TỪ CHIẾN DỊCH TỰ THIÊU đến KẾ HOẠCH NƯỚC LŨ
Qua tháng 8, tự thiêu
được trở thành một chiến dịch. Nhà cầm quyền đành bó tay trước chiến dịch này .
Tổng Nha Cảnh Sát cũng
như cơ quan tình báo Phủ Tổng Thống nhận được báo cáo đầy đủ về chiến dịch tự
thiêu. Thượng Tọa Trí Quang được coi là tác giả của chiến thuật tuyệt diệu này.
Mỗi địa phương (miền Trung) theo sự sắp xếp và bố trí đã có sẵn một số ứng viên
tự thiêu cùng với kỹ thuật làm thế nào gây được xúc động trong quần chúng và
tạo được sự hoang mang trong Quân Đội nhất là giới quân nhân Phật tử thuần
thành. Hầu hết các ứng viên tự thiêu đều dưới 25 tuổi và thời gian vào chùa đi
tu không quá 5 năm.
Sau vụ tự thiêu của
Đại Đức Nguyên Hương, ngày 13-8 Đại Đức Thanh Tuệ, 18 tuổi lại tự thiêu tại
Huế. Đại Đức Thanh Tuệ mới vào chùa tu được 3 năm, tháng 6-1963 Đại Đức đậu
bằng Trung Học Phổ Thông, Đại Đức Thanh Tuệ tự thiêu lúc 2 giờ đêm tại cửa Tam
Quan chùa. Vụ tự thiêu của Đại Đức Thanh Tuệ vào lúc 2 giờ đêm đã nêu lên một
dấu hỏi lớn – một nghi vấn về phía chính quyền. Theo báo cáo của cơ quan an
ninh Thừa Thiên thì Đại Đức Tuệ là một nhà dư trẻ, hiền hòa rất chăm học. Nhưng
Đại Đức Thanh Tuệ đã bị một nhóm người thúc đẩy tự thiêu. Đó chỉ là báo cáo của
an ninh. Tất nhiêu nhiều lắm thì ta chỉ có thể tin được 40% – Bản báo cáo nêu
rõ bà vãi Cao Thị Dõ, trên 60 tuổi sống tại chùa đã lâu năm và chuyên lo về
việc nấu ăn, dọn dẹp. Bà Dõ không biết gì về việc Đại Đức Thanh Tuệ tự thiêu.
Khoảng nửa đêm, bà thấy có một số người lạ mặt vào chùa và cùng hội họp với Đại
Đức Thanh Tuệ rất lâu. Bà không để ý gì cả… Khoảng 2 giờ sáng, bà nghe tiếng la
hét thất thanh ghê rợn… bà hoảng hồn chạy ra hiên thì lúc đó ngọn lửa đã
bùng lên ở cửa Tam Quan.
Ngày 15-8-1963 ni cô
Diệu Quang lại tự thiêu trước trụ sở chi hội Phật Học Ninh Hòa. Ni cô Diệu
Quang nguyên quán tại Huế. Tuy tu ở chùa Vạn Thạnh nhưng Ni Cô lại không tự
thiêu ngay tại Nha Thành mà bất thần đáp xe đò ra tận Ninh Hòa và nổi lửa tự
thiêu tại đây.
Trước đó ít ngày cơ
quan tình báo Phủ Tổng Thống phát giác có một nhóm người chủ động trong chiến
dịch tự thiêu và sẽ tung ra từng loạt ứng viên tự thiêu về các địa phương để
nổi lửa đấu tranh. Đại Tá Lê Quang Tung – Tư Lệnh lực lượng Đặc Biệt cấp thời
trình với ông Cố vấn Nhu đầy đủ hồ sơ và tin tức về chiến dịch kỳ hiệu này. Ông
Nhu ra lệnh: 1- Phải dập tắt chiến dịch này ngay. 2- Làm thế nào bắt Trí Quang,
người bị cơ quan tình báo nghi là tác giả chiến dịch tự thiêu. 3- Khi xảy
ra vụ tự thiêu nào thì chính quyền địa phương phải lập tức lấy xác đem vào nhà
thương thông báo cho tang gia và chính quyền giúp đỡ họ trong việc tống táng.
Cơ quan tình báo Phủ
Tổng Thống còn bắt được binh Nhì Ngô Văn Nghĩa phục vụ tại Quân Đoàn II. Binh
Nhì Nghĩa đào ngũ từ tháng 2-1963, anh vào Saigon làm đạp nghề xích lô. Binh
Nhì Ngô Văn Nghĩa sinh quán tại Bồng Sơn dưới 30 tuổi. Khi bắt được Nghĩa ngoài
bản tài liệu gồm một số chỉ thị về kỹ thuật tự thiêu cơ quan tình báo còn tịch
thu một số thuốc mê Chloroforme… Và một số chai thuốc chích loại an thần cực
mạnh.
Nhờ vụ bắt được Ngô
Văn Nghĩa cơ quan tình báo nắm được đầu dây mối nhợ của chiến dịch tự thiêu.
Binh Nhì Nghĩa cho biết anh ta sắp xuống Mỹ Tho đem theo một Đại Đức, theo kế
hoạch này sẽ nổi lửa tự thiêu trước Tòa Tỉnh Trưởng Định Tường. Qua lời khai
của Nghĩa cơ quan tình báo bắt thêm một số người trong đó có cụ già người miền
Bắc vào Nam trước năm 1940, cụ già này tục danh ông Sáu Bắc từ đồn điền cao su
Hớn Quảng về Saigon trung tuần tháng 7, khi nhân viên tình báo ập vào căn
nhà ở đường Tháp Mười (Chợ Lớn) giữa đêm đầu tháng 8 thì lúc ấy ông già Sáu Bắc
đang ở trần mặc quần sà lỏn và đang nhậu ba xị đế với gà luộc cùng 3 thanh
niên. Khám chiếc rương của ông già Sáu Bắc nhân viên tình báo tịch thu được một
số bạc khoảng bẩy chục ngàn đồng.
Ông già Sáu Bắc bị bắt
đã khai đại cương rằng, ông không biết Thượng Tọa Trí Quang cũng như Thượng Tọa
Tâm Châu là ai cả, ông chỉ nghe chính quyền đàn áp Phật Tử và Sư Sãi. Khi được
hỏi ai đưa ông già về Saigon để tự thiêu thì ông già khai là Sáu Trừng. Một cái
tên lạ hoắc đối với cơ quan an ninh. Nhưng dần dần cơ quan tình báo cũng tìm ra
đầu dây mối nhợ. Sáu Trừng là bí danh tạm thời của một cán bộ cao cấp thuộc tổ
chức tôn giáo vận của Đặc Ủy Saigon, Gia Định. Từ đầu tháng 8 Đặc Ủy Saigon,
Gia Định của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam đã được Trung Ương chỉ thị phải đẩy
mạnh phong trào đấu tranh của Phật giáo và Sinh Viên Học Sinh đồng thời phải
xâm nhập vào hàng ngũ Phật Giáo để nắm thế chủ động. Ông già Sáu Bắc là
một trong hàng chục ứng viên tự thiêu mà MTGPMN chuẩn bị cho chiến dịch tự
thiêu nhằm đẩy mạnh phong trào tranh đấu của Phật Giáo. Thực sự thì các lãnh
đạo Phật Giáo lúc ấy (trừ một vài vị có kinh nghiệm và sách lược về tranh
đấu) còn hầu hết chưa có kinh nghiệm về tranh đấu cũng như kỹ thuật nắm
quần chúng. Cán bộ hạ tầng thì hết sức phức tạp các vị lãnh đạo trong Ủy Ban
Liên Phái không nắm vững được. Ngay một số cán bộ Phật tử cấp Trung Ương cũng
phức tạp, tuy nhiên cán bộ cấp Trung Ương hầu hết là lớp người trẻ có tinh thần
quốc gia như Lê Hữu Bôi, Nguyễn Trọng Nho, Nguyễn Hữu Đống. Nhóm Nguyễn Hữu
Đống, Lê Hữu Bôi, Tôn Thất Tuệ, Nguyễn Trọng Nho, Nguyễn Hữu Doãn đóng một vai
trò quan trọng trong việc vận động Sinh Viên ở hai trường Luật Khoa và Quốc Gia
Hành Chánh – Bôi không được huấn luyện về kỹ thuật tranh đấu nhưng rất có tài
và tỏ ra là người quyền biến. Nguyễn Hữu Đống thuộc trường Cao Đẳng Kiến
Trúc tuy thâm trầm, nghệ sĩ nhưng lại trở thành một lãnh tụ sinh viên gan dạ,
có nhiều sáng kiến. Ngoài ra có nhóm của Triệu Bá Thiệp (LS) và Nguyễn Mạnh
Cường (GS)… nhóm này kết với sinh viên với trí thức. Đại để, các nhóm này đều
thuộc thành phần trẻ, trong sạch và đầy nhiệt huyết. Tại Huế ngoài phe Hoàng
Phủ Ngọc Tường và Ngọc Phan còn phần đông vẫn là lớp trẻ tuy được gọi là quá
khích cực đoan nhưng lại là những Phật tử thuần thành.
Những quy luật tranh
đấu cho biết cuộc tranh đấu cũng bộc phát mạnh và càn lan rộng thì cán bộ trung
ương càng dễ bị đẩy vào thế bị động và lúc ấy ai nắm được cán bộ hạ tầng và ở
địa phương cục bộ thì kẻ ấy nắm được phong trào tranh đấu. Qua kỹ thuật tranh
đấu cách mạng trường kỳ của Lénine và Mao Trạch Đông thì cuộc tranh đấu nào bộc
phát ở trong lòng đất địch, người cán bộ Cộng Sản phải tàng hình biến hóa và để
thích hợp ngay với môi trường tranh đấu và thực tại khách quan đòi hỏi, và hòa
vào với thực tại khách quan (như đóng vai trò một Phật tử chân chính thuần
thành). Khi xâm nhập vào phong trào tranh đấu ở trong lòng địch, người
cán bộ Cộng Sản không bao giờ đứng hàng đầu (1er Plan) tức ở cương vị lãnh đạo
trung ương và mặt nổi.
Sau khi tàng hình và
thích nghi với thực tại khách quan thì lúc ấy người cán bộ Cộng Sản rất sở
trường về chiến thuật “muợn đầu heo nấu cháo” xử dụng kỹ thuật “gậy
ông đập lưng ông”…
Đến nay vẫn chưa có
bằng chứng nào để nhất đán cho rằng, Thượng Tọa này Thượng Tọa kia là tác giả
chiến dịch tự thiêu và thúc đẩy tăng sĩ và Phật tử tình nguyện tự thiêu vì nếu
có như vậy quả là đã trái với đức hiếu sinh của nhà Phật.
Nhưng ít nhất thì các
vị lãnh đạo Phật Giáo lúc ấy đã theo nhu cầu đòi hỏi của cuộc tranh đấu tất
nhiên đã chấp nhận dễ dàng mọi sự tình nguyện hy sinh dù sự tình nguyện đó được
thúc đẩy từ một động cơ nào thì ai ở trong cương vị lãnh đạo một cuộc tranh đấu
như cuộc tranh đấu của Phật giáo 63, cũng không thể mất thì giờ để cân nhắc,
truy tầm nguyên nhân. Lúc ấy cơ quan tình báo Phủ Tổng Thống dù có nắm được đầy
đủ tài liệu về sự xâm nhập của Cộng Sản thì ông Nhu hay Tổng Thống Ngô Đình
Diệm cũng khó lòng trình bày cho quốc dân thấy rõ, dân chúng sẽ cho ngay rằng
chính quyền chụp mũ. Trường hợp ông già Sáu Bắc bị Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam
cưỡng bách tình nguyện tự thiêu cho Phật pháp, “ông khai là CS cho gia
đình ông năm chục ngàn đồng và hứa sẽ cho người con trai út của ông về Hà Nội
du học). Ví dụ một vị lãnh tụ Phật giáo có tinh ý biết được nhưng
trong tình thế cấp bách của cuộc tranh đấu thì không ai dại gì chống lại
sự “tình nguyện cấp bách” này. Các vị lãnh đạo trong Uỷ Ban Liên
Phái 1963 chưa có kinh nghiệm chính trị từ một thực tại tranh đấu (vì mới
nhảy vào cuộc lại lãnh đạo một phong trào đấu tranh quá lớn rộng) nên
hẳn nhiên chưa phân định rõ thế nào là chiến thuật chiến lược, trong những cái
thế và điều kiện mà Cộng Sản hết sức mong muốn.
Với Cộng Sản thì cuộc
tranh đấu của Phật giáo chỉ là chiến thuật của một giai đoạn nằm trong một
chiến lược trường kỳ ngay trong lòng đất địch và do đó sự tự thiêu đối với Cộng
Sản chỉ là phương tiện đấu tranh. Lénine đã dạy người CS “Trong cuộc
tranh đấu chánh trị thì phương tiện nào cũng tốt”. Phương tiện biện
minh cho cứu cánh của CS lúc ấy là làm sao lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm để tạo
nên một tình trạng hỗn loạn tại miền Nam. Cứu cánh của một số cán bộ Phật giáo
(phe quốc gia hữu phái và tả phái) là lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm
nhưng để có một chế độ tốt đẹp hơn trong đó Phật giáo đóng vai trò hàng
đầu (như Thượng Tọa Trí Quang đã nuôi hy vọng Phật Giáo trở thành quốc
giáo). Còn ông Nhu ở thế chánh quyền thì cứu cánh của ông là phải bảo
vệ và giữ vững chế độ (ai nắm chính quyền mà chẳng như vậy). Trong
cuộc đấu tranh của Phật giáo đã có hai con đường đi song song. Con đường bên
đây là Cộng Sản, con đường bên kia là Phật giáo… giữa hai con đường CS đã tạo
ngay ra lối tắt để giao liên, rồi hóa trang con đường của họ như con đường của
Phật giáo làm cho chính quyền ở thế kẹt cứng và ông Nhu chỉ còn một thế duy
nhất là phong tỏa ngay cả hai con đường và bịt lối tắt giao liên. Đó cũng là lý
do khiến ông Nhu phải ra tay hành động vào ngày 20-8.
CHUẨN BỊ DƯ LUẬN RA TAY
Trước khi ra tay hành
động, ông Nhu đã khôn khéo chuẩn bị dư luận. Nhưng cuộc chuẩn bị của ông không
thành công vì thiếu quần chúng tính và cán bộ thừa hành (cấp Bộ Trưởng) đã
không đủ khả năng thực hiện một cuộc phản tuyên truyền và tuyên truyền “đen” để
tạo dư luận thuận lợi cho kế hoạch hành động.
Thanh Niên Cộng Hòa ra
tuyên cáo số 2 và số 3 cũng như những lời tuyên bố nảy lửa của bà Nhu đã không
tác động được tâm lý khối quần chúng trầm lặng, vì giản dị tổ chức Thanh Niên
Cộng Hòa với Tổng Thủ Lãnh Ngô Đình Nhu và tập trung hầu hết các công chức nam
nữ thì tổ chức này dưới mắt quần chúng chỉ là công cụ của chính quyền. Còn kỹ
thuật phản tuyên truyền và tuyên truyền đen (propag endenoire) đã không
được xử dụng và nếu có thì lại quá yếu và lộ liễu (như truyền đơn của một số
Thương Phế Binh và mấy tổ chức khác)
Bà Ngô Đình Nhu thay
vì nên im lặng và nếu có chống thì chống bằng cách khác (có thể xử dụng
tuyên truyền đen) nhưng đằng này bà lại quá hăng say phát ngôn bừa bãi
và hậu quả là chỉ tạo cho phía tranh đấu có thêm khí thế và có thêm cơ hội phản
công chính quyền.
Buổi Đại Hội của Phụ
Nữ Liên Đới tại Tòa Đô Chánh Saigon vào thượng tuần tháng 8, bà Nhu lại dùng
ngôn ngữ “nướng sư” để nói với các vụ tự thiêu của tăng sĩ. Dư luận
Phật giáo lại phẫn uất… trong khi cuộc hòa giải đang có chiều hướng tốt đẹp.
Ông Mai Thọ Truyền
cũng không mong muốn gì hơn là thu xếp cho êm đẹp càng sớm càng hay. Các lời
tuyên bố của bà Nhu giúp cho phe “tích cực” (gồm Thượng Tọa
Trí Quang, Đ Đ Đức Nghiệp, Giác Đức và các sinh viên Phật tử) có cớ để chinh
phục và chế ngự khuynh hướng ôn hòa khi khuynh hướng này muốn hào giải với
chính quyền.
Để phản ứng lại thái
độ và ngôn ngữ của bà Ngô Đình Nhu, ngày 12-8 nữ sinh Mai Tuyết An nữ Phật tử
chi hội Phật tử Thị Nghè đã dùng búa chặt cánh tay trái để cúng đường Phật tử
và kêu gọi tinh thần tranh đấu của hàng ngữ Sinh Viên Học Sinh. Hành động chặt
tay của nữ sinh Mai Tuyết An đã có tác dụng lớn trong Sinh Viên và Học sinh
nhất là phía nam sinh viên Học sinh thì hành động của Mai Tuyết An trở thành
biểu tượng hy sinh và khích động mạnh vào lòng tự ái của Nam Sinh viên Học
sinh. “Phận gái còn như vậy huống chi nam nhi.”
Giới hầu cận của Tổng
Thống Diệm cho biết cứ mỗi lần nhận đươc tin tự thiêu hay chích máu chặt tay,
Tổng Thống Diệm lại lầm lì một cách khôn tả. Hôm bà Nhu tuyên bố ở Tòa Đô chánh
với ngôn ngữ “nướng sư” đã làm cho Tổng Thống Diệm đùng đùng đập bàn nổi
giận. Giới hầu cận cho biết, khi ông Dương Văn Hiếu nghe bà Nhu nói như vậy (được
trực tiếp truyền thanh). Ông Dương Văn Hiếu chạy lẹ vào Dinh cấp báo
với Tổng Thống Diệm:
- Bẩm Cụ, Bà Cố
Vấn nói như vậy làm hỏng hết kế hoạch của chúng con. Chúng con đang tiếp xúc bí
mật, bên ấy ( Phật giáo) họ đã xiêu lòng bây giờ Bà Cố Vấn lại
nói như vậy làm hư hết kế hoạch hòa giải.
Ông Hiếu thuật
lại đại cương về lời tuyên bố của bà Nhu… Nhất là ngôn từ “nướng sư”, Tổng
Thống Diệm mặt đỏ như gấc… ông hầm hầm nổi giận. Sau đó khi bà Nhu về Dinh, ông
Tổng Thống gọi điện thoại, đập tay vào bàn nói như hét: “Mụ nói cái chi lạ
rứa…” Phía đầu giây bên kia không biết bà Nhu trả lời ra sao Tổng Thống
Diệm la mắng: “tui đã biểu Mụ im ngay đi”.
Tổng Thống Ngô Đình
Diệm nói vu vơ: “Nói năng chi mà lạ rứa người ta đang hòa giải phá thế
này rồi nói với người ta thế”
Bà Nhu bị Tổng Thống
Diệm la lối như vậy lại mách chồng, ông Nhu rất tức giận vì không hiểu ai vào “tâu” với
ông Cụ. Ông Nhu phải truy tầm ra thủ phạm. Mà suốt buổi sáng không có mặt nào
quan trọng vào yết kiến ông Cụ… Sau ông mới khám phá ra là khoảng 10 giờ sáng
Dương Văn Hiếu có vào phòng Tổng Thống. Ông Nhu gọi điện thoại bảo Dương Văn
Hiếu vào Dinh gặp ông gấp. Linh tính báo trước là sẽ có chuyện chẳng lành
và đúng là ông Nhu biết rõ mình báo cáo trước ông Cụ nên ông Hiếu thay vì vào
thẳng gặp ông Nhu, ông đến phòng Tổng Thống Diệm trước để cầu cứu. Giới tùy
viên cho biết ông Hiếu xanh mặt về vụ này và ông nói với Tổng Thống Diệm:
- Bẩm Cụ ông Cố Vấn cho
gọi con vào… ông Cố Vấn biết là con báo cáo với Cụ về lời tuyên bố của bà Cố
Vấn… Bẩm Cụ… con chết với ông Cố Vấn.
Tổng Thống Diệm trầm
tư rồi hỏi: “Bây giờ anh tính thế nào?”
Dương Văn Hiếu thưa
ngay: “Trình Cụ, nếu ông Cố Vấn có hỏi con xin nói là Cụ nghe qua radio và
Cụ hỏi con có biết gì về lời tuyên bố của bà Cố Vấn thì con nói là có biết”.
Tổng Thống Diệm “Thôi
được, anh cứ lên gặp ông Cố Vấn, đã có tôi.”
Dương Văn Hiếu lò dò
lên phòng ông Nhu. Tổng Thống Diệm có mấy khi nghe radio bao giờ đâu. Nhưng
trong Dinh lại có một số radio nhiều cái rất tối tân do các Đại Sứ tặng. Tổng
Thống Diệm bảo ông già Ẩn lấy cho ông một cái và đặt ngay trên bàn. Ông Tổng
Thống hỏi: “Cắm điện ở mô?” Ông già Ẩn thưa: “Bẩm cái này
chạy pin” Ông Tổng Thống mỉm cười: “Ờ ờ… tìm cho ta cục pin”.
Dương Văn Hiếu vào
trình diện ông Nhu. Với vẻ lạnh lùng ông Nhu hỏi:
- Ai báo cáo cho ông
Cụ?
Dương Văn Hiếu
trả lời:
- Thưa ông Cố Vấn
chuyện đó con không được rõ..
Ông Nhu nói:
- Ngoài ông ra thì
không có đứa nào báo cáo với ông Cụ.
Ông Hiếu đáp:
- Thưa ông Cố Vấn,
sáng nay con có việc vào trình Cụ , có nhẽ Cụ nghe qua radio nên hỏi con có hay
biết gì về lời tuyên bố của bà Cố Vấn không, con ngay tình không biết nên trả
lời Cụ là có nghe qua radio.
Ông Nhu nhìn Dương Văn
Hiếu mỉm cười, biết là Dương Văn Hiếu nói không trúng vì mấy khi Tổng Thống
Diệm nghe radio.
Tổng Thống Diệm trong
phòng chờ mãi không thấy Dương Văn Hiếu trở lại thì nóng lòng đi về phía phòng
ông Nhu. Tổng Thống Diệm cầm chiếc radio mở thật to có ý chứng tỏ cho ông em
thấy là Tổng Thống nghe lời tuyên bố của bà Nhu qua radio chứ không phải do
Dương Văn Hiếu báo cáo lại. Dáng điệu Tổng Thống không được tự nhiên vì ông Nhu
trông thấy bào huynh tay cầm radio đi qua khẽ mỉm cười nên biết được ông
anh “nói dối” để che chở cho Dương Văn Hiếu rồi ông Nhu cũng lờ
luôn mà không phiền trách gì Dương Văn Hiếu.
Có thể nói bà Nhu trở
thành diều hâu số một đối với phong trào tranh đấu của Phật giáo 1963. Bà Nhu
mạnh miệng có lẽ cũng là tâm lý không bị mặc cảm tôn giáo. Bà Nhu công khai bày
tỏ: “Bộ họ mới là Phật tử hay sao, ba má tôi và cả họ ngoại nhà tôi đều theo
Phật giáo. Ai đàn áp ai” Chính ông Nhu cũng bị bà vợ lôi cuốn vào con
đường “diều hâu”…
Trung tuần tháng 8 tức
là trước ngày bố giáp chùa khoảng 5, 6 ngày. Ông Nhu gặp riêng các nhân vật
thân tín Dương Văn Hiếu, Đại Tá Y, Thiếu Tướng Đính cùng với Lê Quang Tung. Rồi
một cuộc họp mật kéo dài trong ba giờ. Trước hết là nghe Đại Tá Tung báo cáo
tình hình trong quân đội về tinh thần của Binh Sĩ, Sĩ Quan và Tướng Lãnh.
Ông Nhu hỏi: “Đôn
thế nào?”
Đại Tá Tung đáp: “Trung
Tướng Đôn bây giờ khá lắm, biết cư xử và hăng say làm việc”.
Ông Nhu gật đầu: “Đôn
nó biết nghe“.
Đại Tá Lê Quang Tung dè
dặt: “Con nghe hình như ông Cụ muốn cử Trung Tướng Nguyễn Ngọc Lễ là
Tổng Tham Mưu Trưởng?”
Đại Tá Tung vừa dứt
lời thì ông Nhu xua tay: “Già Lễ thì còn mần được cái gì… cho già làm thanh
tra là quá mức”.
Ông Nhu lại hỏi: “Cao
dạo này sao bết quá vậy?”
Đại Tá Tung hỏi: “Thưa
về vấn đề gì?”
Ông Nhu đáp nhát gừng:
“Tình hình quân sự vùng IV bết bát lắm… có nhẽ phải cho Khánh nó về dưới
đó”.
Đai Tá Tung bênh vực
Tướng Cao: “Anh Cao chịu khó lắm, anh ấy coi bộ phàn nàn vì bị phá”.
Ông Nhu hỏi: “Ai
phá?”
Đại Tá Tung đáp: “Anh
Cao có ý nghi ngờ Phạm Ngọc Thảo”.
Ông Nhu cười khẩy,
không đáp. Ông Nhu tỏ ý khen ngợi Tướng Đôn đã cố gắng học tập và bỏ tính bay
bướm rồi ông lại hỏi: “Oai nó ở Tâm Lý Chiến có làm được cái gì không?” Ông
Nhu hỏi như vậy là ý thăm dò. Sự thực từ ngày Thiếu Tướng Trần Tử Oai làm Giám
Đốc Nha Tâm Lý Chiến, Tướng Oai đã có nhiều dịp gặp ông Nhu từ chỗ “năng đi
năng lại“. Tướng Oai được ông Nhu đem lòng tin cẩn sủng ái.
Đại Tá Tung và một số
ủy viên quân ủy khen ngợi Tướng Oai: “Anh Oai ở ngành Tâm Lý Chiến là
hợp với khả năng anh ấy lắm. Con thấy từ tháng 5 đến giờ anh Oai làm việc hết
sức cực nhọc”.
Ông Nhu khẽ gật đầu.
Sau khi mạn đàm thăm dò “lai rai” ông Nhu đi thẳng vào hai chủ điểm
chính: Kiểm điểm một lần chót cùng về thành phần một số Tướng lãnh sẽ đứng sau
lưng ông Nhu để ra tay hành động vào đêm 20-8.
Ông Nhu chỉ thị cho
Tướng Đôn, Tướng Đính cũng như Đại Tá Tung những điều căn bản phải thực hiện để
dẹp phong trào đấu tranh. Ông Nhu đã có sẵn hai kế hoạch thuộc loại tối mật. Kế
hoạch A sẽ được đưa ra thi hành vào đêm 20-8. Trong kế hoạch này có điểm phải
cắt đứt mọi liên lạc giữa chùa Xá Lợi và các nhân vật Mỹ qua ngả Usom… và bắt
cho bằng được Thượng Tọa Trí Quang. Ông Nhu nhắc nhở: “Trí Quang type
dangereux”
Kế hoạch A cũng như B
hoàn toàn do phía ông Nhu và một số Tướng lãnh soạn thảo trong đó có Đại Tá Lê
Quang Tung cũng như hai Tướng Đôn, Đính đã đóng một vai trò quan trọng.
Thiếu Tá Trần Ngọc
Châu, sĩ quan thuyết trình viên của Phủ Tổng Thống cũng góp rất nhiều sáng
kiến. Trong cuộc họp mật giữa ông Cố Vấn Nhu, Đại Tá Lê Quang Tung cùng cơ quan
đầu não đều cho rằng vấn đề chính yếu vẫn là làm thế nào triệt hạ nhóm Thượng
Tọa Trí Quang, Đức Nghiệp và Thiện Minh. Đại Tá Tung thuyết trình một lần chót
về vai trò của mấy nhà sư này. Theo Đại Tá Tung, Thượng Tọa Trí Quang có nhiều
liên hệ với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam còn Thượng Tọa Thiện Minh theo một
nhân vật an ninh tình báo trình bày:
- Thưa ông Cố Vấn, cho
đến lúc này tôi vẫn tin ông Thiện Minh không phải là Cộng Sản, tôi gặp BS
Tuyến, anh Tuyến cũng đồng ý như vậy và anh Tuyến cho biết ông Thiện Minh, muốn
thông cảm và hòa giải với chính quyền.
Ông Nhu hỏi:
- Cơ sở làm Tàu Vị Yểu
của ông ấy ở Huế có liên hệ gì với tổ chức kinh tài của Cộng Sản không?
Đương sự đáp:
- Con không rõ về vụ
này nhưng ông Thiện Minh cũng có một số vốn. Ông Cậu ngoài đó (tức ông Ngô Đình
Cẩn) cho biết, có giúp Tổng Hội Phật Giáo một số tiền rất lớn và thường trao
thẳng cho ông Thiện Minh.
Ông Nhu tỏ vẻ khó
chịu:
- Ông Cậu ngoài đó thì
nói làm cái gì, ông ấy nuôi ong tay áo… Còn ông Tâm Châu thì sao?
Đương sự đáp:
- Khi còn ở ngoài Bắc,
ông Tâm Châu có tham gia Phong Trào Liên Tôn Chống Cộng và là bạn của Cha Hoàng
Quỳnh.
Nghe nhắc đến Cha
Hoàng Quỳnh, ông Nhu lắc đầu:
- Nghe nói Cha Quỳnh
và cha Oánh ủng hộ mấy ông thầy chùa dữ lắm mà. Tôi chỉ thị cho mấy anh nếu từ
nay cha cố nào lộn xộn cứ việc thẳng tay nhưng đừng cho ông Cụ biết.
Ông Nhu lại hỏi: “Me
Sừ Đức Nghị hắn thế nào?”
Phần này Đại Tá Tung
trả lời. Ông Tung lấy trong cặp ra một xấp hình mới nhất chụp bằng “vi
phim” và vừa được phóng lớn. Ông Tung trao cho ông Nhu và nói:
- Đây là một số hình
mới nhất chụp tại chùa Xá Lợi và chùa Giác Minh.
Ông xem rồi lắc đầu: “Thế
này thì tranh đấu cái gì…?” Ông Nhu mỉm cười: “Nếu cần các toa cứ
cho báo nó đăng lên để đồng bào thấy rõ”.
Ông Tung nói:
- Ông Cụ biết thì chết
bọn con, hôm nọ có mấy tấm hình “sét” lắm. Con và Hiếu trình lên Cụ. Cụ đỏ mặt
bắt đem đi đốt.
Ông Nhu hỏi:
- Các Toa có theo dõi
thằng Rufno Philipo không?
Đại Tá Tung đáp:
- Rufno Philipo vẫn bí
mật liên lạc với chùa Xá Lợi.
Ông Nhu chỉ thị:
- Tìm cho đủ bằng
chứng, phải trục xuất thằng này.
Rufno Philipo sang
Việt Nam phục vụ từ năm 1955. Ông ta là một trong những người Mỹ ủng hộ chính
phủ Ngô Đình Diệm và khuyến cáo chính phủ Ngô Đình Diệm phải quyết liệt với
Pháp và các giáo phái, Rufno Philipo là nhân vật số 2 của USAID, tuy bên ngoài
Rufno Philipo là một viên chức cao cấp của USAID nhưng bên trong Rufno Philipo
lại phục vụ cho cơ quan tình báo CIA. Đại Tá Tung đã quăng một màng lưới quanh
Rufno Philipo và xử dụng cả mỹ nhân kế… cho nên nhất cử nhất động của Rufno
Philipo đều lọt vào tai của Đại Tá Tung. Ông Nhu nhấn mạnh:
- Các Toa phải tìm cho
được bằng chứng, phải trục xuất ngay mấy thằng ở USAID. Còn thằng Richardson
thế nào?
Ông Tung đáp:
- Tuần trước ông ta ăn
cơm với con và tối mới tối qua Richardson đi ăn cơm ở Đồng Khánh với tụi con.
Dương Văn Hiếu đáp:
- Cho đến nay, con
thấy Richardson không có gì đáng ngại ông ta rất thông cảm với mình. Có điều
đáng ngại là thằng Smith.
Ông Nhu bảo lấy bản đồ
Saigon và ghi dấu mỗi ngôi chùa. Ông chỉ vào khu vực chùa Xá Lợi:
- Làm thế nào phải
isolé ngay!
Ông quay sang hỏi: “Chùa
này thế nào… Chùa kia thế nào? “
Đại Tá Tung đáp:
- Quan trọng nhất là
chùa Xá lợi, mấy ngôi chùa kia đều là phụ. Con thấy nên tách rời chùa Ấn Quang
và chùa Kỳ Viên. Cần phải bố ráp chùa Từ Quang và chùa Giác Minh.
Ông Nhu hỏi: “Sao
lại như vậy?” Đương sự giải thích: “Chùa Ấn Quang do Sư cụ Thiện
Hòa trụ trì. Sư cụ Thiện Hòa là người Nam hiền đức lắm… Xin ông Cố Vấn
nên tách rời chùa của các sư người Nam “
Một vị tướng cắt
ngang: “Đã làm thì làm hết, bất kể Trung Nam Bắc”
Ông Hiếu không muốn
nói thêm vì biết Tung là người quá khích. Tướng Đính lại quá nóng nảy và ít lâu
nay Tung có ý nghi ngờ Hiếu đi với Bác Sĩ Tuyến song ông Nhu lại có vẻ lưu tâm
đặc biệt đến ý kiến này, ông Nhu nói: “Làm cách nào để tách rời mấy
chùa này?”
Đại Tá Tung đáp: “Con
thấy không cách nào làm được cả”
Ông Nhu hỏi: “Theo
anh thì thế nào?”
Nhân vật trách nhiệm
về tình báo mật vụ đáp: “Theo phúc trình của Cảnh Sát Đặc Biệt thì chùa Ấn
Quang hiện nay cũng bị các phần tử qua khích xâm nhập và trong nửa tháng nay
xuất hiện nhiều kẻ lạ mặt từ dưới quê lên. Nhưng theo con, đầu não là chùa Xá
Lợi, ở Huế là chùa Từ Đàm nếu “bố ráp” hai đầu não này xong thì các chùa khác
không quan hệ”
Ông Nhu cho biết ông
vẫn băn khoăn về ngôi chùa Xá Lợi tuy là đầu não của Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ
Phật Giáo nhưng chùa Xá Lợi tiêu biểu cho Phật Giáo miền Nam mà khối Phật Giáo
này vẫn tỏ ra ôn hòa , hơn nữa ông Nhu không muốn vì chùa Xá lợi mà làm phật
lòng Phó TT Thơ vì có liên hệ mật thiết với Hội Phật Học Nam Việt (Chùa Xá
Lợi).
Đại Tá Tung cương
quyết:
- Nếu không kiểm soát
được chùa Xá Lợi thì không làm thế nào dẹp được phong trào tranh đấu.
Ông Nhu lại nhìn vào
bản đồ suy nghĩ rồi gật đầu:
- Tung nói đúng. Vùng
này đông dân lại ở trung tâm Đô Thành, gần một số trường học, ở ngay sát bên
USOM. Tình hình mấy ngày nay ở trong ấy (tức chùa Xá Lợi), như thế nào?
Đại Tá Tung đáp:
- Dương Văn Hiếu nắm
vững tin tức Cảnh Sát Đặc Biệt gài thêm được một số người trong đó. Về phía con
thì có 5 agent (điệp viên, tụi nó rất đắc lực…. Các tấm hình vừa rồi là do tụi
nó chụp được. Một đứa hiện nay là hộ vệ của Đức Nghiệp .
Ông Nhu mỉm cười, chưa
bao giờ ông có nụ cười tươi như vậy, Đại Tá Tung còn khoe: “Con có trao cho
nó một trăm ngàn đồng để đưa cho Đức Nghiệp”
Ông Nhu ngạc
nhiên: “Để làm cái gì?”
Đại Tá Tung đáp: “Nó
(tức hộ vệ viên) đóng vai Phật Tử con nhà giầu và đưa tiền cúng dường Phật
Pháp…”
Cả ba người cùng cười
vui vẻ, ông Nhu nói: “Coi chừng không có nó lại cho vào túi riêng của
nó”
Đại Tá Tung quả quyết
“thằng này tin cẩn lắm, trước nó phục vụ ở 707″
Ông Nhu hỏi: “Các
Toa tính sao nữa đây?” Ông Nhu nói thêm: “Mọi việc phải tuyệt đối
bí mật, điều cần là không nên cho ông Cụ biết (tức TT Diệm) sau nữa là bọn CIA”
Sau cùng ông Nhu quyết
định sẽ “bố ráp” tất cả mọi ngôi chùa nào khả nghi ngoại trừ các
chùa tại miền Tây. Ông Nhu căn dặn: “Chùa nào không có khả nghi thì cứ để
nguyên, không được xâm nhập…”
Đại Tá Tung trình bày
thêm một số chi tiết:
- Thưa ông Cố Vấn kế
hoạch A phải có sự phối hợp chặt chẽ của Lực Lượng Đặc Biệt, Cảnh sát, An Ninh
Quân Đội và các cơ quan bán quân sự…
Ông Nhu đáp:
- Không cần thiết, Lực
Lượng Đặc Biệt và Cảnh Sát là đủ rồi, Quân Đội được xử dụng ở kế hoạch B.
Ông Nhu nhấn mạnh:
- Mọi việc phải
thi hành và kết thúc nội trong 1 giờ và phải chớp nhoáng… Giờ nào thuận lợi
nhất?
Nhân vật An Ninh
Tình Báo đáp: “khoảng 12 giờ đêm”
Đại Tá Tung nói:
- Hơi sớm, độ 1:30
sáng là vừa.
Ông Nhu hỏi:
- Bên trong các chùa
họ có võ trang đề phòng gì không?
Đại Tá Tung đáp: “Chùa
Từ Đàm và Diệu Đế bây giờ giống như Ấp Chiến lược”.
Ông Nhu cả cười
hỏi:
- Có súng đạn gì
không?
Đại Tá Tung đáp:
- Dạ thưa không nhưng
có gạch đá, săng, gậy, vỏ chai…
Ông Nhu hỏi:
- Chùa Xá Lợi, Ấn
Quang thì sao?
Ông Tung đáp:
- Cũng như
vậy. Riêng chùa Xá Lợi tin tức cho biết hiện nay họ không đề phòng gì cả chỉ có
một số thanh niên giữ trật tự và kiểm soát anh ninh.
Một vị Tướng lên
tiếng bảo Đại Tá Tung:
- Toa và Dương Văn
Hiếu phải coi chừng chuông mõ!
Ông Nhu tỏ vẻ
ngạc nhiên đương sự đáp:
- Khi mình tiến vô kiểm
soát thì thế nào họ cũng khua chuông gõ mõ để báo động.
Đại Tá Tung đáp:
- Không thể làm thế
nào được hơn. Moa sẽ nói với Hiếu để “lũy” gài thêm người vào để tụi nó lo phần
mõ.
Ông Nhu đắc ý: “Ờ ờ
đúng… mà họ có thể dùng chậu phèng la”. Đại Tá Tung nói: “Tụi con
sẽ nghiên cứu kỹ việc này. Nhưng nếu tiến vô họ chống đối thì làm sao?” Ông
Nhu trầm ngâm rồi đáp: “Tuyệt đối không được gây đổ máu”.
Khi ông Nhu chỉ thị
phải tránh đổ máu thì Đại Tá Tung thắc mắc: “nếu họ chống cự họ ném gạch đá
thì làm sao tránh cho được?” Ông Nhu lắc đầu: “Bằng mọi cách phải
tránh đổ máu”. Ông Nhu bèn qua kế hoạch B, phần này, ông Nhu nói giản
dị: “Để cho Đôn và Đính nó lo. Các Toa lo phần đầu… ”Sự thực thì cả hai
kế hoạch đều do Tướng Đính điều động .
GIẢI PHÁP CUỐI CÙNG
Ngày 20-8, Hội Đồng
Tướng Lãnh nhóm họp tại Bộ Tổng Tham Mưu để thảo luận về vụ tranh đấu của Phật
Giáo và tìm biện pháp đối phó để ngăn chặn Cộng Sản và đồng thời tái lập trật
tự an ninh tai đô, thị tỉnh. Ông Nhu không trực tiếp chỉ thị cho Hội Đồng Tướng
Lãnh phải có thái độ thế nào, hành xử thế kia. Nhưng xuyên qua cuộc tiếp xúc
riêng giữa ông Nhu với các Tướng Đôn, Đính, Oai, Khánh, Trí… thì những ý kiến
đưa ra thảo luận lại là chính ý kiến của ông Nhu nằm trong kế hoạch A và B.
Trước một quyết định quá ư quan trọng đối với lịch sử và nhất là Phật Giáo, ông
Nhu cố ẩn mình trong bóng tối giật giây cho Hội Đồng Tướng Lãnh hành động.
Kết quả, Hội Đồng
Tướng Lãnh quyết định, Quân Đội phải ra tay. Có một số ý kiến chống lại việc bố
ráp chùa chiền trong đó có ý kiến của Tướng Khánh nhưng thực ra Tướng Khánh chỉ
phát ngôn theo sự chỉ dẫn của ông Nhu. Trước đó, Tướng Khánh từ Pleiku về
Saigon được gọi vào dinh gặp riêng ông Nhu. Cuộc tiếp xúc kéo dài hai tiếng
đồng hồ. Lúc trở ra, Tướng Khánh lộ vẻ tươi vui hớn hở. Không hiểu nội dung
cuộc tiếp xúc như thế nào nhưng Tướng Khánh tiết lộ với Đại Tá Tung và một số
sĩ quan cao cấp của Quân Ủy rằng, ông chống lại việc bố ráp chùa chiền để thăm
dò thái độ của các tướng như thế nào, thì hầu hết các tướng nhất là ba
Tướng Đôn, Đính, Oai không đồng ý và chủ trương phải áp dụng biện pháp
mạnh đối với phe đấu tranh.
Ông Nhu đã thành công
trong việc hướng dẫn Hội Đồng Tướng Lãnh qua Tướng Đôn và Oai. Ông Nhu chỉ thị
không nên để quân đội trực tiếp hành động qua quyết định của Hội Đồng Tướng
Lãnh và làm thế nào để Hội Đồng Tướng Lãnh có chung một thái độ còn phương thức
hành động ra sao thì để tùy quyền các Tướng Tư Lệnh Vùng. Kết quả, Hội Đồng
Tướng Lãnh đã đi đến một quyết định như vậy sau lời tuyên bố của Tướng
Đôn “Bây giờ các toa ai nấy trở về vùng mình và tùy nghi
quyết định lấy. Nhưng 12 giờ đêm nay, các Toa đợi lệnh Thượng Cấp”. Vùng
IV được coi như vô sự, vùng II riêng thành phố Nha Trang phải ban hành lệnh
giới nghiêm từ ngày 15-8. Linh Mục Cao Văn Luận bị chấm dứt nhiệm vụ Viện
Trưởng Đại Học Huế kể từ ngày 16-8 và Giáo Sư Trần Hữu Thế, nguyên Bộ Trưởng
Giáo Dục và Đại Sứ Việt Nam tại Phi Luật Tân được triệu hồi về nước thay thế
Linh Mục Luận. Tình hình ở Huế tuy bên ngoài có vẻ lắng đọng về phía Phật tử
nhưng hàng ngũ sinh viên bắt đầu dấy động mạnh mẽ. Nhưng thủ lãnh của họ như
Ngô Kha , Nguyễn Diễn đã thực sự lao đầu vào cuộc.
Ngày 20-8, Đà Nẵng lại
có biểu tình lớn. Phong trào tranh đấu của Phật Giáo lan rộng vào học đường và
biến thái để trở thành cuộc tranh đấu của tuổi trẻ, giáo giới hầu hết cũng thay
đổi thái độ do dự trước đây… Mọi người thao thức “phải làm một cái gì đó…” Lúc
ấy không ai dự đoán một cái gì đó sẽ đem lại cho quê hương kết quả như thế nào?
Sinh viên đại học
Saigon, giới trí thức và văn nghệ sĩ đã nghiêng hẳn về phía Phật Giáo. Nhóm
Nguyễn Mạnh Cường khuấy động mạnh mẽ tại hai trường Luật và Văn Khoa. Nhóm
Nguyễn Hữu Đống đi sát với UBLPPG và mỗi ngày nhóm này càng phát triển và thanh
thế lan rộng, thu hút khối Học Sinh đông đảo tại mấy trường lớn như Chu Văn An,
Gia Long, Trưng Vương, Võ Tường Toản, Pétrus Ký, Cao Thắng. Chính điều này đã
làm cho ông Nhu lo lắng. Ông Nhu nói vói Cao Xuân Vỹ cũng như Lê Quang Tung:“Mấy
ông thầy chùa tranh đấu dẹp lúc nào là xong lúc ấy nhưng các chú coi chừng mấy
thằng sinh viên” Ông Nhu cũng nhấn mạnh: “Bọn trẻ nó nổi loạn
thì khó cho mình lắm!”
Nếu phân tách phong
trào tranh đấu 63, bỏ ngoài những khuấy động ngoại tại, thì phong trào đó
kể từ đầu tháng 8 đã biến thái trở thành phong trào tranh đấu của tuổi trẻ. Đây
là lần thứ nhất kể từ 19-8-1945, tuổi trẻ đã vùng dậy với tất cả khí thế và
nhiệt huyết, tranh đấu để mà tranh đấu thế thôi. Phải làm một cái gì-
Một cái gì đó đẹp như mơ. Đó là tiếng gọi thống thiết của tuổi trẻ 63. Ủy Ban Liên Phái Bảo vệ Phật
Giáo đã có cái may lớn nhất là dựa vào lực lượng lớn lao của tuổi trẻ lúc đó.
Ông Nhu nhận định rõ tầm quan trọng của hàng ngũ Sinh Viên Học Sinh nên phải
tìm cách đối phó ngay. Khi thấy Học Sinh Sinh Viên tham dự biểu tình tuyệt
thực, TT Diệm trách cứ Bộ Giáo Dục thì ông Nhu xác định rõ như thế này: “Cứ
để mấy ông thầy chùa kéo dài dài như rứa thì chỉ còn cách đóng hết các cửa
trường mà thôi”. Trong kế hoạch A và B trọng tâm của ông Nhu là tách rời
cuộc tranh đấu của Phật giáo với tập thể Sinh Viên Học Sinh và trí thức. Bản
chất của trí thức thành phố vốn lè phè cầu an, do dự đắn đo vị kỷ nhưng không
phải là không nguy hiểm nếu giới này xoay lưng lại chống đối chính quyền
và xáp vô tập thể Sinh Viên Học Sinh – khi trò tranh đấu mà có Thầy đứng đằng
phía sau hỗ trợ thì đó mới là điều nguy hiểm đối với bất cứ một chính quyền
nào.
Ông Nhu đã đứng vào
thế chân tường: một là để chế độ sụp đổ hai là phải dẹp phong trào đấu tranh.
Muốn dẹp phong trào tranh đấu mà Sinh Viên và Học Sinh đã trở thành tiềm lực
thì phải đánh bật cái khối địa hình chỉ đạo (tức Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật
Giáo). Khi cái khối này tan vỡ thì các khối vô định hình khác như Sinh Viên và
Học Sinh cũng tan vỡ theo và lúc đó thì Cộng Sản cũng như các thành phần chống
đối khác sẽ không còn đất để tổ chức và lãnh đạo quần chúng hầu tranh đấu cho
các mục tiêu của họ ẩn nấp qua chiêu bài Phật Giáo tranh đấu.
Thế của ông Nhu lúc ấy
chỉ còn một chọn lựa: một mất một còn – được ăn cả ngã về không. Ai
ở cái thế chính quyền như trường hợp ông Nhu cũng phải chọn lựa như vậy.
Các lực lượng chống
đối mỗi ngày mỗi tăng triển mau lẹ và nhất là thành phần quốc gia bấy lâu bị
tan rã nhưng nhờ biến cố Phật Giáo đã tạo được cơ hội kết hợp cùng nhau. Thành phần
quốc gia ở đây không phải do một số lãnh tụ già nua mà hầu hết đều thuộc giới
trẻ với tất cả khí thế và khát vọng thực hiện một cuộc cách mạng xã hội tận gốc
tận ngọn tại miền Nam. Khát vọng đó mới chỉ thành ý niệm mơ hồ nhưng gặp môi
trường thuận lợi ý niệm kia bỗng dưng trở thành ngọn lửa mỗi ngày một bốc cao
theo cơn giông bão của thời cuộc. Ông Nhu không phải là không nhận thức rõ tầm
quan trọng và nguy hiểm của cái thành phần chống đối này.
Cuộc thương nghị giữa
chánh quyền và Phật Giáo vẫn bế tắc. Cộng Sản và các thành phần đối lập chỉ
mong duy trì sự bế tắc này. Càng bế tắc càng thuận lợi cho mục tiêu riêng của
họ Riêng mục tiêu tranh đấu đòi quyền bình đẳng tôn giáo của Uỷ Ban Liên
Phái ông Nhu bảo với Cao Xuân Vỹ: “đòi như rứa thì làm sao mà thỏa mãn cho
được. Mục tiêu chiến lược mà…” Ông Nhu ở cái thế hai chân bị đặt vào
chậu nước sôi.
Quần chúng ở đâu và ở
bất cứ thời nào cũng chỉ là tập thể bị thống trị. Tập thể bị thống trị ấy tuy
chỉ là khối vô định hình nhưng luôn luôn tiềm ẩn cái mầm công phẫn chống đối
cái thiểu số thống trị – tức nhà cầm quyền – phong trào tranh đấu của Phật Giáo
kể từ đầu tháng 8 đã gây được niềm phấn khởi trong khối quần chúng đông
đảo kia. Phong trào tranh đấu của Phật giáo được lòng đa số quần chúng thì đồng
thời cũng dễ dàng gây xúc động và thu hút được giới trí thức, văn nghệ, báo chí
và sinh viên. Nhất là giới văn nghệ và sinh viên cũng như báo chí luôn luôn có
khuynh hướng nghiêng hẳn về phía bị thống trị (trừ quần chúng) để chống lại
thiểu số thống trị. Sau cái chết của Nhất Linh và nhất là qua thái độ kiêu căng
quá lố của bà Nhu cùng ngôn ngữ sỗ sàng của bà đối với các nhà lãnh đạo Phật
giáo và nhân sĩ , hầu hết văn nghệ sĩ nếu không công khai thì cũng âm thầm ủng
hộ cuộc tranh đấu của Phật giáo. Đáng kể là thái độ của hội Bút Việt với LM
Thanh Lãng và nhà thơ Vũ Hoàng Chương. Nhóm trẻ với những Thế Phong (Đại Nam
Văn Hiến) Khải Triều, Đỗ Ngọc Trâm và những Thế Nguyên, Diễm Châu, Nguyễn Khắc
Ngữ… Tuy họ chỉ là một tối ư thiểu số nhưng chính thành phần trẻ đã trở thành
hấp lực thu hút đám đông và gây thêm phần phấn khởi cho cuộc tranh đấu.
Ông Nhu phải chọn lựa
như một giải pháp cuối cùng. 9 giờ đêm ngày 20-8, ông gặp Đại Tá Lê Quang Tung
để xét duyệt kế hoạch lần chót và suốt buổi chiều ông đã thảo luận tỷ mỷ
với Tướng Đôn, Đính, Oai… Tối hôm ấy Tổng Thống Diệm đi ngủ sớm hơn
thường lệ. Ông Nhu chỉ thị cho ông Tung và mấy viên chức cao cấp của cảnh sát
và tình báo: “Thận trọng tối đa nhất là đối với ông cụ Tịnh Khiết… phải
“sole” ngay mấy đứa quá khích, phải phối hợp chặt chẽ với Đính… Thắc mắc thêm
cứ hỏi Đôn hay Đính”
Cuộc hành quân bố ráp
chùa chiền tuần tự tiến hành kể từ lúc 11 giờ đêm sau khi các viên chức cao cấp
đã lãnh đầy đủ những chỉ thị của Tướng Đính tại Bộ Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt.
Đại Tá Tung được viên chức cao cấp của Cảnh Sát Đặc Biệt thông báo riêng như
sau: “Tôi không hiểu như thế nào, tụi nói mới ở trong Xá Lợi về cho
biết, mấy ông thày chùa hội họp liên miên từ hồi chiều đến giờ. Trong chùa đã
có lệnh báo động họ đang bố trí để chống lại ” - ông Tung đáp: “không
sao, một lát sẽ hốt hết!” – Viên chức này cho biết thêm: “lúc 9
giờ, tụi nó ghi được số xe của Mai Thọ Truyền… ở trong chùa đi ra, hình như có
một người nằm phía sau xe”. Ông Tung kinh ngạc: “Sao không cho bám
sát ngay và chặn lại… Thích Trí Quang lọt lưới thì hỏng hết”…
Thực ra thì từ sáng
ngày 20, Đại Đức Thích Đức Nghiệp qua một đường giây đặc biệt đã nhận đươc
nguồn tin chính quyền sẽ tấn công chùa Xá Lợi và Ấn Quang nội trong ngày 20 và
21. Cũng 8 giờ tối ngày 20, ông Smith, Phó Giám Đốc CIA đến trụ sở USOM – có lẽ
để quan sát tình hình và chính ông Smith đã gọi điện thoại cho Đại Tá Tung
hỏi: “Đêm nay hình như đại tá phải đi hành quân?” Ông Tung
chột dạ đem chuyện này báo cáo với ông Nhu. Ông Nhu mỉm cười: “Hồi
chiều Truheart có hỏi moa… Không sao, chắc chắn là tụi nó biết rồi nhưng cứ
việc tiến hành. Cần mần răng Thích Trí Quang không thoát khỏi ra Sài Gòn” Đại
Tá Tung quả quyết: “Ông Cố Vấn cứ yên tâm Trí Quang không thể nào thoát
khỏi”. Ông Nhu dặn thêm: “Phải biệt lập ông ta một nơi giao cho chú
mày phải trực tiếp khai thác… đối xử với ông ta như sĩ quan cấp Tướng” Ông
Nhu lại bảo ông Tung: “phúc trình ngay vào chiều mai. Vụ cháu ông Sinh
như thế nào? Nó tiết lộ gì thêm không?” Đại Tá Tung cho biết: “cháu
đang khai thác, những điều hắn tiết lộ đem đối chiếu với diễn tiến thì đúng” –
(cũng nên ghi thêm: ông Cửu Sinh là thân phụ của Đại Tướng Võ Nguyên Giáp – một
kỳ hào đại chủ ở làng An Xá thuộc Tổng Đại Phong cùng một Tổng với gia đình TT
Diệm – thời Pháp ông Sinh được hàm Cửu phẩm văn giai)
12 giờ đêm ấy, Đại Đức
Đức Nghiệp được điện thoại bí mật báo cho biết cảnh sát sắp sửa tấn công chùa.
Xá Lợi náo động – Hàng trăm tăng ni tín đồ tuy giao động mà thêm phấn khởi. Ông
Nguyễn cho biết: “Chúng tôi quyết một lòng tử thủ – số gạo dự trữ trong chùa
có thể ăn được hơn một tuần. Chúng tôi dự trữ đầy đủ tương, chao, muối, và
nước. Hàng chục thùng đèn cầy và dầu để đề phòng một khi chính quyền cúp điện
nước. Một số các Phật tử trẻ yêu cầu các Thượng Tọa Đại Đức lãnh đạo
tìm đường rút ra khỏi chùa nhưng Thượng Tọa Tâm Châu quyết định ở lại –
chính sự có mặt của các Thượng Tọa Đại Đức làm cho khí thế càng thêm mạnh.
Chúng tôi chuyển các chậu kiểng lên lầu và đó là khí giới tử thủ”.
12 giờ 30, cảnh sát đã
hoàn toàn phong tỏa quanh vùng Xá Lợi. Ông Trần Văn Tư làm Giám Đốc Cảnh Sát Đô
Thành trực tiếp nhận chỉ thị của Đại Tá Nguyễn Văn Y, Tổng Giám Đốc Cảnh Sát
Quốc Gia cũng như hai Tướng Đôn và Đính. Dưới quyền ông gồm có lực lượng cảnh
sát của quận III (cò Kính) và Quận I (Đại Úy Quyền) cùng lực lượng Cảnh Sát
Chiến Đấu của Thiếu Tá Dần. Mấy ông cò nhìn nhau một thoáng lo ngại. Trong
thoáng chốc, khu Xá Lợi bỗng nhiên huyên náo, tiếng máy xe nổ, tiếng người lao
xao, tiếng la hét thất thanh, chuông mõ khuya rầm rĩ. Hơn nửa giờ, toán
Cảnh Sát Chiến Đấu tiền phương không thể nào tiến vào được chùa… Gạch đá ném dữ
dội quá. Đại Úy Quyền bị chậu kiểng ném trúng, thương tích khá nặng. Hơn 10
cảnh sát chiến đấu bị loại khỏi trận. Qua máy, Tướng Đính hối thúc ông Tư: “Làm
gì mà lúng túng vậy, xáp đại vô” – Rồi đợt thứ 2, lại trận mưa gạch đá
và chậu kiểng, ghế, kể cả cánh cửa. Chuông mõ vẫn vang rền – những tiếng hò hét
thất thanh kêu cứu trong tuyệt vọng. “Bớ người ta cảnh sát phá chùa… Bớ
người ta cảnh sát giết thầy chùa chúng tôi”... Từng loạt đạn mã tử nổ càng
làm tăng không khí cực kỳ máu lửa, giao động… ông Nguyễn nói: “Lúc ấy
tôi không còn nghĩ gì hơn là chiến đấu cho đến chết để bảo vệ các thầy”
Trong tiếng la hét vẫn thỉnh thoảng xen lẫn tiếng tụng niệm của các vị sư già
và nữ Phật tử. Lần này Cảnh Sát chiến đấu lọt vào sân chùa. Hơn một nửa giờ
chiến đấu, sức chống cự của những người cố thủ kiệt dần… kiệt dần… Rồi
từng loạt nổ chát chúa… khói tỏa mù mịt. Ông Nguyễn nói: “Một trái lựu đạn
cay liệng vào đúng chân tôi… chịu không thấu, tôi quị ngay từ lúc ấy… Nước mắt
dàn dụa… mọi người kêu khóc”…
1g30 thì Cảnh Sát hoàn
toàn làm chủ tình thế. Cảnh sát viên Quý cho biết: “Tôi thuộc toán có phận
sự chiếm phương trượng – nơi có tượng Đức Thế Tôn – Ông Giám Đốc Tư chỉ thị cho
bọn tôi phải chiếm ngay phương trượng và đứng dàn bao quanh, cấm không được một
ai lai vãng. Không được sờ mó đến bất cứ một thứ gì”. Cảnh sát viên
Quý cho biết thêm: “Toán chúng tôi rút lui sau cùng, sau khi ông Giám
Đốc Tư khen ngợi bọn tôi và chính tôi được lệnh lấy hương đốt rồi vái Phật cho
đến lúc ấy đèn nến vẫn sáng trưng”.
Các Thượng Tọa, Phật
Tử đều ngất ngư… Nhiều người ngất xỉu vì hơi cay. Hòa Thượng Hội Chủ Tịnh Khiết
bị mảng của chậu kiểng bắn vào mắt. Ông Nguyễn nói: “Chúng tôi bị lùa lên xe
Camion. Nhiều người bị xỉu không đi nổi thì cảnh sát khiêng bỏ lên xe… Từ đó
tôi càng thêm căm thù chế độ Ngô Đình Diệm”
Cuộc lục soát chấm dứt
lúc 2g10. Tướng Đôn khen ngợi Giám Đốc Cảnh Sát Đô Thành và một số viên chức
cao cấp. Ông nói: “Lúc đầu moa tưởng các toa không vô được – chậm 15
phút nữa thì moa phải cho bọn Dù và Thủy Quân Lục Chiến thay thế các toa”.
Bác sĩ Lê Văn Triều
được chỉ định đặc biệt để trông nom về phần y vụ đối với các Thượng Tọa và Phật
Tử bị Cảnh Sát giam giữ tại bót quận 7.
Cùng một giờ với Xá
Lợi, chùa Từ Đàm, Diệu Đế tại Huế cũng như Ấn Quang và một số chùa trên toàn
quốc đều bị kiểm soát như vậy. Nhưng chỉ có chùa Từ Đàm, Ấn Quang, Xá Lợi sức
chống cự của Phật tử được coi là gay cấn mạnh mẽ.
Sau cuộc hành quân
Cảnh sát này, Đại Tá Tung cũng như hai Tướng Đôn, Đính đều hốt hoảng vì không
bắt được Thượng Tọa Thích Trí Quang. Cảnh Sát Đặc Biệt của ông Dương Văn Hiếu
trong khi lục xoát chỉ tìm được một tấm căn cước của Thượng Tọa Thích Trí Quang
cùng một số tài liệu và rất nhiều thư từ. Ông Giám Đốc Cảnh Sát Đô Thành báo
cáo cho biết, riêng khu vực Xá Lợi có 30 cảnh sát bị thương vì gạch đá và chậu
kiểng từ phía trên lầu ném.
Cùng lúc xảy ra cuộc
lục soát chùa Xá Lợi và Ấn Quang, Bộ Tư Lệnh Lực Lượng Phòng Vệ Thủ Tổng Thống
nhận được báo cáo: “có lính Lực Lượng Đặc Biệt xâm nhập yếu khu I và đã
chiếm Bưu Điện” Thiếu Tá Duệ xin chỉ thị của Tư Lệnh và mọi người
tưởng có binh biến. Sĩ quan Tùy Viên báo cho Thiếu Tá Duệ “giờ Tổng Thống
đang ngủ” – Sau đó Bộ Tư Lệnh mới được biết, Lực Lượng Đặc Biệt chiếm Bưu
Điện để kiểm soát các đường giây ra ngoại quốc.
3 giờ đêm, TT Diệm bị
đánh thức vì có điện thoại của Phó Đại Sứ Mỹ. Không hiểu ông Phó Đại Sứ Mỹ nói
những gì, tùy viên chỉ nghe thấy TT Diệm dằn giọng “Tôi rất tiếc, tôi chịu
trách nhiệm. Đó là việc nội bộ” . Ông Tổng Thống buông máy đứng lên buộc
lại chiếc cạp quần rồi mở cửa đi ra bao lơn.
4 giờ 30 ngày 21, Hội
Đồng Nội Các được triệu tập. Tất cả im lặng. Không khí nặng nề khó thở. Tổng
Thống Diệm lên tiếng. Ông tường trình về biến cố vừa qua. Không một ai lên
tiếng phản đối ngoại trừ bộ Trưởng Ngoại Giao Vũ Văn Mẫu thì cho rằng biến cố
hồi đêm tạo thêm khó khăn cho các vấn đề bang giao quốc tế đối với Việt Nam –
Phó TT Thơ phàn nàn, biến cố hồi đêm đã cắt đứt mọi cố gắng dàn xếp của Ủy Ban
Liên Bộ. TT Diệm tuyên bố: “Vì có tin VC sắp tràn vào thủ đô và tình hình an
ninh mỗi lúc một nguy, chính phủ phải hành động cương quyết và lãnh trách nhiệm
trước lịch sử”.
Tổng Thống Diệm ký sắc
lệnh 84/TTP ban hành lệnh giới nghiêm trên toàn quốc và giao cho Quân Đội trách
nhiệm bảo vệ an ninh trật tự. Thiếu Tướng Đính được cử làm Tổng Trấn Saigon Gia
Định.
Ngày 21-8, Đại Sứ Trần
Văn Chương từ chức Đại Sứ Việt Nam tại Mỹ nhưng ngày 22 chính quyền VN thông
báo ĐS Chương bị chấm dứt nhiệm vụ. Cũng vào ngày hôm đó, ông Nhu sửa soạn một
chuyến đi săn tại Bình Tuy nhưng phút chót bãi bỏ vì phải có mặt tại Sài Gòn để
đối phó với Tân Đại Sứ Mỹ Cabot Lodge.
Ngày 24, Bộ Trưởng
Nguyễn Quang Trình ký nghị định tạm thời đóng cửa các trường Đại Học, Trung Học
và Tiểu Học tại Saigon Gia Định nhưng chỉ một hôm sau trên 2000 sinh viên
Học Sinh lại biểu tình trước chợ Bến Thành. Vụ này, một thiếu nữ tên Quách Thị
Trang bị bắn chết – Hơn 1000 thanh niên bị bắt và đưa xuống Quang Trung.
Được tin, TT Diệm lại
nổi giận vì trước đó ông Lodge nói với TT Diệm rằng: “Cái chết này thêm một
bằng chứng để Cộng Sản tấn công Hoa Kỳ và càng làm khó khăn cho chính phủ
Kennedy trong việc trợ giúp Chính Phủ Việt Nam chống lại Cộng Sản” – Ông
Tổng Thống chỉ thị cho Đại Úy Bằng: “Mi xem ai giết nó” – Phía Tòa
Tổng Trấn thì đổ tội cho Cảnh sát nhưng Tướng Đôn cho rằng không thể biết rõ ai
bắn. Có thể là quân đội. Trong phần phúc trình trước Hội Đồng Tướng lãnh, Tướng
Đôn cho rằng đó chỉ là một cô gái quê. Tướng Oai cũng nói: “Chắc nó đi
chợ Bến Thành chẳng may gặp đám biểu tình rồi bị đạn lạc” - Quách Thị
Trang được đưa vào bệnh viện Đô Thành rồi đưa lên nhà thương Cộng Hòa cấp cứu.
Nàng tắt thở tại đây. Trong một tuần lễ, Cảnh Sát Đặc Biệt của ông Dương Văn
Hiếu không tìm ra xuất xứ của Trang cũng không rõ lý lịch của Trang nữa.
Nhưng từ đó, Quách Thị
Trang trở nên thần tượng để gây thêm phấn khởi và tạo dựng khí thế tranh đấu
trong hàng ngũ SVHS.
Cũng từ đây, cuộc đấu
trí giữa ông Ngô Đình Nhu và Cabot Lodge đã thực sự mở màn, gay cấn sôi nổi
từng ngày và qua từng pha “vật lộn” với ngôn ngữ đối thoại và “Cách
chơi” không kém tân kỳ. Nhưng ngay từ lúc mở màn trận đấu nghĩa là từ
khi Cabot Lodge đặt chân xuống phi trường Tân Sơn Nhứt, phía ông Nhu đã thua
thiệt vì lỗi lầm từ căn bản chiến lược đối với Cộng Sản cũng như đối với Mỹ qua
Cabot Lodge, Harriman- Hilsman.
Đối với Cộng Sản cũng
như đối với các phần tử CIA Mỹ (chống chính quyền Ngô Đình Diệm) “Vụ Phật
Giáo” với “danh nghĩa Phật giáo” chỉ còn là một cái chiêu bài quy tụ
để thu hút “quảng đại quần chúng ngoài đường” cái“lý luận tự
nhiên” của sự việc, bắt các biến cố phải mỗi ngày gia tăng trầm trọng.
Cộng Sản cũng như Mỹ qua Cabot Lodge đã thành công trong việc“xoay thế”
tìm “quyết định chiến lược” bằng chính trị “tập hậu” sau lưng
chánh quyền Ngô Đình Diệm! Chính quyền Ngô Đình Diệm chỉ còn hai ngả đường: một
là tìm kế dập tắt mau chóng nội vụ, hai là sụp đổ! (hoặc dập tắt không khôn
khéo, và sụp đổ theo sự vụng về của mình).
Đứng về phương
diện chiến tranh Cách Mạng Cộng Sản và kể cả mưu đồ theo chiến lược của Mỹ
qua nhóm “VN Task Force” mà xét thì thử xem chánh quyền Ngô Đình
Diệm đã đối phó ra sao, với sự “xoay thế” của địch – Chính quyền đã lỗi
lầm ra cái lệnh “cấm treo cờ” bất thích thời. Chính cái lỗi lầm mà bất
cứ chánh quyền nào thiếu sự cảnh giác, cũng có thể mắc phải với một bộ máy hành
chánh quen chiếu lệ (routinier). Điều đó không đáng trách lắm. Điều đáng trách
là, khi đã lỗi lầm rồi, không biết kịp thời khôn ngoan sửa lại, để đến nỗi bị
tràn ngập bởi các biến cố. Trước hết, chánh quyền không có một đường hướng dứt
khoát trong việc giải quyết vì không dựa vào sự phân tách thực tế khách quan,
mà chỉ dựa vào ý kiến (và cảm xúc) chủ quan của mình! Đầu tiên quen lệ khiển
chế các “tổ chức quần chúng” theo quan điểm chiến thuật, chánh
quyền cho là phải cương quyết bảo vệ uy tín, nếu cần bằng biện pháp mạnh. Rồi
vì áp lực của dư luận Quốc Tế, nhất là Hoa Kỳ, chính quyền đã nhượng bộ điều
giải. Nhưng trong lúc ấy thì một “tập thể quần chúng” của chính quyền
(mà dư luận có lý để đồng nhất dễ dàng với chánh quyền) Phong trào Phụ Nữ Liên
Đới bằng tiếng nói căm thù của bà Ngô Đình Nhu lại công khai thóa mạ đối
phương. Cuộc điều giải tất nhiên thất bại: và dư luận bênh kẻ yếu, tất nhiên
kết án chánh quyền là lừa gạt, giả dối! Tình trạng không thể kéo dài: Một
thứ Quốc Gia trong Quốc Gia. Chánh quyền Ngô Đình Diệm đã chọn biện pháp
dứt khoát thanh toán nội vụ vào cuối tháng 8-1963.
Về phương tiện thuần
chiến lược chiến tranh Cách Mạng Cộng Sản, biện pháp thanh toán ấy có thể biện
minh được dễ dàng: Phải phá tan âm mưu của Cộng Sản “xoay thế” đang
đi đến “quyết định chiến lược” bằng đòn chiến thuật “tập hậu” như
đã nói. Nhưng về phương diện trách nhiệm tinh thần, thì chính quyền phải chịu
trách nhiệm vì đã để cho “vụ Phật giáo” phát khởi, vì đã để cho nó
biến chuyển trầm trọng đến tình trạng nọ! Và tự nhiên dư luận sẽ dễ dàng đặt
câu hỏi: Phải chăng chánh quyền đã cố ý cho “vụ Phật Giáo” xảy ra như
vậy để lấy cớ “đàn áp Phật giáo“? Sau nữa về phương diện kỹ thuật của
biện pháp thanh toán, chánh quyền đã lầm lẫn tai hại. “Kỹ thuật hành quân“ có
thể nói là hoàn hảo, nhưng kỹ thuật bố trí chánh sự, thực là thấp kém.
Trước hết là vì chính quyền đã công khai và chính thức tự mâu thuẫn, tố cáo mấy
nhà sư “là Cộng Sản”(những người Cộng Sản mà chính quyền đã nuôi
dưỡng, o bế trong suốt 6 năm, mà chánh quyền mới mời ngồi cùng bàn họp!)
nhưng nhất là vì chánh quyền đã biện minh hành động của mình, căn cứ trên
một “kiến nghị” của một Hội Đồng Tướng Lãnh quân đội qua các phiên họp
(chiều 19 cũng như 20-8) yêu cầu chánh phủ hành động (cái kiến nghị đó chính
quyền tổ chức cho họ ký!) Hậu quả, của sự vận dụng thiếu sáng suốt đó là
chánh quyền đã vô hình kéo trở về chánh trường, một số quân nhân còn nhiều đầu
óc phong kiến, mà trong 8 năm trời, khó khăn lắm mới tạo cho họ được một truyền
thống quân sự mong manh: tuân theo mệnh lệnh và thi hành mệnh lệnh của uy quyền
chính trị?
Như thế chính quyền đã
mở đường cho mọi tham vọng và mưu đồ chính trị của một số người mang nhiều bất
mãn cá nhân với chính quyền một số người tư tưởng nghèo nàn, ý thức thấp và lương
tâm mong manh.
Hơn nữa chính quyền
còn tạo cho họ cơ hội “đoàn kết chống lại chính quyền “, khi dồn họ
vào chỗ cùng mang một mặc cảm tội lỗi (ký kiến nghị) một cơ hội đoàn kết mà
thực sự, tự họ, vì những mâu thuẫn tranh chấp cá nhân, họ không tài nào tạo ra
được mà có nhẽ họ cũng không dám hi vọng bao giờ có thể có.
Việc đến đã phải đến,
họ đã lật đổ chánh quyền Ngô Đình Diệm. Biến cố ấy, trên lý thuyết, có thể có
hại cho VNCH, lợi cho Cộng sản, mà ngược lại cũng có thể hại cho Cộng Sản và
rất lợi cho tiền đồ Việt Nam nói chung, và chiến lược chống Cộng Sản nói riêng,
tùy theo sự sáng suốt hay ấu trĩ của lớp người lãnh đạo mới. Thực tế đã trả lời
chúng ta từ ngày 1-11-63 cho đến hết thời với Nội Các Chiến Tranh Nguyễn
Cao Kỳ.
CHƯƠNG IV
DIỄN TIẾN CỦA MỘT CUỘC BINH BIẾN
BA PHIÊN HỌP LỊCH SỬ
Kể từ phiên họp lịch sử tại Câu Lạc Bộ – Bộ Tổng Tham Mưu
vào ngày 20-8, các tướng lãnh đã chính thức nhảy vào cuộc. Cũng từ đó, ông Nhu
chấp nhận đề nghị của Tướng Đôn để cho các tướng lãnh hội họp hàng tuần để thảo
luận và trao đổi ý kiến về các vấn đề quân sự. Đó cũng là cơ hội vàng son giúp
cho các tướng có cơ hội ngồi gần nhau mà trước đó họ hoàn toàn phân hóa. Mỗi
ông Tướng là một ốc đảo biệt lập, không những không thuận nhau mà còn kình
chống nhau vì quyền lợi và địa vị. Bây giờ thì ít nhất mỗi tuần các tướng đều
có lý do hội họp mà không ai nghi ngờ gì cả. Đại Sứ Cabot Lodge vẫn bí mật liên
lạc với một số tướng lãnh không qua ngả CIA mà do một số Tướng Tá cố vấn Mỹ.
Đại Sứ Cabot Lodge trong cuộc gặp gỡ riêng với ông Nhu vào đầu tháng 9 tại Đà
Lạt đã đưa ra 2 đề nghị:
1- Yêu cầu chính quyền VNCH tổng cải tổ và tiến dần lên một cơ
chế dân chủ rộng rãi như nền dân chủ tự do của Mỹ.
2- Điều cấp thiết là chính quyền Ngô Đình Diệm phải cải tổ
chính phủ có nghĩa là phải mở rộng chính phủ để các nhân sĩ quốc gia đối lập
tham chánh.
Trước 2 đề nghị đó, Ông Nhu trả lời ông Lodge:
Về đề nghị 1: VNCH đang có
chiến tranh cách mạng của Cộng Sản và Việt Nam hiểu rõ chiến lược chiến tranh
cách mạng của CS hơn bất cứ một quốc gia Tây Phương nào. Để đối phó với cuộc
chiến tranh đó, VNCH không thể thực thi một nền dân chủ theo kiểu Mỹ. Nhưng
theo ông Nhu, VNCH đang thực thi dân chủ từ hạ tầng thôn ấp qua tổ chức Ấp
Chiến Lược – Truyền thống xã hội Việt Nam và thực tại miền Nam không thích hợp
với dân chủ ở Mỹ và dân chủ ở xứ này phải hạ tầng đi lên chứ không thể chỉ
có những cơ chế dân chủ kiểu Mỹ ở thượng tầng.
Về đề nghị 2: ông Nhu phúc đáp
rằng: TT Diệm đang cứu xét – Tòa án quân sự tha bổng 29 nhân sĩ thuộc nhóm
Caravelle ngày 13-7- 63 là một thiện chí chứng tỏ chính phủ muốn dung hợp
đối lập hợp pháp.
Đại Sứ Cabot Lodge lại khuyến cáo: Vì chiến tranh mỗi lúc
một gia tăng, an ninh mỗi ngày một thêm xáo trộn và để đẩy mạnh nỗ lực chiến
tranh, ông yêu cầu chính phủ Ngô Đình Diệm giành 3 bộ là Nội Vụ, Quốc Phòng,
Công Dân Vụ cho 3 tướng lãnh.
Những điều Cabot Lodge khuyên cáo chỉ một ngày sau đã lọt
vào tai một số tướng lãnh. Chính viên Phó Giám Đốc CIA Smith đã kín đáo tung
tin này để thăm dò phản ứng các giới – chính quyền cũng như đối lập. Trung tuần
tháng 9, giới thân cận Dinh Gia Long xì xầm to nhỏ về nguồn tin Tướng Trần Văn
Đôn sẽ nắm Bộ Quốc Phòng – Tướng Tôn Thất Đính nắm Bộ Nội Vụ và Tướng Trần Tử
Oai nắm Bộ Công Dân Vụ – Bộ này sẽ cải danh – Riêng Tướng Nguyễn Ngọc Lễ sẽ
được thăng Đại Tướng nắm quyền Tổng Tham Mưu. Đây chỉ là dư luận và do chính
Tòa Đại Sứ thả trái ballon để thăm dò nhưng Tướng Lễ và Quân Ủy đảng Cần Lao do
Tướng Đính làm chủ tịch – lại tin là thực. Không hiểu Tướng Lễ có khoe với ai
không thì không rõ nhưng ông Lễ bị Tổng Thống gọi vào Dinh rầy la: “Anh nói cái gì nghe lạ rứa. Ai
biểu cho anh làm TTM trưởng” Tướng Lễ bị cụt hứng.
Đại Sứ Cabot Lodge đánh mạnh vào tham vọng chính trị của
một số tướng lãnh và gián tiếp cho các tướng biết rằng: Hoa Kỳ hoàn toàn ủng hộ
một cuộc cải tổ như vậy. Do đó, sau nhiều lần hội họp một số tướng lãnh bị mê
hoặc vì ba cái ghế Quốc Phòng – Nội Vụ – Công Dân Vụ.
Tương kế tựu kế, ông Nhu gián tiếp cho các Tướng Đôn Đính
biết rằng, TT Diệm muốn trao trọng trách cho “các
toa” (tướng lãnh)
nắm giữ ba bộ quan trọng trong chính phủ. Một lần ông Nhu nói với
Tướng Đính: “Mấy Bộ Trưởng
Dân sự chỉ ăn hại mập xác chẳng làm được cái trò trống gì. Lúc này các toa phải
giúp moa dẹp bớt mấy thằng ăn hại”. Lộng giả thành chân, mấy tướng lãnh
lại tin là sự thực mà sự thực ông Nhu cũng trình bày với TT Diệm “Đính hay
Lương giữ Bộ Nội Vụ thì cũng thế ăn thua là ở mình” – Nhưng TT Diệm lại cương quyết không
đồng ý vì ông cho rằng “Bộ
Trưởng chi… Bộ Trưởng thì phải có văn tự dân nó mới nghe, nó mới phục”
Sau một phiên họp quan trọng đầu tháng 8, Hội Đồng Tướng
Lãnh đã gửi lên TT Diệm một kiến nghị mệnh danh “Phiếu đệ trình Tổng Thống
Việt Nam Cộng Hòa – Tối Mật” ngày
3-9-1963 với một số đề nghị cải cách chính trị của chế độ qua 3 đề nghị:
1- Đòi hỏi một sự hy sinh nhỏ của gia đình Tổng Thống – Xin
Tổng Thống gởi ông bà Cố vấn Ngô Đình Nhu ra ngoại quốc hoặc vì lý do công vụ
(nghiên cứu tình hình Việt Nam). Sau đó vấn đề trở về sẽ do tình hình chính trị
định đoạt.
2- Xin thả ngay Sư, Sãi, Tăng, Ni, Sinh viên, Học sinh do
các lực lượng Cảnh Sát Chiến Đấu và Lực Lượng Đặc Biệt bắt giữ vì xét thấy tình
hình trở lại yên tĩnh sau khi đã loại trừ các phần tử Cộng sản.
3- Cho tự do tín ngưỡng: Tuyên bố và thực thi các điểm yêu
cầu của Phật Giáo bằng hành động. Cấm chỉ mọi bắt bớ giam cầm. Thực thi khoan
hồng toàn diện vô điều kiện với đoàn thể chánh trị, tôn giáo sinh viên, học
sinh tranh đấu Phật giáo.
Điều lạ là phiếu đệ trình tối mật này lại đặt ngay trên bàn
ông Nhu. Ông Nhu tỏ vẻ hài lòng chiến thuật giai đoạn đầu đã có kết quả
tốt đẹp. – Một cách gián tiếp ông Nhu đã thúc đẩy một số tướng lãnh theo ông
hoàn thành văn bản “phiếu đệ trình tối mật” này với mục đích: 1- làm một cú trắc
nghiệm thăm dò thái độ của một số tướng lãnh mà ông nghi ngờ có thể đứng lên
đảo chánh. 2 – Làm một “cú” xả
hơi để giải tỏa những bất mãn dồn nén trong một số tướng lãnh. 3- Làm một “cú”
thăm dò phản ứng của Đại Sứ Cabot Lodge.
Kể từ ngày “phiếu
đệ trình tối mật” gửi lên TT Diệm, các Tướng Đôn, Đính, Oai, Khánh thường
xuyên tiếp xúc với ông Nhu và chính các tướng này trở thành hậu thuẫn cho ông
Nhu và ông Nhu xử dụng phiếu đệ trình tối mật như một áp lực tinh thần để thỉnh
cầu ông anh Tổng Thống chấp thuận một số cải tổ quan trọng mà ông đã đề nghị
trên căn bản của chánh sách Ấp Chiến Lược.
Đại Sứ Cabot Lodge bằng cách này hay cách khác thúc đẩy các
tướng lãnh Việt nam đòi hỏi TT Diệm phải thực hiện ngay phiếu đệ trình tối mật
và có nghĩa chính phủ phải trao cho Tướng Đôn Bộ Quốc Phòng và Tướng Đính Bộ
Nội Vụ – Tướng Đính cũng như Đôn trong các lần tiếp xúc với ông Nhu vào cuối
tháng 9 đều nhắc khéo ông Nhu về mấy điểm yêu cầu kể trên – TT Diệm do dự không
quyết định. Cũng từ đầu tháng 9, ông Nhu bắt đầu nghi ngờ Bộ Trưởng Nguyễn Đình
Thuần vì cho rằng ông Thuần thân Mỹ và trở thành con bài của Mac Namara để thực
hiện chánh sách mới của Mỹ tại Việt Nam.
Ngày 10-9, bà Nhu cùng phái đoàn Quốc Hội lên đường xuất
ngoại để gọi là “giải độc” về
vụ Phật giáo. Cũng thời gian này, BS Trần Kim Tuyến, nguyên Giám Đốc Sở Nghiên
Cứu Chính Trị được cử qua Ai Cập nhận chức vụ Đại Sứ VNCH tại đây. Nhưng khi
đến Le Caire thì gặp trắc trở vì Ai Cập đã công nhận Đại Diện Bắc Việt và VNCH
từ chối không thiết lập bang giao trên cấp bặc Tổng Lãnh Sự.
Do đó BS Tuyến trở về Hongkong. Gia đình ông ở Saigon bị
nhóm Trần Văn Khiêm (em ruột bà Nhu) gây khó dễ và hăm dọa ném lựu đạn ám hại
vợ con ông. Cuối tháng 10 cơ quan Tình Báo Trung Ương nhận được một tài liệu
tối mật của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam – tài liệu này thu lượm được ở Cà Mau.
Trong đó, đầu não của Mặt Trận Giải Phóng Miềm Nam đã phân tích và điều nghiên
nội tình chế độ Ngô Đình Diệm nhất là sự ra đi của BS Tuyến người nắm tất cả
các đầu giây thuộc hệ thống Sở Nghiên Cứu chính trị. BS Tuyến rời khỏi cơ sở
này từ tháng 2 năm 1963 nhưng ở ngoài không một ai hay biết kể cả tướng lãnh,
bộ trưởng ngoại trừ môt số người thân tín. Qua tài liệu của Mặt Trận Giải Phóng
Miền Nam kể trên, Cộng Sản đã điều tra, nghiên cứu tình hình và sửa soạn phải
làm gì và ta làm như thế nào khi Saigon có đảo chánh.
Chiều ngày 5-10- 1963 ông Nhu vào tận Bộ Tổng Tham Mưu để
tham dự Hội Đồng Tướng Lãnh. Dịp này ông Nhu đề cập đến vai trò quan trọng của
Ấp Chiến lược và quân đội là một khả năng hữu hiệu nhất để hoàn thành vai
trò của Ấp Chiến lược. Ông Nhu cũng “tâm sự” với Tướng lãnh là hiện thời TT Diệm
đang bị một số Bộ Trưởng thối nát bao vây làm cản trở công trình phát triển Ấp
Chiến lược. Ông Nhu nói giọng nửa đùa nửa thực: “Như rứa thì làm được chi.
Các Toa phải đảo chánh chơi một đêm cho mấy tay ăn hại mập xác đó cho nó sợ”
Tuy nhiên, theo Tướng Huỳnh Văn Cao thì ông Nhu đã gằn
giọng nói: “nếu Tướng nào muốn đảo chánh chế độ này thì quân đội phải bắt
treo cổ ông ấy lên” – Dịp
này, ông Nhu đã công khai tiết lộ cho Hội Đồng Tướng Lãnh biết là một số đại
diện cao cấp của chính quyền Bắc Việt vào Saigon và yêu cầu gặp riêng ông Nhu
để nói chuyện.
TỪ BRAVO I ĐẾN BRAVO II
Sau khi tham dự Hội Đồng Tướng Lãnh, Tướng Nguyễn Khánh vào
gặp riêng ông Nhu cùng một nhân vật thân tín nắm ngành Tình Báo. Tướng Khánh
cho biết: đang có một số tướng tá âm mưu đảo chánh. Tướng Khánh lưu ý Đại Tá
Tung phải hết sức coi chừng tướng Lê Văn Kim, Trần Văn Đôn và Trần Tử Oai. Ông
Nhu chỉ thị cho Tướng Khánh, nếu bất cứ tướng nào móc nối thì cứ nhảy vô. Đó
cũng là điều mà ông Nhu căn dặn Tướng Đính.
Trung tuần tháng 10 tại Đà Lạt, ông Nhu cùng Tướng Khánh và
một số cộng sự viên thân tín cùng hoạch định một kế hoạch chống đảo chánh –
Theo kế hoạch này, nếu Saigon có đảo chánh, Tướng Đính bị cô lập thì Quân Đoàn
II với Sư Đoàn 23 do Đại Tá Lê Quang Trọng làm Tư Lệnh và Sư Đoàn 22 do Đại Tá
Nguyễn Bảo Trị sẽ là thành phần chủ lực, cắt đứt liên lạc giữa Cao Nguyên và
Sài Gòn. TT Diệm sẽ ẩn ở một nơi nào kín đáo ở Saigon. Ông Nhu sẽ theo lộ trình
hoạch định sẵn tìm lên Cao Nguyên. Sau đó, Quân Đoàn II sẽ phản công, phối hợp
với Quân Đoàn IV trở về giải phóng Thủ Đô.
Riêng tại Sài Gòn, ông Nhu trao cho Tướng Đính được toàn
quyền hành động. Tướng Đính đệ trình kế hoạch hành động chống đảo chánh được
thực hiện theo ý ông Nhu. Đây là kế hoạch phá tan âm mưu đảo chánh và thực hiện
một cuộc đảo chánh giả mệnh Bravo I – Lực lượng gồm có 3000 quân, 40 Thiết
Giáp, 6 Đại Đội Lực Lượng Đặc Biệt – Tướng Đính chính thức điều động lực lượng
này kể từ sáng 31-10-1963, dưới quyền là Trung Tá Nguyễn Ngọc Khôi và Đại Tá Lê
Quang Tung. Về Thiết Giáp có Trung Tá Nguyễn Văn Thiện.
Ngày 23-10 tại phòng khách Dinh Gia Long, có Đại Úy Minh,
Đại Úy Hoàn, Đai Úy Bằng, Tướng Đính với vẻ lo âu nói với số anh em này: “Nếu
có đảo chánh thì Ba Đính này phải nhảy vô không thì Mai Hữu Xuân nó giết hết
anh em bọn mình”.
Nhưng thay vì thực hiện cuộc hành quân chống đảo chánh,
tướng Đính đảo chánh luôn và cuộc hành quân này lại mệnh danh Bravo II thay cho
Bravo I
NGÀY N VÀ GIỜ G
Ngày 1-11-1963 nhằm phiên trực của Trung Sĩ Thái. Không khí
Bộ Tổng Tham Mưu ngay từ sáng sớm đã có vẻ bất thường. Một số sĩ quan nói nhỏ
với anh “sắp có chuyện nghe”. Lực lượng bố phòng tại Bộ Tổng Tham Mưu
không quá một Đại Đội và hầu hết là lính văn phòng. Khoảng 10 giờ ông Thái để ý
thấy một số binh sĩ thuộc Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung về tăng cường. Rồi
xe jep nườm nượp đi về phía tiền đình. Một điều lạ đối với Trung Sĩ Thái là Đại
Úy Nguyễn Văn Chuân ra khẩu lệnh : Các sĩ quan chỉ được vào mà không được ra kể
cả tướng lãnh. Gặp người tài xế của Đại Tá Lê Quang Tung, Thái hỏi nhỏ: “mấy trự hôm nay họp hành cái gì
mà quan trọng vậy” Người tài
xế nháy nháy cặp mắt ra vẻ bí mật rồi rồi nói nhỏ với Thái : coi bộ không êm mấy ông tướng muốn
làm tới ta, khoảng 11 giờ, vị sĩ quan trực thuộc phòng 4 đi tới cùng với
Đại Tá Chuân ra tận ngoài cửa rồi gọi Thái dặn dò. Bất cứ một xe nào vượt qua
phải ra lệnh tốp lại nếu cưỡng ra lệnh bắn bỏ kể cả xe Tướng. Cùng giờ đó, một
đoàn 4 chiếc Thiết Giáp đi qua cửa chính Bộ Tổng Tham Mưu lên thẳng Tân Sơn
Nhất rồi quay trở lại án ngữ phía cây xăng bên kia đường Võ Tánh, Bộ Tổng Tham
Mưu. Khoảng nửa giờ, bốn chiếc xe Thiết Giáp lại chuyển bánh trực chỉ Phú Nhuận
Khoảng 12 giờ, viên tài xế của Đại Tá Tung tìm đến Thái,
nói nhỏ: “Cậu giúp tớ việc này nếu xong sẽ có công lớn”. Nhìn quanh không thấy ai, viên tài xế
nói: “Đây số điện thoại đây
cậu gọi dùm tớ Trung Tá Huỳnh hay Thiếu Tá Triệu cũng được hoặc sĩ quan trực
của Bộ Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt cũng được. Cậu cấp báo cho họ biết Đại Tá
Tung mắc kẹt ở đây rồi” –
Trung Sĩ Thái thắc mắc: “Kẹt
là kẹt thế nào?” Viên tài xế
nói: “Kẹt là kẹt chứ còn kẹt gì nữa… mấy cha đang tính chuyện gì đó”. Trung sĩ Thái tìm cách liên lạc với
Thiếu Tá Lê Quang Triệu – em ruột Đại Tá Tung và là Tham Mưu Trưởng Lực Lượng
Đặc Biệt.
Cũng vào thời khắc đó, Hội Đồng Tướng Lãnh nhóm
họp. Đại Tá Nguyễn Văn Chuân được chỉ định phụ trách an ninh tổng quát trong
vòng thành Bộ TTM. Mở đầu buổi họp, Trung Tướng Dương Văn Minh với vẻ mặt giao
động nhưng cương quyết lên tiếng tuyên bố lý do buổi họp nghĩa là giờ hành
động đã đến… Kế hoạch đảo chánh nhằm vào ngày N (1-11) và giờ G (13 giờ) đã
thực sự mở màn. Trung Tướng Minh dứt lời – phòng họp yên lặng như tờ – thứ yên
lặng nghẹt thở. Từng khuôn mặt tướng tá đổi mầu. Những nụ cười tắt hẳn trên môi
– Mọi người đều ngỡ ngàng. Một số tướng tá trong cuộc ghé tai nhau xầm xì to
nhỏ.
Tướng Minh cũng lên tiếng kêu gọi tình chiến hữu nơi các
tướng tá và mọi người vì quyền lợi chung đối với Đất Nước này hãy gạt bỏ tình
cảm riêng tư để cùng nhau đoàn kết lật đổ chế độ hữu hiệu. Ông cũng nhấn mạnh
nếu chiến hữu nào chống lại, Hội Đồng Tướng Lãnh phải tạm thời cô lập ngay.
Đại Tá Lê Quang Tung đứng lên phản đối mưu đồ của Hội Đồng
Tướng Lãnh và ông cương quyết chống lại mưu đồ đó. Tướng Dương Văn Minh
gõ tay vào bàn rồi một cái lừ mắt của Tướng Kim, Đại Tá Tung liền bị Đại Úy
Nhung và hai nhân viên an ninh mời ra khỏi phòng họp. Ông Tung bị Nhung dẫn ra
khỏi tòa nhà lớn Bộ Tổng Tham Mưu. Đến lượt Đại Tá Huỳnh Hữu Hiển, Tư Lệnh
Không Quân phát biểu ý kiến. Ông cho biết ông luôn trung thành với chế độ Ngô
Đình Diệm vì theo ông, Tổng Thống Ngô Đình Diệm do dân cử và chính phủ Diệm hợp
pháp hợp hiến, ông chống lại việc lật đổ chính phủ. Tức thì, Đại Tá Hiển bị
nhân viên an ninh mời ra khỏi phòng họp và tạm giam trong phòng “cô lập các
sĩ quan chống đối“. Sau đó, Đại Tá Hiển cùng ông Trần Văn Tư Giám Đốc Nha
cảnh Sát Đô Thành bị Thiếu Tá Thiệt (QC) giải vào khám Chí Hòa. Riêng cuộc
thuyết phục Đại Tá Cao Văn Viên là gay hơn cả kéo dài cả nửa giờ song Đại Tá
Viên không lay chuyển – Viên Tư Lệnh Lữ Đoàn Nhẩy Dù – đã trả lời Tướng Minh
đại cương, là một sĩ quan, ông không muốn dính líu đến chính trị hơn nữa ông
chưa nhận được lệnh của thượng cấp nên đứng ngoài vụ này. Ông cũng lưu ý ông
không chống lại Hội Đồng Tướng Lãnh nhưng theo đảo chánh thì ông không theo.
Tức khắc, Tướng Minh ra lệnh cho Đại Úy Nhung giải Đại Tá Viên ra khỏi phòng
họp và cô lập ngay.
Buổi họp bế mạc – 1g30, tiếng súng nổ sau phía Tổng Nha
Cảnh Sát Quốc Gia – từ giờ phút đó. Trung Tướng Trần Văn Đôn trở thành nhân vật
chủ động số một. Đường giây điện thoại giữa Tướng Đôn và Đính hoạt động không
ngừng. Từng phút từng giây… tại Bộ tư lệnh Quân Đoàn III, Tướng Đính thực hiện
toàn bộ kế hoạch hành quân đảo chánh mang tên Bravo II
Thời khắc này, Bộ TTM qui tụ đầy đủ các tướng lãnh và một
số sĩ quan cao cấp nhưng lực lượng bảo vệ vẫn không hơn một Đại Đội với sự tăng
cường một đơn vị tân binh của Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung.
Thiếu Úy Chỉnh thuộc Bộ Tư Lệnh Đặc Biệt được tin Đại Tá
Tung bị bắt giam nên tức tốc kéo một Đại Đội đến cổng chính Bộ Tổng Tham Mưu
rồi dàn quân bố trí.
Với một lực lượng thiện chiến như vậy nếu tràn vào Bộ TTM
và tốc chiến tốc thắng thì lực lượng phòng vệ ở đây không thể đương đầu nổi.
Đại Tá Chuân được cấp báo đến nơi để dàn xếp. Thiếu Úy Chỉnh cho biết, ông đến
đây để kiếm Đại Tá Tung đang bị giam giữ. Đại Tá Chuân dùng lời ngon ngọt dụ
dỗ… Rồi bất thần viên Thiếu Úy này bị đoạt súng… Đại Đội Lực Lượng bộ binh bố
trí phía ngoài định khai hỏa làm dữ nhưng nhờ lời nói ngọt ngào của Đại Tá
Chuân, Viên Thiếu Úy rút lui êm đẹp. Sau đó, Đại Đội lên xe trở về căn cứ 77.
Một lát sau, Thiếu Tá Lê Quang Triệu – em ruột Đại Tá Tung
– Tham Mưu Trưởng LLĐB, được tin cấp báo đã cùng một trung đội võ trang đến Bộ
TTM xem sự thể ra sao hầu có thể giải cứu được Đại tá Tung. Nhưng khi đoàn tùy
tùng của Thiếu Tá Triệu lọt vào vào cửa chính Bộ TTM thì bị giải giới toàn bộ.
Thiếu Tá Triệu quay xe định vọt, tìm đường tẩu thoát. Xe ông bị bắn nổ lốp sau.
Nhờ một sĩ quan thân thiết, Thiếu Tá Triệu trốn thoát.
13 giờ hơn, từng loạt súng nổ chát chúa ở phía Bộ Tư Lệnh
Lực Lượng Đặc Biệt (trong vòng thành bộ Tổng Tham Mưu). Đó là loạt súng đầu
tiên của đơn vị truyền tin do Đại Úy Đỗ Luận chỉ huy tiến chiếm Bộ Tư Lệnh Lực
Lượng Đặc Biệt. Nhưng không đổ máu nhờ cuộc dàn xếp qua điện đàm giữa Đại Tá
Chuân và Trung Tá Huỳnh (Tư Lệnh Phó Lực Lượng Đặc Biệt). Kể từ phút đó, Bộ Tư
Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt bị giải giới – Cả khu vực Tân Sơn Nhất và Bộ Tổng Tham
Mưu lọt vào tay phe đảo chánh.
Cuộc đảo chánh hụt ngày 11-11-1960, lực lượng đảo chánh
(ngoại trừ Đại Tá Thi) hầu hết do sĩ quan cấp Tá và Úy trực tiếp điều động chỉ
huy. Các sĩ quan này đều thuộc thành phần trẻ, trên dưới 30 tuổi và được coi là
có tư cách, can đảm và đầy nhiệt huyết. Trong phút đầu “ra quân” dù chỉ có mấy tiểu
đoàn Nhảy Dù, lực lượng đảo chánh cũng làm chủ tình hình và làm tê liệt lực
lượng phòng bố của Lữ Đoàn Liên Binh Phòng Vệ Phủ Tổng Thống. Lực lượng đảo
chánh không xử dụng hỏa lực của Pháo Binh cũng không có lực lượng Thiết Giáp
nào tham dự.
Cuộc đảo chánh ngày 11-11-1963 lại hoàn toàn khác, phe đảo
chánh sửa soạn từ lâu có đầy đủ phương tiện lại được lãnh đạo bởi Hội Đồng
Tướng Lãnh.
Lực lượng của phe cách mạng gồm Bộ Binh, Pháo Binh, Thiết
Giáp, Công Binh, Thủy Quân Lục Chiến, Nhảy Dù và Không Quân. Tất cả đều thuộc
cấp đại đơn vị và các mục tiêu chính mà đơn vị này phải thanh toán là thành
Cộng Hòa và Dinh Gia Long.
Lực lượng Phòng Vệ thành Cộng Hòa và Dinh Gia Long tuy nói
là một Lữ Đoàn song quân số không quá 800 người, gồm 6 Đại Đội Bộ Binh, 4 Chi
Đội Thiết Giáp. Sáu Đại Đội Bộ Binh kể cả đội Quân Nhạc cùng các binh sĩ tạp
dịch, lính văn phòng thì đã có 3 Đại Đội phận sự giữ Dinh Gia long. Thành Cộng
Hòa chỉ còn 3 Đại Đội, trong đó có Đại Đội chỉ huy. Sĩ quan chỉ huy gồm 3 thiếu
tá trên dưới 30 tuổi và một số sĩ quan cấp úy khác. Tất cả đều đặt dưới quyền
chỉ huy của Thiếu Tá Nguyễn Hữu Duệ Tư Lệnh kiêm Tham Mưu Trưởng Lữ Đoàn, Thiếu
Tá Nguyễn Văn Hưởng, Tham Mưu phó và Thiếu Tá Huỳnh Hữu Lạc chỉ huy đoàn cận vệ
đều ở trên Dinh Gia Long.
Trung Úy Bảo trưởng phòng V, LĐLBPV/PTT và nhiều chứng nhân
khác trong hàng hạ sĩ quan và binh sĩ có mặt từ đầu cho đến kết thúc đều cho
rằng chuyện diễn ra bình thường không có gì gọi là ác liệt. Nếu nói là ác
liệt thì chỉ có pháo binh “tấn công” ác liệt nhất (pháo binh
thuộc Sư Đoàn 5 BB)
Ngày 1-11 là ngày nghỉ, Trung Úy Bảo đang ở nhà bỗng trong
Lữ Đoàn cho gọi vào gấp. Lúc ấy vào khoảng 9 giờ sáng. Nhân chứng được Trung Tá
Khôi, Tư Lệnh Lữ Đoàn giao phó cho công tác soạn bài học tập và thuyết trình
vào lúc 2 giờ cùng ngày. Trong Lữ Đoàn đều có chương trình học tập vào mỗi buổi
thứ ba và thứ sáu. Nhân chứng được Trung Tá khôi cho biết: “Chiều nay nếu 2
giờ tôi đi họp chưa về thì anh cứ cho tập họp ở Hội Trường rồi mời Thiếu Tá Duệ
xuống làm chủ tọa”.
Lúc ấy Trung Tá Bảo ngồi ở ngoài nhìn vào phòng trông thấy
Trung Tá Khôi và Thiếu tá Duệ đang to nhỏ bàn bạc với một vẻ khác lạ. Nhân
chứng tự nghĩ: “Chắc có chuyện gì quan trọng đây.” Tình hình Saigon
lúc ấy thật ngột ngạt. Nay có tin đảo chánh mai có tin lật đổ Tổng Thống Diệm.
Nhất là đài VOA luôn luôn có những bài bình luận và tin tức hoàn toàn bất lợi
cho chính quyền Ngô Đình Diệm và càng làm tăng không khí giao động bất trắc vốn
âm ỉ trong lòng thủ đô Saigon.
Sau khi soạn xong các tài liệu học tập, Trung Uý Bảo xách
radio ra hành lanh nhìn trời vu vơ không hiểu mai đây tình hình biến chuyển như
thế nào. Đã có bao nhiêu dấu hiệu báo trước cơn giông bão sắp bùng dậy. Nhưng
bao giờ, như thế nào, sẽ tàn phá ra sao và làm sụp đổ những gì?
Một số sĩ quan trẻ trong Lữ Đoàn thuộc thành phần thân cận
của TT Diệm và ông Nhu cũng cảm thấy sự ngột ngạt bất trắc nào đó. Vị Tư Lệnh
và Tư Lệnh phó của họ mấy tháng gần đây lo lắng trông thấy và nhiều đêm mất ngủ
cho nên họ cũng phập phồng hoang mang.
Ngày 27-10, Đại Úy Hoàn tháp tùng TT Diệm lên Đà Lạt cùng
đi có vợ chồng ông Đại Sứ Cabot Lodge và Đại Tá Lu Conein.
Nhân chứng đi theo sau ông Lodge, ông ta đội chiếc nón lá
Việt Nam, Tổng Thống Diệm vận complet mầu nâu nhạt, cầm can, đi trước ông Lodge
đến thăm một Ấp Chiến Lược kiên cố.
Dịp này TT Diệm đã tặng Đại Tá Lu Conein chiếc gậy do một
nông dân trong ấy tặng Tổng Thống. Tối hôm đó Tổng Thống thết cơm vợ chồng ông
Lodge tại Dinh ở Đà Lạt . Trong cùng thời khắc, Đại Úy Hoàn nghe đài VOA vẫn
một luận điệu công kích kịch liệt chế độ Ngô Đình Diệm.
Nhân chứng hồi tưởng lại cách đó không bao lâu, trong
chuyến kinh lý tại Cam Ranh, trước mặt tướng Khánh và một số viên chức cao cấp,
Tổng Thống Diệm chỉ vùng núi non và bãi biển Cam Ranh rồi nói với mọi người
(trong đó có Thiếu Tướng Khánh, Trung Tá Nguyễn Viết Khánh, Tỉnh Trưởng Phan
Rang): “Mỹ nó thích căn cứ này lắm, nhưng tôi không chịu“. Lời nói ấy
cứ mỗi ngày vang động trong ký ức nhân chứng và tạo nên bao nhiêu nghi vấn.
Dạo này, nhân chứng quan sát thấy TT Diệm có vẻ hốc hác,
đăm chiêu và càng khắc khổ. Thường lệ, ông Diệm đi ngủ lúc 1 giờ đêm và 5 giờ
sáng đã dậy. Nhưng từ đầu năm 1963 có nhiều đêm nhân chứng thấy TT Diệm trằn
trọc thức gần trắng đêm. Ông hút thuốc liên miên.
Nhân chứng nhớ lại, vào cuối tháng 7-1963 nhân chứng đã
được tai nghe mắt thấy Tổng Thống Diệm lẩm bẩm nói chuyện một mình. Ông Diệm
nhiều lần độc thoại như vậy nhưng lần này thì khác, khiến nhân chứng càng thêm
xao xuyến.
GIẤC MƠ TRỞ VỀ
Lần ấy, vào khoảng 2 giờ đêm, nhân chứng đang thiu thiu ngủ
(vì Đại Úy Hoàn phải trực đêm) bỗng viên cận vệ chạy vào phòng gọi: “Thưa Đại Úy Tổng Thống đi…” Vì ở trong Dinh đã lâu năm nên nhân
chứng không lấy gì làm ngạc nhiên. Lâu lâu, TT Diệm lại làm một chuyến du ngoạn
trong đêm như vậy.
Vẫn theo thường lệ Đại Úy Hoàn đi dép mặc quần jean, áo bỏ
ngoài quần. Nhân chứng dắt khẩu rouleau vào lưng…. rồi theo sau Tổng Thống Diệm
cùng với viên cận vệ (có phận sự ngồi gác ở phòng riêng của Tổng Thống)… Lâu
nay Tổng Thống Diệm không đi đâu xa. Ông ra đứng trước bao lơn Dinh Gia Long,
nhân chứng và viên cận vệ đứng sau lưng Tổng Thống chừng vài ba bước. Đó là
thông lệ của sĩ quan tùy viên và cận vệ của một Tổng Thống trong thời buổi lộn
xộn. Như mọi lần, Tổng Thống Diệm xuống vườn xem cây cối và hoa hoặc đi thơ
thẩn ngắm cảnh thiên nhiên. Nhưng lần này lại không như vậy, Tổng Thống Diệm
chỉ đứng ngước mắt nhìn trời mây, Ông đứng như chôn chân trên thềm bao lơn. Ông
đứng lâu chưa từng thấy. Nhân chứng lấy làm lạ vì Tổng Thống đứng như vậy đến 40
phút và ông chỉ nhìn trời rồi miệng lẩm bẩm. Nhân chứng và viên cận vệ
càng phải đứng im phăng phắc không dám gây một tiếng động nào. Nhưng nhân chứng
nghe câu được câu chăng. Nhân chứng cũng chả quan tâm vì 5 năm sống cạnh Tổng
Thống Diệm, nhân chứng đã quá quen thuộc với nếp sống riêng tư của Tổng Thống.
Nhưng có câu này Tổng Thống Diệm nói khá lớn, cả nhân chứng và cận vệ đều nghe
rõ. Câu nói được ghi lại như sau:
“Thôi, sang năm thì mình xin về, mệt quá rồi…
mình xin về phụng dưỡng bà cố. Nhưng muốn xin về Ông Nhu lại cứ bắt mình phải
làm”.
Câu nói trên đây được Tổng Thống Diệm nhắc đi nhắc lại rồi
ông lại lẩm bẩm, mắt nhìn trời xa xăm.
Rồi khi quay lại phía sau lưng, Tổng Thống Diệm giật mình
tròn mắt nhìn sĩ quan tùy viên và viên cận vệ. Ông có vẻ kinh ngạc trước sự
hiện diện của hai người thân cận. Nhưng không nói gì, rồi lặng lẽ về phòng
riêng. Đại Úy Đỗ Thọ cũng bắt gặp một lần Tổng Thống Diệm độc thoại tương tự
như vậy vào một đêm tháng 7.
BẮT ĐẦU NỔ SÚNG
Hồi tưởng lại như vậy rồi qua dư luận qua đài VOA, Tùy Viên
Lê Công Hoàn linh cảm thấy một cơn giông bão nào đó sắp bùng lên.
Cơn giông bão đó đã đến. Khoảng 1 giờ 15 trưa ngày 1-11,
Thượng Sĩ Thám đang sửa soạn lên giường ngủ, nhắm mắt cho qua ít phút. Bỗng
Thiếu Tá Duệ nói lớn: “Quan sát lại xem thế nào?” Theo phản ứng tự
nhiên, nhân chứng vùng dậy chạy ra hành lang.
Thành Cộng Hòa vẫn im lìm trong buổi trưa nắng gắt. Lúc ấy
Thiếu Tá Duệ vẫn còn mặc may-ô, chân đi dép. Ông đang đứng trước cửa phòng
riêng của ông (sau này trở thành trụ sở Wud thuộc khu đại học Cường Để) chỉ một
lát sau, Thượng Sĩ Thám thấy một sĩ quan từ lầu trên chạy xuống báo cáo với
Thiếu Tá Duệ: “Từ phía ngã tư Đinh Tiên Hoàng, Phan Đình Phùng
(Dakao) tôi thấy lố nhố chúng đang đi lom khom tiến theo vỉa hè… Có đứa thì nằm
súng chỉa về thành”. Viên sĩ
quan xác nhận: “đây là lính
Thủy Quân Lục Chiến” – Thiếu
Tá Duệ nhún vai “làm gì có chuyện lạ” – Ông trở vào phòng mặc vội quần
áo rồi đặt khẩu Rouleau bên lưng. Từ lúc đó Trung Úy Bảo, Thượng sĩ Thám luôn
luôn có mặt bên ông Duệ. Việc đầu tiên các nhân chứng thấy Thiếu Tá Duệ quan
sát lại cho kỹ, ông cũng nhận ra như vậy nghĩa là Thủy Quân Lục Chiến đang tiến
về thành Cộng Hòa. Thiếu Tá Duệ nhăn trán, lắc đầu: “Chuyện lạ nhỉ. Giờ này
làm gì có lính tráng nào tập dượt”.
Hơn nữa khu vực này được coi là yếu khu số 1, không một lực
lượng nào được lai vãng đến đây mà không phải thông báo cho Lữ Đoàn biết trước.
Ông Duệ quay máy gọi Biệt Khu Thủ Đô. Phía bên đầu giây kia là Thiếu Tá Dụ.
Thiếu Tá Duệ hỏi: “Đằng Biệt Khu có lệnh cho đơn vị nào di chuyển ở Đặc Khu
1 không?” Đặc Khu 1 tức là
vùng Dakao và thuộc phạm vi thành Cộng Hòa. Thiếu Tá Duệ lắc đầu nói với nhân
chứng: “Lạ nhỉ, Biệt Khu Thủ Đô Thiếu Tá Dụ cũng không hay biết gì cả.” Sau khi quan sát lại một lần nữa với
nhiều dấu hiệu khả nghi, Thiếu Tá Duệ ra lệnh báo động. Từ lúc ấy thành Cộng
Hòa thức giấc trong cơn nôn nóng của buổi trưa. Sàigon nắng như thiêu. Tiếng
còi vang lên khua động doanh trại… Khoảng 15 phút sau, tất cả đều ở
thế tác chiến. Quân nhân ở trại gia binh kế cận cũng lần lượt trở vào
thành gần đủ mặt. Những khẩu đại liên 30 nòng đen ngòm đều chĩa về phía Đinh
Tiên Hoàng – Nguyễn Bỉnh Khiêm. Tất cả đều chuyển dịch.
Đằng xa Thủy Quân Lục Chiến vẫn lố nhố vào gốc cây hay tiến
bên vỉa hè và mỗi lúc càng di chuyển lại gần hơn.
Một sĩ quan bảo ông Duệ: “Mục
tiêu ngon lành quá. Cứ thế mà cho đại liên quạt thì đi đời hết cả bọn”. Một sĩ quan đứng chép miệng: “tụi này sao ngu quá vậy, không
biết thằng nào chỉ huy mà sao ngu quá ta!”
Trong lúc đó Thiếu Tá Duệ cầm máy gọi về Dinh Gia Long.
Ông quay lại mỉm cười nói với mọi người: “lạ nhỉ trên đó cũng không biết gì
hơn”. Ông cho gọi Đại Úy
Nuôi trưởng phòng III đến trình diện. Và cùng ông xem xét tình hình. Từ phía
xa, TQLC vẫn theo đội binh hàng dọc đang tiến lên. Chẳng bao lâu toán tiền
phương đã lô nhô ở phía sau sân Hoa Lư. Có biến thật rồi.
Trong thành tất cả chỉ còn chờ lệnh nẩy cò. Lính trong
thành có đủ lợi điểm nhất. Chỉ cần 2 khẩu đại liên bắn chéo cánh sẻ thì toàn
tiền phương của TQLC sẽ gục hết ngay phút đầu. Trung Úy Bảo thấy anh em TQLC
vẫn đi khơi khơi như không có vẻ gì đi hành quân tác chiến cả.
Ngay lúc ấy, Thiếu Tá Duệ ra lệnh cho một số sĩ quan chỉ
huy hai xe Thiết Giáp tiến ra bọc phía sau, ông nói: “anh bắt sống mấy
thằng chỉ huy mang về đây cho tôi”.
Giữa lúc ấy một Tiểu đội TQLC vẫn tiến lại. Tiếng loa trong
thành hô đứng lại… Toán lính này nằm rạp xuống rồi khom lưng, bò tiến lên.
Tiếng hô vang lên lần nữa rồi 1, 2, 3… môt loạt súng đại liên nổ chát chúa.
Ngay trong loạt súng đầu có 4 TQLC gục ngã. Đám còn lại chạy dạt vào phía bên
trong thành tường sân Hoa Lư.
GIỜ ĐÃ ĐIỂM
Rồi 1g30 ngày 1-11-1963 giờ phút quan trọng của lịch sử đã
điểm. Một loạt đại bác 105 nổ vàng rền và rất trúng mục tiêu. Có viên nổ giữa
sân, có viên nổ trúng một phía doanh trại. Tiếp theo là 4 chiến khu trục tới
bắn hỏa tiễn.
Lúc ấy binh sĩ trong thành Cộng Hòa bắt đầu cảm thấy thực
sự đang có biến động. Rồi lại từng loạt nữa… tiếng nổ chát chúa vang rền. Trong
thành vẫn chưa có ai bị thương.
Từ lúc ấy Thiếu Tá Duệ mới xuống phòng chỉ huy để điều
động. Ông nói với các sĩ quan: “Có đảo chánh thật các cậu ạ… không hề gì…
người nào có nhiệm vụ nấy…” Ông
ra lệnh cho Trung Úy Bảo theo chân hai Thiết Giáp tiến ra khỏi thành. Ông Bảo
yêu cầu: “Thiếu Tá cho quạt vài ba tua nữa… bọn nó đang lố nhố đầy ở sân
Hoa Lư mục tiêu ngon quá đi”. Ông Duệ không cho khai hỏa tiếp rồi bảo nhân
chứng ra tìm cách thuyết phục và hỏi nguyên do xem sao! “Anh em nhà cả mà!”
Nhân chứng đứng bên đây đường, vác loa gọi đại cương: “A lô! A lô… Tôi Trung Úy Bảo đây
nguyên trưởng phòng II trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt đây”.
Nói như vậy vì ông biết chắc thế nào trong đám sĩ quan đó
cũng có chàng là bạn ông hoặc cựu sinh viên trường Võ Bị Đà
Lạt.
Ông Bảo lại lên tiếng một lần nữa : “A lô! Bảo đây xin các anh đừng có
dại dột, nghe theo ai, đừng có dại dột chết oan uổng cho một mưu đồ nào“.
Quả nhiên khi nhân chứng ngưng lời thì từ phía bên kia sau sân Hoa Lư có một sĩ
quan lên tiếng: “A lô… Trung Úy Bảo phải không? A lô Thinh đây” Rồi có tiếng nổ phía xa.
Có tiếng hô ngưng bắn, Trung Uý Bảo liền băng qua đường
Hồng Thập tự về đi về phía Thinh. Theo sau ông là một người lính.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét