Thứ Bảy, 13 tháng 7, 2013

LÀM THẾ NÀO ĐỂ GIẾT MỘT TỔNG THỐNG - CAO THẾ DUNG LƯƠNG KHẢI MINH - PHẦN 5


CUỘC HÒA GIẢI ÂM THẦM
Cuộc đấu tranh của Phật Giáo đã biến chuyển mau lẹ. Đầu tháng 6 riêng tại Huế và miền Trung phong trào đấu tranh đã lan rộng đến các Tỉnh, Quận, Xã. Thành phần sinh viên học sinh cũng bắt đầu nhảy vào cuộc, chính quyền Sài Gòn vẫn lạc quan, tin là có thể giải quyết êm đẹp.
Nhưng cái đinh của biến cố vẫn là Huế và chùa Từ Đàm trở thành Tổng Hành Dinh của cuộc tranh đấu.
Điều rõ rệt là các Thượng Tọa miền Trung muốn nói chuyện trực tiếp với chính quyền. Khi thấy chính quyền từ 8-5 đến 30-6 chỉ tìm cách điều đình với các nhà lãnh đạo Phật Giáo Miền Nam thì các Thượng Tọa chùa Từ Đàm bắt đầu lo lắng.

Đầu tháng 6, Thượng Tọa Thiện Minh vào Saigon tìm một con đường riêng để trực tiếp nói chuyện với chính quyền. Nhưng về phía ông Ngô Đình Nhu thì cho rằng: Không thể nào điều đình với mấy ông Thượng Tọa như Thượng Tọa Thích Thiện Minh và Trí Quang được. Trước đây, ông Nhu không quan tâm đến các vị Thượng Tọa vì việc này đã có “chú Cẩn” lo liệu. Từ lúc biến cố bùng nổ, ông Nhu mới bắt đầu tìm hiểu vấn đề nhân sự Phật Giáo. Ông Nhu có định kiến rằng mấy Thượng Tọa đó có hồ sơ khả nghi và có nhiều liên hệ với Giáo Sư Lê Đình Thám (chủ tịch hội Seerba trước năm 1945 sau theo kháng chiến và tập kết ra Bắc). Qua báo cáo ông Nhu lại có định kiến thêm rằng: Những phương thức đấu tranh từ ngày 8-5 đến đầu tháng 6 đều là những phương thức của một chiến lược trường kỳ tranh đấu với xuất sứ rất khả nghi.
Tại Huế ngày 30-5 chùa Từ Đàm bị cô lập. Ít ngày sau điện nước cũng bị cúp luôn. Một số đông thanh niên Phật Tử rút vào chùa rồi võ trang bằng gậy gộc đá… để lo việc phòng bố. Số lương thực trong chùa lúc đó có thể kéo dài được hai tháng. Ngày 4-6 lại có biểu tình xô xát tại Huế, lực lượng an ninh phải dùng lựu đạn cay giải tán, một số bị thương nhẹ, nhưng chỉ vài ngày sau báo chí Mỹ lại làm ùm lên. Tại Saigon dư luận lại được dịp lan truyền mau chóng và rất khích động như các tăng ni bị bắt, bị thương và bị cầm tù bằng những hình thức dã man của nhà cầm quyền địa phương.
Quả thực chính quyền Thừa Thiên lúc đó quá yếu. Trước kia nhận lệnh trực tiếp từ ông Cẩn thì nay phải đợi lệnh từ Trung Ương. Ông Nguyễn Văn Hà người thay thế Nguyễn Văn Đẳng lại ôn hòa và có rất nhiều tình cảm với các Thượng Tọa bên chùa Từ Đàm cho nên ông không thể mạnh tay đàn áp dù cuộc biểu tình ngày 4-6 cũng không đông đảo bao nhiêu.
Dư luận báo chí ngoại quốc như thế nào? Tờ Công Luận tại Đài Bắc liên tiếp đăng tải những bài bình luận lên án chính quyền Ngô Đình Diệm và cho rằng chính quyền kỳ này kỳ thị tôn giáo, đã đặt Thiên Chúa giáo lên hàng đầu và vi phạm Hiến Chương Liên Hiệp Quốc. “Trước khi băng hà Đức Giáo Hoàng Jean XXIII đã lên tiếng nhân loại không thể có kỳ thị nhưng đối với tín ngưỡng của anh em TT Diệm thì lời nói của Đức Giáo Hoàng trở thành vô nghĩa” (Công Luận 1-6-1963). Những tờ báo uy tín như Exxpress News China Post, China News đều đăng những hình ảnh, bình luận tin tức hoàn toàn bất lợi cho chính quyền Ngô Đình Diệm. Báo chí Thái Lan tỏ ra dè dặt hơn nhưng báo Thái Ngữ (ngày 23-5-63) đã lên tiếng nghiêm chỉnh cảnh cáo “biến cố Phật giáo nếu không sớm giải quyết sẽ bất lợi lớn cho chính quyền vì chắc chắn Cộng Sản sẽ nhẩy vào cuộc lợi dụng sự bất mãn của Phật giáo để làm lớn chuyện”. Tại Miên, Sihanouk lợi dụng ngay vụ Phật Giáo để gây rắc rối. Báo chí từ Cao Miên từ thiên tả đến thiên hữu đều lên tiếng công kích chính quyền Ngô Đình Diệm. Từ tờ thiên tả La Depêche du Cambodge đến Kampuchia và tờ Neak Cheat Niyum (của chính quyền) nhất loạt công kích chính quyền Ngô Đình Diệm.
Từ đầu tháng 6 tại Nam Vang liên tiếp tổ chức cuộc mít tinh tại ngôi chùa lớn Onnalum để lên án chính quyền Ngô Đình Diệm đàn áp Phật Giáo.
Báo chí Mỹ lại càng công kích mãnh liệt hơn nữa như tờ New York Time, Washington Post, New York Herald Tribunne, đã đứng hẳn về phía Phật Giáo. Tờ New York Time 31-5 thì cho rằng cuộc tranh đấu của Phật Giáo Việt Nam đã chứng tỏ dân chúng đã bất mãn sâu xa với chế độ. Ảnh hưởng và uy tín của Hoa Kỳ sẽ bị tổn thương và Mỹ không thể đứng ngoài vòng cuộc tranh chấp (có nghĩa là Mỹ phải nhúng tay vào).
Tầm nhìn của báo chí Mỹ cũng không khác bao nhiêu lập luận của các hãng thông tấn UPI, AP, CBS News nghĩa là hoàn toàn chống lại chính quyền Ngô Đình Diệm và như tờ US News and World Report lại cả quyết rằng: “Các nhà lãnh đạo Phật Giáo chỉ yêu cầu TT Diệm chấm dứt sự kỳ thị tôn giáo nhưng ngược lại Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã đàn áp mạnh các nhà lãnh đạo Phật Giáo. Do đó chính quyền của ông đã tách rời Thiên Chúa Giáo ra khỏi tập thể đại đa số Phật Giáo đồ tại miền Nam” (24-6-63). Tờ báo trên còn lên tiếng như thế này: “Qua cuộc tranh chấp giữa chính quyền và Phật Giáo, Cộng sản sẽ tuyên truyền với dân chúng rằng Diệm tiêu diệt Phật giáo để mở đường cho Đế Quốc Mỹ xâm lăng miền Nam Việt Nam”
Báo chí Mỹ thì như vậy. Giới chức Mỹ tại Tòa Đại Sứ luôn luôn áp lực với TT Diệm phải điều đình với Phật giáo, phải mở rộng nội các, phải ban hành dân chủ rộng rãi. Vấn đề quan trọng hơn nữa là phải đẩy vợ chồng Nhu ra khỏi nước.
Khi được biết Tổng Thống Diệm tìm cách điều đình trực tiếp với mấy Thượng Tọa miền Trung thì ông Nhu không đồng ý. Ông cho rằng không thể nhượng bộ được và mấy vị Thượng Tọa này không “thuần túy tu hành”.
Tuy vậy Tổng Thống Diệm vẫn quyết định theo ý riêng của ông.
Ngày 5-6, Bác sĩ Trương Khuê Quan được gọi vào Dinh để gặp Tổng Thống. Giới thân cận cho biết, không khí hôm đó thật nặng nề khó thở.
Trong căn phòng Tổng Thống, ông Nhu ngồi riêng trên một ghế bành, nét mặt đăm chiêu khó chịu. Ông mặc chiếc áo sơ mi Hongkong ngắn tay im lặng không nói một lời. Bộ Trưởng Bùi Văn Lương đứng bên Tổng Thống Diệm. BS Trương Khuê Quan bước vào chào theo lối nhà binh (ông là một Y Sĩ Trung Tá) Tổng Thống Diệm gật đầu rồi chỉ ông ngồi đối diện với Tổng Thống. Tổng Thống Diệm hỏi ngay:
- Tôi nghe Trung Tá quen biết với mấy Thầy ở chùa Từ Đàm phải không?
BS Quan đáp:
- Dạ thưa có, gia đình tôi quen biết các Thầy từ lâu.
Tổng Thống Diệm nói tiếp:
- Trong lúc khó khăn như thế này tôi muốn nhờ Trung Tá giúp cho qua cơn khó khăn với các Thầy ở ngoài đó. Ở ngoài đó mấy Thầy cứ tuyệt thực rồi biểu tình này khác. Được biết Trung Tá có quen biết, tôi nhờ Trung Tá liên lạc với mấy Thầy, không biết Trung Tá có đủ khả năng dàn xếp cho êm được không?
BS Quan chưa kịp trả lời thì Tổng Thống Diệm lại nói tiếp:
- Nhờ Trung Tá giúp và giải thích cho họ hiểu và hỏi họ muốn gì?
BS Trương Khuê Quan trả lời:
- Thưa Tổng Thống, tôi có quen biết với mấy Thầy, có làm việc chung với mấy Thầy từ năm 1946 cho đến khi nhập ngũ (1956) chuyên lo Phật sự và hoằng pháp. Từ khi nhập ngũ đến nay, tôi không có dịp để hoạt động với mấy Thầy ấy nữa. Việc giải thích và dàn xếp không biết mấy Thầy có nghe không, nhưng Tổng Thống đã ra lệnh thì tôi xin sẵn sàng thi hành.
BS Trương Khuê Quan ngừng lời, Tổng Thống Diệm bất thần hỏi:
- Người ta nói ông Trí Quang thân Cộng. Ông ta vẫn thường hoạt động cho Cộng Sản có đúng vậy không?
Bác Sĩ Quan đáp:
- Thưa Tổng Thống tôi không dám trả lời là có hay không.
Sau đó Bác Sĩ Quan  có trình bày đại ý rằng, Thượng Tọa Trí Quang có là Cộng Sản hay không vấn đề này thật quan trọng. Điều cần nhất phải tìm hiểu sự tiến triển của Hội Phật Giáo như thế nào và nhất là kiểm điểm những hình thức và môi trường nào đã tạo ra Thượng Tọa Trí Quang ngày nay. Tóm lại BS Trương Khuê Quan hoàn toàn dè dặt và không trả lời vào câu hỏi của Tổng Thống Diệm.
Tổng Thống Diệm yên lặng suy nghĩ lao lung. Sau đó, Tổng Thống Diệm hỏi ông đại cương về môi trường đã đào tạo nên một Thích Trí Quang. Bác Sĩ Quan đáp:
- Thầy Trí Quang cũng như một số Thầy khác được đào tạo trong một lớp Phật học tại chùa Bảo Quốc mà Bác Sĩ Lê Đình Thám, BS Thám lúc ấy (1940) là Chủ Tịch Hội Nghiên Cứu Phật Học Trung Việt (Société des Etudes et Exercices Budhistes d’Annam)
Tổng Thống Diệm đáp ngay:
- Tôi biết, Lê Đình Thám hiện thời đi đàng kia.
- Thưa Tổng Thống có lẽ như vậy e không được rõ. Xin Tổng Thống cho tìm hiểu thêm một chút nữa may ra có thể giải quyết được.
Ông Nhu ngồi lim dim, từ nãy giờ ông vẫn im lặng không nói lấy một câu. Khi nghe nhắc đến Lê Đình Thám, ông Nhu nhăn trán rồi bỗng dưng đứng lên vẻ giận dỗi nói trống không:
- Phải chứ! Điều đình với họ phải chứ nếu không như vậy thì người ta lại đổ thừa cho mình là đàn áp.
Đây chỉ là lời nói giận lẫy của ông Nhu, mọi người đều cảm thấy không khí nặng nề khó thở. Ông Nhu đứng lên đi thẳng một mạch, không nói thêm một câu. Trong phòng Tổng Thống Diệm chỉ còn lại Nguyễn Đình Thuần, Bùi Văn Lương, Bác Sĩ Trương Khuê Quan, Bác Sĩ Tuyến.
Tổng Thống Diệm vẫn bình tĩnh và như không để ý đến thái độ giận lẫy của ông Nhu. Tổng Thống Diệm bảo Bác Sĩ Quan:
- Tôi nhờ Trung Tá ra ngoài đó coi như thế nào. Trung Tá nói với các Thầy ấy ngưng tuyệt thực đi, dân chúng đừng có làm gì phiền nhiễu quá đáng. Cứ từ từ rồi mọi việc sẽ được thu xếp ổn thỏa.
Cuộc yết kiến Tổng Thống Diệm kéo dài trên 40 phút. Sau buổi chiều đó, Bộ Quốc phòng lo giấy tờ Bác Sĩ Trương Khuê Quan ra Huế. Bộ Trưởng Nguyễn Đình Thuần trao cho Bác Sĩ Trương Khuê Quan hai lá thư viết tay phong kín – Lá thơ gửi riêng cho Đại Biểu Chánh Phủ Nguyễn Xuân Khương. Một lá yêu cầu trao tận tay cho Đại Tá Đỗ Cao Trí Tư Lệnh Sư Đoàn I – Nội dung lá thư đó vừa giới thiệu Bác Sĩ Trương Khuê Quan vừa chỉ thị một số điều căn bản về việc giải quyết vụ Phật giáo tại Huế và Quảng Trị.
Ông Ngô Đình Nhu chống lại phương thức giải quyết của TT Diệm. Ông vẫn có định kiến: “Mấy Thầy đó tu hành khi được cái này sẽ đòi cái khác… có chiến lược trường kỳ mà… Ai còn lạ gì Lê Đình Thám… Hắn là Marxiste mà… Phật giáo nhà nước Cộng Sản mà”, tuy vậy ông Nhu không thể chinh phục được TT Diệm. TT Diệm cũng có biết ít nhiều về Giáo sư Lê Đình Thám. Nhưng có lẽ không được hiểu rõ lắm.
Ở đây tưởng cũng nên nhắc lại sơ qua “khung cảnh” Phật giáo trước năm 1945, với sự ra đời của tổ chức hội nghiên cứu Phật Học Trung Việt mà ông Lê Đình Thám là một sáng lập viên, một kiện tướng của hội. Ông Thám muốn hiện đại hóa Phật Giáo, muốn nâng cao trình độ học vấn của dân chúng cho thích hợp với trào lưu tiến hóa của thế giới và điểm quan trọng nữa là tập hợp Phật tử dưới một tổ chức để chuyên tâm và thống nhất trong việc nghiên cứu kinh sách và hoằng dương Phật pháp. Trước năm 1937 khi hội Seeraba được thành lập thì Phật giáo Việt Nam tuy là một thực thể trong quần chúng nhưng không tổ chức hay đúng hơn phi tổ chức, “Sư đâu thì chùa đó và có chùa là có Phật có tăng ni Phật tử”
Năm 1945, Trần Văn Giàu làm Chủ Tịch Ủy Ban Hành Chánh Nam Bộ đã thanh toán ngay các phần tử quốc gia và một lãnh tụ quan trọng như Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ, nhà cách mạng Phan Văn Hùm… Trong khi Lê Đình Thám lại được Trần Văn Giầu o bế. Sau ông Thám gia nhập mặt trận Liên Việt và trở thành một trong mấy đại diện Phật giáo. Năm 1954, Lê Đình Thám tập kết ra Hà Nội rồi tham gia mặt trận Tổ Quốc. BS Thám nổi tiếng là con người liêm khiết và say mê Phật pháp. Ông là một Phật tử thuần thành hiếm có.
Hòa Thượng Tố Liên cũng như Thượng Tọa Trí Độ cũng như BS Thám đều được nhà nước Cộng Sản Bắc Việt o bế. Riêng Thượng Tọa Trí Độ được trưng dụng như một cán bộ cao cấp như của nhà nước, tuy Thượng Tọa không phải là người Cộng Sản nhưng mà nhà nước Cộng Sản Bắc Việt đã biến Thượng Tọa thành một thứ đại diện Phật giáo Bắc Việt qua tổ chức Tổng Hội Phật Giáo (một tổ chức làm vì để trình diễn khuôn mặt tôn giáo tại miền Bắc cũng tương tự như tổ chức Công Giáo ly khai tại Trung Hoa Lục và Bắc Việt). Trong các hội nghị Phật Giáo thế giới, Thượng tọa Trí Độ cũng có mặt để đại diện Phật giáo miền Bắc. Trường hợp Thượng Tọa Trí Độ cũng tương tự như Nhà Sư Shirob Gyaldso của Trung Cộng chỉ là đại diện Phật giáo qua tổ chức Phật Giáo nhà nước chứ không có một thực quyền tôn giáo nào cả.
Căn cứ theo tài liệu của Phòng Nhì Pháp thì các Thượng Tọa Trí Quang, Thiện Minh v.v… có liên hệ mật thiết với Thượng Tọa Trí Độ cũng như BS Lê Đình Thám. Năm 1952, cơ quan an ninh đã không cho phép Thượng Tọa Trí Quang qua Nam Vang tham dự Đại Hội Phật Giáo Thế Giới cũng có mặt của Nhà Sư Shirob Gyaldso (theo tài liệu trong cuốn The long charade của Chiritfield thì Thượng Tọa Trí Quang có một huyền thoại khả nghi về phía bên kia). Nhưng tài liệu của Phòng Nhì Pháp cũng như nhà báo Chiritfield không tin được vì chỉ có một chiều méo mó và nặng tính chất xuyên tạc.
Khoảng năm 1956, trong một cuộc hành quân tại mật khu Việt Cộng tại Thừa Thiên (phần đầu đã viết) quân đội có bắt được một tài liệu thuộc loại “tài liệu chiến lược” (chỉ cán bộ Cộng Sản cao cấp mới được giữ tài liệu này). Tài liệu liên quan đến công tác tôn giáo vận tại miền Nam và những dự định tổ chức các hội đoàn Phật giáo theo công thức và chủ đích của Đảng Cộng Sản Bắc Việt. Tài liệu này được trao cho ông Cẩn và nó lại dính dáng tới Thượng Tọa Trí Quang  cũng như Thượng Tọa Thiện Minh sau đó ông Cẩn có mời quý Thầy đến tư thất để tìm hiểu và thông cảm. Ông Cẩn giữ tài liệu này như một bửu bối. Trường hợp ông Cẩn người ta nói rằng “chơi dao có ngày đứt tay” thì quả có đúng như vậy.
Thượng Tọa Trí Quang được Phật giáo miền Trung nhất là Phật tử giới trẻ tôn sùng như thần tượng. Trước vụ Phật giáo 1963 không có một dấu hiệu nào khả nghi về hoạt động chính trị của Thượng Tọa Trí Quang. Riêng Thượng Tọa Thiện Minh lại có những giao hảo rất tốt đẹp với phía ông Cẩn.
Bỗng dưng biến cố bùng nổ và mỗi ngày càng lớn dần càng lan rộng tại Huế. Giới chức an ninh lại có báo cáo gửi về Sài Gòn cho biết Lãnh Sự và Phó Lãnh Sự Mỹ tại Huế đã liên lạc mật thiết với các Thầy tại chùa Từ Đàm. Sở dĩ biết được như thế vì giới an ninh ở đây đã móc nối với một Nhà Sư trẻ ở An Cựu đệ tử của Thầy Thiện Minh về sống rất gần các Thầy… cho nên nhiều kế hoạch của Từ Đàm đã bị phát giác trước khi thực hiện.
Chính quyền Trung Ương mắc một lỗi lầm lớn là chỉ nhìn tình hình qua báo cáo của địa phương mà báo cáo của giới chức an ninh thời nào cũng vậy bị méo mó nghề nghiệp và bị ám ảnh nặng nề bởi cái bóng ma Cộng Sản. Có lẽ ông Ngô Đình Nhu có định kiến về mấy Thầy Trí Quang và Thiện Minh qua những báo cáo địa phương chăng?
Dù ông Nhu không tán trợ việc dàn xếp với mấy Thượng Tọa chùa Từ Đàm nhưng ông cũng không ngăn cản (ông Nhu chỉ quyết liệt vào trung tuần tháng 7).
Ngày 6-6-1963 Bác Sĩ Trương Khuê Quan ra Huế đi chuyến máy bay đầu tiên. Không khí Huế lúc ấy nặng nề lắm. Chùa Từ Đàm bị phong tỏa, thành phố mang vẻ ốm đau. Ông Nguyễn Xuân Khương đã chính thức nhận Đại Biểu Chánh Phủ và ăn ở ngay trong căn phòng thuộc lầu 2 của Tòa Đại Biểu, cho đến ngày Bác Sĩ Trương Khuê Quan ra Huế thì ông Nguyễn Xuân Khương có vẻ lạc quan cho rằng chính quyền sẽ thắng thế. Nhất là nhờ biện pháp cúp điện cúp nước và  phong tỏa. Chùa Từ Đàm bắt đầu mỏi mệt. Nhưng ông Khương lại không hiểu qui luật tranh đấu và phương thức giải quyết đó phù hợp với những đòi hỏi xuất phát từ qui luật này. Giả sử như cúp điện nước và phong tỏa chùa có thể giúp cho chính quyền thắng thế nhưng chỉ là cái thằng thế nhất thời và chỉ tạo thêm cho phía tranh đấu có cớ để hào quang hóa đối tượng tranh đấu.
Từ đầu tháng 6, Phật tử Saigon càng thêm nôn nao bất mãn về việc chính quyền cúp điện nước và phong tỏa chùa Từ Đàm. Từ đó, dư luận lại càng thêm sôi nổi và càng được bi đát hóa, báo chí Mỹ – Pháp lại càng có dịp khai thác thổi phồng. Nhưng tình hình tại chỗ thì lại không bi đát như vậy.
Các Thượng Tọa chùa Từ Đàm bắt đầu muốn nhượng bộ nhưng dù sao vẫn còn tự ái và không thể làm mất hào quang cho cuộc tranh đấu được. Trong cái thế kẹt đó thì sự thành lập Uỷ Ban Liên Bộ để cùng với Uỷ Ban Liên Phái giải quyết song phương được coi như một lối thoát tốt đẹp mà không còn lối thoát nào khác hơn ngoài việc xử dụng biện pháp mạnh.
Bác Sĩ Trương Khuê Quan ra Huế thi hành sứ mạng móc nối cho đường lối giải quyết này. Bác Sĩ Trương Khuê Quan khi đến Huế thì vội vã gặp ngay ông Nguyễn Xuân Khương. Ông Khương còn đang trong phòng riêng với bộ quần áo ngủ tiếp “sứ giả” Saigon. Theo Lương Khải Minh thuật lại thì khi Bác Sĩ Quan trao thư của Bộ Trưởng Nguyễn Đình Thuần cho ông Khương, ông Khương vừa xem xong đổi hẳn sắc mặt, thái độ thật tức giận, ông đập mạnh lá thư xuống bàn và nói với sự đau khổ của người thất bại: “thế này thì chính phủ thua họ rồi còn gì”. Ông Khương nhăn nhó rồi nói với Bác Sĩ Trương Khuê Quan: “Ở đây đã giải quyết gần xong họ đã xin chịu thua rồi. Họ đã chịu điều kiện tổ chức một buổi lễ rồi mời Tổng Thống ra để họ tạ tội rồi. Bây giờ như thế này thì chính phủ thua rồi… chúng tôi còn làm gì được nữa “.
Bác Sĩ Trương Khuê Quan chỉ có nhiệm vụ thi hành chỉ thị của Tổng Thống Diệm. Ông không góp thêm một ý kiến nào. Khi Bác Sĩ Trương Khuê Quan đến gặp Đại Tá Đỗ Cao Trí trao thư của ông Thuần, Đại Tá Đỗ Cao Trí coi xong cũng lộ vẻ giận dỗi hoàn toàn không đồng ý. Đai Tá Trí than trời như bọng: “Thế này thì làm sao mà dẹp cho êm được”. Ông Trí tâm sự với Bác Sĩ Trần Kim Tuyến: “Anh nghĩ coi… khó lắm anh ơi. Mấy cái ông Thầy bên đó ngang ngược còn hơn…anh ơi…” Ông Trí lại than vắn thở dài: “Nhưng thôi mình là nhà binh thì thượng cấp chỉ đâu làm đó biết sao bây giờ”. Đại Tá Đỗ Cao Trí vừa hứa với Bác Sĩ Trương Khuê Quan: “trong khả năng của tôi, tôi xin giúp cho anh mọi phương tiện anh cần.” Vẫn theo Lương Khải Minh sau đó là Đại Tá Đỗ Cao Trí tự lái xe đưa BS Quan đến chùa Từ Đàm và tự tay ông nhấc hàng rào kẽm gai để BS Quan vượt “bức tường” phong tỏa.
Bên trong các thanh nữ Phật Tử đang lo phận sự bố phòng canh gác. Không khí rất yên tĩnh. Các tu sĩ vẫn sinh hoạt bình thường.
Khi vào nhà Trai thì Thượng Tọa Trí Quang đang ngồi đánh cờ. Vừa trông thấy BS Quan Thượng Tọa Trí Quang tươi cười: “à chào Sứ Giả Hòa Bình từ Saigon ra”. Sau khi đôi bên thi lễ vấn an, BS Quan đi thẳng vào câu chuyện. Ông trình bày thiện chí giải quyết của Tổng Thống Diệm với Thượng Tọa Trí Quang và mấy Thượng Tọa chủ chốt. Không khí thật vui vẻ hòa hoãn. Thượng Tọa Trí Quang yêu cầu BS Quan can thiệp để nhà cầm quyền ngưng cúp điện nước nhưng lúc đó thì ông Nguyễn Xuân Khương đã ra lệnh giải tỏa vấn đề điện nước bay giờ chỉ còn hàng rào dây kẽm gai phong tỏa.
Buổi tối hôm ấy, Bác Sĩ Trương Khuê Quan lưu tại chùa Từ Đàm sau khi từ Quảng Trị trở về. Đây là một sứ giả duy nhất của Saigon có dịp gần mấy Thượng Tọa trong một thời gian 2 ngày để tìm sự thông cảm hai phía. BS Quan cho Thượng Tọa Trí Quang biết rõ ý của TT Diệm là muốn các sư sãi ngưng ngay tuyệt thực trở về nếp sống bình thường sau đó Phật giáo sẽ cùng chính quyền giải quyết. Thượng Tọa Trí Quang yên lặng một cách khó hiểu. Tuy nhiên ông cũng viết một lá thơ trao cho BS Quan đưa ra Quảng Trị chỉ thị cho chùa Tỉnh Hội ở đây ngưng tuyệt thực.
Từ Huế ra Quảng Trị, Đại Tá Đỗ Cao Trí phải cho xe gắn đại liên hộ tống BS Quan mặc dù đường Huế Quảng Trị lúc ấy vẫn còn an ninh, xe cộ có thể đi lại suốt ngày đêm nhưng chuyến hành trình của BS Quan có vẻ gian nan và ông cũng linh cảm thấy sự ngột ngạt khó chịu, khi đến Quảng Trị không khí còn ngột ngạt hơn.
Tại Quảng Trị, tình hình trong mấy ngày 4, 5, 6 càng trở nên sôi bỏng. Chùa Tỉnh Hội cũng như tại Từ Đàm đều bị phong tỏa. Các tăng ni vẫn tiếp tục tuyệt thực. Không khí hết sức giao động.
Nhưng khi BS Quan trao thư tay của Thượng Tọa Trí Quang thì cuộc tuyệt thực được chấm dứt ngay. Sứ giả Saigon đã làm xong nhiệm vụ. Nhưng tình hình có thay đổi không hay chỉ tạm thời an bình để sửa soạn cho một kế hoạch mới?
Giới chức ở Huế lúc bấy giờ không tin rằng phía các Thượng Tọa có đủ lực lượng để làm lớn chuyện và cũng tin rằng có thể thu xếp xong bằng biện pháp mạnh. Tất cả đều chú ý đặc biệt đến Thượng Tọa Trí Quang. Vì cho rằng vị Thượng Tọa này mới là người chủ động, linh hồn của cuộc tranh đấu. Nhưng sự thực Thượng Tọa Thiện Minh mới là người chủ chốt hành động. Thượng Tọa Trí Quang chỉ là khuôn mặt có tính cách tiêu biểu lãnh đạo Phật Tử về mặt nổi – Mặt chìm với phương tiện và cán bộ hành động đều do Thượng Tọa Thiện Minh với tất cả phương thức tranh đấu của một người thâm sâu, bí hiểm.
Khi được Tổng Thống Diệm chấp thuận hòa giải trực tiếp với các Thượng Tọa Từ Đàm, phía Thượng Tọa Thiện Minh đã thắng được một hiệp đầu và gỡ được lối thoát cho các nhà lãnh đạo Phật Giáo tại Huế đang bị bế tắc.
Khi Bác Sĩ Trương Khuê Quan từ Quảng Trị trở lại Huế, ông ngủ lại chùa Từ Đàm một đêm. Trước đó, Đại Biểu Nguyễn Xuân Khương có đưa ông lại tư thất Đức Cha Ngô Đình Thục. Ông Quan ngồi đợi ngoài phòng khách.
Đại Biểu Khương vào trình bày với Đức Cha Thục lâu cả 2 giờ đồng hồ về những chỉ thị hòa giải của Saigon. Nhưng ông Quan vẫn không được Đức Cha Thục tiếp kiến và cũng không cho biết ý kiến của Đức Cha Thục như thế nào. Sau đó BS Quan cùng Đại Biểu Khương đến tư dinh ông Cẩn và ở đây ông Quan cũng phải chờ đợi lâu cả giờ đồng hồ vẫn không được ông Cẩn tiếp.
Tuy vậy, cho đến lúc ấy, ông Cẩn vẫn một lòng bênh vực giải pháp điều đình trực tiếp với Huế.
Điều mà trước đây ông đã thỉnh thị Saigon và chính ông đã cho chuyển lá thư tay của Thượng Tọa Trí Quang  lên TT Diệm, lá thư ấy được viết ngay tại nhà ông Cẩn với lời lẽ hết sức khiêm nhường và chỉ yêu cầu giải quyết 2 nguyện vọng mà thôi. Đến nay, TT Diệm chấp thuận điều đình thẳng với Thượng Tọa Từ Đàm tức ông Cẩn đã toại nguyện vì từ 7, 8 năm qua, ông Cẩn tự hào về mối liên hệ chặt chẽ giữa ông và các Thượng Tọa Trí Quang, Thiện Minh cho nên biến cố xảy ra ngoài ý muốn của ông, ông cũng một lòng bênh vực các Thượng Tọa cũng là điều dễ hiểu.
Bác Sĩ Quan đã thành công một phần nhiệm vụ nhưng Saigon lại đánh điện gọi ông Quan về gấp.
Trong thời gian BS Trương Khuê Quan ở Huế có nhiều truyền đơn được tung ra “tố cáo một Trung Tá từ Saigon đã âm mưu với các Thượng Tọa chùa Từ Đàm”
Không khí thật ngột ngạt, ông Quan nhờ chiếc xe Camionette của chi cuộc quân tiếp vụ để ra phi trường Phú Bài cùng với Thượng Tọa Thiện Minh về Saigon. Viên Thượng Sĩ chỉ cho ông mượn xe mà không dám tự lái vì trên đó còn Thượng Tọa Thiện Minh – ông cho mượn xe rồi chuồn lẹ. Lúc ấy, kể cả xe đò, xe ca của Air Vietnam đều không chịu chở các Thượng Tọa nhất là Thượng Tọa Thiện Minh. Tình cờ BS Quan gặp ông Cao Xuân Vỹ và Trung Tá Huỳnh (Phó Giám Đốc Nha Công An Quân Đội ) ra công cán tại Huế và cùng về Saigon một chuyến với ông Quan. Hai ông đi nhờ xe quân tiếp vụ ra Phú Bài. Nhưng mặc dù cùng phục vụ một chế độ nhưng mỗi người lại thi hành cho một đường lối khác nhau.
Trên chuyến xe đó có cả Thượng Tọa Thiện Minh. Nhịp cầu Phật giáo Huế và Saigon bắt đầu bắt nhịp.
Khi trở về, BS Quan mới giật mình về chuyến đi quá nguy hiểm của ông mà chính Bộ Quốc Phòng cũng không tiên liệu được. Không hiểu những tính toán như thế nào của giới chức tại Huế nhưng đã hoàn toàn bất lợi cho BS Quan.
Do đó, Bộ Trưởng Nguyễn Đình Thuần phải đánh điện khẩn cấp gọi BS Quan về ngay vì e ngại “có thể nguy đến tánh mạng”.
Riêng Thượng Tọa Thiện Minh, khi vào đến Saigon lần này, ông lại tiếp xúc một lần nữa với Bộ Trưởng Nguyễn Đình Thuần. BS Tuyến cũng đến thăm Thượng Tọa Minh tại một nhà người quen. Qua cuộc mạn đàm với BS Tuyến, Thượng Tọa Thiện Minh tỏ ra rất cởi mở và ôn hòa, có thể nói Thượng Tọa Thiện Minh đã mềm dẻo ngoài sự mong muốn của chính quyền.
Ngày 5-6-1963, Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo nhóm họp lần thứ nhất tại Hội Trường Diên Hồng. Về phía chính phủ có PTT Thơ, Bộ Trưởng Nguyễn Đình Thuần và Bùi Văn Lương. Về phía Phật giáo có các Thượng Tọa Tâm Châu, Thiện Minh, Thiện Hoa, Huyền Quang, Đức nghiệp. Đại Đức Đức Nghiệp là phát ngôn viên của phái đoàn Phật giáo.
Phiên họp đầu tiên mới chỉ có tính cách giới thiệu và nghi lễ cùng thảo luận một số vấn đề liên quan đến thủ tục và phương thức thảo luận.
Cho đến ngày 5-6 hiệu lực của Ủy Ban Liên Phái chưa có gì đáng kể nếu không muốn nói là quá lỏng lẻo. Ngay trong Ủy Ban Liên Phái cũng có ba khuynh hướng. Khuynh hướng Phật Giáo trong Nam vẫn còn dè dặt, e ngại vì sự hiện diện của Thượng Tọa Thiện Minh, mà khuynh hướng này vẫn có định kiến “người của ông Cẩn”.
Khi Thượng Tọa Thiện Minh vào Nam lãnh một vai trò quan trọng như vậy nhưng vẫn chưa có hậu thuẫn quần chúng, chưa có cán bộ, phần lớn cán bộ trong giai đoạn này đều thuộc ảnh hưởng của các Thượng Tọa Tâm Châu, Tâm Giác, Đức Nghiệp. Mà những cán bộ này (nói cán bộ không đúng danh nghĩa) hầu hết thuộc thành phần đảng phái Quốc Gia có kinh nghiệm hành động và vốn bất mãn với chính quyền. Tuy không phải là Phật tử thuần thành nhưng cũng vẫn có danh nghĩa Phật tử và nhân cơ hội ngàn vàng một thuở này thì họ tạm thời đứng cùng với Phật Giáo để tranh đấu.
Đáng kể nhất là một số cán bộ VNQD Đảng (thuộc thế hệ trẻ) miền Bắc di cư cũng như hai miền Nam – Ngãi , giai đoạn đầu đã góp công không nhỏ làm hậu thuẫn cho các Thượng Tọa trong Ủy Ban Liên Phái. Sau nữa là một số nhỏ trong hàng ngũ đảng Duy Tân.
Lớp cán bộ trẻ này, vì nhiệt huyết vì lòng trung kiên với Đảng và đồng thời cũng bị thúc đẩy bởi khát vọng cách mạng (họ có biết đâu chỉ là ảo tưởng)… cho nên nhân cơ hội “biến cố Phật Giáo” thì vùng dậy.
Hầu hết lớp trẻ đã tin vào lãnh tụ, tan tác mỗi người một nơi không tổ chức nhưng vẫn còn truyền thống kết hợp. Mà Phật Giáo với hình ảnh một Tiêu Sơn tráng sĩ cũng là động cơ làm sống động truyền thống của Đảng… Với những lãnh tụ già nua hủ lậu đã không kết hợp được giới trẻ không đủ khả năng vận động giới trẻ cho một công trình tranh đấu lớn lao. Bỗng nhiên một số Thượng Tọa đứng lên lãnh đạo tranh đấu lần thứ nhất trong lịch sử Việt Nam sau nhà Lý. Chính các Thượng Tọa này đã trở thành thần tượng thu hút hầu hết đảng viên trẻ của Việt Nam Quốc Dân Đảng cũng như Đại Việt (nhóm Tự Quyết và Ba Lòng) và một số nhỏ Đảng viên Duy Dân.
Giai đoạn đầu từ tháng 6, Cộng Sản chưa kịp trở tay chưa xâm nhập vào được hàng ngũ tranh đấu (hoặc nếu có cũng chưa dám ra mặt) nhưng chính thành phần đảng phái quốc gia mới là yếu tố chủ động (tất nhiên là thành phần trẻ). Ngay từ đầu tháng 6, dù không có lệnh ai (bởi không còn lãnh tụ hay đã phủ nhận lãnh tụ) các đảng viên Việt Quốc cũng như Đại Việt Duy Dân (thuộc hàng ngũ tiến bộ và trong sạch) đều tự động đứng lên hoạt động theo từng nhóm và tự động đứng vào phong trào đấu tranh của Phật Giáo. Các nhóm đảng kể như nhóm Yên Bái (Đại Học Văn Khoa, Sư Phạm và Luật) gồm những cán bộ cốt cán như nữ sinh viên Uyển, sinh viên Đỗ Tấn Phú… cùng những Đỗ Đình Duyệt (Công giáo)  Đỗ Đức Thịnh (Công Giáo) cùng với nhóm Nguyễn Thường Bá, Uyên Thao (một cán bộ trẻ cốt cán của một hệ phái VNQDĐ và đã góp không nhỏ trong cuộc tranh đấu của Phật giáo 1963) và Thế Uyên. Các đảng viên trẻ Duy Dân thì quy tụ quanh qua Thượng Tọa Tâm Châu như nhóm Vỵ Ý. Miền Trung nhóm trẻ Việt Quốc cũng vùng dậy và đóng vai trò quan hệ trong giới sinh viên Huế.
Giới Đảng Viên kỳ cựu cũng tích cực dấn mình vào cuộc tranh đấu như nhóm Việt Quốc của cụ Bạch Vân (Công Giáo), nhóm ông Đĩnh (tự Đính cụt- Công Giáo), nhóm Việt Quốc miền Nam , nhóm Đại Việt Nguyễn Tôn Hoàn, nhóm Việt Quốc Như Phong, Nguyễn Hoạt (tờ Tự Do).
Có thể nói giai đoạn đầu tại Saigon con số 5, 7 tăng sĩ nếu không có sự tham gia tích cực của các đảng viên trẻ thuộc đảng phái quốc gia thì Phật Giáo cũng chưa thể tạo được một thanh thế to lớn. Rồi những huyền thoại lan truyền mau chóng trong giới trẻ này để tạo dựng khí thế như là “Thượng Tọa Tâm Châu, thuộc đảng Duy Tân, Thượng Tọa Minh Hòa, Thượng Tọa Quảng Đức cũng như một cảm tình viên Việt Quốc” cứ như thế… như thế… giới trẻ lao vào cuộc tranh đấu không cần biết cuộc tranh đấu đi đến đâu.
Thành phần đảng phái Quốc Gia thuộc giới trẻ kể trên thành thực lực đầu tiên của phong trào tranh đấu Phật giáo tại Saigon. Nhưng họ chỉ là cán bộ bậc trung còn ít tuổi không có lãnh đạo cho nên khi cùng đứng trong phong trào tranh đấu Phật Giáo thì lẽ tự nhiên họ tự đặt mình trong sự lãnh đạo của các Thượng Tọa và rồi đồng hóa bản chất “đảng Quốc Gia” của mình với bản chất của phong trào tranh đấu Phật Giáo lúc ấy. Ngoại trừ mấy nhóm đảng viên kỳ cựu như đã viết ở trên, hoạt động lẻ tẻ ủng hộ cuộc đấu tranh bằng tinh thần và hỗ trợ theo cách riêng. Hầu hết thành phần trẻ tạm thời tự động thoát ly Đảng để tự đặt mình trong cuộc tranh đấu với hy vọng cuộc tranh đấu thành công thì họ sẽ là những thành phần cốt cán chủ động phục hồi đảng.
Vốn lãng mạn từ bản chất qua tinh thần cách mạng Tự Lực, lớp trẻ lại không được đào tạo theo một kỹ thuật đấu tranh, cũng không biết về qui luật đấu tranh cho nên vô tình họ trở thành con tốt trong một ván cờ, mặc dầu khi dấn thân vào cuộc họ dâng cả trái tim, cả bầu nhiệt huyết, cả cuộc đời. Những Uyên Thao, Vỵ Ý là một thí dụ. Đầu tháng 7- 1963 khi Cộng Sản đã “điều nghiên” xong, đã dự trù mọi kế hoạch hành động thích nghi và nhảy vào cuộc, thâm nhập ồ ạt vào ngay trong lòng cuộc tranh đấu thì thế lực Quốc Gia dần dần bị giảm sút hoặc lại bị chính Cộng Sản giật giây và núp bóng. Nhưng có điều quan trọng khi Ủy Ban Liên Phái và Ủy Ban Liên Bộ nhóm họp tại Hội Trường Diên Hồng thái độ người Mỹ như thế nào?
Qua Văn Thư của chính phủ Mỹ do Phó Đại Sứ Truheart trao cho Bộ Trưởng Nguyễn Đình Thuần để trình lên TT Diệm thì chính phủ Mỹ nóng lòng thúc đẩy TT Diệm giải quyết vụ Phật Giáo, vì cho rằng báo chí và dư luận Mỹ đang tạo bất lợi cho chính phủ Việt Nam nói riêng, và TT Kennedy đang gặp khó khăn tại quốc nội do cuộc khủng hoảng tôn giáo tại Việt Nam. Từ Ngoại Trưởng Mỹ đến TT Kennedy đều cùng một lập trường thúc đẩy chính quyền Việt Nam giải quyết mau lẹ vụ Phật Giáo. Đại Sứ Nolting vẫn là người bạn tri giao của ông Nhu và rất cảm phục TT Diệm. Quan điểm của ông lúc ấy là tế nhị và dè dặt nhưng tích cực ủng hộ chế độ Ngô Đình Diệm.
Nhưng ngay trong tòa Đại Sứ Mỹ lại có một khuynh hướng chống đối tích cực chế độ Ngô Đình Diệm. Khuynh hướng này được ngấm ngầm hỗ trợ bởi ông Phó Đại Sứ Truheart. Phía CIA (mặt nổi) đại diện là Đại Tá Richardson lại là người ủng hộ chế độ Ngô Đình Diệm nhưng phụ tá của ông tức Smith lại có nhiều liên lạc ngầm với một số chính khách thuộc nhóm Phan Huy Quát lại muốn nhân cuộc khủng hoảng Phật Giáo đòi áp lực đòi TT Diệm cải tổ nội các và thay đổi một số cơ chế trong guồng máy công quyền.
Phía CIA chìm (đây mới là yếu tố quan hệ) đã tìm mọi cách móc nối với một vài nhân vật thuộc phe tranh đấu Phật Giáo (Đại Đức Đại Nghiệp với tư cách phát ngôn viên, giao tiếp với ký giả Mỹ và CIA đã trá hình móc nối qua ngã này). Do đó, ngay khi phía Phật Giáo và chính quyền ngồi vào bàn hội nghị thì đã có những bàn tay thứ ba quấy phá. Vì nếu chính quyền và Phật Giáo đi đến một ổn thỏa tốt đẹp thì họ không lợi dụng được gì.
Từ cuối năm 1962 tại Mỹ đã có một khuynh hướng hỗ trợ nhóm Phan Huy Quát và đòi chánh quyền Ngô Đình Diệm phải cải tổ, đặt thêm chức Thủ Tướng với quyền hạn rộng rãi. Phan Huy Quát và xa hơn là Vũ Quốc Thúc có nhiều triển vọng được giới chức Mỹ áp lực với TT Diệm đặt vào chức vụ Thủ Tướng này.
Nhưng với một người ngang bướng và cương quyết như TT Diệm thì không bao giờ Mỹ có thể thành công trong những toan tính như vậy. Sự hiện diện diện của ông Nhu lại càng tạo thêm khó khăn, vì không thể nào một Ngô Đình Nhu chấp nhận một Thủ Tướng có quyền hành rộng rãi như kiểu Thủ Tướng Phan Huy Quát cho nên từ Harriman đến Hilsman và Truheart đều cho rằng muốn cải tổ nội các và cơ chế dân chủ tại Việt Nam thì phải trục xuất vợ chồng ông Nhu. TT Diệm sẽ không thể làm gì khác hơn là cai trị trên uy quyền tượng trưng. Nhưng toan tính đó không qua khỏi cặp mắt ông Nhu.
Cuộc hòa giải giữa chánh quyền và Phật Giáo qua Ủy Ban Liên Phái và Liên Bộ đang tiến hành tốt đẹp thì bỗng nhiên gặp trở ngại.

ĐỔ THÊM DẦU VÀO LỬA
Vào buổi sáng thứ bảy sau phiên họp ngày 5-6 giới chức Phủ Tổng Thống lại muốn điên đầu về bản thông cáo của Hội Phụ Nữ Liên Đới (tất nhiên do bà Nhu soạn thảo). Trước đó bà Nhu triệu tập hội đồng ban chấp hành Trung Ương để thảo luận và tỏ thái độ về hòa giải trên.
Trong bản thông cáo ấy Bà Nhu gay gắt lên tiếng phản đối với phương thức giải quyết của Tổng Thống và nặng lời công kích một số nhà lãnh đạo Phật Giáo. Bà Nhu lấy lý do rằng Phật Giáo cũng là một hội đoàn, phong trào Liên Đới cũng là một hội đoàn, và như vậy phong trào Liên Đới có quyền lên tiếng không ai có quyền cấm đoán kể cả chánh quyền. Cái lý do của bà Nhu thì rất đúng không ai chối cãi được vì trong một cộng đồng quốc gia các đoàn thể đều được đối xử ngang nhau trước pháp luật và đều được quyền tỏ thái độ bất bình đối với một đoàn thể khác miễn sao không xâm phạm đến an ninh quốc gia. Nhưng sự việc đâu có giản dị như vậy nhất là trong thực tại xã hội miền Nam vốn đầy ngộ nhận ganh ghét và hận thù. Bà Nhu cho rằng lên tiếng công kích Phật Giáo theo tư cách Chủ Tịch Phong Trào Liên Đới tức là không dính dáng gì đến chánh phủ và chánh phủ phải coi đó là điều tối cần phải ủng hộ. Bởi vì khi chính phủ đang có chuyện rắc rối với một hội đoàn khác lên tiếng công kích hội đoàn này và hỗ trợ chính phủ như vậy chính phủ còn có cái may mắn nào hơn.
Nhưng thục tế đâu có giản dị như vậy và nhất là thực tế xã hội Việt Nam thì không thể dùng một thứ “logique” nào phân tách được. Bà Nhu là em dâu một vị Tổng Thống, uy quyền của bà trên thực tế ai cũng thấy và nhất là bản thông cáo của bà lại do một phiên họp tổ chức ngay trong Dinh Gia Long thì bản thông cáo ấy đã mặc nhiên là tiếng nói bán chánh thức của chính quyền dù cho biện minh khéo léo thế nào thì cũng không ai nghe.
Vẫn biết rằng bà Nhu được nghe người ta kể lại đầy đủ về đời sống thâm cung bí sử của Thầy Thiện Minh, bà Nhu có định kiến về mấy Thầy ấy là “sư hổ mang” (ngôn ngữ của bà Nhu thường dùng trong cuộc đàm đạo) nhưng tâm lý quần chúng  khó có thể chấp nhận cho một người đàn bà lên tiếng công kích mạt sát các vị lãnh tụ tinh thần dù các vị ấy thế nào chăng nữa… Rồi một điểm sai lầm quan trọng hơn là bà Nhu đã tổng quát hóa Phật Giáo tuy là chiếm đa số trong quần chúng nhưng số Phật Tử thuần thành lại không bao nhiêu.
Bà Nhu thường viết diễn văn thông cáo bằng Pháp văn, có nhẽ bản thông cáo do người dịch thiếu sự am tường và tế nhị của Việt Ngữ nên bản Pháp Văn đã nặng dịch ra Việt Ngữ lại càng nặng hơn.
Bà Nhu quyết định phổ biến bản thông cáo đó trên báo chí.
Cũng vào sáng thứ bảy hôm ấy trong một bài nói về Phật Giáo Việt Nam xướng ngôn viên đã không tiếc lời ca ngợi công đức Tổng Thống đối với sự phát huy Phật Giáo và đưa ra thống kê: số chùa trong toàn quốc có 4776. Khi TT Diệm chấp chánh từ năm 1954 đến 1963 thì Phật Giáo đã xây thêm được 1275 ngôi chùa mới và trùng tu được 1295 ngôi chùa đã hư hại vì thời gian chiến tranh.
Sự thực thì TT Diệm đã giúp rất nhiều tài chánh và phương tiện để xây cất chùa. Đó là điều Tổng Hội Phật Giáo biết rõ. Thế nhưng khi cao trào tranh đấu đang lên thì dân chúng lại không tin những con số thống kê về thành tích của chính phủ đối với Phật Giáo. Con số thống kê mà dân chúng không tin huống chi thông cáo của bà Nhu thì không ai có thể tin rằng đó là thái độ trung trực. Nhất là bản thông cáo ấy lại nói trùm lấp cả một tập thể lớn như Phật giáo. Phương thuật chính trị dùng để phản đối phe “đối lập” không dùng cách này.
Khoảng sáng thứ bảy BS Tuyến vào Dinh và đến phòng ông Đổng Lý Lý Đoàn Thêm ngồi nói chuyện trăng gió nước non thì ông Phan Văn Tạo Tổng Giám Đốc Thông Tin bước vào, ông TGĐ Thông Tin đang muốn “điên đầu” vì bản thông cáo mà bà Nhu làm áp lực phải phổ biến trên báo chí.
Giới cao cấp trong chánh quyền lúc đó đã có hơn hai khuynh hướng một muốn hòa giải cho êm một muốn làm mạnh. TT Diệm đứng về phía hòa giải. Bà Nhu là một trong những người không chấp nhận phương thức hòa giải của Tổng Thống một phần do bà ta thích làm chuyện khác lạ. Hơn nữa bà Nhu cũng như ông Nhu không bị mặc cảm Thiên Chúa Giáo trong khi đó thì TT Diệm bị dày vò bởi mặc cảm này.
Trong thông cáo tỏ thái độ của PTPNLD đến nay đọc lại thì kể ra cũng không có gì gọi là quá nặng nề nếu xét toàn bộ văn bản. Nhưng nếu cắt xén từng câu thì quả là ngột ngạt.
Ông Phan Văn Tạo trao bản thông cáo ấy cho BS Tuyến và ông Đổng Lý Đoàn Thêm coi. BS Tuyến cũng phải giật mình vì nếu phổ biến thông cáo này sẽ hoàn toàn bất lợi trong dư luận và gây nên sự hiểu lầm giữa chánh quyền và Ủy Ban Liên Phái trong khi cuộc hòa giải đang tiến hành tốt đẹp.
Ông Tổng Giám Đốc Thông Tin cho biết bà Nhu có gọi điện thoại thẳng cho ông hỏi tại sao không cho phổ biến thông cáo ấy vào các số báo xuất bản sáng thứ bảy. Ông Tạo phải tìm cách nói khéo để kéo dài thời gian hầu có thể tiếp xúc thẳng với Phủ Tổng Thống. Với nội dung bản thông cáo ấy ông Phan Văn Tạo cũng cảm thấy sẽ gây nên phản ứng bất lợi trong dư luận.
Từ ông Đoàn Thêm đến BS Tuyến đều đồng ý như vậy. Nhưng làm thế nào để ngăn chặn nổi khi bà Nhu muốn. Quyết định ra sao chỉ có TT Diệm mới dứt khoát được.
Thời nào cũng vậy, đảm trách ngành Thông Tin ở một xứ chậm tiến quả thực vạn phần khó khăn nhất là khi gặp những biến cố lớn.
Nhưng đó cũng là cách góp công vào việc làm thế nào để giết một Tổng Thống.
Ông Phan Văn Tạo cùng BS Tuyến đành ngồi tán chuyện đời tại phòng ông Đổng Lý Đoàn Thêm trong lúc chờ đợi ông Bộ Trưởng Nguyễn Đình Thuần đang họp ở Hội Trường Diên Hồng.
Khoảng 11 giờ 30, ông Thuần trở về văn phòng. Xem xong bản thông cáo thì ông cũng đồng ý ngay không thể phổ biến ngay được và phải trình lên Tổng Thống Diệm.
Khi lên yết kiến Tổng Thống và trình bày lợi hại, TT Diệm cũng đồng ý với ông Thuần không thể phổ biến thông cáo này được.
Chiều hướng giải quyết tranh chấp nội bộ bao giờ cũng đòi hỏi sự tế nhị khôn khéo và nhất là phải tránh ngộ nhận một khi đã tạo nên ngộ nhận thì khó lòng có thể giải quyết êm xuôi, giải quyết những tranh chấp không thể xử dụng những hình thức thông cáo tuyên ngôn khi mà những hình thức này chỉ tạo thêm sự rắc rối.
Bà Nhu lý luận rằng: Bà không chống lại Phật giáo mà bà chỉ lên tiếng chống lại phần tử lợi dụng Phật Giáo. Nhưng vì không có căn bản và kinh nghiệm chính trị nên bà đã quên yếu tố này: Dù là một thiểu số cá nhân nhưng cá nhân đó khi tạo được danh nghĩa để nhân danh tập thể và mặc nhiên đại diện cho danh dự và chính nghĩa mà họ đang lôi kéo quần chúng ủng hộ. Quần chúng có là cái gì đâu, chỉ là đám đông dễ tin dễ phẫn nộ và quần chúng không biết phê bình.
Nếu quần chúng phê bình thì chỉ phê bình một chiều và do một thiểu số lãnh đạo quần chúng chỉ dẫn sách động. Bản thông cáo của bà Nhu chỉ cần xén một vài câu vài lời cũng đủ vốn liếng để phẫn nộ trong quần chúng (thực tế đã xảy ra như vậy).
Khi giải quyết các biến cố người cầm quyền dù có thiện chí giải quyết thì bao giờ cũng phải chú trọng đến mấy điểm sau đây: 1/ Quyền lợi đòi hỏi của những người đại diện phe tranh đấu. 2/ Khối trầm lặng chưa có thái độ mà bao giờ cũng đông đảo. 3/ phải khám phá và đề phòng kịp thời những phần tử phá hoại hòa giải để kéo dài cuộc tranh đấu cho mục tiêu xa hơn. Tiếc thay, bản thông cáo của bà Nhu trở thành một động cơ xáo trộn cuộc hòa giải và chính nó đã làm cho khối trầm lặng bất mãn… và đó cũng là dịp may cho các phần tử khuấy động (Cộng Sản và ngoại bang) tạo cơ hội kéo dài cuộc tranh đấu. Khối trầm lặng đã bất mãn thì nguy cơ không xa.
Khi được biết ý kiến của TT Diệm và ông Bộ Trưởng Thuần, ông Giám Đốc Thông Tin yên trí có thể dẹp bản thông cáo của bà Nhu. Nhưng bà Nhu đâu có chịu thua một cách dễ dàng như vậy.
Bà Nhu lại gọi điện thoại cho Phan Văn Tạo lần nữa và cất vấn tại sao không cho phổ biến.
Ông Tạo thực tình trình bày sở dĩ không cho phổ biến là ý nghĩ của Tổng Thống. Với giọng nói giận tức bà Nhu bảo ông chờ máy để bà hỏi lại Tổng Thống. Cuộc hội kiến giữa bà Nhu và TT Diệm như thế nào không được rõ nhưng sau đó, bà Nhu cho ông Tạo biết Tổng Thống đã đồng ý. Tuy vậy ông Phan Văn Tạo vẫn chưa tin nên không dám phổ biến ngay. Ông lại thỉnh ý kiến của Bộ Trưởng Thuần.
Ông Thuần đem tự sự trình bày lại TT Diệm thì ông TT tỏ vẻ khó chịu lắm và vẫn giữ ý kiến cũ không cho phổ biến thông cáo này. Thảng hoặc tìm cách phổ biến một cách hạn hẹp. Trùng vào ngày các báo Việt Ngữ nghỉ hàng tuần nên bản thông cáo ấy chỉ phổ biến trên bản tin của Việt Tấn Xã (ấn bản ngoại ngữ) và tờ Journal Extrême Orient Time of Vietnam có đăng lại.
Trước đó, trưa thứ bảy khi ông Thuần vào gặp Tổng Thống ông Thuần tỏ vẻ buồn phiền nói với BS Tuyến và ông Đoàn Thêm: “phổ biến thông cáo này thì bất lợi cho cuộc hòa giải lắm. Bà Nhu bảo Tổng Thống đã đồng ý như vậy không hiểu chính phủ dứt khoát vấn đề này như thế nào?”
Nhưng TT Diệm đã xác định rõ với ông Thuần “Chính sách của chính phủ không có gì thay đổi cả “
Chiều chủ nhật, ông Bộ Trưởng Thuần lại một lần nữa vào Dinh xin gặp Tổng Thống nhưng ông TT mắc bận.
Cuối cùng ông Tạo đành phổ biến và nói với BS Tuyến: “không biết làm sao hơn”. Cũng như trước đó, ông phải trả lời bà Nhu: “Tổng Thống đã đồng ý như vậy thì tôi xin tuân theo ý Tổng Thống”.
Sáng thứ hai thông cáo trên đươc phổ biến thì chiều đã được đăng tải hầu hết các báo Việt Ngữ (ra vào thứ ba)
Kết quả đúng như sự tiên liệu: Bản thông cáo ấy với lời lẽ cứng rắn (nếu không muốn nói là lớn tiếng cao ngạo cùng lập trường chống lại phương thức hòa giải qua Ủy Ban Liên Bộ và Liên Phái đã tạo nên một phản ứng mạnh về phía Phật Giáo. Dư luận chung cũng tỏ ý bất mãn. Nghĩa là bản thông cáo của bà Nhu hoàn toàn bất lợi cho phía chánh quyền và đối với cuộc tranh đấu của Phật Giáo thì bản thông cáo ấy được coi như một sự thóa mạ và chỉ như một thùng dầu lớn đổ vào ngọn lửa đang cháy to. Như trên đã viết, trong cuộc tranh đấu nào cũng vậy vẫn có một khối trầm lặng rất đông đảo… khi thấy một tập thể nào đứng lên chống chính quyền thì cũng lấy làm vui thích và chỉ hưởng ứng trong lòng mà thôi. Họ thực sự trầm lặng như một khách bàng quan. Nhưng sau cái thông cáo của bà Nhu thì bỗng dưng khối quần chúng đông đảo đó nghiêng dần về phía Phật Giáo.
Ủy Ban Liên Phái cho rằng với bản thông cáo ấy chính quyền tỏ ra thiếu thành tín, phản ứng như vậy cũng rất phải. Bởi vì TT Diệm tỏ bày lập trường hòa giải tột bậc, em dâu của Tổng Thống lại lên tiếng công kích như thế thì hẳn nhiên phía Ủy Ban Liên Phái phải nghĩ rằng có sự tráo trở và hòa giải chỉ là cách chính quyền cố kéo dài để tìm cách ứng phó. Do đó mâu thuẫn và hiểu lầm giữa đôi bên mỗi ngày một lớn một sâu cuộc hòa giải có thể tan vỡ.
Phía Ủy Ban Liên Phái thấy rằng đã đến lúc phải ra tay gây một tiếng vang lớn để mở đầu cho một giai đoạn tranh đấu quyết liệt.
Phải công nhận rằng trong cuộc tranh đấu của Phật Giáo 1963, các vị tăng sĩ lãnh đạo đã có nhiều sáng kiến và kỹ thuật tranh đấu mới lạ và hiệu quả
LỬA ĐÃ THỰC SỰ BÙNG LÊN 
Hòa Thượng Quảng Đức là nhà tu tự nguyện mở đường cho giai đoạn này. Sáng ngày thứ ba nhằm ngày 11-6 Hòa Thượng Quảng Đức tự thiêu tại ngã tư Lê Văn Duyệt – Phan Đình Phùng. Một tiếng sét lớn. Cơn giông tố thực sự bắt đầu. Tiếng sét làm rung chuyển con người TT Diệm. Cuộc hy sinh tự thiêu để hiến thân cho dân tộc và đạo pháp của Hòa Thượng Quảng Đức có phải là một phản ứng đột ngột trước bản thông cáo của Bà Nhu hay không? Sự hy sinh tự thiêu của Hòa Thượng thực sự được sửa soạn bố trí nhiều ngày.
Sáng ngày 11-6 hồi 9 giờ 30, một lễ cầu siêu được tổ chức tại chùa Phước Hòa với hàng trăm tăng ni tham dự.
Sau đó, các tăng ni tiến về phía ngã tư Lê Văn Duyệt – Phan Đình Phùng và ở đây Hòa Thượng Quảng Đức đã tự thiêu.
Hòa Thượng đi trên một chiếc xe Austin (chiếc xe này của ông Trần Quang Thuận- rể của cụ Tôn Thất Hối)…
Cũng vào giờ này, TT Ngô Đình Diệm đang dự lễ Cầu Hồn cho Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII tại Vương Cung Thánh Đường do Đức Cha Nguyễn Văn Bình chủ đại lễ. Tham dự có đông đủ bá quan văn võ từ Phó TT Thơ đến Chủ Tịch Quốc Hội, Bộ Trưởng. Ngoại giao đoàn và đặc biệt giới ngoại giao Pháp cũng có mặt đông đủ.
Khi vừa tan lễ thì Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ Bùi Văn Lương đến bên Tổng Thống Ngô Đình Diệm báo cho ông biết về vụ tự thiêu tại đường Phan Đình Phùng. TT Diệm đứng khựng lại mặt đỏ bừng rồi biến sắc. Ông nói: “có gì mà phải làm như vậy” TT Diệm lật đật về Dinh.
Theo Sĩ Quan Tùy Viên Lê Công Hoàn có thể nói từ sáng hôm ấy TT Diệm bắt đầu cho một chuỗi dài những ngày lầm lì, ít nói có khi ngồi lặng thinh hút thuốc lá lâu cả giờ đồng hồ.
Bộ Trưởng Nguyễn Đình Thuần vào yết kiến ông ngay sau đó. TT Diệm lừ đừ mặt cúi gầm.
Ông ngồi lặng thinh cả nửa giờ hết điều thuốc lá này đến điếu khác, ông thả vài đợt khói rồi lại dụi tàn. Một lát sau, TT Diệm bảo ông Thuần: “Việc gì rồi thu xếp có gì mà phải làm như vậy” (ý nói vụ tự thiêu).
Giới thân cận nhất của TT Diệm đều xác nhận: thái độ của TT Diệm lúc ấy thật bàng hoàng. Nét mặt ông đau xót trông thấy. Vụ tự thiêu tạo nên một xúc động quá lớn đối với Tổng Thống. Tại sao vậy? Điều dễ hiểu vì ông là một tín đồ Thiên Chúa Giáo rất là ngoan đạo, là một nhà nho cai trị dân theo quan niệm “thừa thiên hành đạo” cho nên trước biến cố như vậy tự nhiên là ông xúc động. Lương tâm Thiên Chúa Giáo cũng dày vò ông vì Giáo Lý không cho phép tự hủy mình, ông là người gây nên sự tự hủy mình của kẻ khác cũng là một trọng tội. TT Diệm chắc chắn bị xúc động từ một mặc cảm này mặc dù người trong cuộc ai cũng biết ông không có trách nhiệm nhưng ở phương vị lãnh đạo với quan niệm của nho gia thì tự ông lại thấy mình có trách nhiệm.
Vụ tự thiêu của Hòa Thượng Quảng Đức có kết quả đầu tiên và mạnh mẽ là trước hết đã tạo được sự xúc động trong lương tâm của một vị Tổng Thống.
Ngay buổi chiều hôm đó, Tổng Thống cho soạn thảo một bản hiệu triệu quốc dân trong đó TT Diệm nói rõ với quốc dân rằng “sự hòa giải đang tiến hành tốt đẹp thì sớm nay do sự tuyên truyền quá khích che dấu sự thật gây sự hoài nghi về thiện chí của chính phủ khiến một số người bị đầu độc gây một án mạng oan uổng làm tôi rất đau lòng” (nguyên văn).
Phía Phật Giáo bước qua một giai đoạn mới. Trước vụ tự thiêu thì chỉ có một số Phật Tử ruột các Thượng Tọa tích cực tham gia cùng với các thành phần đảng phái quốc gia đối lập, nhưng sau vụ tự thiêu khối quần chúng trầm lặng đông đảo vốn tiêu cực trong bao lâu nay cũng bị xúc động mạnh và bắt đầu nghiêng hẳn về hàng ngũ tranh đấu.
Dầu cứ đổ thêm vào lửa… Phía tranh đấu khai thác triệt để bản thông cáo của bà Nhu… Như trên đã viết đọc đầy đủ văn bản đó thì không có gì nặng nề nhưng quả tình có những từ ngữ rất dễ gây nên sự bất mãn.
Mở đầu bản thông cáo , bà nhu viết “Xét rằng, toàn dân Việt Nam dầu thuộc tôn giáo nào vẫn tôn trọng giáo lý Đạo Phật và luôn luôn tôn kính Đức Phật Tổ một bậc đại thánh hiền vì lẽ đó một số người Việt đã tự nhận mình là Phật tử mặc dù đa số không theo môn phái nào mà chỉ thành tâm và hồn nhiên thi hành đức từ bi”
Sau đó, bà Nhu lại phê bình chính phủ: “Xét rằng chính phủ Việt Nam Cộng Hòa dầu đã thu được nhiều thắng lợi rực rỡ trong cuộc chiến đấu chống phá hoại nhưng đôi khi vẫn còn thiếu phòng xa trong nhiệm vụ giữ gìn trật tự công cộng, bảo vệ luật pháp và như vậy chẳng khác nào mở cửa cho sự lạm dụng trắng trợn”.
Sau đó, bà Nhu nhân danh phụ nữ Việt Nam “thành khẩn yêu cầu những vị tăng ni chân chánh tránh tuyệt thực với dụng ý công kích đả phá vì như vậy tức là phản lại giáo lý của Đức Phật đã dạy nên kiềm chế những đòi hỏi của thể xác như sự đói bằng cách không thỏa mãn để nó đạt đến Niết Bàn” (nguyên văn)
Bà Nhu lại yêu cầu quí vị tăng ni “giữ thái độ bình tĩnh trước hành động của những kẻ núp sau bóng từ bi để gây rối loạn lột mặt nạ những kẻ có hành động phá hoại nhằm mục đích làm giảm uy tín của Phật Giáo và khuynh đảo quốc gia do sự xúi dục của ngoại bang” Rồi bà Nhu lại yêu cầu chính phủ ra lệnh trục xuất những người ngoại quốc gây rối” (nguyên văn).
Dạo năm 1963 người Việt Nam mọi giới chưa có kinh nghiệm về người Mỹ  Lúc ấy 16.000 cố vấn Mỹ thì hình bóng người Mỹ còn tương đối dễ thương và chưa tác hại lớn lao đến mọi sinh hoạt quốc gia và xã hội. Người Việt cũng chưa bị ám ảnh về tổ chức CIA và cũng chưa hiểu rõ sức mạnh của tổ chức này (ngoại trừ giới chính khách và quân nhân cao cấp). Thế nên khi bà Nhu nói rằng các nhà Sư bị ngoại bang xúi dục thì đối với quần chúng còn quá mơ hồ và người ta tự hỏi ngoại bang ở đây là ai? Nếu nói là Mỹ thì quần chúng sẽ không tin vì Mỹ đang ủng hộ chính quyền do đó sự tố cáo của bà Nhu dù cho là thực thì dân chúng vẫn cho là điều vu cáo. Dân chúng Việt Nam lại không bao giờ chấp nhận một người đàn bà (dù ở địa vị nào) lớn tiếng vu cáo các nhà tu hành và tổ chức tôn giáo. (bằng chứng bà Nhu đã mất nhiều cảm tình của tín đồ Thiên Chúa giáo khi công kích một số Linh Mục mà bà cho rằng chuyên môn chạy affaire. Cũng như trước đó năm 1954, giáo dân Phát Diệm di cư dù tích cực ủng hộ TT Ngô Dình Diệm nhưng cũng tỏ ra phẫn nộ khi Đài Phát Thanh công kích cha Hoàng Quỳnh và gọi cha Quỳnh là “Đại Úy Hoàng Quỳnh”.
Theo giới thân cận thì trong mấy ngày liền ông Tổng Thống vẫn lầm lì, đôi lúc không có chuyện gì đáng kể ông Tổng Thống vẫn “quắc mắt nhìn lừ đừ” rồi lại cúi xuống dụi tàn thuốc lá liên miên.
Điều làm cho TT Diệm tức giận hơn là vụ chiếc xe Austin của Trần Quang Thuận. Lúc ấy Trần Quang Thuận đang là quân nhân. Sau khi điều tra, cơ quan an ninh báo cáo cho TT Diệm chiếc xe Austin chở Hòa Thượng Quảng Đức và bình xăng đến địa điểm tự thiêu là của Trần Quang Thuận. Ông Tổng Thống nổi giận và cho gọi Tôn Thất Thiết, chánh sở Nội Dịch lên rầy rà (mặc dù ông Thiết không dính dáng vào nội vụ). Và biểu Tôn Thất Thiết về nói với cụ Tôn Thất Hối sao lại để con rể làm như vậy. Ai cũng biết rằng TT Ngô Đình Diệm với cụ Tôn Thất Hối coi nhau như người trong nhà. Cụ Hối vẫn tỏ lòng thầm phục vị cựu Thượng Thư của triều đình Nguyễn. Tuy Trần Quang Thuận bị thượng cấp gọi lên rầy rà nhưng cũng không sao cả (sau này ông ta mới bị bắt). Ông Thuận thanh minh rằng tình cờ cho người ta mượn xe mà thôi.
Chiếc xe của Trần Quang Thuận cũng là một trong những vết thương nội tâm của Tổng Thống. Một người như TT Diệm không thể nào chịu kẻ “nội thù” của chế độ lại là người trong nhà, người của chế độ , vì ông Thuận vẫn giao tế tốt đẹp với một vài nhân vật cao cấp của chế độ thuộc ngành an ninh.
Ngoài ra khi báo chí Mỹ càng công kích chính quyền bao nhiêu thì TT Diệm càng giao động vì bản tính của ông trong bấy lâu rất thận trọng và e ngại các vụ “sì căng đan…” Mặt khác, ông Nhu đã thầm cảm thấy rằng bang giao Việt Mỹ đang rạn nứt trầm trọng. Nắm chính quyền trong tay hẳn nhiên ông Nhu biết rõ thực lực của Uỷ Ban Liên Phái. Điều mà chính quyền e ngại là cao trào đấu tranh sẽ bộc phát trong giới Sinh Viên và Học Sinh vì đây mới là thành phần quan trọng và chính tập thể Sinh Viên và Học Sinh đã đóng vai trò chủ động trong vụ Phật Giáo. Nhưng trung tuần tháng 6 thì giới Sinh Viên và Học Sinh vẫn chưa tham gia tích cực rộng rãi ngoại trừ một số sinh viên đảng phái như trường hợp nhóm Nguyễn Tường Bá, Nguyễn Hữu Doãn, Nguyễn Hữu Đống. Ông Nhu vẫn chủ quan tin tưởng chính quyền đang nắm vững Sinh Viên Học Sinh và giáo chức qua ba tổ chức Tổng Hội Sinh Viên, Tổng Liên Đoàn Học Sinh  và Tổng Hội Giáo Giới.
Tóm lại điều quan trọng đối với ông Nhu lúc ấy là bàn tay Mỹ và Cộng Sản. Vụ Phật Giáo chỉ là cơ hội tốt đẹp nhất để Mỹ và Cộng Sản nhảy vào vòng quật ngã chính quyền theo sách lược riêng.
Ông Nhu chủ trương áp dụng biện pháp mạnh đối với thiểu số tranh đấu sách động tức là triệt hạ được cái căn mà từ đó Mỹ cũng như Cộng Sản không có đối thượng để khuynh đảo khuấy động.
Phía TT Diệm lại chủ trương triệt để hòa giải thu xếp làm sao cho êm đẹp. Bởi vậy trong thời gian thi hài Cố Hoà Thượng Thích Quảng Đức còn quàn tại chùa Xá Lợi thì TT Diệm luôn luôn thúc dục ông Nguyễn Đình Thuần phải tìm cách nối tiếp cuộc thương nghị với Ủy Ban Liên Phái đã có đủ thì giờ trắc nghiệm lòng dân đối với cuộc tranh đấu của Phật Giáo. Theo sự thỏa thuận chung giữa Đại Đức Đại Nghiệp, Phát ngôn viên của Ủy Ban Liên Phái và ông Trần Văn Tư  Giám Đốc Nha Cảnh Sát Đô Thành thì Phật Tử đến viếng Cố Hoà Thượng Thích Quảng Đức đều tập trung tại chùa Giác Minh, theo lịch trình luân phiên 9 chùa lớn trong Saigon Gia Định sẽ lần lượt từng 400 người được trở đến chùa Xá Lợi do xe Cảnh Sát hướng dẫn. Những chuyến xe đi lại không ngừng nhất là trong ngày 14 ước lượng có đến 5.000 Phật tử được chuyên chở đến chùa Xá Lợi.
BẢN THÔNG CÁO CHUNG 
Ngày 14-6 Ủy Ban Liên Phái lại cùng Ủy Ban Liên Bộ tiếp tục thương nghị. Cũng ngày hôm ấy, Hội Đồng các Tướng Lãnh ra thông cáo kêu gọi nhân dân đoàn kết tránh hiểu lầm gây hoang mang và đặt quyền lợi quốc gia lên trên hết. Khi chỉ thị cho các Tướng Lãnh họp hội đồng và ra thông cáo như vậy, dù có lợi cho chánh quyền nhưng ông Nhu bắt đầu đi vào một nước cờ sai lầm hệ trọng. Trước năm 1963, số tướng lãnh tuy còn ít ỏi (18 vị) nhưng là 18 ốc đảo do quyền lợi cá tính địa vị họ không thể nào ngồi cùng với nhau được để bàn tính đại sự nhưng ông Nhu đã tính sai khi qui tụ tướng lãnh lại để cùng bàn luận và ra thông cáo. Kết quả phiên họp ngày 14-6 được coi là tốt đẹp, Ủy Ban Liên Phái ôn hòa đến mức độ phía chánh quyền không ngờ (ngoại trừ phía ông Ngô Đình Nhu) Các Thượng Tọa Tâm Châu cũng như Thiện Minh đều tỏ ra có thiện chí hòa giải và thông cảm Ủy Ban Liên Bộ trong khi đó thì ngay Ủy Ban Liên Phái lại có một vài vị Thượng Tọa Đại Đức tỏ ra tích cực và quyết liệt với chính quyền. Đáng kể là Thượng Tọa Trí Quang và Đại Đức Đại Nghiệp

Lúc ấy hai vị này đang được giới Phật tử nhất là thành phần trẻ hết sức mến mộ.
Lễ an táng Hòa Thượng Quảng Đức ấn định vào ngày chủ nhật. Một số động cán bộ trẻ quyết liệt thì chủ trương phải biến đám tang thành một cuộc tuần hành vĩ đại. Đứng đầu chủ trương này trước sau vẫn là Thượng Tọa Thích Trí Quang cũng như Đại Đức Đại Nghiệp. Nhưng sáng thứ bẩy thì Đô Trưởng Saigon lại gửi cho một văn thư qua Đại Đức Đại Nghiệp lưu ý về vấn đề an ninh và đặt vấn đề trách nhiệm những bất trắc rối loạn có thể xảy ra. Văn thư ấy do tòa Đô Chánh đơn phương gửi đi. Thực tình ông Đô Trưởng chỉ là một nhà hành chánh, quen với lề lối làm việc theo kiểu thư lại chủ nghĩa cho nên gửi văn thư ấy cũng chỉ là cách đề phòng nếu có gì xảy ra thì còn có cớ để trình lên thượng cấp. Nhưng phía Đại Đức Đại Nghiệp lại nghĩ rằng đây là cách đe dọa cố ý. Nhưng cuối cùng Tòa Đô Chánh cũng như Đại Đức Đại Nghiệp đồng thỏa thuận tạm thời dời đám tang lại. Đây là đề nghị của Đại Đức Đại Nghiệp. Vì không phải là nhà chánh trị nên Đô Trưởng và giới chức liên hệ vui vẻ đồng ý ngay. Nhưng xét về kỹ thuật tranh đấu và chống tranh đấu thì Tòa Đô Chánh hố to thua đậm.
Tuy Đại Đức Đại Nghiệp và Đô Trưởng Saigon đã đồng ý rời đám tang Hòa Thượng Quảng Đức đến ngày 10 nhưng Phật tử trong Đô Thành và Gia Định đã sửa soạn đi đưa đám tang vào sáng ngày chủ nhật. Bây giờ phải làm thế nào? Phía Phật Giáo đồng ý đưa ra một thông cáo về quyết định dời ngày an táng mà do chính Đại Đức Đại Nghiệp thỉnh cầu. Nhưng đã quá gấp, tối thứ bảy mới có thông cáo này. Phía Phật Giáo nhờ chánh quyền phổ biến giúp, chính quyền vui vẻ nhận lời ngay.
Nội tối thứ bảy, ngoài việc nhờ Radio liên tiếp phổ biến, giới chức Đô Thành lại còn huy động hàng chục xe phát thanh chạy đến khắp nơi trong Đô Thành từ hang cùng ngõ hẻm đến những đường phố lớn để loan báo thông cáo của Ủy Ban Liên Phái. Dân chúng nghe tin này rất đỗi ngạc nhiên về sự thay đổi như vậy. Trong không khí lúc ấy, không ai tin nơi thiện chí của chính quyền và lại nghi ngờ rằng chắc hẳn chính quyền định chơi trò thủ đoạn nào đây và có lẽ gây áp lực với Ủy Ban Liên Phái buộc phải dời đám tang lại. Dân chúng nghi ngờ như vậy cũng có lý. Nhưng quả thực thì oan cho giới chức Đô Thành chỉ vì đã không đủ kinh nghiệm chính trị lại quá cậu nệ về biện pháp hành chánh mà thực ra không có hiệu lực gì cả chỉ tạo thêm ngộ nhận. Hơn nữa, biện pháp hành chánh đó (kết quả của thói quen thư lại chủ nghĩa) đã phạm vào một lỗi lầm quan trọng về chiến thuật chính trị mà nhà cầm quyền nào khi muốn đương đầu với biến cố không thể nào bỏ qua được. Đó là một “định luật” sơ đẳng về việc sách động một “đám tang chính trị”… Một đám tang có tầm mức quan trọng và đang gây xúc động lớn như đám tang Hòa Thượng Quảng Đức thì càng kéo dài trì hoãn bao lâu càng thắng lợi cho phía đấu tranh. Thi hài Cố Hoà Thượng Quảng Đức quàn tại chùa Xá Lợi trong vòng năm ngày đã là một thời gian khá dài, khí thế tranh đấu mỗi ngày mỗi giờ càng lên cao… Dân chúng càng giao động… thi hài Cố Hoà Thượng càng kết đọng thành một biểu tượng ngào ngạt hương hoa của khí thế như một phiến nam châm thu hút quần chúng… Trong tình thế sôi bỏng như vậy, giới chức Đô Thành bỗng nhiên tự giăng một chiếc bẫy tự ném mình vào chiếc rọ lớn mà chỉ ngày hôm sau (tức sáng chủ nhật) đã nhận ngay ra hậu quả. Phía Ủy Ban Liên Phái tự nhiên thắng lợi và có thể mạnh miệng qui hết trách nhiệm cho nhà cầm quyền với những lý do rõ rệt.
Theo đúng ngày giờ đã định  dù đã có thông báo của Ủy Ban Liên Phái hủy bỏ, Phật tử vẫn cứ tấp nập kéo nhau đến chùa Giác Minh để tập trung theo lịch trình đã ấn định đến chùa Xá lợi đưa đám Cố Hoà Thượng. Như đã viết, trong không khí sôi động lúc ấy thì Phật tử đâu có tin vào bản thông cáo của Ủy Ban Liên Phái do nhà cầm quyền phổ biến khi đám đông đã lập thành một khối cả ngàn người thì đám đông đó sẽ làm chủ tất cả vượt trên cả lề luật nguyên tắc và chỉ còn một sức mạnh bị điều động bởi lòng hăng say và sẵn sàng phẫn nộ đúng như vậy, dù các Nhà Sư đến tận nơi nói rõ cho đồng bào rõ, đồng bào vẫn không tin và chuyển hướng luôn “nếu không đi đưa đám tang thì chúng tôi sẽ đến chùa Xá Lợi viếng nhục thể Cố Hoà Thượng”.
Đồng bào ùn ùn kéo đi… đến ngã tư Phan Thanh Giản, Lê Văn Duyệt thì bị chận lại.
Sự hiện diện của Cảnh Sát và Cảnh Sát Chiến Đấu trước mặt đám đông càng tăng cường khí thế của đám đông ấy và sự hiện diện này như một sự khiêu khích (cho dù Cảnh Sát không khiêu khích). Thượng Tọa Tâm Giác và mấy Đại Đức lại phải dùng loa kêu gọi đồng bào giữ trật tự, trở về chùa Giác Minh. Nhưng lúc ấy dù là một Thượng Tọa uy quyền nào cũng khó lòng nói lọt tai đám đông…
Thế là đám đông tràn lên. Cảnh sát đối phó, lựu đạn cay vùn vụt… lại xô xát… một số thanh niên bị bắt… Thêm một đổ vỡ. Vậy thì dù không chủ trương đàn áp nhưng chỉ vì sơ hở không hiểu qui luật tranh đấu phía chánh quyền bỗng dưng mang cái vạ đàn áp, kết quả chưa thu xếp chuyện này xong thì lại tạo ra một chuyện khác.
Mà oán thì nhân viên công lực trực tiếp lãnh đủ nên sau ngày đảo chánh ông Kính Quận 3 đi tù trước tiên chứ ông Đô Trưởng thì không sao cả được coi như người vô can.
Bởi vậy một thành phố Saigon gặp những tháng năm đầy biến cố mà lại gặp viên Đô Trưởng thiếu khả năng chính trị, không ý thức nổi vai trò hay chỉ biết chỉ đâu đánh đấy thì thiết tưởng đó là cái họa cho một chế độ.
Đám tang Cố Hoà Thượng Quảng Đức dời lại thêm 4 ngày nữa… Thật là 4 ngày giông bão đối với Cảnh Sát Quận III và giới an ninh Đô Thành. Nhưng kéo thêm 4 ngày nữa Ủy Ban Liên Phái có lợi từng giờ từng phút. Đó cũng là cơ hội để chuẩn bị tinh thần tranh đấu dài hơn và một dịp ngàn vàng để biểu dương lực lượng với khí thế dâng cao. Mỗi buổi chiều hàng trăm nam nữ công chức đi làm về đều ghé qua chùa Xá Lợi tập trung trên vỉa hè cạnh trường Gia Long để nghe thuyết pháp. Ngày đầu, một số công chức còn e dè sau thấy chính quyền có vẻ yếu thế, tuy một số bị theo dõi nhưng không phải tất cả nên công chức nam nữ càng kéo nhau đến đông. Công chức còn tham dự can đảm như thế huống chi sinh viên học sinh và lao động do có sự tham dự của thành phần công chức nên lại càng hăng hái kéo nhau đến tham dự cứ như thế… như thế theo xúc cảm dây chuyền số quần chúng tham dự càng đông. Còn một điều quan trọng nữa là các bài thuyết pháp của một số Thượng Tọa Đại Đức như Thượng Tọa Trí Quang, Quảng Đức, Đại Đức Nghiệp… Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Phật giáo Việt Nam và có lẽ trên cả thế giới (ngoại trừ trường hợp Ấn Độ với Thánh Gandhi nhưng Thánh Gandhi không thuyết pháp như ở xứ ta) các Nhà Sư thuyết pháp chỉ đề cập đến thời sự chính trị bất công và kỳ thị tôn giáo. Trong 8 năm và trải qua bao kìm kẹp dân chúng ai cũng hoan hỉ được nghe hay đọc những lời công kích chính quyền càng kịch liệt càng dễ thu hút. Dân chúng thời nào và ở đâu cũng vậy nhất là khu vực Á Phi đầy thống khổ nhục nhằn, dân chúng vẫn không ưa gì chính quyền – ai công kích chống đối chánh quyền đều được dân chúng tán thưởng đến độ khâm phục. Trong 9 năm chế độ Ngô Đình Diệm đây là lần đầu tiên dân chúng được nghe những lời công kích nảy lửa ngay trước cửa chùa.
Nếu công kích Tổng Thống Ngô Đình Diệm thì chưa chắc đã đạt được kết quả mong muốn như công kích vợ chồng ông Nhu nên quả phía các Thượng Tọa Ủy Ban Liên Phái đã đánh trúng cảm quan của dân chúng nhất là đối với lời công kích bà Nhu, dân chúng lại rất tán thưởng. Đó cũng chỉ là tâm lý bình thường của dân chúng ngoài phố. Ở Pháp thời Napoléon dân chúng rất khoái nghe lời bàn tán công kích Hoàng Hậu Joséphine và mấy cô em của Napoléon hơn là chế độ quân chủ chuyên chế của Napoléon.
Phía bà Nhu lại càng sôi nổi tức giận…
Thuyết pháp nảy lửa vẫn tiếp tục thì cuộc thượng nghị của Ủy Ban Liên Phái và Ủy Ban Liên Bộ tại Hội Trường Diên Hồng tự nhiên không đủ hiệu lực để thu hút sự chú ý của dân chúng.
Ngày 16-6, Bản Thông Cáo Chung được ký kết.
Thời gian giải quyết dù mới chỉ là giấy tờ và nguyên tắc chung được coi là quá mau lẹ. Khi bản thông cáo được ký kết, giới quan sát chính trị tại Saigon lúc ấy cũng bất ngờ và cả phía ông Nhu cũng bất ngờ nữa. Riêng ông Nhu tự coi như đã xong chuyện và đó là quyền của ông anh Tổng Thống. Nhưng bản thông cáo ấy ra đời thì bị các biến cố khác vượt qua và tràn ngập. Ngay phía Phật Giáo cũng không mấy ai quan tâm đặc biệt đến Bản Thông Cáo Chung vì mọi người còn đang đổ dồn mọi nỗ lực trong việc an táng Hòa Thượng Quảng Đức và động viên tinh thần Phật tử. Nếu bản thông cáo ấy được ký kết trước vụ tự thiêu của Hòa Thượng Quảng Đức hoặc sau ngày 19-6 thì chắc chắn sẽ có hiệu lực tác động được sự lưu tâm của dân chúng. Bởi vậy sự giải quyết của chính quyền dù thiện chí đến đâu nếu không chọn lựa thời gian và không gian nếu không đáp đúng đòi hỏi của thực tế trong thời gian ấy thì sẽ trở nên phù phiếm bởi nó không có hiệu lực gây nên sự lưu ý đặc biệt của dân chúng để dễ dàng sáng tỏ thiện chí giải quyết.
Họp liên tiếp 3 ngày cho đến 1 giờ 30 ngày chủ nhật (16-6) hai Ủy Ban Liên Phái và Ủy Ban Liên Bộ đã ký kết Bản Thông Cáo Chung gồm 5 điểm để giải quyết 5 nguyện vọng do Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam đề ra. Phái đoàn Phật Giáo do ba Thượng Tọa Tâm Châu, Thiện Minh, Thiện Hoa đồng ký tên.
Phía chính quyền gồm Phó TT Thơ, Bộ Trưởng Nguyễn Đình Thuần, Bùi Văn Lương. Dưới Bản Thông Cáo Chung, Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết “khán” với tư cách Hội Chủ Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam. Khi đưa bản thông cáo này về Dinh Gia Long, Tổng Thống Ngô Đình Diệm cho ông Thuần biết là tốt đẹp. Nhưng Tổng Thống lại ngần ngại về điểm ông sẽ ký ở chỗ nào  trong bản thông cáo.
Trong văn phòng Tổng Thống lúc ấy có mặt ông Nhu, ông Thuần. Cả ba người đều không tìm được cách giải quyết về điểm nhỏ này nhưng đối với TT Diệm là một sự quan hệ. Theo ông Thuần thì không lẽ Tổng Thống với tư cách quốc trưởng lại ký ngang hàng với Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết.
Dù vị Hòa Thượng là thủ lãnh tối cao của Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam  nhưng Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam cũng chỉ là một đoàn thể trong cộng đồng quốc gia. Tổng Thống Diệm cũng suy luận như vậy cho nên ông ngần ngại không chịu ký. Ông Nhu vẫn lạnh lùng không có một ý kiến nào.
Ba người ngồi im lặng tìm cách giải quyết cả giờ đồng hồ nhưng vẫn bế tắc.
TT Diệm bảo ông Thuần “cho mời bà Nhu xem bà có ý kiến nào không”.
Đã từ lâu TT Diệm vẫn thường nói với BS Tuyến cùng mấy cộng sự viên thân cận “đàn bà họ kém về lý luận nhưng trực giác của họ thì hay lắm”. Riêng bà Nhu đã nhiều lần chứng tỏ trực giác nhạy bén. Khi bà Nhu vào văn phòng Tổng Thống xem Bản Thông Cáo Chung rồi nói:
- Như thế này đâu có được Tổng Thống làm sao lại ký tên ngang hàng với ông cụ ấy được (tức Hòa Thượng Khiết).
Bà Nhu lắc đầu có vẻ chê bai và nói:
- Nếu mai mốt Phong Trào Phụ Nữ Liên Đới có chuyện tranh chấp với chánh phủ đòi chánh phủ phải giải quyết nguyện vọng rồi thì chính phủ cũng ra thông cáo chúng rồi Tổng Thống cũng ký với tôi hay sao? Một quốc gia trong một quốc gia không có được.
TT Diệm vẫn ngần ngại, không nói gì. Ông Thuần trình bày về sự khó khăn không biết Tổng Thống phải ký ở chỗ nào mà không ký cũng không được, TT Diệm hỏi bà Nhu:
- Vậy ý của bà thế nào?
Bà Nhu đáp ngay:
- Có gì đâu mà khó khăn. Bây giờ hai bên đã ký cả rồi. Cụ Tịnh khiết cũng ký khán như thế này rồi thì Tổng Thống ký ở ngoài lề như là bút phê vậy.
TT Diệm cho là phải và đồng ý ngay. Ông Tổng Thống cầm bút phê phía ngoài lề bản thống cáo: “Những điều ghi trong Bản Thông Cáo Chung này thì đã được tôi chấp thuận trên nguyên tắc ngay từ lúc đầu” dưới hàng chữ này, Ký tên: Ngô Đình Diệm.
Bản Thông Cáo Chung vẫn không gây được sự chú ý đặc biệt của dư luận. Nhưng phía chánh quyền Mỹ thì hoan hỉ cho rằng, chính quyền Việt Nam và Phật giáo đạt được một thỏa hiệp cuộc khủng hoảng có thể sớm giải quyết.
Nhưng ngay chiều 16-6, hơn 100 tăng ni trong đó có Hòa Thượng Tâm Châu đã biểu tình trước tư Dinh Đại Sứ Mỹ để yêu cầu chính quyền Mỹ và các nước khối tự do phải dùng áp lực thuyết phục chính quyền Việt Nam thục thi đứng đắn Bản Thông Cáo Chung. Cũng vào giờ đó, tức 19:20 thì Bản Thông Cáo Chung vẫn còn nằm trên bàn TT Diệm. Sau cuộc biểu tình, một số tăng ni lại kéo nhau về chùa Xá Lợi mở đầu cuộc tuyệt thực.
Mỗi lần biểu tình tuyệt thực như vậy lại cung cấp thêm cho báo chí ngoại quốc những đề tài hấp dẫn mới lạ. Bản Thông Cáo Chung không còn là đề tài hấp dẫn đối với báo chí ngoại quốc.
Cuộc khủng hoảng Phật giáo trở thành vấn đề số một đối với TT Kennedy cho nên trong những ngày 13, 14, 15 và sáng ngày 16 Phó Đại Sứ Mỹ liên tiếp ra vào Dinh Gia Long. Ký giả David Halbeitam viết: Phật giáo thương thuyết về 5 điểm. Ngày 16-6 hai bên đã ký một văn bản kỳ dị về quan điểm của 2 phía. Phật giáo được nhượng bộ một vài điểm nhưng chính phủ không nhìn nhận có trách nhiệm về “biến cố Huế”. Tầm nhìn của ký giả Mỹ như vậy nếu không có ý xuyên tạc thì cũng không nắm vững tinh thần văn bản như dư luận Mỹ lại luôn luôn bị kích động và hướng dẫn bởi báo chí mà báo chí Mỹ được coi như một tập thể tạo áp lực (pressure group) đối với chính quyền và quốc hội Mỹ. Thực ra, điều 5 của Bản Thông Cáo Chung đã ghi rõ: “những cán bộ có trách nhiệm về các vụ xảy ra ngày 8-5-1963 bất kỳ thuộc thành phần nào cũng sẽ bị nghiêm trị nếu cuộc điều tra đang tiến hành chứng tỏ lỗi của họ”. Dư luận Mỹ trong nhưng ngày 13, 14 đến 15 đều đổ dồn vào vụ tự thiêu của Hòa Thượng Quảng Đức cùng các vụ xô sát vào ngày 16 và cuộc biểu tình của tăng ni vào chiều 16. Báo Mỹ như tờ New York Time, New York Herald Tribune, Chritian Science Monitor phát hành ở Mỹ vào hôm trước thì chỉ vài ngày sau lọt vào mấy tay Thượng Tọa, Đại Đức của Ủy Ban Liên Phái và được dịch ra ngay Việt ngữ và quay ronéo phổ biến bí mật trong Đô Thành. Đây cũng là một động cơ thúc đẩy đám đông như từng cục than hồng.
Tháng 5-1960 những nhân vật thân cận của TT Diệm cũng đã hội lại để đồng thanh yêu cầu TT Diệm duyệt xét lại chế độ. Nhưng kết quả chỉ là những chuỗi ngày im lặng rồi mọi việc lại trôi qua. Cũng nên nhắc lại, tháng 5-1960, Đại Tá Đỗ Mậu, Giám Đốc Nha ANQĐ (người theo TT Diệm từ năm 18 tuổi và trở thành cán bộ giao liên giữa Hoàng Thân Trang Liệt và TT Diệm) đã cùng với Cha Thính, ông Võ Văn Hải, Tôn Thất Trạch và một “đồng chí” khác đã họp bàn và dự định đồng loạt từ chức để TT Diệm lưu ý duyệt xét lại những sai lầm của chế độ. Đại Tá Đỗ Mậu cũng như Võ Văn Hải, Tôn Thất Trạch đều là những người theo phò TT Diệm từ tiền chiến cũng như vụ đảo chính hụt 11-11-1960, chính những nhân vật quan trọng của chế độ Ngô Đình Diệm đã thỉnh cầu TT Diệm cũng như ông Nhu là nên nới rộng thể chế dân chủ, chấp nhận một lực lượng quốc gia đối lập. Nhưng đều vô hiệu.
Chỉ một lá thư của BS Tuyến gửi riêng cho ông Nhu phê bình  một số sai lầm của chế độ và cái áo dài của bà Nhu không nhưng không được lưu ý mà còn bị gạt ra ngoài nguyên nhân cũng từ lá thư đó… Vì lá thư ông Nhu để ngỏ trên bàn làm việc và bà Nhu đã được coi. Có lẽ đó cũng là cách ông Nhu gián tiếp cho bà vợ thấy rõ những điểm nhận định của người cộng sự thân tín. Tuy nhiên bà Nhu không phản ứng gì nhưng dần dần lạnh nhạt với vợ chồng BS Tuyến. Năm 1963 mâu thuẫn nội bộ càng thêm trầm trọng. Chẳng hạn như con người Phạm Ngọc Thảo, Tướng Huỳnh Văn Cao thì nhất định cho rằng Thảo là Cộng Sản. Đai Tá Đỗ Mậu, nắm ngành an ninh quân đội lại cả quyết là không. BS Tuyến cũng nghĩ như vậy và là bạn thâm tình của Thảo.
Từ một vấn để nhân sự nhỏ bé như vậy cũng đã chứng tỏ chế độ càng ngày càng phân hóa. Phe nhóm tuy chưa công khai xuất hiện nhưng âm thầm công kích và nghi ngờ lẫn nhau. Ngay trong lòng chế độ mà chưa phân biệt ai là bạn ai là thù thì trách chi người ngoài!
Kể từ tháng 6-1963 những thành phần trụ cột của chế độ không keo sơn gắn bó với chế độ nữa. Từ những nhân vật trụ cột đều thâm cảm thấy rằng chế độ lâm nguy nếu không kịp thời tìm biện pháp cứu đỡ thì vô phương. Nhưng họ không còn thẩm quyền. Thế lực của vợ chồng ông Nhu mỗi ngày một lớn dần.
Tổng Thống Diệm càng ngày càng cô đơn nhất là sau cái chết của nhà văn Nhất Linh thì hầu như TT Diệm buông tay. Vụ mưu sát TT Diệm ngay trong Dinh Gia Long lại làm cho ông cô đơn hơn nữa. Có nhẽ đó cũng là những lý do khiến TT Diệm quyết định sẽ trở về hưu dưỡng khi nhiệm kỳ II chấm dứt.
Trong vụ tranh đấu Phật giáo không rõ từ phía nào chủ trương mưu sát TT Diệm và họ đã móc nối được với ủy viên chuẩn úy hướng dẫn và nghi lễ của văn phòng Tổng Thống. Viên sĩ quan này đã phục vụ lâu năm trong Dinh Gia Long và trực thuộc Lữ Đoàn Liên Binh Phòng Vệ Phủ Tổng Thống. Nhiệm vụ của ông ta không có gì quan trọng nhưng lại là người dễ dàng thi hành mưu đồ ám sát Tổng Thống. Hàng ngày viên Chuẩn Úy hướng dẫn, mũ áo đại lễ chỉ có nhiệm vụ hướng dẫn quan khách đến văn phòng Tổng Thống. Ông ta cũng như các sĩ quan tùy viên và hầu cận hàng ngày đều giáp mặt Tổng Thống Diệm. Tất nhiên là họ thuộc thành phần được tin cẩn. TT Diệm vẫn tự hào về sự trung thành tuyệt đối của các quân nhân lo việc an ninh cho ông.
Đặc biệt những sĩ quan thân cận như Lê Công Hoàn, Đỗ Thọ, Huỳnh Văn lạc, Lê Châu Lộc, ông Tổng Thống coi như con cái trong nhà. Vậy mà lại có một sĩ quan hướng dẫn âm mưu giết hại ông và vợ chồng ông Nhu. Âm mưu này phát giác được do một sự tình cờ.
Số là trong khi cuộc tranh đấu của Phật giáo đang sôi động thì thân phụ của Trung Úy Kiệt bị bắt giam (ông là một đại diện thuộc Phật giáo  tỉnh Gia Định) Trung Úy Kiệt lại là một sĩ quan truyền tin cũng là một trong số quân nhân trung thành tuyệt đối của TT Diệm. Khi thân phụ ông bị bắt giam vì lý do tranh đấu Phật Giáo thì kẻ chủ mưu ám sát TT Diệm đã nắm ngay cơ hội này để móc nối. Nhưng sự việc xảy ra lại khác nên âm mưu này bất thành. Bởi vì khi thân phụ Trung Úy Kiệt bị bắt ông đã trình bày ngay với Thiếu Tá Nguyễn Hữu Duệ, tham mưu trưởng Lữ Đoàn, ông Duệ trình bày thẳng với Trung Tá Khôi Tư lệnh và cho rằng: “Kiệt nó là một sĩ quan phục vụ đắc lực như vậy bây giờ công an lại bắt ông già của nó thì còn ra cái gì, xin Trung Tá can thiệp gấp”. Sau đó, Trung Tá Khôi cũng như Thiếu Tá Duệ liên lạc thẳng với ty Công an Gia Định và Đại Tá Nguyễn Văn Y, TGĐCSQG. Hai cơ quan liên hệ này đều đồng ý trả tự do ngay.
Về những tin đồn mưu sát TT Ngô Đình Diệm thì nhiều lắm song phần lớn đều là tin vịt. Phía ông Nhu thỉnh thoảng cũng bắn ra một vài tin như vậy với chủ ý thăm dò phản ứng của dân chúng hoặc là để tìm các “con mồi” đối lập. Những vụ mưu sát này được dấu kín sau ngày 1-11-1963 viên chuẩn úy được tự do ông ta mới tiết lộ. Ngay những nhân vật cao cấp tại Dinh gia Long cũng không hay biết gì cả.
Khi thân phụ của Trung Úy Kiệt đang được Thiếu Tá Duệ và Trung Tá khôi can thiệp để được trả tự do thì viên sĩ quan hướng dẫn lại tìm đến Trung Úy Kiệt, sau khi tác động tinh thần về công cuộc tranh đấu của Phật giáo, viên sĩ quan này ngỏ lời yêu cầu Trung Úy Kiệt tham dự cuộc mưu sát mà ông ta đã bố trí từ lâu, đương sự tiết lộ một lần viên sĩ quan hướng dẫn đã thủ sẵn trái lựu đạn trong người và định lấy ra thanh toán song lần ấy chỉ TT Diệm mà không có vợ chồng ông Nhu nên đương sự đành chờ cơ hội khác nghĩa là khi nào thấy có mặt đầy đủ, vợ chồng ông Nhu và TT Diệm thì lúc ấy mới hành động.
Trung Úy Kiệt là một sĩ quan tin cẩn của một Lữ Đoàn LBPVPTT nên ông đã đem ngay câu chuyện mưu sát này báo cáo với Thiếu Tá Duệ. Sau cuộc họp bí mật với Tư Lệnh Lữ Đoàn, ông Duệ ra lệnh giam lỏng viên Chuẩn úy hướng dẫn. Công việc diễn tiến hoàn toàn kín. Thiếu Tá Duệ trình bày với Trung Tá Khôi: “Nếu tin này tiết lộ ra ngoài thì mất hết uy tín của Lữ Đoàn. Lữ Đoàn từ lâu vẫn có tiếng là trung thành tuyệt đối vời Tổng Thống nay lại có một sĩ quan ở ngay trong Dinh định mưu đồ như vậy thì nguy, tin này nếu tiết lộ ra ngoài sẽ làm hoang mang Lữ Đoàn.” Trung Tá Khôi cũng đồng ý như vậy. Ngay buổi chiều hôm ấy Thiếu Tá Duệ triệu tập một phiên họp các sĩ quan của Lữ Đoàn và cho biết: “Hiện nay bên lực lượng đặc biệt, Đại Tá Tung đang cần một sĩ quan liên lạc với Lữ Đoàn vậy anh em nào có thể tình nguyện sang bên đó làm việc?”
Trước khi lên tiếng như trên Thiếu Tá Duệ đã dặn Đại Úy Ngân, sĩ quan an ninh của Lữ Đoàn “khi tôi lên tiếng hỏi anh em có ai tình nguyện qua lực lượng đặc biệt không thì Ngân phải đứng lên ngay và đề nghị Chuẩn Úy Thành tức viên sĩ quan hướng dẫn” Được dặn trước nên Đại Úy Ngân giơ tay trả lời ngay: “Tôi xin đề nghị Chuẩn úy Thành, Chuẩn úy có đủ khả năng là liên lạc cạnh lực lượng đặc biệt”. Thiếu Tá Duệ chấp thuận liền, “được lắm thôi để Thành sang bên đó tôi sẽ xin một người khác làm sĩ quan hướng dẫn”. Một lát sau Thiếu Tá Duệ bảo Đại Úy Ngân: “bây giờ hết giờ làm việc rồi, anh đưa anh Thành qua ngay lực lượng đặc biệt đi, không họ cứ hối thúc mình mãi”. Câu nói này là một mật lệnh bảo Đại Úy Ngân lái xe chở viên sĩ quan vào Bộ Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt, ông Duệ đã chỉ thị cho Đại Úy Ngân  “Tôi đã điện thoại qua bên ấy rồi”
Anh dặn thêm bên ấy là phải đối xử với hắn như một sĩ quan hơn nữa Cụ dặn (tức TT Diệm) không được “đụng chạm” gì tới hắn cả – Đại Úy Ngân không quên mua tặng “người anh em” một tút thuốc Ruby
Trước khi đưa viên sĩ quan hướng dẫn qua giam lỏng bên LLĐB, Trung Tá khôi và Thiếu Tá Duệ đã trình bày tự sự với TT Diệm. Nghe tin này ông Tổng Thống ngồi lặng một hồi lâu. Ông nói có vẻ than thở: “Những người ở gần tôi còn không hiểu tôi huống chi dân nó ở xa”. TT Diệm chỉ thị cho Trung Tá Khôi không trừng phạt kẻ mưu sát ông, ông nói: “Phải giảng dạy cho nó, nói cho nó biết lẽ phải trái. Cái lỗi là vì mình không chịu tổ chức học tập”.
Kể từ đó, lữ đoàn LBPV được chỉ thị tổ chức các buổi học tập hàng tuần.
Giới thân cận đều xác nhận rằng TT Diệm mỗi ngày càng thêm cô đơn và ông trở thành người trơ trọi gần như buông tay để mặc ông Nhu nắm quyền chủ động. Có lẽ TT Diệm đã bị ám ảnh bởi số mệnh. Ngoài ra cái thú nghe ca Huế và đàn tranh hoặc ngồi xem đánh cờ nghiên cứu bản đồ vẽ tranh và làm thơ, ông Tổng Thống còn say mê món tử vi và địa lý. Ông gần như thuộc nằm lòng “cái đất có hàm rồng, mảnh đất kia hãm địa”. Chẳng hạn như Dinh Độc Lập ông băn khoăn đầu Rồng là Dinh nhưng cái đuôi lại ở chỗ Công Trường Chiến Sĩ, bởi vậy có nhiều đề nghị phá Đài Chiến Sĩ để chứng tỏ bài phong phản thực (chống Pháp) và xây một công viên tạo cho Tòa Viện Trưởng có một khuôn mặt tươi mát.
Ông Tổng Thống có vẻ thuận tai nhưng sau thì không chấp nhận vì dù sao cái đài chiến sĩ cũng có tác dụng đè cái đuôi con Rồng xuống. Tuy vậy không ai thấy ông Tổng Thống cho gọi thầy bói vào Dinh. Đại Tá Đỗ Mậu thường được gọi vào Dinh mạn đàm với Tổng Thống Diệm về khoa tử vi lý số. Có khi Tổng Thống Diệm và Đại Tá Mậu ngồi nói chuyện về tử vi lý số đến 1, 2 giờ khuya. Ông Tổng Thống nói một cách say mê nào là cung mệnh có sao Phục Binh thì , vì thế cung này có sao La Hầu thì sẽ thế kia… Năm 1963 Đại Tá Mậu đã trình bày với Tổng Thống Diệm tử vi của cụ năm nay xấu. So với những năm trước thì năm 1963 Tổng Thống Diệm ít đi kinh lý. Nhưng sau cái chết của nhà văn Nhất Linh tuần nào ông Tổng Thống cũng lên Đà Lạt đi săn… Theo tùy viên Lê Công Hoàn thì đúng ra ông Tổng Thống đi tìm một quên lãng phá tan nỗi niềm cô đơn. Theo như Đại Tá Mậu thì giữa năm 1963 hai ông thầy Minh Lộc và Đa La đã tiên đoán Tổng Thống Diệm gặp đại nạn có thể mất mạng. Riêng Tổng Thống Diệm có nhẽ cũng đã linh cảm được cơn hoạn nạn của số mệnh đang đến với ông.
Tuy rất ham thích môn tử vi lý số nhưng Tổng Thống Diệm không tỏ lộ cho ai biết món sở thích này ngoài một vài người tâm giao. Ông Tổng Thống vẫn tự hào về quê hương Quảng Bình của ông nhất là huyện Lệ Thủy và Tổng Đại Phong. Riêng Tổng Đại Phong được coi là phát vì Võ Nguyên Giáp thì làm đến Đại Tướng Tổng Tư Lệnh của Quân Đội miền Bắc – và gia đình họ Ngô mấy đời tế thế công danh – Võ Nguyên Giáp (con cụ Cửu Sinh, một địa chủ, người An Xá) vốn cùng một tổng, một huyện với với Tổng Thống Diệm. Các bậc tú nho ở Lệ Thủy thì đầu thế kỷ 20 đã khám phá ra rằng, ngôi Đình của xã Đại Phong (thuộc tỉnh Đại Phong) “kết”. Vì mái ngói đã bao nhiêu đời nhưng màu nắng vẫn phản chiếu màu trắng bạc như kim cương. Con Hói (tức con ngòi nhỏ) chảy vào thôn Tây Hà (làng Tổng Thống Diệm) có Long mạch nên nếu con hói cạn, dân làng chỉ vét mà không dám đào. Vì đào sẽ động mạch, nước đỏ phun lên. Nói ra thì cho là dị đoan nhưng năm 1963 sau hai cái chết rung động tột độ – Hòa Thượng Quảng Đức và nhà Văn Nhất Linh – cũng có thêm hai điềm lạ, một là cọp sở thú sinh 3 con (27-3) hai là thay đổi huy hiệu quân đội (cấp sĩ quan). Đúng ngày 7-7-1963 kỷ niệm 9 năm chấp chánh. Tổng Thống Diệm quyết định thay đổi huy hiệu quân đội. Riêng huy hiệu trên mũ của Lục Quân đáng cho ta suy nghĩ. Dưới hình khóm trúc (quốc huy của Đệ I Cộng Hòa) là một ngọn lửa thiêng. Dạo ấy nhiều người rỉ tai bàn phiếm “như thế này thì lửa sẽ thiêu rụi khóm trúc”. Rồi không hiểu sao lại có sự trùng hợp thế này: Bộ Tổng Tham Mưu ra quyết định buộc các quân nhân phải mang huy hiệu mới trên mũ kể từ ngày 1-11-1963. Ngày đó đúng là ngày ngọn lửa cháy bùng thiêu rụi khóm trúc, quốc huy của Đệ I Cộng Hòa. Rồi huy hiệu mới này cũng bị bãi bỏ luôn.
CÁI CHẾT CỦA MỘT NHÀ VĂN 
Trên đây chỉ là một vài chi tiết xin bàn phiếm. Bây giờ xin trở lại cái chết của nhà văn Nhất Linh ngày 7-7-1963. Được tin này, Tổng Thống Diệm sửng sốt và xúc động mạnh như tin Hòa Thượng Quảng Đức tự thiêu. Ông nói với Bộ Trưởng Thuần: “việc có gì đâu mà phải làm như vậy… ra Tòa rồi thì cũng tha bổng cho ông ấy…”
Trong các chính khách tại miền Nam thì Nhất Linh Nguyễn Tường Tam được Tổng Thống Diệm kính trọng hơn cả. Chưa bao giờ ông Nhu có một lời chỉ trích nặng nhẹ nào một khi BS Trần Kim Tuyến có dịp đề cập đến ông Nguyễn Tường Tam.
Theo BS Tuyến thì đối với các chính khách, ông Nhu tỏ vẻ khinh thường và hay nặng lời chê bai, riêng Nhất Linh ông Nhu không khen không chê thì phải là trong thâm tâm ông đã dành cho Nhất Linh một sự kính nể nào đó.
Từ BS Tuyến đến cha Jaegher, ông Võ Văn Hải đều có lòng cảm phục và kính trọng nhân cách của Nhất Linh. Riêng BS Tuyến cũng có nhiều dịp đàm đạo với nhà văn Nhất Linh trong những bữa cơm có tính cách gia đình thân mật. Bữa cơm đầu tiên tổ chức tại trụ sở Trung Tâm Bút Việt, chính BS Trần Kim Tuyến nói: “dạo Cụ ra nghỉ mát ở Sầm Sơn thì tôi đang đi học lúc ấy ái mộ Cụ lắm và có viết thư xin Cụ dạy cho cách viết văn”. Nhất Linh tỏ vẻ cảm động. Điều quan hệ là trong suốt 9 năm chế độ Ngô Đình Diệm, Nhất Linh không hề dan díu gì đến tiền bạc với Chính quyền. BS Tuyến gặp gỡ nhà văn Nhất Linh cũng chỉ là tâm tình giao tế. Nhất Linh không hề cầu cạnh gì cả. Khi Nhất Linh ra lại tờ Ngày Nay (1955) là do tiền túi của ông, chính quyền không hề tài trợ. BS Tuyến cũng xác nhận. Nhất Linh thật là con người ái quốc, có tư cách, có phong độ rất mực đường hoàng. Điều đặc biệt là Nhất Linh không có sự giao tế liên lạc nào đối với các nhân vật Mỹ tại Saigon cho đến ngày ông chết.
Vụ tự thiêu của Hòa Thượng Quảng Đức còn có những lời chỉ trích nặng nhẹ. Nhưng khi nghe Nhất Linh tự tử ông bà Nhu lại yên lặng… Ông Nhu chỉ nói vắn tắt: “coi xem có âm mưu nào ám sát ông ấy không”. Tổng Thống Diệm cũng lo ngại như thế nên nội ngày 8, Tổng Thống ra lệnh cho giới chức an ninh phải điều tra phúc trình ngay xem có thật nhà văn Nhất Linh tự tử, Tổng Thống Diệm tỏ ra xúc động hơn cả tin Hòa Thượng Quảng Đức tự thiêu. Ông lầm lì cả ngày, bẳn gắt và hút thuốc lá hết điếu này đến điếu khác.
Tổng Thống Diệm rất có cảm tình với gia đình Nguyễn Tường nhất là Hoàng Đạo. Vào dạo năm 1959, một lần đàm đạo với Tổng Thống Diệm và nhắc đến nhà văn Hoàng Đạo, Tổng Thống Diệm bỗng ngắt lời BS Tuyến và hỏi thăm:
- Bây giờ vợ con ông ấy sống như thế nào?
BS Tuyến cho hay hiện bà Hoàng Đạo mở cửa hàng bán chả cá. Ông Tổng Thống dặn: “Anh xem bà ta có túng thiếu thì tìm cách giúp đỡ, khi nào có dịp cho tôi có lời hỏi thăm”.
Rồi Tổng Thống Diệm không tiếc lời ca ngợi: “Nguyễn Tường Long khá lắm. Ông ta đối với tôi tốt lắm”.
Đại cương giữa Tổng Thống Diệm và nhà văn Nhất Linh đều có sự tương kính. Điểm đặc biệt khác, lúc còn sinh thời nhà văn Nhất Linh cũng không có một lời nào công kích nặng nề đối với cá nhân Tổng Thống Diệm và ông Nhu. Bộ Giáo Dục thời đó lại có sáng kiến đưa nhóm Tự Lực Văn Đoàn vào chương trình học hàng năm, có những đề thi Quốc Văn Tú tài I. Đề thứ nhất thí sinh phải bình luận về sự nghiệp của Nhất Linh hoặc Hoàng Đạo… Đề thứ hai thí sinh lại phải bình luận về lời nói của Tổng Thống Ngô Đình Diệm (trích trong các bài diễn văn). Trước vụ đảo chánh hụt 11-11-1960 chính quyền Ngô Đình Diệm không có một sự theo dõi nào đối với nhà văn Nhất Linh. Việc ông trở thành Cố Vấn của Hội Bút Việt, chính quyền dạo ấy cũng không can dự vào.
Hơn nữa, Hội Bút Việt lại do một đồng chí của ông điều khiển trong đó có Hiếu Chân, Như Phong.
*
**
Đúng vào ngày Song Thất kỷ niệm 9 năm chấp chánh của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, nhà văn Nhất Linh uống thuốc độc tự tử với lời di chúc:“Đời tôi để lịch sử xử. Tôi không chịu để ai xử tôi cả. Sự bắt bớ và xử tội các phần tử đối lập Quốc Gia là một tội nặng, sẽ làm cho nước mất về tay Cộng Sản”.
Nhất Linh có tham dự trực tiếp vào cuộc đảo chánh hụt 11-11-1960 trong đó có một số quân nhân trẻ là cán bộ Việt Nam Quốc Dân Đảng. Nói là trực tiếp cũng không đúng. Nhất Linh chỉ đứng tên trong tờ truyền đơn lên án chế độ Ngô Đình Diệm và ông có tham dự vài phiên họp cùng với cụ Phan Khắc Sửu và một số nhân sĩ khác.
Cuộc đảo chánh bất thành thì ngày 13-11-1960, Nhất Linh vào tỵ nạn tại tòa Đại Sứ Trung Hoa Quốc Gia. Đại Sứ THQG lúc ấy là ông Viên Tử Kiên, một người bạn thân của Nhất Linh. Sáng 14 một trung đội Cảnh Sát Dã Chiến có đến bao vây Tòa Đại Sứ nhưng sau được lệnh rút đi ngay. Việc tỵ nạn bất thần của Nhất Linh đã làm cho Đại Sứ Viên Tử Kiên lâm vào thế kẹt. Một mặt Trung Hoa Quốc Gia đang ủng hộ triệt để Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Mặt khác, Nhất Linh không những là bạn của Đại Sứ Viên Tử Kiên mà còn là bạn của Phó Tổng Thống Trần Thành cùng một số viên chức cao cấp của chính phủ Đài Loan. Quả thực chưa có một chánh khách nào tại miền Nam chống chính quyền mà lại được các nhân vật nòng cốt của chính quyền ưu ái và tận tình che chở như trường hợp Nhất Linh.
Đại Sứ Viên Tử Kiên, có điện thoại báo tin cho Dinh Độc Lập biết và ông cũng báo tin cho cha Jaegher, Linh mục Dòng Tên rất có uy tín với Tổng Thống Tưởng Giới Thạch và Ngô Đình Diệm lại là người mến mộ Nhất Linh coi ông như bạn tâm giao.
Sáng 14-11, Cha Jaegher điện thoại cho ông Võ Văn Hải nói về tình trạng tỵ nạn của Nhất Linh và yêu cầu ông Võ Văn Hải tìm cách nào dàn xếp êm đẹp. Đồng thời BS Tuyến gặp riêng ông Nhu trình bày về trường hợp Nhất Linh. Sau đó BS Tuyến lại qua phòng Tổng Thống Diệm thỉnh cầu Tổng Thống thu xếp vụ ông Nguyễn Tường Tam… Buổi chiều 14-11, chính cha Jaegher thân hành vào Dinh xin gặp Tổng Thống Diệm để can thiệp cho Nhất Linh. Tổng Thống lúc đầu còn do dự sau ông quyết định để cho ông Tam thong dong. Nhưng giải quyết như thế nào để cho hai bên cùng vui vẻ? Nếu cứ để Nguyễn Tường Tam rời khỏi Tòa Đại Sứ Trung Hoa về nhà thì cũng kẹt cho cái thế của chính quyền. Cuối cùng Dinh Độc Lập thỏa thuận để Viên Tham Vụ Tòa Đại Sứ lái xe đưa Nhất Linh về Tổng Nha Cảnh Sát và ở đấy lấy lời khai Nhất Linh cho nó phải phép. Trước sau ông tạm ở Nha Cảnh Sát lâu hơn 1 giờ. Mấy ngày sau Cảnh Sát lại mời ông ra một lần nữa để kết thúc hồ sơ. Từ đó cho đến ngày tạ thế, Nhất Linh được thong dong. Tuy nhiên có một điều như thế này: Nhất Linh được tự do nhưng phần những ai ra vào nhà ông lúc về đều bị Cảnh Sát chìm theo dõi.
Nhất Linh tự tử làm cho cả Tổng Thống Diệm lẫn ông Nhu  đều ngỡ ngàng, Tổng Thống Diệm có chỉ thị đi tìm mấy người con Nhất Linh vào Dinh để gặp ông. Nhưng không hiểu vì lẽ gì không có cuộc tiếp xúc này.
Có thể nói trọn ngày 8-7, Tổng Thống Diệm dành cả thì giờ theo dõi vụ Nhất Linh tử. Theo các sĩ quan tùy viên như Đại Úy Lê Công Hoàn thì ông Tổng Thống xem xét hồ sơ rất kỹ và ông chỉ thị phải chứng minh cho mọi người thấy đây là một vụ tự tử, chính quyền không có âm mưu nào. Tổng Thống Diệm và ông Nhu băn khoăn nhất là sơ mang tiếng chính quyền có can dự vào cái chết của Nhất Linh.
Nhất Linh tự tử đã gây xúc động sâu xa trong giới trí thức văn nghệ báo giới và sinh viên vì ảnh hưởng tinh thần đối với các giới này thật lớn lao. Chế độ Ngô Đình Diệm nhận lãnh một thất bại bất ngờ.
Tại sao vụ 11-11-1960 kéo dài cho đến năm 1963 mới đem ra xét xử?
Nếu đem vụ 11-11-1960 ra xử ông Tổng Thống lại e ngại sẽ làm hoang mang quân đội nhất là phía Nhảy Dù chiếm đa số. Trường hợp Thiếu Tá Phan Trọng Chinh, ông Tổng Thống vốn có cảm tình đặc biệt với Binh Chủng này. Mặc dầu, một số đơn vị này và sĩ quan Nhảy Dù tham dự cuộc đảo chính nhưng dịp thăng thưởng cuối năm 1960, sĩ quan Dù lại chiếm một tỷ số cao. Riêng Tiểu Đoàn I Nhẩy Dù, vì có chiến công lớn trong trận Kiến Phong vào cuối tháng 11-60, nên một lúc 7 sĩ quan được thăng cấp. Tổng Thống Diệm vẫn yên trí Đại Tá Thi bị lôi kéo và ông không có âm mưu tạo phản. Tổng Thống Diệm lưu luyến đặc biệt Đại Tá Thi nguyên Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn III Nhảy Dù. Ông Tổng Thống cũng đặc biệt lưu ý khi Phan Trọng Chinh còn là Đại Úy chỉ huy Tiểu Đoàn III đánh dẹp Bình Xuyên. Dù chỉ là một sĩ quan cấp nhỏ nhưng Phan Trọng Chinh cũng đã lọt vào “mắt xanh” của vị Tổng Thống vốn coi Nhảy Dù như sức mạnh của chế độ.
Ông Tổng Thống vẫn cảm phục binh chủng này nhất là những sĩ quan trẻ đã biểu dương khả năng của họ trong cuộc dẹp loạn Bình Xuyên và Tiểu Đoàn III, V và I Nhẩy Dù là những đơn vị hiển hách. Năm 1960, khi Binh Chủng BĐQ được thành lập, Thiếu Tá Phan Trọng Chinh được đề bạt làm chỉ huy trưởng. Thời đó với chức vụ này phải hiểu là người quan trọng và nếu không phải là người trong Đảng thì cũng phải là tay có khả năng được Tổng Thống Diệm tin yêu. Kể từ năm 1958 khi chế độ Ngô Đình Diệm bắt đầu vững mạnh, ông Nhu cũng như Tổng Thống Diệm bắt đầu lưu ý đến thành phần sĩ quan trẻ, ông Ngô Đình Nhu cho rằng: “bọn trẻ dù sao cũng có học, trong sạch không có máu Lê Dương”. Đó cũng là trọng tâm của Sở Nghiên Cứu Chánh Trị trong công tác “móc nối” với những sĩ quan trẻ này, Phan Trọng Chinh cũng như các sĩ quan trẻ trong vụ 11-11-1960 vốn được coi như “tương lai của miền Nam”. Đùng một cái, như sét đánh… hàng hai chục sĩ quan trẻ tham dự đảo chánh. Sau vụ 11-11-60, Tổng Thống Diệm vẫn yên trí vụ này có bàn tay Pháp dính vô. Căn cứ theo báo cáo, ông Tổng Thống cho rằng “mấy đứa nhỏ bị nó lôi kéo. Tất cả do Vương Văn Đông nó bị Pháp mua chuộc”.
Sở dĩ chúng tôi phải dài dòng ở phần này vì cuộc đảo chánh 63 được mô tả như một “cú ngoạn mục” với âm mưu sắp đặt của Hoa Kỳ thì cú “60″ được mô tả như một cuộc nổi loạn bất thường của một số tuổi trẻ trong quân đội. Cú 60 mang mầu sắc tình cảm và Quốc gia cực đoan hơn là cú “63″ mang tính chất cơ hội và hoạt đầu.
Ngoại trừ Trung Tá Đông có liên hệ rõ rệt với Pháp còn các sĩ quan tham dự như Phan Trọng Chinh, Phạm Văn Liễu, Nguyễn Mạnh Tường , nghĩa là từ Thiếu Tá đến Đại Úy, Trung Úy đều xuất thân từ các gia đình đảng phái Quốc Gia không Việt Nam Quốc Dân Đảng thì cũng Đại Việt Quốc Dân Đảng và họ được công nhận là trong sạch chỉ huy nổi tiếng và có thực tài. Như trường hợp Đại Úy Nguyễn Mạnh Tường khi còn là trung úy đã nổi tiếng là một vị Trưởng Phòng 3 giỏi của Sư Đoàn 5 (dưới thời Tôn Thất Đính) tốt nghiệp Đại học Quân Sự đứng số I – và cũng vì đứng số I nên được lưu lại Bộ Tổng Tham Mưu và theo luôn phe đảo chánh 11-11-1960 có tính chất Quốc Gia thuần túy, trẻ và nhiệt thành.
Tuy vậy, dù là con người quốc gia đứng lên đảo chánh lật đổ đương đại hợp pháp khi thất bại phải ngồi tù ra tòa là lẽ đương nhiên. Vì giản dị “được làm vua thua làm giặc”
Những người chủ chốt trong nội vụ thì đã cao chạy xa bay như Nguyễn Chánh Thi, Vương Văn Đông, Hoàng Cơ Thụy… còn lại được coi là tòng phạm. Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Nhu, BS Tuyến cũng không tỏ vẻ “tức giận đến độ phải ngược đãi trả thù” những quân nhân tòng phạm này. Đó cũng là một trong những lý do không đưa vụ 11-11-1960 ra xét ngay. Ông Nhu cũng như giới cộng sự viên của ông và Tổng Thống Diệm đều lưu ý đến Vương Văn Đông còn Hoàng Cơ Thụy cũng không phải là kẻ chủ mưu chính yếu – Bác sĩ Phan Quan Đán thì rõ ràng chạy theo cơ hội.
Tại sao Vương Văn Đông lại là chủ chốt trong vụ 11-11-1960 và có dính dáng đến hoạt động của Phòng phản gián Pháp không? Vương Văn Đông là một trung tá trẻ của quân đội lúc bấy giờ, thông minh và có khả năng nhưng bản chất cũng là một thứ ”con tây”. Trước năm 1960,  giới cao cấp tại Dinh Độc Lập không ai để ý đến Đông. Năm 1954 Đông đứng về phe Hinh, và hoạt động cho biệt đội Con Ó thuộc phòng VI của Trung Tá Trần Đình Lan.
Giữa hai vị trung tá trẻ Vương Văn Đông và Nguyễn Triệu Hồng thì Trung Tá Hồng có tư cách hơn có học vấn cao và là một sĩ quan thuộc loại cự phách có thực tài (Trung Tá Hồng bị bắn ngay tại Tổng Nha Cảnh Sát đêm 11-11-1960) còn Đông nhiều tham vọng lại bị chi phối bởi nếp sống “Tây” của gia đình nhà vợ.
Năm 1957, Trung Tá Đông được gởi qua Mỹ tu nghiệp. Ngay thời gian này Đông đã tỏ ra bất mãn. Trong suốt khóa huấn luyện viên Mỹ hỏi câu gì Đông chỉ đáp vỏn vẹn “I don’t know”. Khi về nước, Trung Tá Đông được bổ nhậm Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 7 (do Trung Tá Huỳnh Văn Cao làm Tư Lệnh). Vốn thông minh, có tài lại kiêu ngạo, Đông rất coi thường Trung Tá Huỳnh Văn Cao. Đông đã công khai nói lên điều này. Thực ra thì Đông kiêu ngạo cũng có lý, ông ta vốn là một sĩ quan tác chiến xuất sắc, đeo lon thiếu tá năm 23, 24 tuổi… Đáng lý ra thì không nên để Đông làm Tư Lệnh Phó dưới quyền Huỳnh Văn Cao vì sự cách biệt về khả năng giữa hai người quá rõ rệt. Đông bất mãn với chế độ Ngô Đình Diệm cũng có nhiều nguyên nhân nhưng hợp tình hợp lý và đó cũng là nguyên nhân đẩy ông ta vào thế chống đối. Khi Trung Tá Đông làm Tư Lệnh Phó thì Thiếu Tá giả định Phan Minh Thọ làm Tham Mưu trưởng nhưng thuộc quyền của Sư Đoàn lại nằm trong tay Phan Minh Thọ.
Nguyên nhân lớn nhất là vì Đông bị chèn ép quá nhiều, có tài (theo Đông nghĩ) lại bị xử ức, Đông vẫn cho rằng mình vượt Trung Tá Huỳnh Văn Cao về thâm niên cấp bậc cũng như khả năng chỉ huy và tác chiến.
Đã thế, Sư Đoàn 7 lại bị thao túng bởi viên Tham Mưu trưởng. Dạo ấy, các sĩ quan ở Sư Đoàn 7 ai cũng ngán. Đây cũng là một kinh nghiệm đáng cho người lãnh đạo Quốc Gia bất cứ thời nào cũng phải suy ngẫm. Người lãnh đạo quốc gia thì ở xa nhưng cán bộ thì lại ở gần quần chúng. Quần chúng sẽ nhận định và phê phán người lãnh đạo quốc gia qua đám cán bộ. Trong quân đội cũng vậy, sĩ quan không biết rõ tấm lòng Tổng Thống Diệm như thế nào, không rõ con người ông Cẩn ra sao nhưng họ luôn luôn nhận định và phê phán qua những con người ruột của chế độ. Không hiểu Phan Minh Thọ có phải là con ruột của chế độ hay không nhưng khi về làm Tham Mưu Trưởng Sư Đoàn 7 thì ông ta có thể gọi là quá hăng hái phục vụ cho Đảng (hệ phái ông Cẩn). Phàm những sĩ quan nào ghé thăm Vương Văn Đông đều có người theo dõi và báo cáo với Thượng Cấp. Thiếu Tá Thọ lại quá “hăng hái” phục vụ chế độ bằng cách công khai “tấn công” Tư Lệnh Phó Vương Văn Đông. Trong văn phòng Tư Lệnh Phó của Đông có một bộ salon rất đẹp, nhưng cũng bị lấy đi. Bàn giấy của Đông có 2 cái ghế để tiếp khách cũng lấy đi hết… mỗi lần khách tới, một là đứng hai là ngồi trên mặt bàn. Do đó, sự bất mãn của Đông mỗi ngày càng lớn. Đông thù ghét Đảng Cần Lao mà thực sự là thù ghét ông Cẩn qua con người Thọ. Cái nguy cơ làm tan vỡ chế độ bắt nguồn từ những sự lạm dụng của cán bộ hạng trung như vậy. Một chế độ muốn được lòng dân, muốn giảm thiểu được bất mãn trong quần chúng thì người lãnh đạo tối cao có tài đức chưa đủ mà còn phải có đôi mắt sáng nhìn rõ từ những lạm dụng của những thuộc cấp vì thuộc cấp vẫn nhân danh chế độ trong một khu vực nào đó.
Không ai nói rằng Thiếu Tá Thọ thế này thế nọ nhưng quả thực chế độ Ngô Đình Diệm có nhiều cán bộ trung cấp như Thọ tuy có hăng say hết lòng phục vụ nhưng hành xử nhiều điều quá đáng ấu trĩ lại bảo hoàng hơn Vua. Tệ hại hơn nữa là dùng cái uy danh của đàn anh để tạo uy thế cho mình. Dù là một người bình thường không thuộc một khuynh hướng nào chống đối chính quyền nhưng gặp cảnh ngộ lại chèn ép và xử ức như Vương Văn Đông cũng dễ dàng bất mãn và sẵn sàng chống đối chính quyền nếu có dịp thuận tiện. Vương Văn Đông bị đổi về trường Đại Học Quân Sự tuy không còn bị xử ức và chèn ép như ở Sư Đoàn 7, song Đông lại có nhiều cơ hội tốt kết giao với một số sĩ quan trẻ.
VỤ ÁN 11-11-1960
Cuộc đảo chánh 11-11-1960 không phải chỉ có nhóm Vương Văn Đông, Nguyễn Triệu Hồng nhưng còn vô số sĩ quan được coi là nòng cốt của chế độ cũng trở cờ đón gió hoặc án binh bất động chờ thời cơ. Ngay Sư Đoàn 7 đóng tại Biên Hòa, kế cận thủ đô từng phút đầu vẫn giữ thái độ “wait and see”. Sau đó, Trung Đoàn 12 nóng ruột mới kéo quân trực chỉ thủ đô. Sư Đoàn 22 mà vị Tư Lệnh được coi là “người trong nhà” của chế độ cũng do dự. Đúng hơn là hoàn toàn im lặng chờ lệnh thượng cấp. Ngay tại thủ đô, nhiều tướng tá cũng im lặng chờ đợi cơ hội.
Cuộc đảo chánh bất thành, nhiều người lanh chân lẹ miệng lại được tưởng thưởng trái lại một số sĩ quan lại gặp tai bay vạ gió hết sức oan ức. Trường hợp Trung Tá Nguyễn Khương, chỉ huy trưởng Truyền Tin, suốt ngày 11-đến sáng 12 trốn thật kỹ nhưng khi quân Đại Tá Trần Thiện Khiêm, tiến vào thủ đô thì bấy giờ Trung Tá Khương mới lộ diện rồi lại còn lập công bằng cách cho một tiểu đoàn truyền tin  ra tay chống đảo chánh vào ngày 13 (nghĩa là tàn cuộc rồi chính ông lại chận xe của Đại Tướng Lê Văn Tỵ không cho vào Dinh gặp Tổng Thống Diệm). Thực ra thì cả ngày 11 Trung Tá Khương cho người móc nối với phe đảo chánh nhưng phe đảo chánh bất thành ông trở thành người chống đảo chánh hăng hái nhất. (nhiều tướng tá khác tương tự như Trung Tá Khương). Trong đó nhiều người bi tố cáo rất oan ức. Chẳng hạn như Thiếu Tá Liên Đoàn Trưởng Truyền Tin thuộc Bộ Tư Lệnh Hành Quân.
Lính trong Liên Đoàn của Thiếu Tá chỉ vì tình đồng đội tiếp tế cơm nước cho một số binh sĩ Nhảy Dù sau này Thiếu Tá Nguyễn Đình Tài bị tố cáo theo phe đảo chánh rồi mất chức, bị câu lưu và bị ra khỏi ngành Truyền tin. Một đại úy chỉ huy trưởng một đơn vị biệt lập tại ven đô, không có tội gì cả chỉ có tội “vô tình xóa khẩu hiệu suy tôn Ngô Tổng Thống” nhưng cũng bị phạt 40 ngày trọng cấm. Số là thế này, bức tường ở doanh trại kẻ khẩu hiệu “Ngô Tổng Thống muôn năm” lâu ngày bị nước mưa làm ố nhòe trông rất lem nhem, viên Đại Úy sốt sắng ra lệnh cho thượng sĩ thường vụ phải cho lính quét lại tường vôi và kẻ lại khẩu hiệu cho đàng hoàng. Nhưng không may tường quét vôi trắng xóa, xóa nhòa khẩu hiệu  vào ngày 10 thì đúng ngày 11 xảy ra đảo chánh. Ấy vậy mà Bộ Tổng Tham Mưu vẫn phổ biến một văn thư đi khắp các đơn vị về việc phạt viên đại úy này 40 ngày trọng cấm với lý do ở trên.
Nhiều đơn vị một số sĩ quan bị câu lưu bị điều tra hoặc thuyên chuyển chỉ vì phát ngôn bừa bãi trong ngày 11-11-1960.
Thực tế thì cuộc đảo chánh 60 như đã viết trên phát sinh do tinh thần quốc gia cực đoan cùng với tâm trạng nổi loạn của một số sĩ quan trẻ.
Về phương diện hành quân đảo chánh thì phải nói là hoàn hảo nhưng ai cũng nhận rằng, cuộc đảo chánh đó bị một số chánh khách hoạt đầu đón gió và làm mất đi rất nhiều ý nghĩa Quốc Gia chân chính và tiềm ẩn khát vọng cách mạng thật sự của một số sĩ quan trẻ tham dự với tất cả hăng say. Số chánh khách này gọi là chánh khách cũng chưa được đúng lắm, đứng đầu là Hoàng Cơ Thụy  theo sau là Phan Quang Đán.
Trở lại trường hợp Trung Tá Nguyễn Khương, ông này được coi là Vua của ngành truyền tin, bao sĩ quan ngành này đã khổ vì ông Khương qua những báo cáo xuyên tạc bậy bạ. Trung Tá khương với nhãn hiệu “Cần lao ông Cậu” dễ xưng hùng xưng bá. Tư cách của Nguyễn Khương đã tỏ rõ khi Nguyễn Khương qua Mỹ du học cùng với một số sĩ quan cao cấp trong đó có Đại Tá Đỗ Cao Trí. Thay vì lo học, Trung Tá Khương lại chỉ lo theo dõi đồng đội rồi viết riêng thư về báo cáo với Cậu Cẩn, chẳng hạn như Nguyễn Khương viết thư tố cáo ông Cậu là Đỗ Cao Trí sang Mỹ chẳng lo học chỉ lo chơi bời (trong khi đó thì Đại Tá Đỗ Cao Trí cũng viết thư tố Nguyễn Khương học hành bê bối) 
Trọn ngày 11 và ngày 12, Trung Tá Khương trốn lủi lại tìm cách móc nối với Đại Tá Thi tối 12, Nguyễn Khương mặc thường phục lên Catinat quan sát tình hình. Lúc ấy, phe chính phủ đã thắng thế, Trung Tá Khương cấp tốc về Bộ Tư Lệnh huy động lực lượng truyền tin rồi trao cho  Đại Úy Đỗ Như Luận “thống xuất” tiến vào Bộ Tổng Tham Mưu (sáng 13) để gọi là giải vây nhưng kỳ thực lúc ấy Bộ Tổng Tham Mưu không còn một lực lượng Nhảy Dù nào… Nhưng Trung Tá Khương vẫn coi như ta là người hùng chống đảo chánh rồi lại “hộ tống” Đại Tướng Lê Văn Tỵ vào Dinh lập công với Tổng Thống.
Sau đó, Trung Tá Khương lại lập báo cáo xuyên tạc Thiếu Tá Nguyễn Đình Tài, Chỉ Huy trưởng trung tâm Truyền Tin thuộc Bộ Tư Lệnh hành quân. Trong bản báo cáo Trung Tá Khương cho rằng Thiếu Tá Tài đã tiếp tay với phe đảo chánh rằng khi quân đảo chánh chiếm được Đài Phát Thanh thì Thiếu Tá Tài có ý định ngăn cản không cho Trung Tá Khương xử dụng chiếc máy phát tin cao xuất để thay Đài Phát Thanh.
Dinh Tổng Thống từ phút đầu ngày 11 đã trao cho Khương với mật lệnh liên lạc với Trung Tá Huỳnh Văn Cao nhưng Trung Tá Khương đã không chuyển mật lệnh này.
Hơn tháng sau thì Dinh Tổng Thống cũng rõ lòng dạ của Khương và bị thất sủng từ đó.
Trong 2 ngày 11 và 12, một số các nhân vật tai to mặt lớn đều lẩn mặt nhưng trong ngày 13 đồng loạt xuất hiện, tranh nhau nhảy vào ban chống đảo chánh để lập công rồi cố làm sao diện kiến được Tổng Thống để ông Cụ thấy mặt. Một người có công thực sự là Võ Văn Hải. Trong việc tiếp xúc dàn xếp với phe đảo chánh, đều một tay ông Hải lo toan, thế nhưng sau đó lại bị nghi kỵ, bị các phe nhóm dèm pha là Võ Văn Hải đi nước đôi. Ngày 11 và 12, BS Tuyến cùng một số cộng sự viên lập “bộ chỉ huy” tại nhà Huỳnh Thành Vị.
Tại đây, BS Tuyến trực tiếp liên lạc với Đại Úy Bằng cùng với một số đơn vị lớn có Sư Đoàn 21 Bộ Binh. Theo BS Tuyến thì người có công lớn trong vụ 11-11-1960 trước hết phải kể đến bà Ngô Đình Nhu và sau nữa là Đại Úy Bằng, một tay kiên trì chống đỡ phe đảo chánh mà lực lượng không hơn một Đại Đội.
Nhưng Tổng Thống Diệm lại bị huyền hoặc bởi một số người cơ hội chuyên môn “bốc” thành ra người có công thì không được lưu ý hoặc bị phe phái khác dèm pha, có tội khi khéo chạy tội thì trở thành người có công. Đám người này tìm mọi cách để làm đẹp lòng ông Tổng Thống và để ông Tổng Thống yên trí rằng: “Dân chúng luôn luôn trung thành và ủng hộ Tổng Thống”. Kỳ thực lúc ấy dân chúng đã bắt đầu bất mãn trước những lạm dụng và hống hách của những nhân vật được coi là lương đống của chế độ. Đáng lý ra nhân cơ hội này, Tổng Thống Diệm phải làm một cuộc xét lại những sai lầm của chế độ và nếu cần phải thanh trừng những thành phần bất lực, tham nhũng, nịnh bợ nhưng Tổng Thống Diệm không làm như thế… Rồi kế tiếp đến vụ bỏ bom Dinh Độc Lập ngày 27-2-1962 chế độ Ngô Đình Diệm bắt đầu sa sút trông thấy, nội bộ càng thêm phân hóa. Vụ 11-11-1960 thì một số phe phái dèm pha ông Võ Văn Hải, vụ ngày 27-2 ông Tổng Thống cũng nghi ngờ BS Tuyến. Vụ Phật Gáio năm 63, kể từ tháng 5, Tổng Thống Diệm lại không tin ông Cẩn nốt. Chế độ đang lúc phân hóa, đầy mâu thuẫn nội bộ lại phải đương đầu với áp lực Mỹ và vụ tranh đấu của Phật Giáo. Với một tình hình rối ren như vậy đáng lý phải xếp vụ án 11-11-1960 lại nhưng không hiểu sao, Tổng Thống Diệm lại cho đem xử. Cái chết của Nhất Linh là một bất lợi lớn lao cho vụ án.
Chánh án Huỳnh Hiệp Thành được chỉ định làm chánh thẩm. Trung Tá Quân Pháp Lê Nguyên Phu ngồi ghế Ủy viên chánh phủ. Sau 1963, Trung Tá Lê Nguyên Phu bị công kích dữ dội, bị kết án là tay sai của chính quyền Ngô Đình Diệm đã hạ nhục xỉ vả chánh khách quốc gia. Điều công kích có đúng hay không chỉ là phản ứng nhất thời do tự ái bồng bột của người bị kết án.
Theo giới Thẩm Phán thuộc Nha Quân Pháp (trước 63) và giới Hiến Binh thì Trung Tá Lê Nguyên Phu người thay thế Trung Tá Nguyễn Quang Sanh chỉ huy lực lượng Hiến Binh, ông Phu có sự ngay thẳng, có lương tâm của một thẩm phán tốt nhưng giao tế hơi vụng về, nói năng không được khéo léo. Đó cũng là một điểm thất bại của một ủy viên chánh phủ, của một tòa án vốn được là công cụ của chính quyền. Giám đốc Nha Quân Pháp lúc ấy là Đại Tá Nguyễn Văn Mầu, Trung Tá Phu nắm quyền Giám Đốc phân Nha Hiến Binh kiêm uỷ viên chính phủ Tòa Án Quân Sự đặc biệt. Trung Tá Lê Nguyên Phu được Phủ Tổng Thống chỉ thị đem gấp vụ 11-11-60 ra xét xử. Một vụ án thật rắc rối. Khi nhận chỉ thị, Trung Tá Quân Pháp Lê Nguyên Phu đã thấy rõ những khó khăn này.
Trên mặt pháp lý, đưa vụ 11-11-1960 ra xét xử tại Tòa Án Quân Sự là đúng vì thủ phạm cũng như các tòng phạm đều là quân nhân tại ngũ và chứng cớ phạm pháp rất hiển nhiên (xử dụng quân lực để lật đổ chế độ đương nhiệm và hợp pháp). Lý thì như vậy nhưng tình lại khác. Nhưng nhiệm vụ của thẩm phán chỉ dựa theo lý dù cái lý của chính quyền nhưng vẫn là cái lý của luật pháp hiện hành. Trung Tá Lê Nguyên Phu được Tổng Thống Diệm chỉ thị đến tìm BS Tuyến để tìm hiểu rõ đầu đuôi nội vụ (lúc ấy BS Tuyến không còn làm việc ở Sở Nghiên Cứu Chính Trị nữa). Với tình hình đang sôi động như vậy từ Bộ Trưởng Thuần đến BS Tuyến đều cảm thấy nan giải nhưng ai là người có thể cản ngăn khi Tổng Thống Diệm đã quyết định như vậy?
Vấn đề khó khăn nhất đối với Trung Tá Phu là Tổng Thống Diệm chỉ định: “anh phải lấy cho tôi 2 cái án tử hình”. Ông chỉ thị vắn tắt vậy thôi mà không nói kết tội cho ai tử hình. Trước mặt Tổng Thống Diệm ngay Phó TT, Bộ Trưởng, tướng lãnh còn vâng lời tuân theo răm rắp huống chi một Trung Tá, ông Lê Nguyên Phu đem vấn đề này hội ý với BS Trần Kim Tuyến. Vụ án làm cho ông Phu muốn điên đầu. Ai ở vào địa vị của ông Phu cũng không thể làm sao hơn! Trung Tá Phu nghiên cứu sơ đồ mấy ngày… chỉ thị của Phủ Tổng Thống là phải làm sao lấy 2 án tử hình để làm gương. Có nhẽ Tổng Thống Diệm coi đó là cách biểu dương uy quyền và sự cứng rắn của chính quyền? Trung Tá Phu lo lắng nói với BS Tuyến: “Theo lương tâm thẩm phán, sau khi cứu xét kỹ hồ sơ thì thấy không ai trong vụ án đáng lãnh án tử hình cả”. Nhưng lệnh của Tổng Thống bây giờ làm thế nào. Trước sự khó khăn nan giải này, BS Tuyến và Trung Tá Phu đã đi đến một giải pháp: “tìm trong số những người đào tẩu như Vương Văn Đông, Nguyễn Chánh Thi, Hoàng Cơ Thụy để buộc tội thật nặng qui hết trách nhiệm cho những người này và làm thế nào để tòa án kết án tử hình những người tại đào, có như thế mới có thể cứu nổi những người đang bị giam giữ “. Trung Tá Phu coi giải pháp này như một lối thoát tốt đẹp nhất cho chính ông ở tư thế một ủy viên chính phủ (cái nghề chỉ có buộc tội ít khi xin tòa dễ dãi cho các bị can). Ông Phu cho đó là một lối thoát tốt đẹp bởi vì ông vẫn lo lắng, tâm sự với BS Tuyến “Nếu không khéo Tòa lại xử một bị can nào tử hình  thì tôi chẳng biết phải làm thế nào, lương tâm thật không cho phép.”  Thường tình các vị chánh án của Tòa án Quân Sự đặc biệt hay mặt trận có “thói quen” xét xử bị can theo lời buộc tội của ủy viên chính phủ, khi một ủy viên chính phủ đại diện thật sự cho hành pháp mà lại là Hành pháp trước năm 1963. Nếu “cảm thấy” ủy viên chính phủ muốn bị can X bị can Y bao nhiêu năm tù, tử hình hay khổ sai thì thông thường các vị chánh án cũng sẽ tuyên xử như vậy một là lấy lòng Tổng Thống hai là quá nhát sợ hoặc muốn tránh sự lôi thôi phiều nhiễu.
Khi đem vụ 11-11-1960 ra xử, Trung Tá Phu cũng như BS Tuyến và Bộ Trưởng Thuần đều phập phồng lo sợ “mật lệnh 2 án tử hình”. Biết đâu trong lúc cao hứng hoặc thiếu quân bình hoặc quá “sốt sắng”với chế độ vị chánh thẩm lại xử Phan Trọng Trinh hoặc cụ Phan Khắc Sửu hay một vài bị can nào khác tử hình thì lúc ấy sẽ ra sao? Trong tình hình đầy biến động và bất thường như trạng thái tâm lý chính trị bất thường năm 1963 biết đâu vì một lý do bất thường thì lúc đó quả thực lương tâm của một người bình thường cũng không thể yên ổn được. Do đó, sau nhiều lần hội ý cùng nhau, Trung Tá Phu đã đi đến một giải pháp là trong lời buộc tội sẽ đánh mạnh vào điểm là các bị can đều tòng phạm, a dua.
Tóm tắt lại, trước khi đưa ra Tòa xét xử vụ 11-11-1960, tòa án Quân Sự đã có sự bố trí cẩn thận để làm thế nào giảm thiểu hình phạt đối với tòng phạm và lấy án tử hình dành cho các chánh phạm tại đào. Tổng Thống Diệm không ra chỉ thị xử tử hình đích danh ai cho nên đó là điều dễ dàng cho ủy viên chánh phủ có thể nhắm vào Nguyễn Chánh Thi, Hoàng Cơ Thụy, Vương Văn Đông.
Thành phần can phạm hết sức phức tạp tuy nói là những nhân sĩ quốc gia nhưng danh xưng tốt đẹp này chỉ nên dành cho vài ba người. Ngoài những quân nhân can phạm có thể thuần nhất còn các nhân sĩ chỉ là sự kết hợp tạm thời từ năm bè bảy mối, tạm đồng ý với nhau trong một giờ, một phút để cùng đứng lên lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm. Quả thực thì phần nhiều các vị nhân sĩ này là hữu danh vô thực, không có lực lượng hậu thuẫn đáng kể mà uy tín các vị đó đối với quốc dân cũng chỉ là sự “nghe nói như vậy”. Nhưng vụ án đã gây nên dư luận sôi nổi tại quốc nội cũng như quốc ngoại.
Vụ án đem ra xét trong một hoàn cảnh hoàn toàn bất lợi cho chính quyền. Nói là hoàn toàn vì trong một cuộc đấu tranh chính trị thì pháp luật chỉ có thể là một khí giới giúp cho chính quyền có cái để nhân danh áp đảo đối phương.
Đằng này, pháp luật được xử dụng không hợp với thời gian và không gian nên không được hiệu lực, giảm thiểu được khí thế đấu tranh của phe chống chính phủ, trái lại, vụ án 11-11-1960 lại trở thành khí giới của phe chống chính phủ.
Như trên đã viết về vụ Hòa Thượng Quảng Đức tự thiêu tương đối đã lắng dịu, tình hình tại Huế ít nhất đã ổn định dù là bề mặt. Phía Ủy Ban Liên Phái đang khủng hoảng vì nội bộ bắt đầu phân hóa. Trong khi đi tìm phương thức đấu tranh mới làm thế nào hiệu quả hơn, có tác dụng mạnh hơn là 5 nguyện vọng đề ra. Vì sự kiếm tìm phương thức mới, các vị lãnh đạo trong Ủy Ban Liên Phái bắt đầu xung đột.
Xung đột giữa phe ôn hòa và phe quyết liệt. Phe quyết liệt từ ngày 20-6 trở đi cũng bắt đầu hoang mang… Vì khó lòng có thể tập trung được Phật tử và khó lòng tạo được sự sôi động.
Đối với thị hiếu quần chúng lại luôn thay đổi. Mục tiêu tranh đấu nào bất luận chánh đáng và lý tưởng cũng phải đánh trúng được thị hiếu đám đông. Khi thu hút được thị hiếu của đám đông thì mới dễ dàng sách động được họ và đưa họ vào con đường hăng say tranh đấu cho mục tiêu của người lãnh đạo.
Vụ án 11-11-1960 đem ra xét xử dân chúng lại được dịp theo dõi vì hẳn nhiên là vụ án đó vẫn còn vang dội trong lòng dân. Dân chúng ở đâu và thời nào cũng có khuynh hướng bênh kẻ yếu và ngưỡng mộ người chiến bại và không cần tìm hiểu gì khác hơn.
Thất bại lớn của  chính quyền Ngô Đình Diệm là đem vụ này ra xét xử. Một lần nữa chính quyền lại đổ cả một thùng dầu vào ngọn lửa tranh đấu của Phật Giáo mà ngọn lửa đang leo lét… ngay các nhà lãnh đạo Phật giáo cũng đang hoang mang không biết làm thế nào cho ngọn lửa bùng to.
Dù Phật giáo đã có một danh sách tự thiêu nhưng vẫn chưa thể áp dụng. Bởi vì dù ai tự thiêu đi nữa thì cũng không thể nào tạo được xúc động như vụ tự thiêu của Hòa Thượng Quảng Đức. Bỗng nhiên, vụ án 11-11-1960 cùng với cái chết của Nhất Linh đã cung hiến cho Ủy Ban Liên Phái một cơ hội tốt nhất.
KHI HUYỀN THOẠI NHƯ CÁT GẶP MƯA
Đem vụ 11-11-1960 ra xử là một lỗi lầm chiến thuật vì không thuận tình thuận cảnh. Nhân vụ án, chính quyền Ngô Đình Diệm muốn biểu dương uy quyền, muốn nói thẳng với người Mỹ là áp lực của họ không thể làm suy giảm sự cương quyết của Tổng Thống Diệm. Nói được như thế là bởi vì vụ án 11-11-1960 và cái chết của Nhất Linh, giới chức Mỹ đã áp lực mạnh mẽ buộc TT Diệm xếp lại. Nhưng áp lực của Mỹ từ phía Harriman, Hilsman, Fistel chỉ là tạo cơ hội để xen lấn vào nội tình Việt Nam chứ thật tình cũng không có một chút thành ý nào đối với những phần tử quốc gia. Vụ án kết thúc thì giới chức Mỹ lại có thêm một cơ hội tố cáo chính quyền Ngô Đình Diệm đàn áp các phần tử quốc gia đối lập. Tóm lại vụ án 11-11-60, không đem lại kết quả như TT Diệm mong muốn. Trái lại từ phía Phật Giáo tranh đấu đến Mỹ và đảng phái đối lập kể cả Cộng Sản lại có thêm một lợi điểm to lớn để tấn công chính quyền. Giả dụ trong tình thế lúc ấy TT Diệm một là xếp lại nội vụ  nếu không thì ân xá để gọi là tạo sự đoàn kết hào đồng (dù chỉ là chiến thuật).
Như vậy các phía đối lập đã mất hẳn một mục tiêu tốt.
Bỏ ra ngoài các quân nhân trẻ, một số “nhân sĩ trong vụ 11-11-60″ được đưa ra tòa là một chiến thắng. Tự nhiên chính quyền lại góp công tạo cho họ được thêm rất nhiều thanh thế trong quần chúng mà đáng lý ra đa số họ không thể nào tạo được nổi thanh thế như vậy.
Cụ Phan Khắc Sửu cũng như nhà văn Nhất Linh thì uy tín đối với quốc dân là một điều hiển nhiên rõ rệt song những Hoàng Cơ Thụy, Hoàng Hồ, Phan Quang Đán… chỉ là uy tín vay mượn hết sức bấp bênh. Những người này nếu chính quyền cao tay thì nên khoan hồng cho họ là phải vì thực tình nếu không có quân nhân tham gia vụ đảo chánh thì riêng họ cũng chẳng thể làm nên trò trống gì cả. Trái lại, chính sự tham dự của những Hoàng Cơ Thụy, Phan Quang Đán chỉ làm lem nhem nhiệt huyết của các quân nhân trẻ trong vụ đảo chánh.
Nội một chuyện Đài Phát Thanh bỏ trống trong hai ngày 11 và 12 đã nói lên sự bất tài của một số tự mệnh danh là chính khách. Ngoài bản tuyên cáo HĐ QNCM và bản tuyên bố của BS Phan Quang Đán thì Đài Phát Thanh không còn mục gì hơn là bản nhạc quân hành. Chính những lời tuyên bố của Bác Sĩ Phan Quang Đán trên Đài Phát Thanh  đã làm hầu hết dân chúng thất vọng. Rồi một mặt Đài Phát Thanh kêu gọi dân chúng biểu tình sau đó lại phổ biến thông cáo cấm dân chúng ra ngoài đường. Cứ xem như thế cũng đủ hiểu tài năng của mấy chính khách được coi là nòng cốt trong nội vụ.
Trong phiên tòa xử ngày 5-7-1963 kéo dài đến ngày 12 (với 19 quân nhân và 34 nhân sĩ) qua lời buộc tội, Trung Tá Lê Nguyên Phu cho rằng các nhân sĩ này chỉ “a dua chạy theo đón gió”.
Khi Nhất Linh nằm yên trong lòng đất thì vụ án 11-11-60 cũng hoàn tất. Hai án tử hình mà TT Diệm đòi hỏi vẫn chỉ dành riêng cho cáo chính phạm còn tại đào. Cháy nhà mới ra mặt chuột… Câu phương ngôn này quả không sai khi nhận định về bản chất thực của một số nhân sĩ trong vụ án, các quân nhân trẻ tuổi như Phan Trọng Chinh, Nguyễn Mạnh Tường, Nguyễn Vũ, Từ Thức… đã chứng tỏ được phong độ đường hoàng và khí phách khi ở trong tù cũng như ra trước tòa. Ngược lại một số nhân sĩ tự nhận có thành tích cách mạng thì quả là yếu kém về đường nhân cách. Nhất cử nhất động của mấy vị này đều không qua khỏi con mắt của mấy tay an ninh chìm rồi cuối cùng cũng lọt vào tai vợ chồng ông Nhu và TT Diệm. Chẳng hạn như bác sĩ nọ đã từ chối cả một chút dầu cù là khi một người đồng thuyền đồng hội bất thần bị đau yếu giữa cảnh giam cầm. Cũng vị BS trên đã quá cẩn thận dùng dây treo cá khô ngay phía trên đầu mình để “canh phòng”. Rồi nhiều vị gọi là nhân sĩ nhưng vào tù đã không thương nhau lại còn tị hiềm gành ghét nhau kể cả gây lộn thưa kiện nhau đến Phòng chuyên môn (cơ quan an ninh của Khám Chí Hòa). Riêng BS họ Phan thì được coi là một can phạm chính trị rất khôn khéo mềm dẻo. Khi bị đày ra Côn Sơn ông đã không quản công viết thư về đất liền xin Tổng Thống Diệm khoan hồng. BS họ Phan một mực kêu oan và minh xác ông luôn luôn khâm phục Ngô Tổng Thống (rất tiếc những lá thư trên lại không được gửi về đất liền nên không đến tay Tổng Thống Ngô Đình Diệm và chỉ có Thiếu Tăng Tử, tự Sao (Tỉnh trưởng Côn Sơn) là người được đọc đầy đủ những lá thư đó. Như vậy thì ông Ngô Đình Nhu tỏ vẻ khinh thị coi thường một số “chính khách” cũng không có gì đáng ngạc nhiên. Nhưng năm 1963, ông Nhu đánh giá sai lạc thực chất của lớp người trẻ lúc bấy giờ. Chính lớp người này mới là thực lực đáng kể và trở thành lực lượng nóng cốt đứng lên chống chế độ Ngô Đình Diệm. Như trên đã viết ngày 13-7 ngày đưa đám Nhất Linh chính là ngày mở đầu cho sự tham dự tích cực của giới sinh viên học sinh. Ủy Ban Liên Phái lại có thêm một đồng minh vô cùng bén nhọn và mạnh mẽ.
Trước khi trình bày rõ về vụ xử án này, xin nói qua cuộc tranh đấu Phật giáo kể từ ngày 19-6 (ngày đưa đám tang Hòa Thượng Quảng Đức) cho đến ngày 7-7 tức ngày Nhất Linh quyên sinh.
Sau đám tang Cố Hoà Thượng Quảng Đức thì cơ hồ phía Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo như đã cạn đề tài để kích thích sinh viên học sinh và quần chúng Phật tử.
Tình thế cứ kéo dài như vậy thì Ủy Ban Liên Phái khó lòng tạo thêm được cơ duyên vận động mạnh cuộc đấu tranh. Nhưng cái chết của Nhất Linh cũng như vụ án 11-11-1960 bỗng dưng chính quyền lại cung cấp cho Phật giáo thêm một số chất liệu để làm ngọn lửa đấu tranh càng cao hơn mặc dầu đang lúc gần tàn (sự thực là như vậy) Trong những ngày 7, 8, 9 Ủy Ban Liên Phái lại vô cùng bận rộn để vận động sinh viên học sinh tham dự đám tang của Nhất Linh và nhất là hướng dư luận Phật tử tập trung về vụ án. Ủy Ban Liên Phái không còn công khai bênh vực vụ án nhưng vẫn phổ biến tài liệu để lên án chính quyền Ngô Đình Diệm đàn áp những người Quốc Gia chống Cộng.
Ngày 7, 8, 9 tháng 7 nỗ lực của Ủy Ban Liên Phái đều đổ dồn vào đám tang nhà văn Nhất Linh, phía Ngô Đình Nhu chỉ thị cho cơ quan an ninh phải làm mọi cách canh chừng quan tài của Nhất Linh vì có tin tình báo cho biết, phía Ủy Ban Liên Phái đang tìm cách thuyết phục gia đình Nhất Linh đem quan tài về quàn tại chùa Xá Lợi.
Nếu quan tài Nhất Linh đem về đấy thì lại có một vụ Quảng Đức thứ hai nghĩa là phía Phật giáo tranh đấu sẽ lợi dụng cơ hội này để sách động Phật tử và rồi sẽ có thuyết pháp liên miên. Hậu quả sẽ không biết thế nào. Nhất Linh nằm xuống, Tòa quân sự vẫn tiếp tục xử vụ 11-11-1960 nhưng vụ đấu trí giữa chính quyền và Ủy Ban Liên Phái càng thêm quyết liệt.
Ủy Ban Liên Phái lại kéo thêm được một số đống minh.
Từ khi ký Bản Thông Cáo Chung đến ngày Nhất Linh tạ thế thì Ủy Ban Liên Phái trải qua một cuộc khủng hoảng nội bộ (dĩ nhiên bên ngoài không ai biết được). Thượng Tọa Thiện Minh tuy bên ngoài nói mạnh miệng nhưng vẫn liên lạc với phía chính quyền thực lòng muốn hòa giải. Phía ngoài Trung ông Cẩn lại biết dùng tiền (như ông vẫn thường dùng) để lung lạc mấy vị chủ chốt (văn phòng ông Cẩn có ghi nhận ông Cẩn có trao cho ông Luyện một lần 300,000 đồng để đem đến cho mấy Thày gọi là cúng đường tam bảo). Riêng Thượng Tọa Trí Quang được coi là người không nhúng tay vô vụ tiền bạc này nhưng nhờ tiền bạc và nhờ “một số hồ sơ mật” về đời tư cá nhân mà Thượng Tọa Thiện Minh một cách âm thầm đã ngã hẳn về phía chính quyền. Trái lại phía Thượng Tọa Tâm Châu cương quyết giữ vững lập trường. Thực ra Thượng Tọa Tâm Châu lúc ấy vẫn được coi là người ôn hòa mềm dẻo nhưng sau Thượng Tọa có một số chính khách am tường về kỹ thuật tranh đấu cho rằng, thời cơ đã đến thì phải làm tới ngay. Càng do dự chính quyền càng dễ mua chuộc và phân hóa hàng ngũ tranh đấu. Phía tu sĩ người hăng hái nhất phải kể đến Đại Đức Đại Nghiệp nắm vững được dư luận Mỹ, biết thế nào là Mỹ cũng lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm.
Điện thoại của chùa Xá Lợi bị kiểm soát cẩn thận thế nhưng Ủy Ban Liên Phái vẫn được những nguồn tin nhanh nhất sớm nhất. Một là do báo chí ngoại quốc. Hai là do mấy bà vợ của các viên chức “đi nước đôi” một mặt ủng hộ chính quyền một mặt ủng hộ Ủy Ban Liên Phái qua trục giao liên vợ con. Nhưng sau đám tang Cố Hoà Thượng Quảng Đức – các viên chức bắt đầu chồn chân và rút về ốc đảo “nhiệt liệt ủng hộ chế độ” Đó là trường hợp ông Vũ Văn Mẫu. Công an Cảnh Sát và mật vụ bắt đầu làm quen với kỹ thuật tranh đấu của Ủy Ban Liên Phái và ít nhất có hàng loạt nhân viên vào nằm vùng. Nhờ vậy gần nửa tháng chính quyền nắm lại thế chủ động.
Cái chết đột ngột của nhà văn Nhất Linh đã đưa chính quyền vào thế bị động trong khi Ủy Ban Liên Phái lại lấy được thế chủ động.
Ngày 13-7 là ngày đưa đám tang Nhất Linh từ bệnh viện Đồn Đất qua chùa Xá Lợi rồi trở về nơi yên nghỉ ngàn thu tại nghĩa trang Bắc Việt. Nhưng đó cũng là ngày đầy sôi nổi và bận rộn cho các cơ quan an ninh chìm nổi của Đô Thành và Tổng Nha CSCA.
Ngày 13-7 cũng là ngày đánh dấu một khúc quanh lớn trong cuộc tranh đấu của Phật Giáo. Hàng ngàn sinh viên thuộc nhiều phân khoa Đại Học đã tự động đến chùa Xá Lợi đón linh cữu Nhất Linh. Rất nhiều sinh viên đeo băng đen. Đám tang của Hòa Thượng Quảng Đức cũng không đông đảo như đám tang Nhất Linh và hầu hết đều thuộc giới Phật tử.
Đám tang Nhất Linh thì lại khác, qui tụ nhiều thành phần Công Giáo cũng có, Phật giáo cũng có. Tuy nhiên phía Phật giáo, một số lãnh tụ trẻ lại khéo lanh lợi biến đám tang này thành mầu sắc tôn giáo. Cuối cùng nhất Linh được an táng cùng với đảng kỳ của VNQDĐ
Từ đây giới sinh viên Sài Gòn mới thực sự dấn mình vào cuộc tranh đấu… Một số sinh viên trẻ thuộc thành phần đảng phái cũng muốn lợi dụng chiêu bài Phật giáo với hy vọng tiến xa hơn, mạnh hơn nghĩa là đạt một cuộc cách mạng ấy dù họ chưa biết cuộc cách mạng như thế nào. Phía Phật giáo nếu chỉ có một lực lượng Phật tử cũng chưa đủ nên đã tìm mọi cách lôi cuốn sinh viên học sinh 
KHI MỸ VÀ CỘNG SẢN QUYẾT TÂM NHẢY VÀO CUỘC
Biến cố dồn dập và bao trùm… Tổng Thống Diệm càng ngày càng thúc thủ trong những mâu thuẫn nội bộ mâu thuẫn Mỹ Việt… mâu thuẫn anh em. Kể từ trung tuần tháng 7 năm 1963 thì người Mỹ cũng như về phía Cộng Sản đã thực sự nhẩy vào cuộc cố bám vào biến cố, giành phần chủ động biến cố. Trong khi Phật Tử cũng như Sinh viên Học sinh hăng say quyết tranh đấu cho mục tiêu cao đẹp của tập thể mình thì trong lòng Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo đã nứt rạn… chính sự nứt rạn đó đã nói lên sự sự xâm nhập của những thế lực ngoại lai (CS cũng như Mỹ).
Cuộc tranh đấu của Phật Giáo lại bắt đầu bừng dậy vào ngày 17-7. Trước đó, Ủy Ban Liên Phái liên tiếp nhận được những nguồn tin cho biết là chính quyền sẽ áp dụng biện pháp mạnh.
Đồng thời cũng vào thời gian này, dư luận lại đồn đại sắp đảo chánh. Phía Ủy Ban Liên Phái đã khai thác triệt để nguồn tin đảo chánh. Hơn nữa Ủy Ban Liên Phái lại nắm được nhược điểm của chính quyền là sự phân hóa và mâu thuẫn trầm trọng ngay từ phía anh em TT Diệm. Ngoài Trung, ông Cẩn chỉ còn là hư vị… Tại Sài Gòn quyền bính nằm trọng trong tay ông Nhu đang chuyển hướng để tìm thế liên minh mới. Một sự liên minh theo ông Nhu trước hết phải đặt trên căn bản một quốc gia chậm tiến đứng giữa hai thế lực Cộng Sản-Tư Bản. Từ bao lâu rồi, theo BS Tuyến, ông Nhu vẫn mơ ước thực hiện được một “triết thuyết chính trị” trong khung cảnh một quốc gia chậm tiến đứng trong khối thứ ba. Ước mơ này của ông Nhu chính nó lại trở thành khí giới tiêu diệt ông và hẳn người Mỹ không thể nào để cho ông thực hiện được ước mộng đó.
Đầu tháng 7 ông Nhu đã có những cuộc tiếp xúc bán chính thức với đại diện Bắc Việt qua trung gian của Ủy Hội Quốc Tế và Giáo Sư Bửu Hội trở thành một nhân vật quan trọng bày một nhịp cầu mới giữa Pháp và Việt. Đại Sứ Goburdhun cho biết về sự tiếp xúc với Hà Nội, ông Nhu vẫn còn dè dặt. Ông Nhu chưa tính đến chuyện hòa giải với miền Bắc ngay trong lúc này (1963) nhưng ông Nhu thành thật muốn hai bên mở cuộc tiếp xúc để dọn đường cho cuộc ngưng bắn và thiết lập quan hệ bình thường giữa hai miền Nam Bắc. Đại Sứ Ấn nhắc đi nhắc lại nhiều lần với Cha François (MEP):
 ”Ông cố vấn Ngô Đình Nhu là một người đặc biệt. Trong cuộc tiếp xúc với nhà cầm quyền Bắc Việt họ vẫn coi ông Nhu là một lãnh tụ nguy hiểm”. Đại Sứ Goburdhun nhắc đi nhắc lại:
“Bắc Việt coi ông Nhu như một típ lãnh tụ đặc biệt và nguy hiểm vì ông Nhu hiểu rõ chiến lược chiến thuật của họ” 
Nhân chuyến trở lại thăm Việt Nam, Cha Françoiss xin gặp riêng ông Nhu để nhờ cậy một vài việc riêng đây cũng là dịp mà Cha Françoiss ghé qua thăm Đại Sứ Ấn tại Ủy Hội Quốc Tế. Lần gặp gỡ này, Cha Françoiss thấy ông Nhu già đi rất nhiều, mệt mỏi và chán nản. Ông Nhu hỏi thăm cha Françoiss:
-Cha thấy dư luận của Pháp và La Mã như thế nào đối với Việt Nam? 
Cha François dè dặt:
- Có nhiều dư luận trái ngược nhưng nói chung thì báo chí Tây phương tỏ ra phẫn nộ… không thuận lợi cho chính phủ Việt Nam… Hiện ông cố vấn đã có biện pháp như thế nào với vụ tranh đấu của Phật Giáo?
Ngô Đình Nhu yên lặng một lúc lâu. Ông bẻ đôi điếu thuốc Job hút một nửa cho vào ngăn kéo bàn, ông Nhu “tặc lưỡi”:
- Chính phủ đã xử rất ôn hòa, bây giờ thì không có chuyện nhượng bộ nữa.
Cha François lo ngại:
- Ông cố vấn nói như vậy có nghĩa chính phủ sẽ xử dụng biện pháp mạnh để dẹp cho yên?
Ông Nhu đáp:
- Thưa Cha không còn lựa chọn nào khác hơn.
Cha François:
-Nếu như vậy sẽ vô cùng nguy hiểm. Đây là vấn đề tế nhị tôi nghĩ chính phủ Việt Nam cần kiên nhẫn hơn nữa.
Ông Nhu lắc đầu:
- Chỉ còn có hai cách lựa chọn: một là tình trạng rối loạn kéo dài và chính phủ sẽ đổ một nửa, phải vãn hồi an ninh trật tự và chính phủ sẽ chịu một số thiệt thòi đổ vỡ.
Ông Nhu cho Cha François biết:
- Trong một tháng nay, Việt Cộng xâm nhập ồ ạt vào các đô thị để ngụy trang dưới chiêu bài tranh đấu của Phật giáo. Nếu chánh phủ không áp dụng biện pháp mạnh thì một buổi sáng nào đó Cha sẽ thấy Saigon tràn ngập cờ đỏ sao vàng.
Cha François hỏi ông Nhu:
- Như vậy có nghĩa là cuộc tranh đấu của Phật Giáo đã bị cán bộ CS tràn ngập và khống chế?
Ông Nhu đáp:
- Đúng, cơ quan an ninh đã thâu lượm được rất nhiều bằng chứng!.
Cha François dè dặt:
- Thưa ông Cố vấn, tôi vẫn nghĩ là các Thượng Tọa đều là những nhà tu hành thuần túy. Như ông Mai Thọ Truyền tôi có dịp gặp ông nhiều lần… ông làm sao có thể để cho Cộng Sản mua chuộc được?
Ông Nhu nói như phân trần:
-Thưa cha, tôi cũng nghĩ như cha vậy nhưng phương thức tranh đấu của họ là những phương thức học được của Cộng Sản. Dù các Nhà Sư không phải là Cộng Sản nhưng cán bộ hạ tầng của họ là CS cũng không thể tha thứ được. Một là chính phủ phải thua CS một cách nhục nhã hai là ra tay đối phó. Tôi đã cân nhắc chính phủ phải đối phó vì cuộc rối loạn càng kéo dài càng bất lợi nguy cơ càng tới gần… 
Qua giọng nói cương quyết của ông Nhu Cha François thấy rằng không thể ai ngăn cản ông được và ông ấy đã lựa chọn phương thức “được ăn cả ngã về không”.
Ông Nhu nhấn mạnh với Cha François:
- Đứng sau phong trào Phật giáo không phải chỉ có Cộng Sản mà còn người bạn đồng minh của chính phủ Việt Nam nữa. Họ muốn xử dụng phong trào này để làm áp lực và “sa tăng” với chúng tôi.
 Cha François nhìn ông Nhu dò xét rồi mỉm cười:
- Nước Pháp trước đây cũng chịu một áp lực như vậy và bị là “sa tăng” quá nhiều nhưng theo tôi, người Mỹ cũng cần Việt Nam chứ?
Ông Nhu đáp:
- Dĩ nhiên là như vậy nhưng tất nhiên Việt Nam cần họ nhiều hơn…”
Ông Nhu bỏ lửng cấu nói rít một hơi thuốc rồi đứng lên tìm một tập hồ sơ trao cho Cha François:
- Cha có thể xem qua một số hình ảnh này, cha sẽ thấy… chính phủ Việt Nam khổ tâm biết bao nhiêu…
Ông Nhu chỉ vào người Mỹ mặc áo sơ mi cụt tay:
- Ông ta chỉ là nhân viên thường của cơ quan USAID nhưng là viên chức lớn của CIA.
 Ông Nhu lại chỉ tay vào người Mỹ thứ hai:
- Ông ta là một Mục Sư trước đây hoạt động truyền giáo tại Darlac, nhưng trở về Mỹ cách đây 4 năm và mới qua Việt Nam với tư cách phóng viên…
 Ông Nhu chỉ vào người Việt Nam gương mặt rất trẻ khôi ngô tuấn tú đội mũ “phớt” mặc âu phục, cổ hở… ông Nhu hỏi: “Cha biết ai đây không?” Cha François chưa nhận ra ai thì ông Nhu nhún vai: “ông ta là một Nhà Sư hiện đang ở chùa Xá Lợi”.
Cha François nhìn tấm hình có hai người Mỹ và người Việt (được ông Nhu gọi là Nhà Sư) Cha chỉ mỉm cười, không nói vì không biết phải nói như thế nào. Cha François quen biết ông Nhu từ lâu nên hiểu rõ con người ông tuy thông minh xuất chúng nhưng cố chấp và nhiều thiên kiến, Cha François lại có rất nhiều liên hệ và thân thiện với Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết cũng như Hòa Thượng Quảng Độ và BS Lê Đình Thám. Cha François tìm cách nói khéo với ông Nhu là cho đến lúc này (1963) Cha vẫn tin rằng các Nhà Sư không thể là Cộng Sản cũng như không thể để CS lôi kéo. Ông Nhu tỏ vẻ khó chịu, nói:
- Cộng sản giống như con quỷ có trăm đầu, một thứ Mécamorphose… CS len lỏi vào khắp nơi ngay trong giới Công giáo.
Có lẽ không thuyết phục được Cha François về lập trường cứng rắn của mình đối với Phật giáo nên ông Nhu lảng qua chuyện khác, lại chuyện người Mỹ. Ông Nhu nói với giọng gay gắt:
- Chúng tôi có nhiều kinh nghiệm với ngoại bang… Người Mỹ dù mạnh thế nào cũng không thể qua mắt nổi chính phủ này. Tôi trả lời thẳng cho người Mỹ rõ, họ muốn rút hết cố vấn cứ việc rút, cả viện trợ Mỹ chúng tôi cũng không cần, Mỹ có thể cúp viện trợ ngay lúc này Việt Nam vẫn đủ sức tự túc để chống Cộng.
Cha François nghe giọng của ông Nhu như một người phẫn uất sống chìm đắm trong thế giới ảo tưởng. Cha François hỏi:
- Ông nghĩ thế nào về việc đề cử ông Cabot Logde làm Đại Sứ?
Suy nghĩ một lát, ông Nhu đáp:
- Cũng thế thôi nhưng Tổng Thống không có thiện cảm với ông ta vì ông ta có một quá khứ bất chánh.
 Cha François hỏi:
- Hình như Đức Hồng Y Spellman có khuyến cáo Tổng Thống nên mở rộng chính phủ và chấp nhận đối lập”?
Ông Nhu gật đầu: 
- Điều đó có, Tổng Thống cũng đang cứu xét nhưng với một nước chậm tiến như Việt Nam không thể áp dụng chế độ tự do dân chủ như Tây phương… Như Cha đã am tường lịch sử Việt Nam, đất nước chúng tôi truyền thống dân chủ từ cả ngàn năm trước, dân chủ từ hạ tầng, từ xã ấp. Ở thượng tầng phải làm thế nào giữ được uy quyền tối thượng của quốc gia… Thưa Cha, Ấp Chiến Lược chính là con đường xây dựng cơ sở dân chủ từ hạ tầng…
Dịp này ông Nhu tâm sự với Cha François:
- Mỹ có thói quen bắt buộc các đồng minh phải rập khuôn như họ… nhưng ở Mỹ khác, ở Á Châu này khác… trong một quốc gia hòa bình thì lại hoàn toàn khác với một quốc gia đang có chiến tranh. TT Kennedy khuyến cáo Việt Nam cải tổ cơ chế dân chủ có nghĩa là phỏng cơ chế dân chủ của Mỹ. Nhưng Cha nghĩ coi, ông cha chúng tôi đã có nhiều kinh nghiệm về nạn chia rẽ, nạn kỳ thị phe phái… nếu ở Việt Nam áp dụng dân chủ như ở Mỹ thì chỉ đi đến tình trạng hỗn loạn. Mà Việt Nam thì không thể chấp nhận được tình trạng hỗn loạn.
 Cha François hỏi:
- Hình như TT Kennedy muốn miền Nam có sự canh tân Hiến Pháp?
Ông Nhu mỉm cười đáp:
- Không chính thức khuyến cáo như vậy nhưng Hoa Thịnh Đốn gián tiếp muốn chúng tôi làm như vậy. 
Cha François:
- Tôi có dịp gặp một vài Thượng Nghị Sĩ Mỹ như Nghị Sĩ Morse.
 Ông Nhu “à” một tiếng lớn và ngắt lời:
- Tôi biết ông Morse, hắn ta chỉ là tên cao bồi say khói súng và chỉ là tên dô kề, nhưng phe hắn ta khá mạnh
Ông Nhu hỏi Cha François:
- Cha thấy người Mỹ họ nhận định về chế độ này như thế nào?
“ Cha François đáp:
- Hầu hết người Mỹ đứng đắn đều không muốn Việt Nam bị xáo trộn nhưng họ muốn một chế độ cởi mở. 
Ông Nhu gật đầu:
- Vâng họ đang lên án chúng tôi là độc tài cũng như trước đây họ đã lên án Tưởng Giới Thạch và Lý Thừa Vãn… Người Mỹ đã lầm giữa chế độ độc tài với sự bảo vệ uy quyền quốc gia tối thượng.
Ông Nhu ngừng một lúc lại tiếp tục phân trần:
- Thưa, chẳng hạn họ bảo chúng tôi là độc tài vì cho rằng không có Tối Cao Pháp Viện nên Hành Pháp điều khiển Tư Pháp. Họ cũng kết án chúng tôi là độc tài vì cho rằng quốc hội chỉ có một viện và do quốc hội không kiểm soát được Hành Pháp.
Nhân dịp gặp ông Nhu, Cha François có phàn nàn về việc chính phủ Việt Nam trục xuất BS Erie Wuff một y khoa BS Đức giảng dạy tại trường đại học Y Khoa Huế. Ông Nhu lặng thinh một lúc lâu và đáp:
- Ông ta là một điệp viên.
 Cha François ngạc nhiên buộc miệng: “
- Ông ta là một điệp viên?.
Ông Nhu lạnh lùng gật đầu. Một lát sau ông Nhu đáp:
- Wuff là một Agent double của CIA… Trước khi trục xuất ông ta, chính phủ Việt Nam đã có bằng cớ.
Gặp ông Nhu, Cha François càng tỏ ra thất vọng về tình hình đen tối tại miền Nam. Cuộc bất hòa giữa Việt Mỹ mỗi ngày thêm sâu xa và gần như không còn cách gì hàn gắn cho được. Cuộc tranh đấu Phật Giáo mỗi ngày một lan rộng, càng tăng cường độ. Cha François đi đến đâu cũng nghe tin đồn đảo chánh. Sau cuộc biểu tình lớn của Phật giáo ngày 17-7, ông Nhu đã đổi thái độ và quyết một lần ăn thua… ông đang dự trù một kế hoạch lớn.
Trong khi đó TT Diệm vẫn chủ trương ôn hòa và tìm mọi cách hòa giải với Phật Giáo. Một số tướng lãnh đều hết lòng chạy theo ông Nhu đáng kể là Tướng Trần Văn Đôn, Tôn Thất Đính và Huỳnh Văn Cao, Trần Tử Oai. TT Diệm buông tay trước biến chuyển của thời cuộc. Khi đọc thấy báo chí Mỹ trước kia ca tụng ông bây giờ nhân vụ Phật giáo lại công kích ông rất thậm tệ, TT Diệm coi đó như sự lật lọng trắng trợn của chính phủ Mỹ. Sự thật với chế độ,  báo chí như Mỹ chính phủ Mỹ nhiều khi trở thành nạn nhân và bị báo chí dẫn dắt chi phối.
Thái độ ôn hòa và hòa giải của TT Diệm được ghi nhận vào ngày 24-7 khi TT Diệm quyết định cách chức Trung Tá Chiêu- Giám Đốc Nha Thanh Tra Dân Vệ khi ông này tổ chức một số Thương Phế Binh và Quả Phụ biểu tình trước chùa Xá Lợi sáng ngày 23-7.
Chiều thứ bảy 22-7 Tổng Thống Diệm lên Đà Lạt nghỉ cuối tuần. Theo sĩ quan tùy viên Lê Công Hoàn trong 5 năm phục vụ bên cạnh Tổng Thống Diệm, gần như không mấy khi Tổng Thống Diệm đi nghỉ xả hơi cuối tuần. Nhưng sau cái chết của nhà văn Nhất Linh và những biến chuyển dồn dập của tình hình, Tổng Thống Diệm tuần nào cũng lên Đà Lạt đi săn, cỡi ngựa. Trước khi đi Đà Lạt, Tổng Thống Diệm gọi ông Bộ Trưởng Thuần vào văn phòng chỉ thị một số điều. Ông Tổng Thống nói:
- Ông và cụ Phó xem xét còn điều chi chưa giải quyết thì giải quyết cho nó xong.
Khi Tổng Thống Diệm lên máy bay đi Đà Lạt, các sĩ quan trong Lữ Đoàn LBPVPTT thấy Thiếu Tướng Tôn Thất Đính vào thành Cộng Hòa hội họp riêng với Trung Tá khôi, Tư Lệnh Lữ Đoàn và Trung Tá Chiêu Giám Đốc Nha Thanh Tra Dân Vệ. Tướng Đính lúc ấy coi như người ruột thịt của chế độ và cột trụ của Quân Ủy đảng Cần Lao. Cuộc hội họp này có mục đích nhằm đối phó với phe tranh đấu của Phật giáo, với sự hoàn toàn tán đồng và thúc đẩy của vị Tư Lệnh Quân Đoàn III. Trung Tá Chiêu thực hiện một cuộc biểu tình của Thương Phế Binh và quả phụ 8 giờ ngày 23-7. Đại Đức Đại Nghiệp đã được mật báo là có một số thương phế binh kéo đến “ăn vạ” tại chùa Xá Lợi. Ủy Ban Liên Phái cấp tốc bố trí đề phòng. Cũng vào chính giờ đó Sư bà Diệu Huệ, thân mẫu của Giáo Sư Bửu Hội mở cuộc họp báo với sự hiện diện của Sư bà Diệu Không (cả hai vị Sư Bà đều có con cháu trong hàng ngũ Tướng Tá và nhân vật lương đống của chế độ Ngô Đình Diệm). Cuộc họp báo có rất đông ký giả ngoại quốc. Dịp này Sư Bà Diệu Huệ tuyên bố một câu nảy lửa là “sẽ tự thiêu noi gương Hoàng Thượng Quảng Đức để cúng đường Phật Pháp để phản đối chế động Ngô Đình Diệm”. Chính giai đoạn này Giáo Sư Bửu Hội sẽ là sứ giả của chính quyền đi “giải độc” tại một số quốc gia Phi Châu và ông cũng có nhiệm vụ tiếp xúc với Uthant, Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc. Ủy Ban Liên Phái đưa Sư bà Diệu Huệ vào cuộc tranh đấu và ở hàng đầu quả là cao kiến và đó là một đòn sâu hiểm khiến chính quyền Ngô Đình Diệm không thể không bối rối.
Đúng 9 giờ, hơn 100 thương phế binh và quả phụ trương biểu ngữ kéo đến trước cổng chùa Xá Lợi. Trước ban tổ chức dùng máy phát thanh đặt trên xe lam chõ vào chùa đọc lá thư được gọi là huyết lệ thư với nội dung kêu van các vị tu hành nên lo Phật sự kinh kệ và “đừng mắc mưu Cộng sản thông đồng với ngoại bang cõng rắn cắn gà nhà”. Lá thư trên được đọc đi đọc lại nhiều lần, trong chùa các Nhà Sư và Phật tử vẫn tiếp tục tụng kinh, gõ mõ, thỉnh chuông. 11 giờ thì số thương phế binh náo động, ban tổ chức đòi gặp đại diện Ủy Ban Liên Phái  để trao huyết lệ thư.
Không được trả lời, họ đòi mở cổng chùa sau tự động nhảy qua hàng rào tràn vào bên trong tung truyền đơn và các bức hình về chiến sĩ.
Xét về kỹ thuật chống phe tranh đấu thì đây là một “cú” hơi thấp  quá lộ liễu.
Vụ biểu tình của Thương Phế Binh và Quả Phụ tạo cho Ủy Ban Liên Phái có cơ hội gây xì-căng-đan chính trị.  Đại Đức Đại Nghiệp thảo văn thư lên án vụ biểu tình này và cho rằng chính quyền không thành tín.
Qua văn thư gửi cho TT Diệm, Ủy Ban Liên Phái lại qui lỗi cho phía Tổng Thống mà kỳ thực TT Diệm không hề hay biết gì cả.
Đoàn tùy tùng của Tổng Thống trở về Saigon vào chiều chủ nhật.
Theo thông lệ mỗi lần đi và về đều có các nhân viên chính phủ và tướng lĩnh ra tận phi trường đón đưa. Hôm ấy Phó TT Thơ tỏ ý buồn phiền không ít về sự biểu tình của Thương Phế binh vì nó không tạo được thông cảm cho việc hòa giải mà chỉ tăng thêm hố sâu chia rẽ giữa chính quyền với Phật giáo.
Khi TT Diệm trên phi cơ bước xuống thì Bộ Trưởng Nguyễn Đình Thuần chạy lại báo cáo ngay vụ biểu tình của Thương Phế Binh và Quả Phụ. Ông Tổng Thống mặt đỏ như gấc, đập chiếc ba tông xuống sân năm bảy lần và nói như quát:
- Đức nào làm như rứa? Ai biểu chúng nó làm như rứa?
Bộ Trưởng Thuần thưa lại: “Làm như thế này con không biết phải trả lời ra sao với Ủy Ban Liên Phái”.
Ông Tổng Thống nổi giận hầm hầm đi vào phòng khách danh dự. Ông không nói một lời.
Kinh nghiệm nhiều năm phục vụ bên Tổng Thống Diệm đã báo cho sĩ quan tùy viên Lê Công Hoàn biết, “khốn khổ với ông cụ rồi đây”. Thường thường sự nóng giận như vậy ông Tổng Thống đều đổ vào đầu 6 tùy viên thân cận. Từ phi trường về Dinh Gia Long ông Tổng Thống không nói một câu. Tại phi trường ông ra lệnh cho Bộ Trưởng Thuần:
- Cách chức nó ngay, bỏ tù!
 Sự thực, lỗi không phải do nơi Trung Tá Chiêu. Cuộc biểu tình kể trên được sự đồng ý của thượng cấp là Thiếu tướng Tư Lệnh vùng III nhưng cuối cùng Trung Tá Chiêu lãnh đủ. Ông Tổng Thống quyết định cách chức Trung Tá Chiêu và phạt 40 ngày trọng cấm. Hôm sau Trung Tá Nguyễn Ngọc Khôi Tư Lệnh Lữ Đoàn PVPTT vào phòng Tổng Thống hết lời năn nỉ Tổng Thống khoan hồng cho Trung Tá Chiêu. Ông Khôi trình bày đại ý đây chỉ là do sự quá hăng say phục vụ của Chiêu và ông Chiêu cũng là anh em trong nhà nên xin Tổng Thống miễn cho Chiêu khỏi bị phạt quá nặng như vậy và cũng xin Tổng Thống đừng cách chức Chiêu. Lúc đầu TT Diệm có vẻ xiêu lòng nhưng sau đó ông giữ quyết định cũ. Trung Tá Chiêu đươc coi như nạn nhân của tình thần phục vụ quá hăng say.
Hơn nữa, vụ này không chỉ một mình Chiêu mà do ý kiến và sự tán đồng của Thiếu Tướng  Đính. Trước đó, Thiếu Tướng Đính cũng vào Dinh xin cho Chiêu nhưng Tổng Thống nhất định không tha thứ.
Sự tranh đấu của Phật Giáo vẫn âm ỉ kéo dài đến ngày 20-8 tức ngày Cảnh Sát Chiến Đấu được lệnh bố ráp các Chùa Saigon và trên toàn quốc,
Sau vụ biểu tình lớn ngày 17-7, Ủy Ban Liên Phái lại bắt đầu vận động cho một cuộc biểu tình khác. Phía Phật giáo cố duy trì tính chất bất bạo động trong các cuộc xuống đường. Phía chính quyền trước sau chỉ ở thế thụ động và đề phòng. Tuy giới chức an ninh đã tung một màng lưới lớn vào các trung tâm tranh đấu của Phật giáo nhưng màng lưới này chỉ đạt được kết quả thu lượm các tin tức trong lòng ủy ban tranh đấu của Phật giáo. Nếu nói đơn thuần về kỹ thuật tranh đấu thì kỹ thuật của Ủy Ban Liên Phái có nhiều điểm mới lạ với những phát kiến đáng kể dù rằng kỹ thuật đó đã đạt tới 80% kỹ thuật mà Cộng Sản thường xử dụng. Chiến dịch rỉ tai tung tin giật gân thả từng trái ballon đảo chánh nhất là tạo dư luận xấu xa về ông bà Nhu thì có thể nói phía tranh đấu đã được kết quả tuyệt hảo. Nếu đứng trên mặt chánh quyền mà phê phán thì chánh quyền Ngô Đình Diệm lúc ấy quả là quá yếu luôn luôn bị động và chỉ có chống đỡ vì không nắm được qui luật tranh đấu của Phật giáo để tìm phương thức đảo ngược lại qui luật bất bạo động. Giả như một tay “cao thủ” sẽ tìm mọi cách công phá từ bên trong để làm sao bất bạo động, thành bạo động.
Việc TT Ngô Đình Diệm cách chức Trung Tá Chiêu tuy chứng tỏ sự thành tín của ông đối với Ủy Ban Liên Phái nhưng tạo nên sự bất mãn trong tinh thần phục vụ của cấp bộ thừa hành. Trong khi đó Ủy Ban Liên Phái vẫn không thừa nhận sự thành tín này và cho rằng, TT Diệm chỉ phạt Trung Tá Chiêu một cách giả vờ và có cớ tuyên truyền rằng chính quyền vô tư nghiêm trị phần tử vô kỷ luật. Ông Ngô Đình Nhu là người thứ nhất đã bất mãn và nói với cộng sự viên:
- Ông cụ làm như vậy thì từ nay trở đi còn đứa nào dám hăng hái. Chiêu nó có tội gì mà phạt nó như vậy.
 Vụ phạt và cách chức Trung Tá Chiêu ông Nhu cho rằng: “Ông cụ chỉ làm cho họ (Ủy Ban Liên Phái) mỗi ngày càng thêm quá khích”.
Ngày 30-7, Ủy Ban Liên Phái tổ chức lễ chung thất Cố Hoà Thượng Quảng Đức với hàng ngàn Phật tử tham dự. Điều đáng kể là trong số Phật tử lại có rất nhiều vợ con của các nhân vật cao cấp trong chánh quyền. Số người này trở thành những cán bộ hoạt động đắc lực trong việc thông tin, tạo dư luận tác động tinh thần chồng và cha của họ. Trong buổi lễ này dĩ nhiên lại có chuyện thuyết pháp. Ủy Ban Liên Phái đưa ra một bản tuyên ngôn mới xác định lập trường đấu tranh bất bạo động cho những muc tiêu thuần túy tôn giáo… Kiểm điểm lại cuộc vận động nói trên đến nay mới chỉ được giải quyết trên giấy tờ (thông cáo chung) và bằng lời nói (hiệu triệu của Tổng Thống)
Trước đó Đại Sứ Nolting tuyên bố với phái viên của hãng thống tấn UPI là “Ở Việt Nam không có vấn đề kỳ thị tôn giáo và ngược đãi Phật giáo đồ”. Phản ứng lại, ngày 1-8 Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết gửi điện văn qua TT Kennedy với nội dung: “Thay măt toàn thể Phật giáo đồ miền Nam Việt Nam chúng tôi cực lực phản đối cùng Tổng Thống lời tuyên bố của Đại Sứ Nolting qua hãng thống tấn UPI… Chúng tôi nghĩ rằng dân chúng Hoa Kỳ phải thấu rõ nỗi phẫn uất của Phật giáo đồ đến 80% dân số. Lời tuyên bố của ông Nolting không phù hợp với sự thật luôn cả thiện chí và sự hiểu biết của người Hoa Kỳ “.
Kể từ cuối tháng 7 cơ quan an ninh Phủ Tổng Thống cũng như Cảnh Sát Đặc Biệt đã nắm được kế hoạch tự thiêu trường kỳ của Phật giáo tranh đấu, nhưng tài thánh cũng không có gì ngăn chặn nổi. Ngoài ra cơ quan an ninh còn nắm được kế hoạch của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam nhằm lũng đoạn cuộc tranh đấu của Phật giáo trong đó có công tác tuyển mộ một số thanh niên cuồng nhiệt ở miền quê cho học tập rồi trở về xâm nhâp tại các đô thị, cải trang nhà sư và họ sẽ sẵn sàng tự thiêu vì Đạo Pháp.
Cuộc tranh đấu của Phật Giáo lên như diều gặp gió và mỗi ngày càng bị tràn ngập bởi những “yếu tố tác ngoại”. Các vị trong Ủy Ban Liên Phái lúc ấy tựa hồ như diều mà quần chúng Phật giáo lại là cơn gió mạnh. Lúc đầu khi cuộc tranh đấu vừa bộc phát thì các ngài vừa là diều vừa là giây diều và nắm được đầu giây. Từ tháng 8 năm 1963, phong trào tranh đấu càng lan mạnh, vì thế các vị lãnh đạo càng lên cao thì lúc ấy các vị chỉ ngồi thu gọn trên cánh diều và diều gặp gió lên cao mãi các vị không còn nắm đầu giây nữa và lúc đó chính những yếu tố ngoại tại “nắm đầu giây với một chiếc kéo để áp dụng đúng phương lược”. Muốn được quần chúng tuân theo thì phải tuân theo kỷ luật quần chúng. Ở đây phải được hiểu là một nhóm người nào đó có kỹ thuật và kỷ luật tranh đấu và nắm được quần chúng trong một danh nghĩa thuận lợi. Câu: .“Muốn được quần chúng tuân theo thì phải tuân theo kỷ luật quần chúng” tuy là sáo ngữ và nặng phần “đảng tính” trong một tập thể đấu tranh trường kỳ và mai phục trường kỳ, nhưng câu nói trên có ý nghĩa như thế này: Nếu Tổng Thống không theo “chúng tôi” thì chúng tôi cắt giây… Đã lên như diều gặp gió hẳn tâm lý con người không ai dám can đảm để cho kẻ cầm đầu giây đưa nhát kéo cắt ngang giây! Đó cũng là cái thế của nhiều vị lãnh tụ Phật Giáo trong bối cảnh sôi động vào tháng 7 và tháng 8 năm 1963.
Ngày 4-8 tại Phan Thiết, trước dinh tỉnh trưởng Bình Thuận, Đại Đức Thích Nguyên Hương nổi lửa tự thiêu vào đúng lúc tan sở.
Đại Đức Thích Nguyên Hương được 23 tuổi thọ. Mấy giờ sau, TT Diệm được báo cáo nội vụ. Ông bỏ ăn cơm chiều và 1 giờ đêm lại thơ thẩn xuống vườn đi tản bộ ngắm trăng sao. Đó là điểm thành công của Ủy Ban Liên Phái vì gây xúc động lớn ngay trong đầu não của chế độ. Hôm sau Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo lại phản đối chính quyền địa phương cướp xác Đại Đức Nguyên Hương. Bình Thuận là một trong mấy tỉnh miền Trung vốn bình lặng từ bao năm và đây cũng là nơi 30 năm về trước Tổng Thống ngồi ghế Tri Phủ Hòa Đa rồi Tuần Vũ Bình Thuận, nơi mà TT Diệm tự hào có nhiều Tổng Lý trung thành với ông. Không khí tranh đấu ở Bình Thuận lại bốc bừng và dâng cao. Trọng tâm của Tỉnh Giáo Hội ở đây là nhằm vào việc Tỉnh Trưởng Trung Tá Nguyễn Quốc Hoàng một giáo dân mà thân phụ ông (cụ Án Mẫu) vốn là bạn đồng liêu của TT Diệm.
Một số cán bộ của Tỉnh Giáo Hội vận động dư luận tấn công thẳng vào cá nhân Thiên Chúa Giáo của Trung Tá Nguyễn Quốc Hoàng. Dư luận ấy nhắm vào sự kỳ thị tôn giáo hơn là mục tiêu của Ủy Ban Liên Phái. Một số ty trưởng vì tự ái tôn giáo thay vì đứng về phía chánh quyền theo vị trí của họ thì họ lại âm thầm tham dự cuộc tranh đấu. Chính quyền địa phương này phải hứng chịu trận đánh nội công ngoại kích mặc dầu ông Tỉnh Trưởng là tín đồ Thiên Chúa Giáo nên bị mặc cảm tôn giáo từ lúc khởi đầu cuộc tranh đấu và chống tranh đấu thì cả phía chính quyền Bình Thuận và Tỉnh Giáo Hội  Phật Giáo đều có lý. Đại Đức Nguyên Hương tự thiêu dù tinh thần hy sinh này xúc động bao nhiêu thì cũng chỉ có tác dụng trong một phạm vi và một khối lượng nào đó vậy cho nên Tỉnh Giáo Hội phải lấy được Giác Linh, vì có giác linh mới có đối tượng qui tụ đám đông… rồi từ lễ cầu siêu thuyết pháp đến ngày an táng sẽ là một khoảng thời lượng vô giá để vận động và khích động đám đông. Không lấy được xác Đại Đức thì kỹ thuật tranh đấu cho một chiến thuật đã trở nên vô hiệu. Mà chính quyền (nếu ai ở thế chính quyền cũng đều như vậy) phải có bổn phận đạt được sự vô hiệu hóa mọi kỹ thuật tranh đấu của phe đối nghịch 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét