Tưởng Năng Tiến - “Thế hệ trẻ chúng cháu”
cần một tấm gương, chứ không phải là một mảnh gương đã bị đẽo gọt bởi những ông
nhà báo bất lương, và bất trí – cỡ như ông Hoàng Thùy hoặc Ngọc Niên,
thuộc Cơ Quan Trung Ương Hội Nhà Báo Việt Nam (*). Mồm miệng họ thì lúc nào
cũng xoen xoét nói đến “sự thực” và “lương tâm chức nghiệp” mà suốt đời cầm bút
luôn chỉ viết phân nửa sự thực thôi...
“Sứ mệnh cao cả của nhà báo là kiếm tìm sự
thật. Sự thật ấy phải được phản ánh đạt tính chân thật, tức là “đúng hiện thực
khách quan”. Và sự thật ấy phải được soi dọi bằng lương tâm chức nghiệp. Tôi
nhớ người Nga có một câu ngạn ngữ vô cùng chí lí: “Một nửa cái bánh mỳ vẫn là
bánh mỳ, nhưng một nửa sự thật đã là sự giả dối!” -Ngọc Niên,
Tổng Biên Tập trang Nhà Báo & Công Luận – Cơ Quan Trung Ương Hội Nhà Báo
Việt Nam
Cái gì chớ “nửa cái bánh mì” thì tui ăn đều
đều, còn “nửa sự thực” thì tới bữa rồi mới được thưởng thức qua một bài viết
- Người đàn bà
tặng hơn 5.000 lượng vàng cho cách mạng - của nhà báo Hoàng
Thùy, trên trang Tin Nhanh Việt Nam:
“Hơn 90% số tiền buôn vải được vợ chồng bà Hồ
dùng để ủng hộ cách mạng. Có khi trong nhà không sẵn tiền mà đúng lúc cách mạng
cần, bà sẵn sàng bán phá giá vải để gom đủ tiền đưa cho cán bộ.
Ở tuổi 97, bà Hoàng Thị Minh Hồ vẫn giữ nét
đẹp của người phụ nữ Hà Nội gốc: Gương mặt phúc hậu, nước da trắng, giọng nói
ấm áp và thái độ điềm đạm. Trong ngôi nhà số 34 Hoàng Diệu (Hà Nội), nơi bà
sống cùng hai con trai, hai chiếc huân chương độc lập hạng nhất được đặt nơi
trang trọng nhất. Bà cho hay, đó là phần thưởng cao quý mà nhà nước dành tặng
người chồng quá cố Trịnh Văn Bô và bà vì những đóng góp to lớn cho cách
mạng.
Ông bà Trịnh Văn Bô |
Bà Hồ cho biết, thân sinh ra bà là cụ Hoàng
Đạo Phương và Nguyễn Thị Lợi cũng như thân sinh của chồng bà, cụ Trịnh Phúc
Lợi, đều là những nhà Nho yêu nước, từng tham gia Đông Kinh Nghĩa Thục. Tất cả
đều đỗ đạt mà không ai làm quan. Cụ Phương khi gần 80 tuổi đã gọi các con lại
nói rằng: "Ta đã già mà chưa làm trọn việc nước, sau này con nào có điều
kiện giúp nước thì hãy làm thay ta".
"Lời căn dặn của cha tôi luôn khắc ghi
trong lòng. Và khi có điều kiện là tôi giúp nước ngay mà không hề suy
nghĩ", bà Hồ tâm sự.
Ngôi nhà số 48 Hàng Ngang được xây theo kiểu
nhà ống cổ, gồm 4 tầng. Tầng một là cửa hàng vải Phúc Lợi nổi tiếng khắp vùng.
Khách đến mua đông đúc, xung quanh lại tấp nập người qua lại nên được chọn làm
nơi ở cho Bác Hồ cùng những nhà lãnh đạo cách mạng từ chiến khu trở về.
Bà Hồ nhớ, vào một buổi tối cuối tháng 8 năm
1945, ông Nguyễn Lương Bằng đến nhà bảo vợ chồng bà thu xếp một phòng đón cán
bộ cách mạng đến ở. Ông bà dọn một phòng tầng 3 tươm tất để đón khách. Tuy
nhiên, người khách mới đến lại dọn xuống tầng 2 để ở cùng mọi người cho tiện.
"Ấn tượng đầu tiên của tôi về người khách
mới là sự giản dị. Ông cụ hơi gầy, vầng trán cao, râu dài, tóc bạc. Cụ mặc áo
nâu, quần soóc nâu, đội mũ dạ, đi dép cao su hiệu con hổ trắng, tay cầm can. Để
đảm bảo bí mật, chúng tôi nói với gia nhân rằng họ là người nhà ở dưới quê lên
chơi và tất cả đều không được lên tầng 2 làm phiền", bà Hồ nhớ lại.
33 ngày Bác ở nhà bà (từ 24/8 đến 27/9), bà
đều trực tiếp chỉ đạo nhà bếp nấu ăn phục vụ Người. Sau đó, hai vợ chồng bà
thay nhau bê lên. Vào 9h hằng ngày, bà thường bê cháo và hoa quả lên cho Bác.
Một hôm bà đang định quay gót thì Bác hỏi "Cô tên gì?". Sau khi bà
trả lời, Bác lại nói "Cô còn trẻ mà đã có cơ đồ sự nghiệp, có chồng con,
tiền bạc. Cô chẳng có gì khổ cả".
Nghe vậy bà Hồ khẳng khái nói: "Cháu vẫn
có một điều khổ, đó là nỗi nhục mất nước". Bác cười: "Vậy thì kiên
trì và nhẫn nại nhé!"
Sau khi “cách mạng” thành công, ông Hồ Chí
Minh trở thành chủ tịch nước thì bà Hoàng Thị Minh Hồ lại lâm vào cảnh... mất
nhà. Đó là nửa phần sự thực còn lại của câu chuyện mà nhà báo Hoàng Thùy đã
không kể kết, hay nói một cách không mấy lịch sự là ông ấy “nhất định dấu biến
đi cứ y như là mèo dấu cứt” vậy. Phần nửa sự thực này mới được công luận biết
đến qua một tác phẩm mới (Bên Thắng Cuộc)
của một nhà báo khác, Huy Đức:
“Năm 1954 từ nơi tản cư trở về, gia đình ông
Trịnh Văn Bô không còn một căn nhà nào để ở, cho dù trước đó, ông sở hữu biệt
thự nổi tiếng 48 Hàng Ngang và nhiều dinh thự khác như 34 Hoàng Diệu, 24 Nguyễn
Gia Thiều, 56-58 Tràng Tiền... Ông Trịnh Văn Bô (1914-1988) là một doanh nhân
Việt Nam nổi tiếng giữa thế kỷ 20. Cha ông, ông Trịnh Văn Đường và cha vợ ông,
ông Hoàng Đạo Phương, đều là những nhà nho cùng thời với cụ Lương Văn Can, từng
đóng góp rất nhiều cho phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục.
Ông Trịnh Văn Bô cùng vợ là bà Hoàng Thị Minh
Hồ, trong 10 năm, kinh doanh thành công, đưa tài sản của hãng tơ lụa Phúc Lợi
tăng lên 100 lần so với ngày thừa kế hãng này từ cha mình. Tơ lụa do Phúc Lợi
sản xuất được bán sang Lào, Campuchia, Thái Lan, được các thương nhân Pháp,
Anh, Thụy Sĩ, Thụy Điển, Ấn Độ, Trung Quốc và Nhật Bản tìm kiếm.
Từ năm 1944, gia đình ông nằm trong sự chú ý
của những người cộng sản. Ngày 14-11-1944, hai vợ chồng ông bà cùng người con
trai cả đồng ý tham gia Việt Minh. Vài tháng sau, ông bà đã mang một vạn đồng
Đông Dương ra ủng hộ Mặt trận Việt Minh và từ đó, gia đình ông Trịnh Văn Bô trở
thành một nguồn cung cấp tài chánh to lớn cho những người cộng sản. Đến trước
Cách mạng tháng Tám, gia đình ông đã ủng hộ Việt Minh 8,5 vạn đồng Đông Dương,
tương đương 212,5 cây vàng. Khi những người cộng sản cướp chính quyền, ông bà
Trịnh Văn Bô được đưa vào Ban vận động Quỹ Độc lập (298).
Ngày 24-8-1945, khi Chính phủ lâm thời về Hà
Nội, Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ, Hoàng Quốc Việt,
Hoàng Tùng đều đã ở hoặc qua lại ngôi nhà 48 Hàng Ngang. Ba đêm đầu Hồ Chí Minh
ngủ trên giường của ông bà Trịnh Văn Bô, sau đó, ông xuống tầng hai, ngủ trên
chiếc giường bạt còn các nhà lãnh đạo khác thì kê ghế da hoặc rải chiếu ngủ. Ở
tầng trệt, cửa hàng vẫn hoạt động bình thường, ngay cả bảo vệ của Hồ Chí Minh
cũng không xuống nhà để tránh gây chú ý. Mọi việc ăn uống đều do bà Trịnh Văn
Bô lo, thực khách hàng ngày ngồi kín chiếc bàn ăn 12 chỗ.
Trong suốt từ 24-8 cho đến ngày 2-9-1945 Chủ
tịch Hồ Chí Minh hiếm khi ra khỏi nhà 48 Hàng Ngang. Mỗi buổi sáng, cứ sau khi
ông tập thể dục xong, bà Trịnh Văn Bô lại đích thân mang thức ăn sáng lên. Bà
nhớ, có lần Hồ Chí Minh đã giữ bà lại và hỏi: “Cô bao nhiêu tuổi mà có được gia
tài lớn thế này?”. Năm ấy bà 31 tuổi, dù có 4 đứa con nhưng vẫn còn xinh đẹp.
Hồ Chí Minh ở lại đây cho đến ngày 27-9-1945. Mỗi khi ra khỏi nhà, Hồ Chí Minh
thường xuống tầng dưới vấn an bà mẹ ông Trịnh Văn Bô và gọi bà là mẹ nuôi. Ở 48
Hàng Ngang, Hồ Chí Minh đã ngồi viết bản Tuyên Ngôn Độc Lập và tiếp các sĩ quan
OSS như Archimedes Patti và Allison Thomas. Quần áo mà các lãnh đạo Việt Minh
bận trong ngày lễ Độc lập, đều do gia đình ông bà cung cấp. Các ông Phạm Văn
Đồng, Võ Nguyên Giáp thì mặc đồ của ông Trịnh Văn Bô còn áo của Chủ tịch Hồ Chí
Minh thì may bằng vải Phúc Lợi.
Khi Pháp tái chiếm Đông Dương, ông Trịnh Văn
Bô theo Chính phủ Kháng chiến lên Việt Bắc còn vợ ông thì mang 5 người con,
trong đó có một đứa con nhỏ, cùng với mẹ chồng lên “vùng tự do” Phú Thọ. Những
năm ở đó, từ một bậc trâm anh, thế phiệt, bà đã phải cuốc đất trồng khoai và
buôn bán để nuôi con. Năm 1955, gia đình ông Trịnh Văn Bô trở về Hà Nội. Ông bà
tiếp tục xoay xở và bắt đầu phải bán dần đồ đạc cũ để nuôi sống gia đình. Lúc
này, toàn bộ biệt thự, cửa hàng đều đã bị các cơ quan nhà nước sử dụng hoặc
chia cho cán bộ nhân viên ở. Lúc đầu, Nhà nước “mượn” sau tự làm giấy nói gia
đình xin hiến, nhưng cụ bà Trịnh Văn Bô bảo: “Tôi không ký”.
Năm 1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho tiến hành
“cải tạo xã hội chủ nghĩa” trên toàn miền Bắc, các nhà tư sản Việt Nam buộc
phải giao nhà máy, cơ sở kinh doanh cho Nhà nước. Bà Trịnh Văn Bô lại được kêu
gọi “làm gương”, đưa xưởng dệt của bà vào “công tư hợp doanh”. Bà Bô cùng các
nhà tư sản được cho học tập để nhận rõ, tài sản mà họ có được là do bóc lột,
bây giờ Chính phủ nhân đạo cho làm phó giám đốc trong các nhà máy, xí nghiệp
của mình. Không chỉ riêng bà Bô, các nhà tư sản từng nuôi Việt Minh như chủ
hãng nước mắm Cát Hải, chủ hãng dệt Cự Doanh cũng chấp nhận hợp doanh và làm
phó.
Cho dù được ghi nhận công lao, trong lý lịch
các con của ông Trịnh Văn Bô vẫn phải ghi thành phần giai cấp là “tư sản dân
tộc”, và rất ít khi hai chữ “dân tộc” được nhắc tới. Con trai ông Trịnh Văn Bô,
ông Trịnh Kiến Quốc kể: “Ở trường, các thầy giáo, nhất là giáo viên chính trị,
nhìn chị em tôi như những công dân hạng ba. Vào đại học, càng bị kỳ thị vì
lượng sinh viên người Hà Nội không còn nhiều. Trong trường chủ yếu là sinh viên
con em cán bộ thuộc thành phần cơ bản từ Nghệ An, Thanh Hóa… những người xếp
sinh viên Hải Phòng, Hà Nội vào thứ hạng chót. Chị tôi vào Đại học Bách Khoa,
năm 1959, phải đi lao động rèn luyện một năm trên công trường Cổ Ngư, con đường
về sau Cụ Hồ đổi thành đường Thanh Niên, và sau đó là lao động trên công trường
Hồ Bảy Mẫu”.
Cả gia đình ông Trịnh Văn Bô, sau khi về Hà
Nội đã phải ở nhà thuê. Năm 1954, Thiếu tướng Hoàng Văn Thái có làm giấy mượn
căn nhà số 34 Hoàng Diệu của ông với thời hạn 2 năm. Nhưng cho đến khi ông
Trịnh Văn Bô qua đời, gia đình ông vẫn không đòi lại được.
Sở dĩ tôi loay hoay gần tiếng đồng hồ để ráp
hai bài báo (thượng dẫn) với nhau vì bên dưới bài của tác giả Hoàng Thùy có vị
độc giả, quý danh là Lê Tùng, đã cảm
khái ghi lại dòng chữ phản hồi như sau: “Đọc bài viết, tôi cảm phục
gia đình bác quá. Đó là tấm gương sáng cho thế hệ trẻ chúng cháu.”
“Thế hệ trẻ chúng cháu” cần một tấm gương, chứ
không phải là một mảnh gương đã bị đẽo gọt bởi những ông nhà báo bất lương, và
bất trí - cỡ như ông Hoàng Thùy hoặc Ngọc Niên,
thuộc Cơ Quan Trung Ương Hội Nhà Báo Việt Nam (*). Mồm miệng họ thì lúc nào
cũng xoen xoét nói đến “sự thực” và “lương tâm chức nghiệp” mà suốt đời cầm bút
luôn chỉ viết phân nửa sự thực thôi.
Tưởng Năng Tiến
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét