT Diệm cũng như ông Nhu đều phập phồng lo âu cho số mạng của ông Đặc Sứ Ngô Trọng Hiếu vì biết đâu Sihanouk có thể làm hoảng. Nhưng trái lại, Sihanouk chỉ yêu cầu chính phủ Việt Nam triệu hồi Ngô Trọng Hiếu.
Linh Mục François từ Nam Vang qua Sàigon vào cuối tháng 7 năm 1963. Trước khi đặt chân lên thủ đô miền Nam. Linh Mục có cảm tưởng Saigon đang là một hỏa ngục thiêu đốt hàng ngàn sư sãi và Phật Tử. Sở dĩ có cảm tưởng như vậy vì xuyên qua báo chí Tây Phương và nhất là những lời đồn đại và dư luận báo chí tại Nam Vang. Linh Mục tuy vẫn tin tưởng nơi cá nhân TT Diệm, nhưng Linh Mục vẫn cảm thấy ghê tởm những trại tù lộ thiên “giam hàng ngàn Phật tử bỏ đói, phơi nắng và bị tra tấn dã man”Trong cuộc gặp gỡ với Linh Mục François và Thủ Tướng Cambodge (Hoàng Thân Norodom Kantol) chính Thủ Tướng Kantol đã nói như vậy. Nhưng sự thật có như vậy không? Linh Mục François lưu ngụ tại Sài Gòn hai tuần lễ và tìm mọi cách để điều tra xem chính quyền NĐD đã đàn áp Phật giáo đến mức độ nào?
Trong cuộc gặp gỡ Thủ Tướng Kantol ông ta có nói với Linh Mục:
- Thái Tử Quốc Trưởng và Chính Phủ Cambodge rất lo ngại cho số phận hàng trăm ngàn Phật Tử Miên thuộc giáo phái Theravada nếu chính quyền Ngô Đình Diệm không ngừng đàn áp Phật Tử thì các nước Phật Giáo Á Châu sẽ có một thái độ quyết liệt và có thể tiến đến một hành động, chúng tôi sợ rằng lúc ấy sẽ bất lợi cho tín đồ Thiên Chúa Giáo Á Châu.
Linh Mục François đáp: Chúng tôi rất hổ thẹn có một tín hữu dùng quyền bính mà đàn áp ngược đãi đồng bào Phật Tử của ông ta như vậy. Nếu cứ nói như lời Thủ Tướng thì sự đàn áp này có thật. Chắc chắn Giáo Hội Thiên Chúa Giáo tại miền Nam sẽ có thái độ.
Thủ Tướng Kantol: “Cuộc biểu tình ngày 17 vừa qua (17-7-1963) của hàng trăm ngàn Phật Tử tại Sài Gòn chính quyền Thiên Chúa Giáo thẳng tay đàn áp. Hiện nay có cả hàng ngàn sư sãi đang bị giam giữ, một số bị thủ tiêu.”
Linh Mục François lắc đầu : “Tôi không biết phải thưa chuyện với Thủ Tướng Thế nào.
Nhưng nếu Thủ Tướng nói là chính quyền Thiên Chúa Giáo thì hoàn toàn không đúng. Tôi nghĩ chỉ có chính quyền miền Nam do ông Ngô Đình Diệm lãnh đạo. Giáo Hội Thiên Chúa Giáo không có liên hệ gì đến chính quyền đó”
Có lẽ Thủ Tướng Kantol biết mình lỡ lời nên mỉm cười, nói: “Xin lỗi cha đó chỉ là cách nói của tôi theo dư luận báo chí. Tuy nhiên Giáo Hội Thiên Chúa Giáo cũng có trách nhiệm nhất là vụ “bắt giết” Phật tử lại xảy ra ngay nơi mà người anh của ông Diệm làm Tổng Giám mục và điều khiển chính quyền.”
Linh Mục François : “Tôi có đến thăm giáo khu Huế một vài lần, tôi có thể cả quyết với Thủ Tướng là Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục không có một quyền hạn nào đối với chính quyền do người em ông lãnh đạo. Dù nếu có thì Giáo Hội cũng không cho phép Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục được làm như vậy.”
Thủ Tướng Kantol có vẻ không tin lời của cha François. Ông ta dẫn chứng qua một vài bài báo của Mỹ và khẳng định cho rằng: “Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục đang chia xẻ một phần lớn quyền hành của ông em và theo chỗ tôi được biết thì Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục đang chỉ huy chiến dịch đàn áp Phật Giáo”.
Thủ Tướng Kantol cũng tiết lộ là ông mới gặp một Đại Diện cao cấp của chính phủ Hà Nội. Đại Diện này đã trao tất cả tài liệu (?) về chiến dịch đàn áp Phật Giáo của chính quyền Ngô Đình Diệm và đặc biệt về tài liệu “bắn giết giam cầm” hàng ngàn Phật Tử tại miền Trung do Đức Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục chỉ huy”. Linh Mục Fracois hỏi thằng Kantol: “Ngài Thủ Tướng, có thể tin vào tài liệu của chính phủ Cộng Sản miền Bắc Việt Nam???” Khantol đáp: “Thưa Cha ít nhất thì tài liệu đó cũng giúp chính phủ Cambodge tìm hiểu được sự thật.”
Bước xuống phi trường Tân Sơn Nhất, Cha François vẫn còn bị ám ảnh… về những vụ thủ tiêu giam cầm đàn áp. Có đúng như vậy không? Cha François vẫn tin tuyệt đối nơi cá nhân thánh thiện của TT Diệm nhưng cha cũng bắt đầu nghi ngờ… Cha François bỗng nhớ lại những trang sử đẫm máu của cuộc bách đạo Thiên Chúa Giáo dưới thời Thiệu Trị, Tự Đức. Không lẽ vào giữa năm 1963 lại tái diễn một cuộc bách đạo như vậy mà nạn nhân lại là Sư Sãi và Phật Tử?
Những ngày đầu ở Saigon, Linh Mục François thấy thành phố không có gì thay đổi nhiều. Tuy nhiên ở đâu cũng âm ỉ như một lò than hồng. Việc đầu tiên là Cha đến xin yết kiến Đức Khâm Sứ Tòa Thánh. Đức Khâm Sứ cũng đang sửa soạn về La Mã. Dịp này Đức Khâm Sứ sẽ tường trình với Tòa Thánh La Mã về cuộc tranh đấu của Phật Giáo cùng thái độ của chính quyền Ngô Đình Diệm. Gặp Cha François, Đức Khâm Sứ tỏ vẻ thất vọng và nói: “Tình hình rất nguy ngập nếu TT Diệm không cải tiến thì chắc chắn chế độ ông ta sẽ sụp đổ.”
Cha François hỏi: “Thưa Đức Khâm Sứ ngài có thể dùng uy tín để thuyết phục TT Diệm không? Con thấy dư luận các nước Á Châu không những bất lợi cho chính quyền ông Diệm mà bất lợi cả cho Giáo Hội Việt Nam
Đức Khâm Sứ phác một cử chỉ lạnh lùng đáp: “Làm thế nào được? Dù là Tổng Thống của một nước dân chủ nhưng con người ông Diệm vẫn là vị Hoàng Đế của nước Việt Nam thời xa xưa.”
Cha François hỏi: “Lúc này Đức Khâm Sứ có hay gặp Đức Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục không? Con tin là Đức Cha Ngô Đình Thục sẽ tuân theo lời khuyến cáo của Đức cha”
Đức Khâm Sứ đáp: “Đã lâu rồi tôi không gặp ngài. Theo Linh Mục Cao Văn Luận cho tôi biết thì ngài cũng có một phần trách nhiệm về vụ biến cố này!”
Cha François hỏi: “Vậy thì lời tố cáo của phía bên Phật Giáo cũng không phải là sai”
Đức Khâm Sứ đáp: “Không sai nhưng không hoàn toàn đúng. Tôi nói là Đức Cha Ngô Đình Thục phải chịu một phần trách nhiệm. Đây chỉ là trách nhiệm tinh thần đối với lương tâm Công Giáo”.
Cha François hỏi: “Thưa Đức Khâm Sứ có thực là chính quyền Ngô Đình Diệm đàn áp Phật Giáo như báo chí ngoại quốc tường thuật không?”
Đức Khâm Sứ chỉ im lặng một lát rồi khẳng định: “Đây chỉ là một chiến dịch thổi phồng quá đáng. Cha đã từng sống ở Việt Nam chắc Cha hiểu rõ họ hơn tôi. Trí tưởng tượng của họ ghê gớm lắm, tôi tin rằng chắc cũng có những vụ bắt bớ giam cầm đánh đập Phật Tử, nhưng làm gì đến độ ghê gớm như sự tường thuật của báo chí”.
Đức Khâm Sứ kể: “Mới đây có một giáo dân đến thăm tôi. Ông là một nhân vật cao cấp trong chính phủ, ông ta quả quyết có bàn tay người Mỹ, dàn cảnh trong cược biểu tình của Phật Tử ngày 17-7 vừa qua, ông ta nói có một Bác Sĩ bên Phật Giáo đã chế tạo cả hàng mấy chục ngàn lọ thuốc mê (Chloroforme) trao cho các nhà sư trẻ và Phật Tử để khi biểu tình mà sô sát với cảnh sát thì đưa thuốc lên mũi ngửi lúc ấy thuốc mê sẽ làm họ lảo đảo quỵ ngã, rồi các phóng viên ngoại quốc sẽ quay phim chụp ảnh. Nhân vật này cũng cho biết sau cuộc biểu tình ngày 17-7 Cảnh sát đã tịch thu được cả hàng chục chai thuốc mê như vậy. Ông ta cũng tiết lộ với tôi là truyền đơn của phía nhà tranh đấu được quay ronéo bằng những loại giấy mà chỉ có cơ quan UDAID mới có. Đó là thứ giấy tốt đặc biệt”.
Cha François lại hỏi: “Thưa Đức Khâm Sứ ngài có nghĩ rằng đã bàn tay Cộng Sản trong phong trào tranh đấu Phật Giáo hay không?”
Đức Khâm Sứ ngần ngại rồi đáp: “Đây là một vấn đề quá tế nhị, cho đến bây giờ chưa có một dữ kiện nào khiến chúng ta có thể nghi ngờ như vậy.”
Cha François lại nói: “Tại sao TT Diệm lại có thể hành động thiếu khôn ngoan khi ông ra lệnh cấm treo cờ Phật Giáo?”
Đức Khâm Sứ : “Có nhiều nguyên nhân sâu xa lắm, lệnh cấm treo cờ của ông Diệm đâu phải chỉ dành riêng cho Phật Giáo mà quy định cho cả Giáo Hội Công Giáo nữa. Cha phải hiểu rằng ông Diệm là một nhà quốc gia cực đoan. Ông ấy coi Tổ Quốc trên Giáo Hội, chứ không phải Giáo Hội trên Tổ Quốc.”
Cha François nói: “Con vẫn tin TT Diệm là một người hoàn toàn thánh thiện”. Đức Khâm Sứ gật đầu đáp: “Đúng, ông ấy là một giáo dân có một đời sống rất thánh thiện.
Nhưng ông ấy không phải là một giáo dân thức thời. Ông ấy cũng là một nhà nho, cuồng tín với lý tưởng an dân trị quốc của ông ấy”.
Cha François hỏi: “Con nghe nói một số Linh Mục và Giáo Dân đang tham gia phong trào đấu tranh Phật giáo”.
Đức Khâm Sứ đáp: “Đúng, tôi có nghe nói như vây. Một số Linh Mục có đến hỏi ý kiến của tôi như thế nào khi họ tỏ ra thái độ thân thiện và hỗ trợ Phật Giáo thì tôi trả lời các ngài hãy cứ làm theo lương tâm của các ngài.”
CON SỐ 80% SỰ THỰC HAY LÀ HUYỀN THOẠI
Cha François trong cuộc gặp gỡ Đức Khâm Sứ cũng không được thỏa mãn cho lắm. Đức Khâm Sứ đã tỏ ra sự thiếu thiện cảm với chính quyền Ngô Đình Diệm và ngài bị ảnh hưởng xâu xa bởi dư luận đồn đã về đời sống của bà Nhu cũng như quyền bính của ông Nhu và Đức Cha Thục. Khi Cha François sắp cáo từ ra về thì một Giáo Sư Đại Học và một Linh Mục trẻ cũng vừa đến xin thăm Đức Khâm Sứ. Ngài bảo Cha François: “Cha có thể ngồi lại đây… Nếu Cha muốn biết rõ tình hình Việt Nam như thế nào thì hai ông khách này có thể giúp Cha nhiều tài liệu xác thực “.
Lúc đầu hai vị khách còn dè dặt nhưng sau khi ông bắt đầu cho nổ máy, công kích chính quyền hết sức mãnh liệt. Cha hỏi: “Tôi vẫn nghĩ rằng chính quyền này có thực thi dân chủ và thực hiện nhiều công tác lớn lao cho xứ xở“.
Vi Linh Mục trẻ, “Thưa Cha chúng tôi chưa thấy dân chủ ở đâu cả, Quốc hội là Quốc Hội bù nhìn, toàn thứ nghị gật do Đảng chỉ định. Quyền hành đều nằm trong tay Tổng Thống hay đúng ra trong tay ông bà Nhu”.
Vị Giáo Sư Đại Học: “Thưa Đức Khâm Sứ và thưa Cha, tình hình đến lúc nghiêm trọng lắm rồi… Thiết tưởng Giáo Hội không thể đứng vòng ngoài…Giáo Hội phải lên tiếng”. Đức Khâm Sứ mỉm cười: Ông bảo Giáo Hội phải lên tiếng như thế nào? Giáo Hội không đứng ngoài vòng thì Giáo Hội phải làm sao bây giờ?”

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét