Thứ Bảy, 16 tháng 3, 2013

HUỲNH NGOC CHÊNH TRÒ CHUYỆN VỚI RFA

Nguyễn Khanh (RFA) - Ông Huỳnh Ngọc Chênh có buổi trò chuyện với RFA sau khi nhận giải Netizen 2013

Báo”Lề Dân” và báo “ Lề đảng”


Nguyễn Khanh: Thay mặt cho quý khán giả của đài Á Châu Tự Do một lần nữa xin chúc mừng anh Chênh và mừng gặp lại anh bạn của chúng tôi.Trong bài phát biểu của anh, anh có nói đến chuyện báo “Lề Dân” và báo “Lề đảng”, báo nào đang mạnh, thưa anh?

Thứ Sáu, 15 tháng 3, 2013

GÓP Ý DỰ THẢO SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP 1992: MỘT TRÒ MÈO BỈ ỔI CỦA CỘNG SẢN VIỆT NAM

Nguyễn Thu Trâm, 8406
Làm trò mèo vốn là thói thường của chế độ cộng sản bởi Chủ Nghĩa Xã Hội và Chủ Nghĩa Cộng Sản thực ra không hề tồn tại trong xã hội loài người, mà chỉ là một sản phẩm của chứng hoang tưởng do một số triết gia bệnh hoạn về tâm thần như Karl Marx, Engels và Lenin tưởng tượng ra. Bởi đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu mà những kẻ bệnh hoạn đó đã gặp nhau về phương diện tư tưởng, và đã mang lại một mối hiểm họa khó lường cho nhân loại. Và, ở Việt Nam cũng có một số kẻ đồng bệnh tương lân với các nhà tư tưởng tâm thần đó, nên cũng đã mang họa hại khôn lường cho đất nước và dân tộc Việt Nam.

MỆNH LỆNH TỪ TRÁI TIM

Bác Sỹ NGUYỄN QUÝ KHOÁNG
BS Nguyễn Quý Khoáng
Tâm sự của một trí thức Việt Nam trước hiện tình đất nước
Trước tình hình đất nước ngày càng xuống dốc về xã hội, văn hoá, kinh tế, chính trị… nhất là tương lai Đất nước rất đen tối trước hoạ xâm lăng của Trung Quốc, là người trí thức Việt Nam, tôi tự thấy lương tâm bị cắn rứt khi cứ im lặng chấp nhận những điều chướng tai gai mắt diễn ra hàng ngày cũng như nghe những lời than vãn của đồng bào mình.
Mục sư Martin Luther King có nói:

– “Kẻ nào chấp nhận cái ác mà không phản đối chắc chắn là tiếp tay cho cái ác lộng hành” (He who accepts evil without protesting against it is really cooperating with it); và:

CHUYỆN SÚC VẬT VÀ CHUYỆN KIỂM DUYỆT


Quyển truyện nổi tiếng của George Orwell, Trại Súc Vật, chống và châm biếm chế độ độc tài kiểu cộng sản, được xuất bản ở VN, rồi có tin nó bị thu hồi. Thực hư ra sao? Cây kéo khắc nghiệt của nền kiểm duyệt cộng sản họat động ra sao?
Sợ cái “Xã Hội Chủ Nghĩa” từ những năm 40
Quyển sách truyện nổi tiếng của văn hào Anh George Orwell, Trại súc vật (Animal Farm) vừa được xuất bản tại Việt Nam.

ĐỌC LẠI "TRẠI SÚC VẬT"

Christopher Hitchens
Vẫn bị nhiều chế độ trên thế giới cấm đoán, Trại súc vật (Animal Farm) luôn là khối thuốc nổ chính trị – đến nỗi suýt chút nữa tác phẩm này đã không bao giờ được xuất bản. Christopher Hitchens bàn về “truyện cổ tích”vượt thời gian, siêu việt của George Orwell.
Lừa và lũ lợn trong bộ phim Trại súc vật năm 1954.
Ảnh: Halas & Batchelor
 Trại súc vật, theo lời của chính tác giả, “là cuốn sách đầu tiên mà trong đó tôi đã cố hòa quyện mục đích chính trị và mục đích nghệ thuật thành một, và tôi hoàn toàn ý thức rõ mình đang làm gì”. Và quả thực những trang sách của tác phẩm này tổng hợp nhiều chủ đề trong số những chủ đề mà xưa nay chúng ta đã đúc kết là “mang tính Orwell”.[i] Trong số những chủ đề này có nỗi căm ghét bạo chúa, tình yêu thương loài vật và miền đồng quê nước Anh, và sự ngưỡng mộ sâu sắc đối với những truyện ngụ ngôn trào phúng của Jonathan Swift. Ta có thể lồng thêm vào danh sách này ước nguyện thiết tha của Orwell muốn nhìn đời từ góc độ của tuổi thơ ấu trong trắng: ông vẫn hằng mong được làm cha và, do sợ mình bị vô sinh, ông đã nhận một cậu bé làm con nuôi trước khi người vợ đầu của ông qua đời rất lâu. Cái tiểu đề có phần châm biếm của cuốn tiểu thuyết này là “Truyện cổ tích”, và Orwell rất vui khi nghe những người bạn như Malcolm Muggeridge và Sir Herbert Read kể con họ rất thích đọc cuốn sách này.

TRẠI SÚC VẬT

George Orwell

LỜI TỰA
Trại Súc Vật được in ở Anh ngày 17 tháng 8 năm 1945 và một năm sau thì được in ở Mĩ. Trước đó George Orwell đã cho xuất bản 9 đầu sách với tổng số bản in cả ở Anh và Mĩ là 195 500 cuốn. Sau chiến tranh thế giới thứ II do thiếu giấy nên số lượng bản in hạn chế, tuy vậy cho đến khi Orwell mất vào tháng giêng năm 1950 đã có tất cả 25 500 cuốn Trại Súc Vật được in ở Anh và 590 000 cuốn được in ở Mĩ. Điều đó nói lên thành công to lớn và ngay lập tức của tác phẩm. Sinh thời Orwell tác phẩm này đã được dịch ra tất cả các ngôn ngữ chính của châu Âu cũng như các thứ tiếng như Telugu (một dân tộc thuộc bắc Ấn Độ), Ba Tư, Aixlen và Ukraine. Sau hơn 50 năm kể từ lần xuất bản đầu tiên, tác phẩm đã được dịch ra 68 thứ tiếng trên thế giới và thuờng xuyên được tái bản. Trong lần bình chọn 100 tác phẩm hay nhất trong thế kỉ XX do nhà sách Random House tiến hành, Trại Súc Vật được xếp thứ 31.

Thứ Năm, 14 tháng 3, 2013

GIẢI PHÓNG: NỖI KINH HOÀNG CỦA NGƯỜI DÂN NAM VIỆT

 
Ngày nay hầu như nhân loại trên khắp hoàn cầu đều lấy năm Chúa Kitô giáng sinh làm mốc định thời gian, chúng ta đang ở vào năm 2010, tức là 2010 năm kể từ ngày Chúa giáng thế. Nhiều sự kiện khoa học hay lịch sử cũng được xác định dựa trên mốc thời gian này cho dù những dữ kiện đó hoàn toàn không liên quan gì đến niềm tin tôn giáo hay tín ngưỡng. Chẵng hạn nhà toán học Pythagore sinh năm 580 và mất năm 500 trước Công Nguyên, Tề Hoàn Công trị vì từ năm 685 đến năm 643 trước Công Nguyên… Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng xảy ra năm 42 sau Công Nguyên… Các văn bản bằng tiếng Anh thì dùng BC (before Christ) hoặc AD (Anno domini) để chỉ những sự kiện xảy ra trước hoặc sau Thiên Chúa giáng thế. Riêng người Việt nam chúng ta từ trong Nam ngoài chí Bắc từ sau 30 tháng tư năm 1975 lại có một mốc định thời gian mới: “hồi trước giải phóng” hay “hồi sau giải phóng”, tất nhiên người Việt mình nghe mãi rồi quen tai và không thấy gì phản cảm khi dùng hoặc nghe cụm từ này… Nhưng khi tôi vô tình dùng nó lúc nói chuyện với một đồng nghiệp người nước ngoài rằng “…after the liberation of the south…” thì ông ta sững sốt hỏi ngay rằng “… liberation from what?…” – Giải phóng khỏi cái gì? Thì tôi mới hốt hoảng với cách dùng cụm từ này để định mốc thời gian của người Việt… bởi đối với hầu hết người Việt, nhất là người miền Nam hoặc đối với cả đồng bào miền Bắc di cư vào Nam năm 1954 nữa, thì “giải phóng” là một nỗi ám ảnh trong cả đời người…

Thứ Bảy, 9 tháng 3, 2013

Thứ Tư, 6 tháng 3, 2013

CÁI KHỐC HẠI CỦA ĐỘC ĐẢNG


Khi tôi gửi những bài viết đầu tiên cho Ban biên tập Cùng Viết Hiến Pháp, tôi có nhắn gửi rằng, tôi hiểu việc ký tên vào bản Dự thảo Hiến pháp của nhóm 72 trí thức, cũng như việc tham gia trang Cùng Viết Hiến pháp, không đơn thuần chỉ là để có một bản Hiến pháp tốt, mà cái quan trọng hơn là để thức tỉnh người dân về quyền và trách nhiệm công dân của mình.

Chủ Nhật, 3 tháng 3, 2013

TÔI PHẢI SỐNG - PHẦN I và 2

Phần Một 
CUỘC ĐỜI VÀ BÓNG ĐEN

Vào Chuyện 
Chiếc xe ca đông nghẹt hành khách dừng lại ở một trạm trên đường phố chánh của thủ đô Hà Nội bên cạnh một công viên. Nhiều hành khách chen nhau bước xuống xe. Nhóm chúng tôi gồm ba người tù vừa được tha từ trại Nam Hà cũng bước xuống. Trong nhóm có thầy Kỳ, một chủng sinh ở miền Bắc làm hướng dẫn viên, còn anh Nguyễn Đức Khuân và tôi là dân miền Nam bị đưa ra Bắc ở tù, và cả hai mới đặt chân xuống đất Hà Nội lần đầu nên chỉ biết rảo bước theo sau thầy Kỳ. 

TÔI PHẢI SỐNG - PHẦN 3 VÀ 4

Bút Ký của Lm. Nguyễn Hữu Lễ
Phần Một: CUỘC ĐỜI VÀ BÓNG ĐEN
Cảnh chợ chiều

Từ sau biến cố đó không bao giờ cha Tỏ bước chân xuống trường chúng tôi nữa, mặc dù ngài vẫn là hiệu trưởng ký tên trong giấy tờ nhà trường. Mấy tháng sau, Thầy Quý từ giã chúng tôi ra đi và trở về Sài Gòn, mặc dù thầy không nói nhưng tôi hiểu được lý do sự ra đi của thầy. Lòng tôi buồn vô hạn khi phải chia tay với con người có mặt từ đầu và có công rất nhiều với ngôi trường Minh Đức. Ngoài ra thầy Quý còn là bõ đỏ đầu của tôi, thầy rất thương tôi và để lại trong lòng tôi một kỷ niệm nhớ đời, đó là việc thầy dẫn tôi đi Sài Gòn lần đầu tiên.

TÔI PHẢI SỐNG - PHẦN 5 VÀ 6

TÔI PHẢI SỐNG - PHẦN 5
Bút Ký của Lm. Nguyễn Hữu Lễ  

   Vị Giám Mục Phó 
Chúng tôi đi xuống trở lại ngang nhà ăn và qua dãy nhà kế bên để tới phòng Giám mục Nguyễn Văn Sang nằm ngay ở đầu nhà. Tôi cũng chỉ nghe nói tới Giám mục Nguyễn Văn Sang, nhưng chưa gặp bao giờ. Lúc còn trong tù tôi nghe Linh mục Lê Đức Triệu, tức nhạc sĩ Hoài Đức, cũng là người gốc Giáo phận Hà Nội kể chuyện. Năm 1954, Linh mục Nguyễn Văn Sang đã di cư vào Nam rồi, nhưng sau đó lại trở lộn ra Bắc, không hiểu vì lý do gì. 

TÔI PHẢI SỐNG - PHẦN 7 VÀ 8

TÔI PHẢI SỐNG - PHẦN 7
Bút Ký của Lm Nguyễn Hữu Lễ
PHẦN HAI: Chiếc Lá Giữa Dòng

"Đêm Tân Hôn” Giữa Tây Nguyên

Tôi còn nhớ buổi xế trưa hôm ấy, vào một ngày cuối tháng 5 năm 1976, tôi có mặt trên chiếc xe khách chở nhóm hơn 30 tù nhân từ huyện Đức Lập, nơi tôi bị bắt ngày hôm trước, chạy lên thị xã Ban Mê Thuột. Tôi bị khóa tay dính với một người bạn tù khác bằng chiếc còng số 8. Ngồi nhìn cảnh vật hai bên đường chạy ngược chiều với chiếc xe đang ngon trớn phóng nhanh, lòng tôi ngổn ngang trăm mối và đủ điều lo toan, nhưng chẳng nghĩ được chuyện gì đến nơi đến chốn. Bất giác, tôi quay sang anh bạn chung còng với tôi, như tìm sự an ủi nơi một người đồng cảnh ngộ.

TÔI PHẢI SỐNG - PHẦN 9 VÀ 10

TÔI PHẢI SỐNG - PHẦN 9
Bút Ký của Lm. Nguyễn Hữu Lễ
PHẦN HAI: Chiếc Lá Giữa Dòng

Cơn sốt thời cuộc

Trong đêm khuya thanh vắng, tôi trằn trọc không ngủ được và nằm ôn lại những biến động của cuộc đời như đang xem cuốn phim quay chậm. Từ ngày miền Nam rơi vào tay cộng-sản, mặc dù mới một năm qua thôi, nhưng đời tôi đã trải qua một bước ngoặt quá lớn. Kể từ cái ngày 30 tháng Tư đen tối đó, tôi cảm thấy mình đã sống trong một thứ nhà tù lớn, có tên là “Nhà Tù Việt Nam”, để rồi hôm nay lại rơi vào một nhà tù nhỏ tại một tỉnh lẻ Cao Nguyên.

TÔI PHẢI SỐNG PHẦN 11 VÀ 12

TÔI PHẢI SỐNG (11)

Bút Ký của Lm. Nguyễn Hữu Lễ

Vùng bóng đen


Lúc bấy giờ vì thời cuộc đổi thay và cuộc sống có nhiều áp lực từ mọi phía nên tôi rất buồn phiền. Trong vai trờ một cha sở, một mặt tôi lo chỉnh đốn lại đời sống của họ đạo sau bao nhiêu năm chiến tranh tàn phá, mặt khác tôi phải thường xuyên đương đầu với những vấn đề do một chính quyền vô thần gây nên. Tôi cố sống nhẫn nhục chờ cho cơn sốt thời cuộc qua đi và tôi có thể sống yên thân để phục vụ giáo dân vùng này được bền lâu. Ngoài các việc bổn phận trong họ đạo, lúc rảnh rỗi tôi tìm cách giải sầu bằng hai việc, câu cá và học đàn Vọng Cổ.

TÔI PHẢI SỐNG - PHẦN 13 VÀ 14

TÔI PHẢI SỐNG (13)
Bút Ký của Lm. Nguyễn Hữu Lễ
Vùng kỷ niệm 

Khi ngồi trên xe gắn máy trên con đường từ họ đạo La Mã lên tỉnh Bến Tre trong ánh nắng ban mai, lòng tôi buồn vô hạn và tự hỏi không biết có còn có dịp trở lại con đường này nữa hay không. Mặc dù trước kia vùng này xa lạ đối với tôi nhưng trong gần một năm qua kể từ khi về làm cha sở họ La Mã , tôi đã đi lại nhiều lần trên con đường đá sỏi loang lổ này để về thăm quê hay ghé qua thăm Thạnh. Khi còn cách tỉnh chừng 6 cây số tôi phải đưa xe xuống chiếc xuồng máy chở qua sông Chặt Sậy là một nhánh sông khá lớn nước chảy mạnh như thác vì chỗ này gần sông cái.

TÔI PHẢI SỐNG - PHẦN 15 VÀ 16

TÔI PHẢI SỐNG  (15)

Bút Ký của Lm. Nguyễn Hữu Lễ

Tỉnh Cơn Mê

Đứng nhìn trời, nhìn nước một lúc, tôi cảm thấy đỡ căng thẳng, mùi nước sông và làn gió nhẹ mang theo hơi nước lạnh làm tôi cảm thấy dễ chịu. Tôi ngửa mặt lên trời, hít một hơi dài cho làn khí trong lành ngập tràn hai buồng phổi, và lui lại lần theo cầu thang leo lên từng trên và ngồi nơi một ghế ngay cạnh đó, định bụng là để chốc nữa xuống cho dễ. Lúc đó tôi tự nhủ: “Phải bình tĩnh trước những biến động, rồi cái gì cũng sẽ qua đi, nhưng phải có thời gian cho mỗi việc”. 

TÔI PHẢI SỐNG - PHẦN 17 VÀ 18

TÔI PHẢI SỐNG  (17)

Bút Ký của Lm. Nguyễn Hữu Lễ
Tình cảnh gia đình 

 Sau khi qua bắc Mỹ Thuận, nhìn đồng hồ hãy còn sớm nên tôi ghé vào nhà người bạn ở Vĩnh Long. Một phần để thăm gia đình người bạn, hơn nữa tôi cũng có việc khá quan trọng cần gặp anh để bàn qua. Lâu ngày bạn bè mới có dịp gặp lại nên ngồi chuyện trò khá lâu và gia đình người bạn mời tôi ở nán lại dùng cơm. Từ Vĩnh Long về nhà tôi chỉ còn hơn 30 cây số. Cơm nước xong tôi từ giã gia đình người bạn, chạy Honda theo tỉnh lộ về hướng Trà Vinh. Gia đình tôi nằm ở một làng quê tên là Hiếu Phụng trên con lộ này. 

TÔI PHẢI SỐNG - PHẦN 19 VÀ 20


TÔI PHẢI SỐNG   (19)
Bút Ký của Lm. Nguyễn Hữu Lễ

Ơn sinh thành dưỡng dục 
Trong những năm đầu đời này chỉ có hai nơi mà tôi còn nhớ được nhiều kỷ niệm. Đó là trong gia đình tôi và ngôi Nhà Thờ. Với các anh trai, tôi không nhớ được kỷ niệm nào, nhưng riêng chị Hai là người để lại trong tôi nhiều tình thương và kỷ niệm nhất. Cha tôi là người nghiêm nghị, rất đạo đức và có cuộc sống gương mẫu cho anh chị em chúng tôi. Má tôi ốm yếu và nghe nói là bị trận đau gần chết sau khi sanh tôi. Nghe như vậy tôi càng thương má nhiều hơn.

TÔI PHẢI SỐNG - PHẦN 21 VÀ 22

TÔI PHẢI SỐNG     (21)

Bút Ký của Lm. Nguyễn Hữu Lễ

Sợ trường học
Hàng ngày tôi vẫn phải cắp sách lần theo cầu khỉ trước nhà qua bên kia sông đi học, trong khi có mấy đứa bạn cùng tuổi lại không đi học, được tự do chạy nhảy, rượt chuột, bắt chim, lưới cá trong cánh đồng ruộng sau nhà. Mấy đứa bạn này gia đình nghèo phải ở nhà làm ruộng giúp gia đình. Có mấy đứa bằng tuổi tôi đi ở đợ chăn trâu cho những gia đình khá giả trong làng. Tôi phải cặm cụi trên những hàng chữ, những con số, những bài học thuộc lòng trong sách Giáo lý dài dằng dặc mà tôi cũng chẳng biết học để rồi làm gì? 

TÔI PHẢI SỐNG - PHẦN 23 VÀ 24

TÔI PHẢI SỐNG PHẦN 23
Bút Ký của Lm. Nguyễn Hữu Lễ

Thảm cảnh gia đình
Năm 1953, khi vừa tròn 10 tuổi, một thảm kịch gia đình xảy ra đã làm tôi lớn hơn trước tuổi. Đúng ra chuyện này không xảy ra trong gia đình tôi mà là gia đình Ông Tám tôi. 

Ông Tám là em của Bà Nội tôi. Ông có nhiều người con, và người cuối cùng là Chú út Hữu mà tôi đã nói tới. Câu chuyện này liên quan tới người con thứ tư và thứ sáu mà tôi gọi bằng Cô Tư và Chú Sáu. Cô Tư có chồng và 3 con, đứa con gái nhỏ nhất tên Huệ, bằng tuổi tôi. Khi tản cư xuống Cầu Đá thì Chú Sáu tôi đi lính cho Pháp. Còn Dượng Tư, chồng của Cô Tư ít khi thấy có mặt ở nhà. Lúc đó tôi còn nhỏ quá nên cũng chẳng biết là Dượng Tư tôi ở đâu và làm gì. Một ngày kia Chú Sáu đi trong toán tuần phòng và một người Việt Minh bị sa vào ổ phục kích. 

TÔI PHẢI SỐNG - PHẦN 25 VÀ 26


TÔI PHẢI SỐNG - PHẦN 25Phần Một: CUỘC ĐỜI VÀ BÓNG ĐEN

Tuổi trẻ ngô nghê

Những năm đó tầm mắt tôi có dịp mở rộng hơn nhờ những lần tôi được chị Hai cho theo đi chợ trên tỉnh Vĩnh Long, cách nhà 33 cây số. Những lần được đi tỉnh này đối với tôi rất đáng ghi nhớ vì đó là dịp mở mắt để được biết cuộc sống ở tỉnh như thế nào. Thường là mỗi năm một lần chị tôi đi chợ tỉnh trong dịp mua sắm Tết, chị dẫn tôi theo chỉ với nhiệm vụ đứng tại chỗ coi chừng cái cần xé đựng các thứ đã mua để chị còn đi mua tiếp theo. 

TÔI PHẢI SỐNG - PHẦN 27 VÀ 28

TÔI PHẢI SỐNG -  PHẦN 27
 Bút Ký   của Lm. Nguyễn Hữu Lễ
 Phần Một: CUỘC ĐỜI VÀ BÓNG ĐEN

Cảnh chợ chiều

Từ sau biến cố đó không bao giờ cha Tỏ bước chân xuống trường chúng tôi nữa, mặc dù ngài vẫn là hiệu trưởng ký tên trong giấy tờ nhà trường. Mấy tháng sau, Thầy Quý từ giã chúng tôi ra đi và trở về Sài Gòn, mặc dù thầy không nói nhưng tôi hiểu được lý do sự ra đi của thầy. Lòng tôi buồn vô hạn khi phải chia tay với con người có mặt từ đầu và có công rất nhiều với ngôi trường Minh Đức. Ngoài ra thầy Quý còn là bõ đỏ đầu của tôi, thầy rất thương tôi và để lại trong lòng tôi một kỷ niệm nhớ đời, đó là việc thầy dẫn tôi đi Sài Gòn lần đầu tiên.

TÔI PHẢI SỐNG - PHẦN 29 VÀ 30

TÔI PHẢI SỐNG - PHẦN 29
Bút Ký   của Lm. Nguyễn Hữu Lễ
PHẦN HAI: Chiếc Lá Giữa Dòng

"Đêm Tân Hôn” Giữa Tây Nguyên

Tôi còn nhớ buổi xế trưa hôm ấy, vào một ngày cuối tháng 5 năm 1976, tôi có mặt trên chiếc xe khách chở nhóm hơn 30 tù nhân từ huyện Đức Lập, nơi tôi bị bắt ngày hôm trước, chạy lên thị xã Ban Mê Thuột. Tôi bị khóa tay dính với một người bạn tù khác bằng chiếc còng số 8. Ngồi nhìn cảnh vật hai bên đường chạy ngược chiều với chiếc xe đang ngon trớn phóng nhanh, lòng tôi ngổn ngang trăm mối và đủ điều lo toan, nhưng chẳng nghĩ được chuyện gì đến nơi đến chốn. Bất giác, tôi quay sang anh bạn chung còng với tôi, như tìm sự an ủi nơi một người đồng cảnh ngộ.

TÔI PHẢI SỐNG - Phần 31 và 32

TÔI PHẢI SỐNG    Phần 31
 Bút Ký   của Lm. Nguyễn Hữu Lễ
PHẦN HAIChiếc Lá Giữa Dòng

 Cơn sốt thời cuộc
  
Trong đêm khuya thanh vắng, tôi trằn trọc không ngủ được và nằm ôn lại những biến động của cuộc đời như đang xem cuốn phim quay chậm. Từ ngày miền Nam rơi vào tay cộng-sản, mặc dù mới một năm qua thôi, nhưng đời tôi đã trải qua một bước ngoặt quá lớn. Kể từ cái ngày 30 tháng Tư đen tối đó, tôi cảm thấy mình đã sống trong một thứ nhà tù lớn, có tên là “Nhà Tù Việt Nam”, để rồi hôm nay lại rơi vào một nhà tù nhỏ tại một tỉnh lẻ Cao Nguyên.

TÔI PHẢI SỐNG PHẦN 33 VÀ 34

TÔI PHẢI SỐNG  33
Bút Ký   của Lm. Nguyễn Hữu Lễ
Tung hỏa mù
Tù nhân trong trại Gia Ray bắt đầu xôn xao, bàn ra tán vào về nguồn tin đó. Các “nhà bình luận thời cuộc” lại có dịp bày tỏ sự hiểu biết của mình về lý do tại sao phải chuyển trại. Tại sao lại đưa về Đồng Tháp mà không thể đưa đi nơi khác? Và ở đó sẽ ra sao? Sau khi bàn đi tán lại đủ điều, họ đưa ra câu kết luận là:“Rất tốt!”
Lúc mới vừa bị dồn lên trong trại này, chúng tôi ai cũng lo ngại sẽ bị đưa ra Bắc. Hai tiếng “ra Bắc” là hai tiếng cấm kỵ. Trong tù ai cũng sợ, cũng kiêng, không ai dám nhắc tới nó. Hai tiếng “ra Bắc” đồng nghĩa với ba tiếng “đến tử địa” nên không ai dám nghĩ là mình sẽ rơi vào trường hợp ra Bắc. Chúng tôi không muốn nhắc tới hai tiếng đó, mặc dù lúc nào nó cũng tiềm ẩn ở một nơi nào đó trong lòng của từng người tù chúng tôi.

TÔI PHẢI SỐNG - PHẦN 35 VÀ 36

TÔI PHẢI SỐNG    PHẦN 35 Bút Ký của Lm. Nguyễn Hữu Lễ

Đường Lên Cổng Trời

Chiếc xe khách cũ kỹ và ì ạch như một con trâu già dừng lại trong sân một trại tù xa lạ, lúc ấy có lẽ đã qua nửa đêm, hoặc đã 1, 2 giờ sáng. Giờ này đêm qua, đêm Giáng Sinh 1977, xe chúng tôi đang chạy ngang cầu Long Biên ở thủ đô Hà Nội.

TÔI PHẢI SỐNG - PHẦN 37 VÀ 38

TÔI PHẢI SỐNG PHẦN 37
Bút Ký của Lm. Nguyễn Hữu Lễ


 Cái Giá của Tự Do
 Lúc này số người trong buồng 1 khu kiên giam đã thay đổi, không còn là số người hai tháng về trước. Việc xáo trộn người qua lại giữa các buồng tại khu kiên giam, cũng như ở khu kỷ luật là biện pháp của trại, đề phòng các tù nhân cấu kết nhau để tổ chức vượt ngục. Các anh em dưới “làng” lâu lâu cũng bị đổi buồng như vậy. Việc phân tán này không theo một quy luật thời gian nhất định nào, nhưng thường là cứ vài ba tháng đổi buồng một lần, nhưng nếu buồng nào có dấu hiệu gì khả nghi, sẽ bị đổi nhanh hơn. Sống chung trong buồng 1 với tôi lúc bấy giờ có những người sau đây:

TÔI PHẢI SỐNG - PHẦN 39 VÀ 40

TÔI PHẢI SỐNG  PHẦN 39
Bút Ký của Lm. Nguyễn Hữu Lễ
 Chuyện Thương Tâm                   
Hai anh trật tự Bùi Đình Thi và Trương Văn Phát, mỗi người một bên nắm lấy cổ tay tôi kéo lê về trại. Lúc đó lưng và mông tôi lết trên đường đá cục, đau đớn không chịu được, nhưng biết làm gì hơn lúc bấy giờ? Quãng đường từ con suối cạn vào tới sân trại khá xa, vì phải qua hết lán mộc và một dãy buồng giam nằm dọc theo con đường sỏi đá này, rồi mới tới cổng trại. Chúng kéo tôi thẳng vào sân trại và vất xác tôi nằm ngửa trên nền xi-măng của hội trường giữa sân trại. Nằm yên một chốc, tôi mê đi, không còn biết gì nữa, và tôi cũng chẳng biết mê man như thế bao lâu vì lúc đó tôi đã mất hết ý niệm về thời gian.

TÔI PHẢI SỐNG - PHẦN 41 VÀ 42

TÔI PHẢI SỐNG PHẦN 41 Bút Ký của Lm. Nguyễn Hữu Lễ
Tầng Đầu Địa Ngục (1)
Người ta thường nói:“Sống lâu lên lão làng!” Tôi cũng đã có lần thuộc dạng “lão làng” vào năm 1982, sau khi nằm liên tiếp 3 năm trong nhà kỷ luật trại tù Thanh Cẩm. Với cái vốn thời gian đó, tự nhiên tôi trở thành “đại ca” trong khu kỷ luật lúc bấy giờ.

TÔI PHẢI SỐNG - PHẦN 43 VÀ 44

TÔI PHẢI SỐNG PHẦN 43
Bút Ký của Lm. Nguyễn Hữu Lễ

Tầng Đầu Địa Ngục (3)
Luật giang hồ
Tù hình sự có nguyên tắc và giai cấp rất rõ ràng, gồm các vị thế như sau: anh em, người ngoài, bề dưới, kẻ thù. Một khi đã kết nghĩa anh em là sẽ sống chết vì nhau, cho dù trong bất cứ hoàn cảnh nào. Người ngoài là những người có thể ngồi chung mâm nhưng không can thiệp vào chuyện của nhau. Bề dưới là phải tùng phục bề trên vô điều kiện, nhưng bề trên đúng nghĩa là người biết thương bề dưới. Kẻ thù là hạng người phải tiêu diệt bằng bất cứ giá nào và ở đâu. Trong nhóm tù hình sự cùng về đây, chỉ có Bình Bưởi là anh em với Bình Thanh. Bình Bưởi nhỏ con, ốm yếu và đi tù từ năm 12 tuổi nên Bình Thanh thương yêu và săn sóc cách đặc biệt. Những anh còn lại, hoặc là người ngoài, hoặc bề dưới. Chỉ có một anh thuộc diện kẻ thù, tôi sẽ nói sau.

TÔI PHẢI SỐNG - PHẦN 45 VÀ 46

TÔI PHẢI SỐNG  PHẦN 45

Bút Ký của Lm. Nguyễn Hữu Lễ

Ngày Trở Về (2)

Nhận ra ý Chúa  
Đêm đó, trong lúc tuyệt vọng, tôi ngồi trong màn cầu nguyện:“Lạy Chúa, xin cho con biết ý Chúa muốn gì nơi con. Con đã tù 13 năm và chịu bao nhiêu thứ cực hình. Các anh em khác chưa ai phải chịu cảnh khốn khổ như con, nhưng đã được về tất cả, riêng con phải tiếp tục chịu cảnh này. Xin cho con biết ý Chúa muốn gì nơi con.” Cầu nguyện xong, tôi ngồi yên lặng, và lúc đó tôi có cảm tưởng như nghe một tiếng nói bên tai:“Cha muốn con tiếp tục ở đây với những tù nhân khốn khổ còn lại, để con yêu thương, an ủi, giúp đỡ và chia xẻ đời con với họ. Và cuối cùng, cha muốn con được cùng chết với họ ở đây trong môi trường lao lý này.”

TÔI PHẢI SỐNG - PHẦN 47 VÀ 48

TÔI PHẢI SỐNG PHẦN 47
Bút Ký của Lm. Nguyễn Hữu Lễ
Cuối Chuyện
Đèn đường vẫn hắt nhẹ những tia sáng yếu ớt vào phòng. Tiếng côn trùng rả rích gọi bạn về khuya. Đâu đây nghe tiếng gió đưa xào xạc như nhẹ rơi những cánh lá vàng không buồn sống. Tôi ngồi lên, bước tới bật đèn và nhìn đồng hồ trên tường, thấy đã gần hai giờ sáng. Vì nằm lâu nhưng không ngủ được nên thấy người hơi choáng váng. Tôi đưa hai bàn tay lên xoa mặt, đan các ngón tay vào đầu tóc rối bù vì trăn trở mãi trên gối.

TÔI PHẢI SỐNG - PHẦN 49 VÀ 50

TÔI PHẢI SỐNG PHẦN 49
Bút Ký của Lm. Nguyễn Hữu Lễ
Phụ Trương hai: Những cuộc gặp gỡ

A. Gặp lại các bạn tù.
  
Tôi sống trong trại tị nạn Thái Lan một năm rưỡi, cho tới giữa năm 1990, qua định cư và làm việc tại thành phố Auckland, nước Tân Tây Lan (New Zealand), một quốc gia quần đảo trong vùng Nam Thái Bình Dương. Tôi đến đây theo lời mời của Giám Mục Denis Browne, Giám mục Giáo phận Auckland, để phụ trách Cộng đồng Công giáo Việt Nam tại Giáo phận này.

PHẦN VIẾT VỀ TỘI ÁC BÙI ĐÌNH THI TRONG TRẠI TÙ THANH CẨM

Tội Ác Bùi Ðình Thi Tại Trại Tù Thanh Cẩm - Phần I

2 vụ án bi thảm trong trại tù Thanh Cẩm hay  - Một vấn đề của lương tâm
Theo tin tức của Ủy Ban Cứu Người Vượt Biển, hiện Sở Di Trú Hoa Kỳ đang tiến hành thủ tục trục xuất Ông Bùi Ðình Thi, một cựu tù cải tạo, vì tội đã hợp tác với chính quyền Việt cộng, ngược đãi các bạn tù tại trại Thanh Cẩm trong những năm 1978 và 1979. Trong trại cải tạo, Thi đã đánh chết cựu dân biểu Ðặng Văn Tiếp và ông Lâm Thành Văn, và đã tra tấn nhiều tù nhân khác như đại tá Trịnh Tiếu, Linh Mục Nguyễn Hữu Lễ, ông Nguyễn Sỹ Thuyên và nhiều người khác. Nhiều nạn nhân sau này đã đi định cư Hoa Kỳ trong chương trình HO dành cho cựu tù cải tạo. Ông Thi cũng đã đến Hoa Kỳ cuối năm 1994 theo chương trình tị nạn này và hiện định cư ở Quận Cam.

Thứ Bảy, 2 tháng 3, 2013

ĐÊM GIỮA BAN NGÀY - CHƯƠNG XXII


1    2    3    4     5     6     7   8    9     10    11    12     13    14    15

16    17    18    19    20    21     22    23    24    25    26    27     28

29    30     31    32    33    34    35     36     37   38    39   40    41



CHƯƠNG XXII
Dù sao mặc lòng, kể từ hôm ấy coi như tôi bị mất việc ở cơ quan tình báo xô-viết. Huỳnh Ngự cũng lờ tịt, không quay lại với đề tài bị thối lần nào nữa. Tôi hiểu mình đã tước của các nhà chuyên chính vô sản một con bài quan trọng. Không phải đó là sự tước đi lý do buộc tội tôi, có lẽ là lý do duy nhất, hoàn toàn không phải thế. Ðiều đó không làm họ suy nghĩ. Chẳng cần phải vò đầu bứt tai nghĩ cách buộc tội tôi người ta vẫn có thể tống tôi vào xà lim như thường. Cái chính là họ mất đi kỳ vọng dùng tôi làm tấm ván bắc cầu vào nhà người khác - Võ Nguyên Giáp, Bùi Công Trừng, Ung Văn Khiêm, Lê Liêm và các nhà cách mạng lão thành bị bắt trong vụ này.

Thứ Năm, 28 tháng 2, 2013

KIẾN NGHỊ SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP VIỆT NAM

Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về việc góp ý kiến vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 (dưới đây gọi tắt là Dự thảo), chúng tôi, những người Việt Nam ký tên dưới đây, xin trình bày với Quốc hội và Uỷ ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 một số kiến nghị, đồng thời mong mỏi toàn thể đồng bào trong và ngoài nước thẳng thắn nói lên ý kiến để nhân dân ta có một Hiến pháp bảo đảm sự toàn vẹn lãnh thổ và sự phát triển bền vững của đất nước, mang lại tự do hạnh phúc cho các thế hệ hiện tại và tương lai.