Cái chết của một Tổng thống như ông Ngô Đình Diệm, tất nhiên không phải là một sự vô lý đơn giản như người ta thường nghĩ. Nó đã được sửa soạn tinh vi, vì làm thế nào để giết một ông Tổng thống đã cầm quyền chín năm không phải là chuyện “tùy hứng”.
Người em út
Quanh cái chết của Tổng thống Diệm đầy rẫy những sự vô lý nông nổi bi thảm. Sau khi ông chết đi, lại còn bao nhiêu sự vô lý khác. Chữ vô lý ở đây xin được hiểu theo sự suy đoán trong bản chất và tinh thần Việt Nam vốn trọng tình cảm, sự trung hậu và lễ nghĩa.
Một trong những sự vô lý đó là cái chết của ông Ngô Đình Cẩn người em thứ 5 của Tổng thống Diệm. Cái chết này đã được công khai hợp pháp hóa vì ông Cẩn được ra tòa xét xử. Nếu bị viên công tố gay gắt buộc tội thì cũng chả có cái gì vô lý. Khi đảo chính bùng nổ thì Tướng Đỗ Cao Trí đang là Tư lệnh Vùng I chiến thuật. Ông tướng này là người có thẩm quyền duy nhất tiếpthu toàn vẹn những gì có ở bên trong căn nhà tổ ấm của gia đình họ Ngô. Ông Cẩn tưởng đã thoát thân… dù tấm thân chỉ còn hai bàn tay trắng. Trong cuốn Việt Nam Crisis, hai tác giả Stephen Pan và Daniel Lyons đã viết như sau:
Quanh cái chết của Tổng thống Diệm đầy rẫy những sự vô lý nông nổi bi thảm. Sau khi ông chết đi, lại còn bao nhiêu sự vô lý khác. Chữ vô lý ở đây xin được hiểu theo sự suy đoán trong bản chất và tinh thần Việt Nam vốn trọng tình cảm, sự trung hậu và lễ nghĩa.
Một trong những sự vô lý đó là cái chết của ông Ngô Đình Cẩn người em thứ 5 của Tổng thống Diệm. Cái chết này đã được công khai hợp pháp hóa vì ông Cẩn được ra tòa xét xử. Nếu bị viên công tố gay gắt buộc tội thì cũng chả có cái gì vô lý. Khi đảo chính bùng nổ thì Tướng Đỗ Cao Trí đang là Tư lệnh Vùng I chiến thuật. Ông tướng này là người có thẩm quyền duy nhất tiếpthu toàn vẹn những gì có ở bên trong căn nhà tổ ấm của gia đình họ Ngô. Ông Cẩn tưởng đã thoát thân… dù tấm thân chỉ còn hai bàn tay trắng. Trong cuốn Việt Nam Crisis, hai tác giả Stephen Pan và Daniel Lyons đã viết như sau:
Stephen Pan và Daniel Lyons viết: “Trong tình cảnh lúc bấy giờ, nếu tin tưởng vào cuộc xét xử minh bạch, công khai thì thật là ngây thơ. Mặc dù trong thời gian đó, ông Cẩn đang bị yếu nặng với hai căn bệnh áp huyết cao và tiểu đường. Với cách đối xử rất tồi tệ lại thiêú thuốc men, chăm sóc trong tù thì ông Cẩn chắc chắn sẽ không sống thêm được bao lâu.
Nhưng dù quá yếu đến nỗi không đứng nổi, ông ta vẫn bị cột vào cái trụ đứng và bị bắn”.
Stephen Pan và Daniel Lyons thắc mắc: “Người ta còn nhớ hồi tháng 8-63 một nhà sư (…) đã lánh nạn trong Tòa đại sứ Mỹ và được Đại sứ Cabot Loadge bảo vệ an toàn trong chín tuần lễ, nghĩa là cho đến ngày hai anh em ông Diệm bị giết. Hãy để cho lịch sử phán xét nhũng sự việc mâu thuẫn như trên”.
Nếu ông Cẩn bị đem ra xử bắn trước cuộc chỉnh lý của tướng Khánh, thì cũng có thể giải thích được. Nhưng ông Cẩn lại bị xử tử khi tướng Khánh lên cầm quyền và Cabot Lodge vẫn còn tiếp tục là Đại sứ ông Lodge thường được coi như quan thầy quyền uy của tướng Khánh. Mấy ngày sau cuộc chỉnh lý, người ta cho rằng rất có thể ông Cẩn được tha và cho xuất ngoại. Vì dù sao tướng Khánh cũng là một trong mấy người con tinh thần của ông Diệm và tướng Khánh đã trung thành với ông Diệm cho đến phút cuối cùng dinh Gia Long bị mất vào tay quân đảo chính. Chiều ngày 11 tướng Khánh từ Pleiku còn gọi điện cho tướng Cao ở Cần Thơ, hối thúc ông Cao đem quân về cứu Tổng thống Diệm. Tướng Khánh cho biết không thể đem quân về được vì Quân đoàn 2 quá xa… Tướng Cao tin cho tướng Khánh rõ là tướng Minh, Khiêm và các Đại tá Đỗ Mậu, Nguyễn đức Thắng hứa là bảo đảm tính mạng Tổng thống Diệm và ông Nhu. Tướng Khánh trả lời: “Không tin được tụi nó đâu chúng nó nói vậy mà làm khác”. Tướng Khánh vẫn giữ lòng trung thành cho đến phút chót. Thế nhưng… quyền lợi cá nhân và địa vị đã thay đổi lòng người.
Khi ông Cẩn bị đưa ra tòa, người ta vẫn tin rằng có thể ông sẽ bị xử qua loa. Khi bị kết án tử hình người ta vẫn tin ông Cẩn sẽ được Quốc trưởng Dương văn Minh chấp thuận đơn ân xá.
Cuối cùng vào một buổi chiều ánh nắng còn chan hòa, tử tội Ngô Đình Cẩn được khiêng ra pháp trường trong vòng thành khám Chí Hòa. Tay bị trói chặt vào cây cột giữa pháp trường và bị bắn gục trước sự chứng kiến của những người trước kia ra vào dinh ông Cẩn thường khúm núm như gia nhân.
Đại sứ Lodge là người đã buộc “Hội đồng Quân nhân cách mạng” phải cam kết không được xử bắn ông Cẩn, khi ông Cẩn nhận từng loạt đạn, Lodge vẫn còn là vị Đại sứ Mỹ đầy uy quyền tại miền Nam Việt Nam. Rồi có các giả thuyết được nêu ra:
1. Ông Khánh làm như thế để chiều lòng những áp lực khác đang đè nặng lên ông.
2. Ông Khánh chủ trương thanh toán ông Ngô Đình Cẩn vì áp lực của “những người” từng ra luồn vào cúi dưới trướng “Cố vấn chỉ đạo”…
3. Ông Khánh chủ trương thanh toán ông Cẩn chỉ vì vụ “tài sản” của ông Cẩn mà ông Khánh đã được chia phần kể từ khi ông ra nhậm chức Tư lệnh Vùng chiến thuật I thay thế tướng Trí.
Sét đánh ngang đầu
Sáng ngày 2-11-1963 tại tư thất ông Cẩn chuông điện thoại reo vang. Âm vang của hồi chuông thật rền rĩ réo rắt trong buổi sáng tinh sương. Điện thoại gọi từ Đà Nẵng.
Đại úy Minh nhấc máy lên. Từ phía đầu dây bên kia, vẫn giọng tướng Trí ngập ngừng, cắt quãng, rời rạc. Lời tướng Trí được ghi nhớ như sau: “Anh thông báo ngay cho Cậu biết, Sài Gòn vừa báo tin cho tôi hay là Tổng thống và ông Cố vấn chánh trị đã tự tử chết rồi. Tôi không hiểu ra sao nữa…”. Đại úy Minh chân tay bủn rủn, có cảm tưởng như đang nghe điện thoại trong cơn mê của giấc ngủ say. Ông hỏi đi hỏi lại tướng Trí hai ba lần. Tướng Trí xác nhận: “Sài Gòn vừa báo cho tôi hay như vậy”.
Lúc ấy Đại úy Minh mới tin đây là sự thực – một sự thực phũ phàng ngoài trí tưởng tượng của ông. Nhưng tưởng tượng quả là vô lý? Khi báo cho ông Cẩn hay hung tin này, ông Cẩn vẫn không tin và nói: “Làm gì có chuyện động trời như vậy”. Nhưng Tổng thống Diệm và ông Nhu đã chết… dù ông Cẩn có không tin là thực thì sự thực vẫn tàn nhẫn xảy ra như thế.
Ngay lúc đó, Đại úy Minh cho người đi báo hung tin cho cha Thuận. Sáng ngày 2-11 màn tang đã bao phủ căn nhà tổ ấm của gia đình Tổng thống Diệm ở miền Phú Cam nơi hai anh em ông Diệm đã sinh ra và lớn lên. Lúc đó chung quanh ông Cẩn vẫn còn đầy đủ các cộng sự viên thân tín, trong đó có ông Đào Quang Hiển Giám đốc nha Công an Trung nguyên Trung phần.
Rồi chiều mùng 2, buổi chiều nặng nề như những phiến đá đè nặng trên phận người mong manh. Khoảng 1 giờ 30, Đại úy Minh được lệnh của ông Cẩn gọi điện thoại cho tướng Trí và mời tướng Trí ra Huế để báo cáo cho ông Cẩn rõ nội vụ. Huế cho đến lúc ấy vẫn tương đối yên tĩnh.
Khoảng 3 giờ, bỗng nhiên đoàn thiết giáp của thiếu tá Tuấn đến bao vây vùng Phú Cam và căn nhà ông Cẩn (Thiếu tá Tuấn sau thăng Trung tá và bị chết thảm trong biến cố Tết Mậu Thân tại trường Thiết giáp Gò Vấp Sài Gòn). Tình hình Huế bắt đầu ngột ngạt, dao động và như cây nước giữa biển nặng đang bắt đầu vỡ ra và dâng cao. Trong giờ phút cuối cùng này, một nhân chứng thuật lại: ông Cẩn đã mất tinh thần vì xúc động trước cái tin hai ông anh bị giết chết. Chung quanh ông vẫn còn đầy đủ cộng sự viên như Minh, Trọng, Độ…
Khoảng 9 giờ đêm mùng 2, Huế bắt đầu chuyển động như cơn sóng trong trận cuồng phong. Trời tê buốt hoang vắng và đầy đe dọa, bất trắc thê lương. Dân Huế vây quanh radio nghe đài Sài Gòn, BBC và VOA… Hồi hộp, rung động, kích thích… Rồi một nhóm người tự động quy tụ lại như một hình thức Hội đồng Quân nhân cách mạng. Đứng đầu là Trung tá Mô, Thiếu tá Hiếu và ông Đào Quang Hiển. Ba viên chức này đến gặp Đại úy Minh đòi đưa họ vào gặp ông Cẩn. Lúc ấy đoàn thiết giáp của Thiếu tá Tuấn đang bao vây nhà ông Cẩn nhưng chỉ có tính cách giữ gìn an ninh trật tự và theo lời tướng Trí là “để bảo vệ sanh mạng của ông Cẩn và đề phòng một khi dân chúng làm hoảng”… quân đội có thể can thiệp kịp thời.
Thể theo yêu cầu của Trung tá Mô cũng như Thiếu tá Hiếu… Đại úy Minh vào tìm gặp ông Cẩn trong khi đó ba viên chức vẫn đứng chờ ở ngoài. Nhà lúc ấy vắng ngắt không còn ai, không khí đầy một nỗi bi thương đổ vỡ. Bé gái Kính cho Đại úy Minh hay là ông Cẩn đã trốn khỏi. Để đánh lạc hướng phe ông Mô, Đại úy Minh cho bọn ông Mô hay là ông Cẩn hiện đang bị mệt và đang nằm nghỉ, mai sẽ vào gặp sau. Thực ra lúc ấy ông Cẩn đã vào trú ẩn tại nhà dòng Chúa Cứu thế.
Sáng ngày 2-11-1963 tại tư thất ông Cẩn chuông điện thoại reo vang. Âm vang của hồi chuông thật rền rĩ réo rắt trong buổi sáng tinh sương. Điện thoại gọi từ Đà Nẵng.
Đại úy Minh nhấc máy lên. Từ phía đầu dây bên kia, vẫn giọng tướng Trí ngập ngừng, cắt quãng, rời rạc. Lời tướng Trí được ghi nhớ như sau: “Anh thông báo ngay cho Cậu biết, Sài Gòn vừa báo tin cho tôi hay là Tổng thống và ông Cố vấn chánh trị đã tự tử chết rồi. Tôi không hiểu ra sao nữa…”. Đại úy Minh chân tay bủn rủn, có cảm tưởng như đang nghe điện thoại trong cơn mê của giấc ngủ say. Ông hỏi đi hỏi lại tướng Trí hai ba lần. Tướng Trí xác nhận: “Sài Gòn vừa báo cho tôi hay như vậy”.
Lúc ấy Đại úy Minh mới tin đây là sự thực – một sự thực phũ phàng ngoài trí tưởng tượng của ông. Nhưng tưởng tượng quả là vô lý? Khi báo cho ông Cẩn hay hung tin này, ông Cẩn vẫn không tin và nói: “Làm gì có chuyện động trời như vậy”. Nhưng Tổng thống Diệm và ông Nhu đã chết… dù ông Cẩn có không tin là thực thì sự thực vẫn tàn nhẫn xảy ra như thế.
Ngay lúc đó, Đại úy Minh cho người đi báo hung tin cho cha Thuận. Sáng ngày 2-11 màn tang đã bao phủ căn nhà tổ ấm của gia đình Tổng thống Diệm ở miền Phú Cam nơi hai anh em ông Diệm đã sinh ra và lớn lên. Lúc đó chung quanh ông Cẩn vẫn còn đầy đủ các cộng sự viên thân tín, trong đó có ông Đào Quang Hiển Giám đốc nha Công an Trung nguyên Trung phần.
Rồi chiều mùng 2, buổi chiều nặng nề như những phiến đá đè nặng trên phận người mong manh. Khoảng 1 giờ 30, Đại úy Minh được lệnh của ông Cẩn gọi điện thoại cho tướng Trí và mời tướng Trí ra Huế để báo cáo cho ông Cẩn rõ nội vụ. Huế cho đến lúc ấy vẫn tương đối yên tĩnh.
Khoảng 3 giờ, bỗng nhiên đoàn thiết giáp của thiếu tá Tuấn đến bao vây vùng Phú Cam và căn nhà ông Cẩn (Thiếu tá Tuấn sau thăng Trung tá và bị chết thảm trong biến cố Tết Mậu Thân tại trường Thiết giáp Gò Vấp Sài Gòn). Tình hình Huế bắt đầu ngột ngạt, dao động và như cây nước giữa biển nặng đang bắt đầu vỡ ra và dâng cao. Trong giờ phút cuối cùng này, một nhân chứng thuật lại: ông Cẩn đã mất tinh thần vì xúc động trước cái tin hai ông anh bị giết chết. Chung quanh ông vẫn còn đầy đủ cộng sự viên như Minh, Trọng, Độ…
Khoảng 9 giờ đêm mùng 2, Huế bắt đầu chuyển động như cơn sóng trong trận cuồng phong. Trời tê buốt hoang vắng và đầy đe dọa, bất trắc thê lương. Dân Huế vây quanh radio nghe đài Sài Gòn, BBC và VOA… Hồi hộp, rung động, kích thích… Rồi một nhóm người tự động quy tụ lại như một hình thức Hội đồng Quân nhân cách mạng. Đứng đầu là Trung tá Mô, Thiếu tá Hiếu và ông Đào Quang Hiển. Ba viên chức này đến gặp Đại úy Minh đòi đưa họ vào gặp ông Cẩn. Lúc ấy đoàn thiết giáp của Thiếu tá Tuấn đang bao vây nhà ông Cẩn nhưng chỉ có tính cách giữ gìn an ninh trật tự và theo lời tướng Trí là “để bảo vệ sanh mạng của ông Cẩn và đề phòng một khi dân chúng làm hoảng”… quân đội có thể can thiệp kịp thời.
Thể theo yêu cầu của Trung tá Mô cũng như Thiếu tá Hiếu… Đại úy Minh vào tìm gặp ông Cẩn trong khi đó ba viên chức vẫn đứng chờ ở ngoài. Nhà lúc ấy vắng ngắt không còn ai, không khí đầy một nỗi bi thương đổ vỡ. Bé gái Kính cho Đại úy Minh hay là ông Cẩn đã trốn khỏi. Để đánh lạc hướng phe ông Mô, Đại úy Minh cho bọn ông Mô hay là ông Cẩn hiện đang bị mệt và đang nằm nghỉ, mai sẽ vào gặp sau. Thực ra lúc ấy ông Cẩn đã vào trú ẩn tại nhà dòng Chúa Cứu thế.
Tẩu vi thượng sách
Trong bước đường cùng thì trong 36 kế, “tẩu vi thượng sách” chước “chuồn” vẫn là hơn cả. Tuy nhiên ông Cẩn rời căn nhà tổ ấm cùng với cơn đau của loài chim bị bắn trúng cả hai cánh khi đang tung bay.
Qua ngày thứ 3, Huế vẫn còn tương đối yên tĩnh, tuy trong dân chúng bắt đầu chuyển động, đang bắt đầu một trận cuồng phong cho sóng đổ lên cao. Từ Đà Nẵng, tướng Trí gọi điện thoại cho biết ông sẽ trở ra Huế với tư cách đại diện cho Hội đồng Quân nhân cách mạng.
Lúc ấy, ông Cẩn bắt đầu lâm bệnh, khuôn mặt hốc hác, đôi mắt như lạc mất tinh thần. Ông xúc động một cách khó tả trước cái chết của hai ông anh.
Bên cạnh ông trong những giờ phút đó vẫn còn một số cộng sự viên thân tín như cha Thuận (người cháu ruột của ông). Cho đến giờ phút đó vẫn không thấy ông Cẩn quan tâm gì đến tiền bạc tài sản. Khi Đại úy Minh vào thăm ông (tại một căn nhà trong nhà dòng Chúa Cứu thế) ông rớm nước mắt và nói: Thôi hết rồi Minh ơi. Và những người có mặt đều khóc theo ông.
Ông Cẩn nằm trên giường nệm, vắt chân chữ ngũ, nước mắt giàn giụa trên gò má. Căn bệnh áp huyết của ông bắt đầu tái phát.
Ông bảo Đại úy Minh gọi điện thoại cho tướng Trí, nhắn tướng Trí vào Huế ngay để ông có đôi điều dặn dò.
Huế lúc ấy bắt đầu sôi động. Thiếu tá Hiếu, Trung tá Mô, ông Đào Quang Hiển và một số “bá quan văn võ” đã đứng về phe đảo chính. Biến chuyển mau lẹ quá. Huế ngỡ ngàng, rồi Huế bùng lên trong cuộc nổi lửa.
Chiều 3-11, tướng Trí từ ngoài Đà Nẵng vào Huế. Quân đội vẫn làm chủ tình hình Huế.
Không có tiếng súng nổ, không đổ máu. Sự lặng lẽ trong cơn dao động hoang mang. Ảnh của Tổng thống Diệm vẫn còn được treo ở nhiều công sở. Người đầu tiên mà tướng Trí tìm gặp lại là Đại úy Minh. Đây là mẩu đối thoại giữa hai người :
- Bây giờ Cậu ở đâu? – Tướng Trí hỏi.
- Cậu đang ở trong nhà dòng Chúa Cứu thế. – Đại úy Minh đáp.
- Anh em cứ an tâm, không có gì phải lo sợ. Mọi việc ở ngoài này đã có tôi.
- Là sĩ quan của quân đội, tôi phải tuân theo lệnh của Thiếu tướng.
- Anh cho tôi gặp ông Cậu. Tôi ra đây với tư cách đại diện Hội đồng Quân nhân cách mạng – Lời tướng Trí.
Lúc ấy ông Cẩn vẫn nằm trên chiếc giường sắt, cơn đau đã bớt. Ông lấy trầu ra ăn.
Ông Cẩn cho gọi một cộng sự viên thân cận và nói giọng thều thào “Chiếc bao bố ném ở dưới gậm giuờng (trong căn nhà Phú Cam) trong đó có 24 ki lô vàng. Chiếc valise gồm một số gia bảo và qúy vật v.v.. Mày lo liệu giữ gìn không thì tụi nó lấy hết. Số bạc mặt tao vẫn để trong tủ…”. Ông Cẩn còn dặn dò thêm: “Mày trao cho Trí giữ hộ… Cứ trao cho Trí không sao đâu”.
Buổi chiều ngày 3-11 tại nhà dòng Chúa Cứu thế, không khí thê lương ảm đạm như một ngày cuối đông miền hàn đới. Tình hình Huế lúc ấy đã náo động.
Cha bề trên Nhã cúi đầu lần hạt đi đi lại lại trên hành lang, cha Nhã hỏi Đại úy Minh: “Anh đã đi tìm cha Thuận chưa”… Hai người nhìn nhau lặng lẽ, nỗi buồn thật mênh mông. Đại úy Minh lên phòng ông Cẩn… Lúc ấy ông Cẩn vẫn nằm vắt chân chữ ngũ, mắt ông đỏ ngầu vì khóc… Tướng Trí cũng vào phòng ông Cẩn cùng với Đại úy Minh. Đỗ Cao Trí vẫn niềm nở và trọng vọng ông Cẩn như xưa, ông giơ tay chào theo kiểu nhà binh. Ông Cẩn ngước mắt nhìn tướng Trí không nói một lời nào. Đôi mắt ông nặng trĩu nỗi đau thương. Dường như lúc ấy ông Cẩn như muốn khóc. Mẩu đối thoại giữa tướng Trí và ông Cẩn được ghi lại như sau:
- Hội đồng Quân nhân cách mạng ủy con xin thưa lại với Cậu, Tổng thống và ông Cố vấn chết là do tai nạn ngoài ý muốn của các tướng lãnh.
Tướng Trí không dấu nổi xúc động, ông yên lặng một lúc rồi nói tiếp:
- Chuyện đã xảy ra như vậy bây giờ biết làm thế nào. Con được Hội đồng Quân nhân cách mạng ủy cho đến đây để xin thưa với Cậu, Hội đồng Quân nhân cách mạng kính mời Cậu tham gia và xin mời Cậu đứng trong thành phần của Hội đồng.
Ông Cẩn đưa mắt nhìn một vài người thân yêu. Mọi người yên lặng. Tướng Trí nói trong niềm xúc động :
- Việc đã xảy ra như vậy thì thế nào, Hội đồng Quân nhân cách mạng cũng áp dụng một số biện pháp đối với cậu, như tịch biên tài sản… Con nghĩ Cậu nên tính xem thế nào… Cậu có thể đưa cho con giữ hộ.
Chuyện trò với ông Cẩn một lát rồi tướng Trí ra xe cùng về với Đại úy Minh.
Lúc ấy tại vùng Phú Cam vẫn yên tĩnh. Đoàn Thiết giáp của Thiếu tá Tuấn đang giữ phận sự canh phòng và kiểm soát chặt chẽ. Nhà ông Cẩn vắng lặng chỉ có con bé Kính, một vài gia nhân. Con bé Kính sau này cho biết, Vali và bao bố vàng được đưa lên xe Jeep, rồi đoàn tùy tùng rời khỏi tư thất ông Cẩn.
Trong bước đường cùng thì trong 36 kế, “tẩu vi thượng sách” chước “chuồn” vẫn là hơn cả. Tuy nhiên ông Cẩn rời căn nhà tổ ấm cùng với cơn đau của loài chim bị bắn trúng cả hai cánh khi đang tung bay.
Qua ngày thứ 3, Huế vẫn còn tương đối yên tĩnh, tuy trong dân chúng bắt đầu chuyển động, đang bắt đầu một trận cuồng phong cho sóng đổ lên cao. Từ Đà Nẵng, tướng Trí gọi điện thoại cho biết ông sẽ trở ra Huế với tư cách đại diện cho Hội đồng Quân nhân cách mạng.
Lúc ấy, ông Cẩn bắt đầu lâm bệnh, khuôn mặt hốc hác, đôi mắt như lạc mất tinh thần. Ông xúc động một cách khó tả trước cái chết của hai ông anh.
Bên cạnh ông trong những giờ phút đó vẫn còn một số cộng sự viên thân tín như cha Thuận (người cháu ruột của ông). Cho đến giờ phút đó vẫn không thấy ông Cẩn quan tâm gì đến tiền bạc tài sản. Khi Đại úy Minh vào thăm ông (tại một căn nhà trong nhà dòng Chúa Cứu thế) ông rớm nước mắt và nói: Thôi hết rồi Minh ơi. Và những người có mặt đều khóc theo ông.
Ông Cẩn nằm trên giường nệm, vắt chân chữ ngũ, nước mắt giàn giụa trên gò má. Căn bệnh áp huyết của ông bắt đầu tái phát.
Ông bảo Đại úy Minh gọi điện thoại cho tướng Trí, nhắn tướng Trí vào Huế ngay để ông có đôi điều dặn dò.
Huế lúc ấy bắt đầu sôi động. Thiếu tá Hiếu, Trung tá Mô, ông Đào Quang Hiển và một số “bá quan văn võ” đã đứng về phe đảo chính. Biến chuyển mau lẹ quá. Huế ngỡ ngàng, rồi Huế bùng lên trong cuộc nổi lửa.
Chiều 3-11, tướng Trí từ ngoài Đà Nẵng vào Huế. Quân đội vẫn làm chủ tình hình Huế.
Không có tiếng súng nổ, không đổ máu. Sự lặng lẽ trong cơn dao động hoang mang. Ảnh của Tổng thống Diệm vẫn còn được treo ở nhiều công sở. Người đầu tiên mà tướng Trí tìm gặp lại là Đại úy Minh. Đây là mẩu đối thoại giữa hai người :
- Bây giờ Cậu ở đâu? – Tướng Trí hỏi.
- Cậu đang ở trong nhà dòng Chúa Cứu thế. – Đại úy Minh đáp.
- Anh em cứ an tâm, không có gì phải lo sợ. Mọi việc ở ngoài này đã có tôi.
- Là sĩ quan của quân đội, tôi phải tuân theo lệnh của Thiếu tướng.
- Anh cho tôi gặp ông Cậu. Tôi ra đây với tư cách đại diện Hội đồng Quân nhân cách mạng – Lời tướng Trí.
Lúc ấy ông Cẩn vẫn nằm trên chiếc giường sắt, cơn đau đã bớt. Ông lấy trầu ra ăn.
Ông Cẩn cho gọi một cộng sự viên thân cận và nói giọng thều thào “Chiếc bao bố ném ở dưới gậm giuờng (trong căn nhà Phú Cam) trong đó có 24 ki lô vàng. Chiếc valise gồm một số gia bảo và qúy vật v.v.. Mày lo liệu giữ gìn không thì tụi nó lấy hết. Số bạc mặt tao vẫn để trong tủ…”. Ông Cẩn còn dặn dò thêm: “Mày trao cho Trí giữ hộ… Cứ trao cho Trí không sao đâu”.
Buổi chiều ngày 3-11 tại nhà dòng Chúa Cứu thế, không khí thê lương ảm đạm như một ngày cuối đông miền hàn đới. Tình hình Huế lúc ấy đã náo động.
Cha bề trên Nhã cúi đầu lần hạt đi đi lại lại trên hành lang, cha Nhã hỏi Đại úy Minh: “Anh đã đi tìm cha Thuận chưa”… Hai người nhìn nhau lặng lẽ, nỗi buồn thật mênh mông. Đại úy Minh lên phòng ông Cẩn… Lúc ấy ông Cẩn vẫn nằm vắt chân chữ ngũ, mắt ông đỏ ngầu vì khóc… Tướng Trí cũng vào phòng ông Cẩn cùng với Đại úy Minh. Đỗ Cao Trí vẫn niềm nở và trọng vọng ông Cẩn như xưa, ông giơ tay chào theo kiểu nhà binh. Ông Cẩn ngước mắt nhìn tướng Trí không nói một lời nào. Đôi mắt ông nặng trĩu nỗi đau thương. Dường như lúc ấy ông Cẩn như muốn khóc. Mẩu đối thoại giữa tướng Trí và ông Cẩn được ghi lại như sau:
- Hội đồng Quân nhân cách mạng ủy con xin thưa lại với Cậu, Tổng thống và ông Cố vấn chết là do tai nạn ngoài ý muốn của các tướng lãnh.
Tướng Trí không dấu nổi xúc động, ông yên lặng một lúc rồi nói tiếp:
- Chuyện đã xảy ra như vậy bây giờ biết làm thế nào. Con được Hội đồng Quân nhân cách mạng ủy cho đến đây để xin thưa với Cậu, Hội đồng Quân nhân cách mạng kính mời Cậu tham gia và xin mời Cậu đứng trong thành phần của Hội đồng.
Ông Cẩn đưa mắt nhìn một vài người thân yêu. Mọi người yên lặng. Tướng Trí nói trong niềm xúc động :
- Việc đã xảy ra như vậy thì thế nào, Hội đồng Quân nhân cách mạng cũng áp dụng một số biện pháp đối với cậu, như tịch biên tài sản… Con nghĩ Cậu nên tính xem thế nào… Cậu có thể đưa cho con giữ hộ.
Chuyện trò với ông Cẩn một lát rồi tướng Trí ra xe cùng về với Đại úy Minh.
Lúc ấy tại vùng Phú Cam vẫn yên tĩnh. Đoàn Thiết giáp của Thiếu tá Tuấn đang giữ phận sự canh phòng và kiểm soát chặt chẽ. Nhà ông Cẩn vắng lặng chỉ có con bé Kính, một vài gia nhân. Con bé Kính sau này cho biết, Vali và bao bố vàng được đưa lên xe Jeep, rồi đoàn tùy tùng rời khỏi tư thất ông Cẩn.
Ông Lãnh sự
Từ khi tướng Trí và Đại úy Minh đi khỏi, bên cạnh ông Cẩn không còn ai. Một vài người thân yêu ngơ ngẩn ở trước cửa nhà dòng có ý đợi. Đại úy Minh xem ông Minh có quyết định sang tị nạn ở Tòa phó lãnh sự Mỹ hay không. Buổi sáng ở nhà Đại úy Minh, ông Phó lãnh sự Mỹ có đến tìm gặp và đề nghị :
- Nếu Đại úy và gia đình cũng như viên chức nào thấy ở ngoài này không có an ninh và nguy hiểm cho tính mạng, tôi mời tất cả qua tị nạn Tòa lãnh sự.
Đại úy Minh đáp :
- Xin cảm ơn ông Lãnh sự, có lẽ không cần thiết.
Ngày 2-11-1963 chính là ngày sinh nhật của ông Cẩn… ông có ngờ đâu đó cũng chính là ngày ông phải để tang hai người anh trai… Sau khi ông Cẩn sang tị nạn tại nhà dòng Chúa Cứu thế thì ông Lãnh sự và Phó lãnh sự có tìm gặp Đại úy Minh và đề nghị đưa ông Cẩn qua Tòa lãnh sự tị nạn cho an ninh hơn và ông cam kết sẽ để ông Cẩn được hưởng quyền lợi tị nạn như Tòa đại sứ Mỹ đã dành cho Thượng tọa Trí Quang trước đây.
Nhưng ông Cẩn chỉ bằng lòng qua đó tị nạn với điều kiện ông phải được đem theo thân mẫu tức bà Ngô Đình Khả… Lãnh sự Mỹ không chấp nhận điều kiện này. Hơn nữa, các cộng sự viên thân tín tỏ ý dè dặt vì không hiểu lòng dạ của người Mỹ ra sao.
Ngày 5-11 tướng Trí được lệnh của quân đảo chính đưa ông Cẩn về Sài Gòn cùng với bà cụ Khả. Lúc ấy bà cụ Khả vẫn chưa biết tin Tổng thống Diệm và ông Nhu bị thảm sát, vì trong nhà cố giữ kín tin này. Bà cụ Khả đã trên tuổi 90 và bán thân bất toại từ lâu…
Khi về Sài Gòn thì mẹ con đôi ngả. Ông Cẩn vĩnh viễn xa mẹ từ buổi ấy. Ông bị giam trong một căn phòng “ghê rợn” nhất của khám Chí Hòa.
Cái đau khổ lớn của tù nhân không phải vì thân thể bị câu thúc mà trước hết đau khổ vì cô đơn. Nỗi cô đơn như một phi tần trong chốn lãnh cung. Có ai trải qua cơn phong trần mới thông cảm được nỗi “giết nhau chẳng cái lưu cầu, giết nhau bằng cái u sầu độc chưa” Trên sáu tháng trời ông Cẩn đã chết mòn trong cái u sầu thê lương như vậy của một cấm phòng đầy oan trái và hồn ma. Chắc hẳn trong những đêm dài thao thức, ông Cẩn chỉ còn sống theo dĩ vãng huy hoàng, chín năm trong đó bao nhiêu công hầu đã đến với ông, van lậy ông, một điều cậu, một điều con để mong ông ban phát bổng lộc.
Điều đau khổ nhất đối với riêng ông Cẩn là những ngày tháng ông phải sống xa mẹ. Từ ấu thơ cho đến ngày lao lý, ông Cẩn không bao giờ phải sống xa mẹ. Trong gia đình Tổng thống thì chỉ có một mình ông Cẩn sống cạnh mẹ. Ông Diệm cho đến Đức cha Thục, ông Nhu, ông Luyện mỗi người mỗi ngả một năm mới về thăm mẹ đôi ba lần. Theo nhân chứng, ông Cẩn được thân mẫu thương yêu nhất mực về đức hiếu thảo. Kể từ ngày bà cụ Ngô Đình Khả bị bán thân bất toại, suốt ngày nằm trên ghế tựa, ông Cẩn luôn luôn có mặt bên cạnh không chịu xa mẹ lấy một đêm.
Thế mà những ngày ấy ông phải sống xa mẹ. Và ngày 20-4-64, Tòa án “cách mạng” tuyên án tử hình ông Ngô Đình Cẩn mà chánh thẩm là Đại tá Đặng văn Quang (vợ chồng Đại tá Quang vốn là con đỡ đầu của thân mẫu Đức cha Nguyễn văn Thuận chị ruột của ông Cẩn). Trước tòa ông Cẩn nói: “Tôi quân sự không biết, hành chánh không biết, học tầm thường làm sao ra lệnh cho ai được?”. Bốn ngày sau khi tuyên án, ông Cẩn đệ đơn xin ân xá và hai ngày sau nữa tướng Dương văn Minh bác đơn xin ân xá với tư cách Quốc trưởng. Trong thời gian này, tướng Khánh đã “đau đầu”, rồi bối rối không biết làm thế nào để giải quyết mọi việc cho mọi bề êm đẹp. Bao nhiêu cuộc tiếp xúc, bao nhiêu cuộc trả giá, tấm thân của ông Cẩn trở thành món hàng để “bên này đưa ra điều kiện này bên kia đặt điều kiện khác”. Chữ “nếu” làm cho ông Khánh bù đầu. “Nếu không giết ông Cẩn chúng tôi sẽ có thái độ, hoặc không ân xá cho ông Cẩn chúng tôi sẽ hành động”. Các cố vấn của tướng Khánh thì cho rằng “Trong vụ này Thủ tướng cứ coi như vô can. Việc xử thế nào là do Tòa. Việc ân xá hay không là do tướng Minh. Nếu tướng Minh ân xá thì hợp ý với Thủ tướng và có thể xoa dịu được phe bên này, mà áp lực “búa rìu” của phe bên kia sẽ đổ hết vào đầu ông Minh và ngược lại…”. Cộng sự viên thân tín của tướng Khánh lúc ấy đều là những người cùng chống chế độ Ngô Đình Diệm và bị giam cầm như Phạm Thái, Tổng Trưởng thông tin hay thuộc Đảng Đại Việt như bác sĩ Nguyễn Tôn Hoàn, Phó thủ tướng hoặc thuộc “gà nhà” như luật sư Nghiêm Xuân Hồng, Bộ trưởng phủ Thủ tướng…
Hôm xử bắn ông Cẩn tại khám Chí Hòa, buổi sáng ông Khánh uống một hơi hết ly rượu mạnh, mắt ông lại lồi hẳn ra.
Từ khi tướng Trí và Đại úy Minh đi khỏi, bên cạnh ông Cẩn không còn ai. Một vài người thân yêu ngơ ngẩn ở trước cửa nhà dòng có ý đợi. Đại úy Minh xem ông Minh có quyết định sang tị nạn ở Tòa phó lãnh sự Mỹ hay không. Buổi sáng ở nhà Đại úy Minh, ông Phó lãnh sự Mỹ có đến tìm gặp và đề nghị :
- Nếu Đại úy và gia đình cũng như viên chức nào thấy ở ngoài này không có an ninh và nguy hiểm cho tính mạng, tôi mời tất cả qua tị nạn Tòa lãnh sự.
Đại úy Minh đáp :
- Xin cảm ơn ông Lãnh sự, có lẽ không cần thiết.
Ngày 2-11-1963 chính là ngày sinh nhật của ông Cẩn… ông có ngờ đâu đó cũng chính là ngày ông phải để tang hai người anh trai… Sau khi ông Cẩn sang tị nạn tại nhà dòng Chúa Cứu thế thì ông Lãnh sự và Phó lãnh sự có tìm gặp Đại úy Minh và đề nghị đưa ông Cẩn qua Tòa lãnh sự tị nạn cho an ninh hơn và ông cam kết sẽ để ông Cẩn được hưởng quyền lợi tị nạn như Tòa đại sứ Mỹ đã dành cho Thượng tọa Trí Quang trước đây.
Nhưng ông Cẩn chỉ bằng lòng qua đó tị nạn với điều kiện ông phải được đem theo thân mẫu tức bà Ngô Đình Khả… Lãnh sự Mỹ không chấp nhận điều kiện này. Hơn nữa, các cộng sự viên thân tín tỏ ý dè dặt vì không hiểu lòng dạ của người Mỹ ra sao.
Ngày 5-11 tướng Trí được lệnh của quân đảo chính đưa ông Cẩn về Sài Gòn cùng với bà cụ Khả. Lúc ấy bà cụ Khả vẫn chưa biết tin Tổng thống Diệm và ông Nhu bị thảm sát, vì trong nhà cố giữ kín tin này. Bà cụ Khả đã trên tuổi 90 và bán thân bất toại từ lâu…
Khi về Sài Gòn thì mẹ con đôi ngả. Ông Cẩn vĩnh viễn xa mẹ từ buổi ấy. Ông bị giam trong một căn phòng “ghê rợn” nhất của khám Chí Hòa.
Cái đau khổ lớn của tù nhân không phải vì thân thể bị câu thúc mà trước hết đau khổ vì cô đơn. Nỗi cô đơn như một phi tần trong chốn lãnh cung. Có ai trải qua cơn phong trần mới thông cảm được nỗi “giết nhau chẳng cái lưu cầu, giết nhau bằng cái u sầu độc chưa” Trên sáu tháng trời ông Cẩn đã chết mòn trong cái u sầu thê lương như vậy của một cấm phòng đầy oan trái và hồn ma. Chắc hẳn trong những đêm dài thao thức, ông Cẩn chỉ còn sống theo dĩ vãng huy hoàng, chín năm trong đó bao nhiêu công hầu đã đến với ông, van lậy ông, một điều cậu, một điều con để mong ông ban phát bổng lộc.
Điều đau khổ nhất đối với riêng ông Cẩn là những ngày tháng ông phải sống xa mẹ. Từ ấu thơ cho đến ngày lao lý, ông Cẩn không bao giờ phải sống xa mẹ. Trong gia đình Tổng thống thì chỉ có một mình ông Cẩn sống cạnh mẹ. Ông Diệm cho đến Đức cha Thục, ông Nhu, ông Luyện mỗi người mỗi ngả một năm mới về thăm mẹ đôi ba lần. Theo nhân chứng, ông Cẩn được thân mẫu thương yêu nhất mực về đức hiếu thảo. Kể từ ngày bà cụ Ngô Đình Khả bị bán thân bất toại, suốt ngày nằm trên ghế tựa, ông Cẩn luôn luôn có mặt bên cạnh không chịu xa mẹ lấy một đêm.
Thế mà những ngày ấy ông phải sống xa mẹ. Và ngày 20-4-64, Tòa án “cách mạng” tuyên án tử hình ông Ngô Đình Cẩn mà chánh thẩm là Đại tá Đặng văn Quang (vợ chồng Đại tá Quang vốn là con đỡ đầu của thân mẫu Đức cha Nguyễn văn Thuận chị ruột của ông Cẩn). Trước tòa ông Cẩn nói: “Tôi quân sự không biết, hành chánh không biết, học tầm thường làm sao ra lệnh cho ai được?”. Bốn ngày sau khi tuyên án, ông Cẩn đệ đơn xin ân xá và hai ngày sau nữa tướng Dương văn Minh bác đơn xin ân xá với tư cách Quốc trưởng. Trong thời gian này, tướng Khánh đã “đau đầu”, rồi bối rối không biết làm thế nào để giải quyết mọi việc cho mọi bề êm đẹp. Bao nhiêu cuộc tiếp xúc, bao nhiêu cuộc trả giá, tấm thân của ông Cẩn trở thành món hàng để “bên này đưa ra điều kiện này bên kia đặt điều kiện khác”. Chữ “nếu” làm cho ông Khánh bù đầu. “Nếu không giết ông Cẩn chúng tôi sẽ có thái độ, hoặc không ân xá cho ông Cẩn chúng tôi sẽ hành động”. Các cố vấn của tướng Khánh thì cho rằng “Trong vụ này Thủ tướng cứ coi như vô can. Việc xử thế nào là do Tòa. Việc ân xá hay không là do tướng Minh. Nếu tướng Minh ân xá thì hợp ý với Thủ tướng và có thể xoa dịu được phe bên này, mà áp lực “búa rìu” của phe bên kia sẽ đổ hết vào đầu ông Minh và ngược lại…”. Cộng sự viên thân tín của tướng Khánh lúc ấy đều là những người cùng chống chế độ Ngô Đình Diệm và bị giam cầm như Phạm Thái, Tổng Trưởng thông tin hay thuộc Đảng Đại Việt như bác sĩ Nguyễn Tôn Hoàn, Phó thủ tướng hoặc thuộc “gà nhà” như luật sư Nghiêm Xuân Hồng, Bộ trưởng phủ Thủ tướng…
Hôm xử bắn ông Cẩn tại khám Chí Hòa, buổi sáng ông Khánh uống một hơi hết ly rượu mạnh, mắt ông lại lồi hẳn ra.
Chết vì của
Qua lời nguyền phục hận cho anh em Tổng thống Diệm mà tướng Khánh đã nhiều lần tỏ bày… ai cũng tưởng ông là một người một lòng một dạ sống chết với anh em ông Diệm. Nhưng với tướng Khánh thì “lời nói gió bay lên trời”, thảy đều không quan trọng.
Sau khi đảo chính thành công, hầu hết các tướng tham dự đều được vinh thăng, nhưng trường hợp tướng Khánh lại bị chậm trễ. Trong quá khứ và thuở còn mang lon cấp tá, tướng Minh và Khánh quá biết rõ nhau. Đã từ lâu, không ai ưa ai. Ngày 5-11, tướng Khánh ở Pleiku bay về Sài Gòn một mặt trình diện tướng Minh. Mặt khác chạy lon. Vốn là người láu cá vặt, nên tướng Khánh chạy qua “cửa” Thủ tướng Thơ, và biết rằng ông Thơ hay bị xiêu lòng nếu chịu khó năn nỉ. Hơn nữa, ông Thơ vẫn có lòng tốt đối với bọn em út. Quả nhiên tướng Khánh đã thành công. Thủ tướng Thơ gọi điện thoại cho tướng Minh để “xin lon” cho tướng Khánh và ông Minh cũng đồng ý cho ông Khánh lên Trung tướng. Sáng hôm sau, tướng Khánh lại đến tư thất của Thủ tướng Thơ năn nỉ. Việc thăng Trung tướng, Thủ tướng Thơ đã dàn xếp xong. Tướng Khánh nóng lòng nên cho người lên phố mua cặp sao ngay. Tại tư thất, Thủ tướng Chính phủ vẫn còn mặc áo Pyjama, vốn là con người xuề xòa, không kiểu cách, Thủ tướng Thơ đã gắn lon Trung tướng cho Nguyễn Khánh trong lúc ông đang mặc đồ ngủ.
Thực ra thì tướng Khánh cũng chẳng thương xót gì Tổng thống Diệm. Đối với ông ai cũng có thể là người “tri kỷ”, ai cũng có thể là bạn đường… Người như tướng Khánh khó lòng giữ được sự trung nghĩa.
Vì tướng Khánh không chỉ bắt cá hai tay mà ba bốn tay. Cùng một câu chuyện, gặp ông A, tướng Khánh nói thế này, gặp ông B tướng Khánh lại nói cách khác.
Ngày 9-5-1964, ông Cẩn bị xử bắn tại khám Chí Hòa thì Phan Quang Đông bị xử bắn tại Huế. Ông Khánh bay ra Huế để lấy lòng dân chúng từ một trung tâm tranh đấu… nhưng ông lại bị dân chúng vây tại dinh Tỉnh trưởng Thừa Thiên. Ông phải “trốn lủi” đi cửa sau rồi dùng trực thăng rời khỏi cố đô.
Sau một ngày hành trình toát mồ hôi, lại bị dân chúng la ó đả đảo, hôm ấy ông Khánh tìm lại giấc ngủ bình an sau khi ông Cẩn đã ra người thiên cổ. Chết là hết, ông Khánh được bình an vì những tưởng ông Cẩn sẽ mang theo tất cả những bí mật về phần tài sản của ông. Sự đời đâu có đơn giản như vậy. Cái kim trong bọc để lâu ngày cũng lòi ra, huống chi tài sản của ông Cẩn không phải là ít từ của chìm của nổi. Nhiều người thân tín trong gia đình ông Cẩn cho rằng “Ông Cẩn chết vì tài sản đó”. Để gây quỹ cho đoàn thể Cần Lao, trong chín năm ông Cẩn đã ủy tên cho một số người đứng tên quản trị. Ông X đứng tên và quản trị một cơ sở kinh doanh này. Ông Y được trao phó đứng tên mua một thửa đất kia. Trong cái valise của ông Cẩn lại chất đầy những quý vật rồi lại có một trương mục tại ngân hàng do mấy người trong Đoàn thể đứng tên. Nếu ông Cẩn còn sống, các đương sự sẽ khó lòng chiếm đoạt nổi. Có thể tướng Khánh đã được chia một phần tài sản ấy về mặt của nổi để gọi là dùng vào quỹ mật.
Tại nhà dòng Chúa Cứu thế ngày 3-11 khi được quân đảo chính mời tham gia, một vài người thân tín của ông Cẩn đã đề nghị: “Tình thế đã như vậy rồi nay Hội đồng mời Cậu tham gia thì Cậu cứ tham gia. Bao nhiêu tài sản, của cải của đoàn thể hiện do ai đứng tên, do ai cất giữ cậu khai hết rồi đem nạp cho Hội đồng để xung vào công quỹ Quốc gia”. Nếu ông Cẩn nghe lời nhân chứng B, công khai hóa tài sản và đem nạp cho Quốc gia thì ít nhất cũng không ai có thể nuốt được hết cho dù có “chấm mút” ít nhiều.
Nói về tài sản của ông Cẩn, giới thân tín của ông đều ngao ngán: “Ông Cẩn không bao giờ tin nhũng cộng sự viên thân cận của ông mà ông vẫn cho rằng quá trẻ không hiểu gì về vấn đề kinh tài cho đoàn thể”.
Dạo năm 1961 nhiều đảng viên Cần Lao bị thương, đau yếu túng quẫn, Đại úy Minh có đề nghị: “Cậu trích một số tiền trong quỹ đoàn thể giúp đỡ những người đã phải hy sinh hay thương tích vì quốc gia và đoàn thể”. Lúc ấy ông Cẩn nói: “Tiền đâu bây chừ… tao làm gì có tiền”. Mấy cộng sự viên rất đỗi ngạc nhiên, không hiểu tiền bạc bấy lâu nay đi về đâu và ở những tay ai? Vào khoảng năm 1959, có người đề nghị ông Cẩn mua lại một số đất của hoàng tộc. Ông bảo Đại úy Minh và mấy người thân tín cùng ông đi coi xem đất cát ra sao. Một người lên tiếng cản ngăn: “Con nghĩ Cậu không nên làm như vậy. Mình vừa truất phế Bảo Đại xong bây giờ lại đứng ra mua lại đất đai của Hoàng tộc thì cho dù có trả tiền theo thời giá vẫn bị mang tiếng” ông Cẩn đáp: “Tao một thân một mình thì cần chi. Lo là lo cho bọn bay, đoàn thể mà không có vốn liếng thì làm sao hoạt động được? Tụi bay còn trẻ biết gì”.
Từ đó mấy cộng sự viên thân tín không ai đả động gì đến việc này dù họ cũng biết rõ ông Cẩn đã ủy cho ai lo phần kinh tài. Theo người biết chuyện thì mẹ con bà Luyến và một số người khác đã làm hỏng ông Cẩn, nhất là vấn đề kinh doanh tiền bạc. Rồi khi tàn cuộc thì những “ai đó” phỗng tay trên. Trong suốt 9 năm cầm quyền đã có biết bao ông bà lớn tâng bốc bà Luyến lên mây xanh, một tiếng Dì, một tiếng Mợ. Một đằng Cậu Cẩn, một đằng Mợ Luyến. Do đó đã gây nên bao nhiêu dư luận xấu xa. Mà bà Luyến tuy anh em con dì với anh em ông Cẩn nhưng lại chỉ là thứ gia nhân lo việc nội trợ trong nhà.
Qua lời nguyền phục hận cho anh em Tổng thống Diệm mà tướng Khánh đã nhiều lần tỏ bày… ai cũng tưởng ông là một người một lòng một dạ sống chết với anh em ông Diệm. Nhưng với tướng Khánh thì “lời nói gió bay lên trời”, thảy đều không quan trọng.
Sau khi đảo chính thành công, hầu hết các tướng tham dự đều được vinh thăng, nhưng trường hợp tướng Khánh lại bị chậm trễ. Trong quá khứ và thuở còn mang lon cấp tá, tướng Minh và Khánh quá biết rõ nhau. Đã từ lâu, không ai ưa ai. Ngày 5-11, tướng Khánh ở Pleiku bay về Sài Gòn một mặt trình diện tướng Minh. Mặt khác chạy lon. Vốn là người láu cá vặt, nên tướng Khánh chạy qua “cửa” Thủ tướng Thơ, và biết rằng ông Thơ hay bị xiêu lòng nếu chịu khó năn nỉ. Hơn nữa, ông Thơ vẫn có lòng tốt đối với bọn em út. Quả nhiên tướng Khánh đã thành công. Thủ tướng Thơ gọi điện thoại cho tướng Minh để “xin lon” cho tướng Khánh và ông Minh cũng đồng ý cho ông Khánh lên Trung tướng. Sáng hôm sau, tướng Khánh lại đến tư thất của Thủ tướng Thơ năn nỉ. Việc thăng Trung tướng, Thủ tướng Thơ đã dàn xếp xong. Tướng Khánh nóng lòng nên cho người lên phố mua cặp sao ngay. Tại tư thất, Thủ tướng Chính phủ vẫn còn mặc áo Pyjama, vốn là con người xuề xòa, không kiểu cách, Thủ tướng Thơ đã gắn lon Trung tướng cho Nguyễn Khánh trong lúc ông đang mặc đồ ngủ.
Thực ra thì tướng Khánh cũng chẳng thương xót gì Tổng thống Diệm. Đối với ông ai cũng có thể là người “tri kỷ”, ai cũng có thể là bạn đường… Người như tướng Khánh khó lòng giữ được sự trung nghĩa.
Vì tướng Khánh không chỉ bắt cá hai tay mà ba bốn tay. Cùng một câu chuyện, gặp ông A, tướng Khánh nói thế này, gặp ông B tướng Khánh lại nói cách khác.
Ngày 9-5-1964, ông Cẩn bị xử bắn tại khám Chí Hòa thì Phan Quang Đông bị xử bắn tại Huế. Ông Khánh bay ra Huế để lấy lòng dân chúng từ một trung tâm tranh đấu… nhưng ông lại bị dân chúng vây tại dinh Tỉnh trưởng Thừa Thiên. Ông phải “trốn lủi” đi cửa sau rồi dùng trực thăng rời khỏi cố đô.
Sau một ngày hành trình toát mồ hôi, lại bị dân chúng la ó đả đảo, hôm ấy ông Khánh tìm lại giấc ngủ bình an sau khi ông Cẩn đã ra người thiên cổ. Chết là hết, ông Khánh được bình an vì những tưởng ông Cẩn sẽ mang theo tất cả những bí mật về phần tài sản của ông. Sự đời đâu có đơn giản như vậy. Cái kim trong bọc để lâu ngày cũng lòi ra, huống chi tài sản của ông Cẩn không phải là ít từ của chìm của nổi. Nhiều người thân tín trong gia đình ông Cẩn cho rằng “Ông Cẩn chết vì tài sản đó”. Để gây quỹ cho đoàn thể Cần Lao, trong chín năm ông Cẩn đã ủy tên cho một số người đứng tên quản trị. Ông X đứng tên và quản trị một cơ sở kinh doanh này. Ông Y được trao phó đứng tên mua một thửa đất kia. Trong cái valise của ông Cẩn lại chất đầy những quý vật rồi lại có một trương mục tại ngân hàng do mấy người trong Đoàn thể đứng tên. Nếu ông Cẩn còn sống, các đương sự sẽ khó lòng chiếm đoạt nổi. Có thể tướng Khánh đã được chia một phần tài sản ấy về mặt của nổi để gọi là dùng vào quỹ mật.
Tại nhà dòng Chúa Cứu thế ngày 3-11 khi được quân đảo chính mời tham gia, một vài người thân tín của ông Cẩn đã đề nghị: “Tình thế đã như vậy rồi nay Hội đồng mời Cậu tham gia thì Cậu cứ tham gia. Bao nhiêu tài sản, của cải của đoàn thể hiện do ai đứng tên, do ai cất giữ cậu khai hết rồi đem nạp cho Hội đồng để xung vào công quỹ Quốc gia”. Nếu ông Cẩn nghe lời nhân chứng B, công khai hóa tài sản và đem nạp cho Quốc gia thì ít nhất cũng không ai có thể nuốt được hết cho dù có “chấm mút” ít nhiều.
Nói về tài sản của ông Cẩn, giới thân tín của ông đều ngao ngán: “Ông Cẩn không bao giờ tin nhũng cộng sự viên thân cận của ông mà ông vẫn cho rằng quá trẻ không hiểu gì về vấn đề kinh tài cho đoàn thể”.
Dạo năm 1961 nhiều đảng viên Cần Lao bị thương, đau yếu túng quẫn, Đại úy Minh có đề nghị: “Cậu trích một số tiền trong quỹ đoàn thể giúp đỡ những người đã phải hy sinh hay thương tích vì quốc gia và đoàn thể”. Lúc ấy ông Cẩn nói: “Tiền đâu bây chừ… tao làm gì có tiền”. Mấy cộng sự viên rất đỗi ngạc nhiên, không hiểu tiền bạc bấy lâu nay đi về đâu và ở những tay ai? Vào khoảng năm 1959, có người đề nghị ông Cẩn mua lại một số đất của hoàng tộc. Ông bảo Đại úy Minh và mấy người thân tín cùng ông đi coi xem đất cát ra sao. Một người lên tiếng cản ngăn: “Con nghĩ Cậu không nên làm như vậy. Mình vừa truất phế Bảo Đại xong bây giờ lại đứng ra mua lại đất đai của Hoàng tộc thì cho dù có trả tiền theo thời giá vẫn bị mang tiếng” ông Cẩn đáp: “Tao một thân một mình thì cần chi. Lo là lo cho bọn bay, đoàn thể mà không có vốn liếng thì làm sao hoạt động được? Tụi bay còn trẻ biết gì”.
Từ đó mấy cộng sự viên thân tín không ai đả động gì đến việc này dù họ cũng biết rõ ông Cẩn đã ủy cho ai lo phần kinh tài. Theo người biết chuyện thì mẹ con bà Luyến và một số người khác đã làm hỏng ông Cẩn, nhất là vấn đề kinh doanh tiền bạc. Rồi khi tàn cuộc thì những “ai đó” phỗng tay trên. Trong suốt 9 năm cầm quyền đã có biết bao ông bà lớn tâng bốc bà Luyến lên mây xanh, một tiếng Dì, một tiếng Mợ. Một đằng Cậu Cẩn, một đằng Mợ Luyến. Do đó đã gây nên bao nhiêu dư luận xấu xa. Mà bà Luyến tuy anh em con dì với anh em ông Cẩn nhưng lại chỉ là thứ gia nhân lo việc nội trợ trong nhà.
Phú hộ đồng quê
Trong chín năm ông Cẩn đã cho tiền thiên hạ rất nhiều. Bản thân ông vốn là cậu ấm con quan Thượng thư Lễ bộ nhưng ông lại là con người tiêu biểu cho trạng thái quê mùa. Thường ngày, ông dùng cơm với cá kho, dưa chua. Ngay nhà ông bao giờ cũng muối sẵn từng vại dưa, vại cà, có khi ông còn tỉ mẩn đi muối hàng vại “dưa rau muống”. Một sáng kiến khá kỳ cục… vì chưa thấy ai dùng rau muống để muối dưa, vì ông lại không ăn được vây yến hay sơn hào hải vị!. Nhà ông ở Phú Cam nuôi hàng trăm con chim bồ câu. Nuôi là để dành dấy thôi. Ông Cẩn có tâm lý một nhà giàu xứ quê cho nên cái gì ông cũng thu vén chắt chiu, cái gì cũng cho vào trong kho hết, trong kho của nhà ông chứa đựng không biết bao tranh sơn mài đồ gốm, đồ cổ. Dĩ chí có nhiều người biếu ông miếng gỗ cẩm lai ông cũng cho cất vào kho để dành.
Ngày 1-11 là sinh nhật ông cho nên khách bốn phương đổ về Huế tấp nập với bao nhiêu quà, ông không ăn, trong nhà cũng không thể ăn hết, tuy vậy dù là quà thuộc về thực phẩm, ông cũng đem cho vào kho cất đi. Mấy hôm sau để thối ra đấy người nhà lại mất công đem đi đổ… Con người ông Cẩn là một thế giới đầy mâu thuẫn, ông vừa có cái cốt phong kiến của con quan, ông lại có tính thu vén chắt chiu của một phú nông, cùng cái hách của Tổng lý thời xưa. Ông có bản chất và sắc thái của một ông già nhà quê. Ngoài thú câu cá, ông còn tự tay vót tre đan rổ rá. Rổ rá trong nhà ông phần lớn là do ông đan lấy và ông coi đó như một sinh thú.
Trong chín năm ông Cẩn đã cho tiền thiên hạ rất nhiều. Bản thân ông vốn là cậu ấm con quan Thượng thư Lễ bộ nhưng ông lại là con người tiêu biểu cho trạng thái quê mùa. Thường ngày, ông dùng cơm với cá kho, dưa chua. Ngay nhà ông bao giờ cũng muối sẵn từng vại dưa, vại cà, có khi ông còn tỉ mẩn đi muối hàng vại “dưa rau muống”. Một sáng kiến khá kỳ cục… vì chưa thấy ai dùng rau muống để muối dưa, vì ông lại không ăn được vây yến hay sơn hào hải vị!. Nhà ông ở Phú Cam nuôi hàng trăm con chim bồ câu. Nuôi là để dành dấy thôi. Ông Cẩn có tâm lý một nhà giàu xứ quê cho nên cái gì ông cũng thu vén chắt chiu, cái gì cũng cho vào trong kho hết, trong kho của nhà ông chứa đựng không biết bao tranh sơn mài đồ gốm, đồ cổ. Dĩ chí có nhiều người biếu ông miếng gỗ cẩm lai ông cũng cho cất vào kho để dành.
Ngày 1-11 là sinh nhật ông cho nên khách bốn phương đổ về Huế tấp nập với bao nhiêu quà, ông không ăn, trong nhà cũng không thể ăn hết, tuy vậy dù là quà thuộc về thực phẩm, ông cũng đem cho vào kho cất đi. Mấy hôm sau để thối ra đấy người nhà lại mất công đem đi đổ… Con người ông Cẩn là một thế giới đầy mâu thuẫn, ông vừa có cái cốt phong kiến của con quan, ông lại có tính thu vén chắt chiu của một phú nông, cùng cái hách của Tổng lý thời xưa. Ông có bản chất và sắc thái của một ông già nhà quê. Ngoài thú câu cá, ông còn tự tay vót tre đan rổ rá. Rổ rá trong nhà ông phần lớn là do ông đan lấy và ông coi đó như một sinh thú.
Công lý
Ngày 20-4-64, ông Cẩn được xét xử trước Tòa án. Ông Cẩn cũng bị khép vào các tội như Phan Quang Đông chỉ khác tội cố sát. Trên đây, xét từ nguyên nhân sâu xa thì ông Cẩn chết vì lý do tài sản. Nhưng ra tòa, bản án tử hình dành cho ông lại bắt nguồn từ vụ án gián điệp miền Trung với Huỳnh văn Trọng, Nguyễn Đắc Phương bị người của ông Cẩn xô từ trên lầu xuống và Phương chết như vậy tức là Phương bị cố sát chứ không phải Phương tự tử (?).
Buổi sáng ngày 20-4, khi tòa xử, có vợ Nguyễn Đắc Phương ra làm nhân chứng. Một vài tờ báo mô tả rằng: “Người vợ của ông Phuơng vì thương chồng phẫn uất quá nên ra tòa bị ngất xỉu”. Một người ở Huế biết quá rõ bà Phương nói rằng: “Bà Phương mới sinh được hai tháng đã phải ra tòa nên ngất xỉu”. Tại sao lại như thế? Chồng bà đã chết từ lâu cơ mà? Đại cương vụ án gián điệp tại miền Trung như thế này:
Hồ sơ vụ này đã có từ thời ông Giám đốc Công an Trung phần Nguyễn Chữ. Đầu năm 1960 mấy Linh mục Đà Nẵng có lên gặp Đức Tổng giám mục Ngô Đình Thục trình bày về việc một số người bị bắt oan trong đó có cả tín đồ Thiên Chúa giáo. Đức cha Thục thay vì hỏi thẳng Phan Quang Đông (vì Đông có trách nhiệm trong vụ này) ngược lại Đức cha Thục lại vào thẳng Sài Gòn trình bày nội vụ với Tổng thống Diệm, sau đó Tổng thống Diệm ra lệnh cho Đại tá Đỗ Mậu mở cuộc điều tra.
Đại tá Mậu đánh công điện cho Đại úy Thích, Trưởng khu An ninh Huế điều tra vụ này. Dĩ nhiên là động đến ông Cẩn, Đại úy Thích không dám đơn phương tiến hành. Đại úy Thích đến xin gặp Đại úy Minh bàn luận cùng ông Minh nên xử trí như thế nào. Ông Minh cho rằng, vụ này nên hỏi lại Phan Quang Đông và báo cho Đông biết sự thể nó như vậy. Sau đó sẽ trình báo với ông Cẩn.
Đại úy Thích vào gặp ông Cẩn trình bày về bức công điện từ Sài Gòn. Phản ứng đầu tiên là ông Cẩn tái mặt, ông bảo Thích điều tra lại xem có điều gì oan ức không. Ông Cẩn nói: Giết oan người ta thì Chúa phạt đến đời con đời cháu. Sau An ninh Quân đội điều tra thì đều xác nhận vụ án gián điệp có thật.
Ngày 20-4, Tòa xử ông Cẩn về vụ ấy.
Ngày 20-4-64, ông Cẩn được xét xử trước Tòa án. Ông Cẩn cũng bị khép vào các tội như Phan Quang Đông chỉ khác tội cố sát. Trên đây, xét từ nguyên nhân sâu xa thì ông Cẩn chết vì lý do tài sản. Nhưng ra tòa, bản án tử hình dành cho ông lại bắt nguồn từ vụ án gián điệp miền Trung với Huỳnh văn Trọng, Nguyễn Đắc Phương bị người của ông Cẩn xô từ trên lầu xuống và Phương chết như vậy tức là Phương bị cố sát chứ không phải Phương tự tử (?).
Buổi sáng ngày 20-4, khi tòa xử, có vợ Nguyễn Đắc Phương ra làm nhân chứng. Một vài tờ báo mô tả rằng: “Người vợ của ông Phuơng vì thương chồng phẫn uất quá nên ra tòa bị ngất xỉu”. Một người ở Huế biết quá rõ bà Phương nói rằng: “Bà Phương mới sinh được hai tháng đã phải ra tòa nên ngất xỉu”. Tại sao lại như thế? Chồng bà đã chết từ lâu cơ mà? Đại cương vụ án gián điệp tại miền Trung như thế này:
Hồ sơ vụ này đã có từ thời ông Giám đốc Công an Trung phần Nguyễn Chữ. Đầu năm 1960 mấy Linh mục Đà Nẵng có lên gặp Đức Tổng giám mục Ngô Đình Thục trình bày về việc một số người bị bắt oan trong đó có cả tín đồ Thiên Chúa giáo. Đức cha Thục thay vì hỏi thẳng Phan Quang Đông (vì Đông có trách nhiệm trong vụ này) ngược lại Đức cha Thục lại vào thẳng Sài Gòn trình bày nội vụ với Tổng thống Diệm, sau đó Tổng thống Diệm ra lệnh cho Đại tá Đỗ Mậu mở cuộc điều tra.
Đại tá Mậu đánh công điện cho Đại úy Thích, Trưởng khu An ninh Huế điều tra vụ này. Dĩ nhiên là động đến ông Cẩn, Đại úy Thích không dám đơn phương tiến hành. Đại úy Thích đến xin gặp Đại úy Minh bàn luận cùng ông Minh nên xử trí như thế nào. Ông Minh cho rằng, vụ này nên hỏi lại Phan Quang Đông và báo cho Đông biết sự thể nó như vậy. Sau đó sẽ trình báo với ông Cẩn.
Đại úy Thích vào gặp ông Cẩn trình bày về bức công điện từ Sài Gòn. Phản ứng đầu tiên là ông Cẩn tái mặt, ông bảo Thích điều tra lại xem có điều gì oan ức không. Ông Cẩn nói: Giết oan người ta thì Chúa phạt đến đời con đời cháu. Sau An ninh Quân đội điều tra thì đều xác nhận vụ án gián điệp có thật.
Ngày 20-4, Tòa xử ông Cẩn về vụ ấy.
Người tử tù
Một viên giám thị tại khám Chí Hòa (từng có nhiệm vụ canh gác phòng ông Cẩn) đã kể lại với chúng tôi: Có một đêm đã khuya lắm, anh ta đi qua phòng ông Cẩn, tò mò nhìn qua lỗ khoá. Anh ta thấy ông Cẩn đi đi lại lại quanh phòng rồi ông gục đầu vào tường. Anh nghe thấy tiếng ông khóc nấc. Sau đó anh thấy ông Cẩn đi lại phía giường.
Ông quỳ dưới chân tường gục đầu vào nệm, anh vẫn nghe thấy tiếng ông khóc nấc. Một lần khác có việc vào phòng ông, ông lại có vẻ bình thản và hỏi: “Chú có nghe tin tức gì ở ngoài nớ không?”. Tất nhiên là anh ta chỉ ầm ừ rồi mau chóng đi ra (vì sợ bị nghi có liên lạc với tù nhân)… Lần nào gặp, ông Cẩn cũng có lời hỏi han anh như: lương bao nhiêu, có đủ ăn không, mấy con, bố mẹ còn không, có nuôi được bố mẹ không?
Buổi sáng ngày ông Cẩn ra pháp trường, người con gái bà Ấm (cháu gọi ông Cẩn bằng cậu) được phép vào tận trong phòng giam thăm ông với sự hiện diện của viên chức quản lý. Chị ta giơ năm ngón tay ra hiệu cho ông Cẩn (có nghĩa là năm giờ bị xử). Ông Cẩn khẽ gật đầu. Vì không nén được xúc động, người cháu gái khóc bù lu bù loa và nặng lời nguyền rủa những ai phản phúc với ông cậu mình. Ông Cẩn thì vẫn điềm đạm. Lời ông nói với cô cháu gái được ghi nhận như sau: “Không có gì đáng buồn mà phải khóc lóc. Làm chính trị là phải như thế. Cậu không có gì oán thán hết. Làm chính trị thì phải biết sẽ có ngày như thế này”.
Buổi chiều, có những viên chức đã đưa ông từ trại giam ra pháp trường: Đại tá Trang văn Chính, Giám đốc Cảnh sát Đô thành, Trung tá Nguyễn văn Đức, Ủy viên Chính phủ và luật sư Võ văn Quang cùng một số viên chức khác và có cả bà Ấm, người chị ruột của ông Cẩn.
Trước đó ông Cẩn bị bệnh sưng khớp xương và những tháng nằm trong tù ông gần như bị tê liệt, mỗi khi đi đứng phải có người xốc hai vai.
Song buổi chiều ra pháp trường một số người hiện diện đều ngạc nhiên, da mặt ông ta tự nhiên đỏ hồng, từ trên lầu xuống nhà ông vịn tường mà đi không cần người xốc nách. Ông vẫn thường nói với chị ông và các cháu (trong đó có bà Trần Trung Dung) “Không việc gì phải khóc lóc hay chửi rủa ai. Cứ cầu nguyện cho người ta. Cậu làm chính trị cậu đã nghĩ đến ngày phải như thế này”.
Đại tá Chính và mấy người khác lên tiếng chào ông, ông cúi đầu thi lễ: “Xin chào các ngài”. Mọi người đều công nhận ông có vẻ thản nhiên và khỏe mạnh hơn mọi ngày thường.
Khi ra pháp trường ông Cẩn lẻ loi một mình. Mặt ông vẫn thản nhiên, ông bị trói vào cột (như báo chí đã tường thuật). Trung úy Bảo, sĩ quan báo chí Phủ thủ tướng là người duy nhất đại diện báo chí nhà nước có mặt tại “sân bắn” lúc ấy. Trung úy Bảo thuật lại: Hai bàn chân của ông chỉ có năm ngón chấm đất, gót chân lơ lửng. Ông Bảo tiếp lời: Biết đâu lúc ấy ông Cẩn không nhận ra tôi Trung úy Bảo đứng cách tử tội Ngô Đình Cẩn 15m về phía tay mặt. Đằng trước ông Cẩn là toán quân thực thi nhiệm vụ. Sau toán quân cách là báo chí. Do tình cờ của số phận, Bảo lại có mặt trong tư thế đại diện chính quyền trong buổi xử bắn ông Cẩn. Thật là éo le.
Nhân chứng nói: “Nhìn ông Cẩn lúc ấy tôi rướm nước mắt song vẫn cố tình làm ra vẻ thản nhiên”. Định mệnh lịch sử có thật hay sao? Trước đó Bảo được Trung tá Khôi cho ra Huế mang thư riêng đến ông Cẩn.
Khi được Đại úy Minh đưa vào yết kiến, Trung úy Bảo rất ngạc nhiên. Ông Cẩn nằm trên chiếc ghế xích đu kê ở hàng hiên. Ông đang nhai trầu bỏm bẻm. Thấy Bảo ông Cẩn ngồi nhỏm dậy và tự tay kéo ghế mời ngồi. Ông gọi đích danh Bảo rồi hỏi thăm chuyện trò lan man về tình hình Sài Gòn, về gia cảnh và công việc làm ăn của Trung úy Bảo.
Vẫn khuôn mặt cũ, buổi chiều hôm ấy ra pháp trường, Trung úy Bảo thấy ông Cẩn vẫn giữ vẻ bình thản, da mặt đỏ hồng.
Rồi một loạt súng nổ, ông Cẩn trở về cõi thiên cổ.
Trước đó ông ta từ chối không chịu bịt mắt. Nhưng Trung tá ủy viên Chính phủ nói “Đây là luật lệ bắt buộc như vậy”. Ông Cẩn đành chịu, ông cũng không quên lên tiếng xin mọi người tha thứ cho ông và những người đồng đạo có mặt lúc ấy đã đọc cho ông một kinh lạy cha trong đó có câu “Xin cho chúng tôi hàng ngày dùng đủ và tha tội chúng tôi như chúng tôi cũng tha kẻ có nợ chúng tôi”. Khi bị trói vào cột, ông Cẩn được gặp riêng cha Thính thuộc dòng Chúa Cứu thế là vị quan linh hướng của ông. Rồi sau là luật sư Võ văn Quan… Luật sư Quan nói chuyện với ông Cẩn một lúc, rồi đưa tay gỡ cặp kính trắng trên mắt ông, không khí thật trầm lặng và căng thẳng trong nỗi thê lương. Cha Thính quay đi… mắt vị Linh mục long lanh hạt lệ. Luật sư Quan khẽ thở dài như tiếc thương cho một phận người.
Chỉ một loạt đạn thứ nhất, ông Cẩn đi ngay. Đầu ông gục xuống, lắc lư…
Trung úy Bảo đến bên ông… Màu da đỏ hồng biến thành mầu xám nhạt. Không ai giữ được tiếng thở dài nghẹn ngào. Ông được tháo dây trói và đặt trên băng ca khiêng trở lại khám đường. Bảo đi theo. Trong gian phòng hoang lạnh, không còn ai ngoài Bảo, người hiến binh áp giải và lát sau thì bà Ấm lật đật chạy vào. Ông Cẩn nằm trên băng ca, phủ tấm vải trắng loang lổ máu. Người chị ông khóc rưng rức, nước mắt giàn giụa trên gò má. Thế là xong một đời người.
Một viên giám thị tại khám Chí Hòa (từng có nhiệm vụ canh gác phòng ông Cẩn) đã kể lại với chúng tôi: Có một đêm đã khuya lắm, anh ta đi qua phòng ông Cẩn, tò mò nhìn qua lỗ khoá. Anh ta thấy ông Cẩn đi đi lại lại quanh phòng rồi ông gục đầu vào tường. Anh nghe thấy tiếng ông khóc nấc. Sau đó anh thấy ông Cẩn đi lại phía giường.
Ông quỳ dưới chân tường gục đầu vào nệm, anh vẫn nghe thấy tiếng ông khóc nấc. Một lần khác có việc vào phòng ông, ông lại có vẻ bình thản và hỏi: “Chú có nghe tin tức gì ở ngoài nớ không?”. Tất nhiên là anh ta chỉ ầm ừ rồi mau chóng đi ra (vì sợ bị nghi có liên lạc với tù nhân)… Lần nào gặp, ông Cẩn cũng có lời hỏi han anh như: lương bao nhiêu, có đủ ăn không, mấy con, bố mẹ còn không, có nuôi được bố mẹ không?
Buổi sáng ngày ông Cẩn ra pháp trường, người con gái bà Ấm (cháu gọi ông Cẩn bằng cậu) được phép vào tận trong phòng giam thăm ông với sự hiện diện của viên chức quản lý. Chị ta giơ năm ngón tay ra hiệu cho ông Cẩn (có nghĩa là năm giờ bị xử). Ông Cẩn khẽ gật đầu. Vì không nén được xúc động, người cháu gái khóc bù lu bù loa và nặng lời nguyền rủa những ai phản phúc với ông cậu mình. Ông Cẩn thì vẫn điềm đạm. Lời ông nói với cô cháu gái được ghi nhận như sau: “Không có gì đáng buồn mà phải khóc lóc. Làm chính trị là phải như thế. Cậu không có gì oán thán hết. Làm chính trị thì phải biết sẽ có ngày như thế này”.
Buổi chiều, có những viên chức đã đưa ông từ trại giam ra pháp trường: Đại tá Trang văn Chính, Giám đốc Cảnh sát Đô thành, Trung tá Nguyễn văn Đức, Ủy viên Chính phủ và luật sư Võ văn Quang cùng một số viên chức khác và có cả bà Ấm, người chị ruột của ông Cẩn.
Trước đó ông Cẩn bị bệnh sưng khớp xương và những tháng nằm trong tù ông gần như bị tê liệt, mỗi khi đi đứng phải có người xốc hai vai.
Song buổi chiều ra pháp trường một số người hiện diện đều ngạc nhiên, da mặt ông ta tự nhiên đỏ hồng, từ trên lầu xuống nhà ông vịn tường mà đi không cần người xốc nách. Ông vẫn thường nói với chị ông và các cháu (trong đó có bà Trần Trung Dung) “Không việc gì phải khóc lóc hay chửi rủa ai. Cứ cầu nguyện cho người ta. Cậu làm chính trị cậu đã nghĩ đến ngày phải như thế này”.
Đại tá Chính và mấy người khác lên tiếng chào ông, ông cúi đầu thi lễ: “Xin chào các ngài”. Mọi người đều công nhận ông có vẻ thản nhiên và khỏe mạnh hơn mọi ngày thường.
Khi ra pháp trường ông Cẩn lẻ loi một mình. Mặt ông vẫn thản nhiên, ông bị trói vào cột (như báo chí đã tường thuật). Trung úy Bảo, sĩ quan báo chí Phủ thủ tướng là người duy nhất đại diện báo chí nhà nước có mặt tại “sân bắn” lúc ấy. Trung úy Bảo thuật lại: Hai bàn chân của ông chỉ có năm ngón chấm đất, gót chân lơ lửng. Ông Bảo tiếp lời: Biết đâu lúc ấy ông Cẩn không nhận ra tôi Trung úy Bảo đứng cách tử tội Ngô Đình Cẩn 15m về phía tay mặt. Đằng trước ông Cẩn là toán quân thực thi nhiệm vụ. Sau toán quân cách là báo chí. Do tình cờ của số phận, Bảo lại có mặt trong tư thế đại diện chính quyền trong buổi xử bắn ông Cẩn. Thật là éo le.
Nhân chứng nói: “Nhìn ông Cẩn lúc ấy tôi rướm nước mắt song vẫn cố tình làm ra vẻ thản nhiên”. Định mệnh lịch sử có thật hay sao? Trước đó Bảo được Trung tá Khôi cho ra Huế mang thư riêng đến ông Cẩn.
Khi được Đại úy Minh đưa vào yết kiến, Trung úy Bảo rất ngạc nhiên. Ông Cẩn nằm trên chiếc ghế xích đu kê ở hàng hiên. Ông đang nhai trầu bỏm bẻm. Thấy Bảo ông Cẩn ngồi nhỏm dậy và tự tay kéo ghế mời ngồi. Ông gọi đích danh Bảo rồi hỏi thăm chuyện trò lan man về tình hình Sài Gòn, về gia cảnh và công việc làm ăn của Trung úy Bảo.
Vẫn khuôn mặt cũ, buổi chiều hôm ấy ra pháp trường, Trung úy Bảo thấy ông Cẩn vẫn giữ vẻ bình thản, da mặt đỏ hồng.
Rồi một loạt súng nổ, ông Cẩn trở về cõi thiên cổ.
Trước đó ông ta từ chối không chịu bịt mắt. Nhưng Trung tá ủy viên Chính phủ nói “Đây là luật lệ bắt buộc như vậy”. Ông Cẩn đành chịu, ông cũng không quên lên tiếng xin mọi người tha thứ cho ông và những người đồng đạo có mặt lúc ấy đã đọc cho ông một kinh lạy cha trong đó có câu “Xin cho chúng tôi hàng ngày dùng đủ và tha tội chúng tôi như chúng tôi cũng tha kẻ có nợ chúng tôi”. Khi bị trói vào cột, ông Cẩn được gặp riêng cha Thính thuộc dòng Chúa Cứu thế là vị quan linh hướng của ông. Rồi sau là luật sư Võ văn Quan… Luật sư Quan nói chuyện với ông Cẩn một lúc, rồi đưa tay gỡ cặp kính trắng trên mắt ông, không khí thật trầm lặng và căng thẳng trong nỗi thê lương. Cha Thính quay đi… mắt vị Linh mục long lanh hạt lệ. Luật sư Quan khẽ thở dài như tiếc thương cho một phận người.
Chỉ một loạt đạn thứ nhất, ông Cẩn đi ngay. Đầu ông gục xuống, lắc lư…
Trung úy Bảo đến bên ông… Màu da đỏ hồng biến thành mầu xám nhạt. Không ai giữ được tiếng thở dài nghẹn ngào. Ông được tháo dây trói và đặt trên băng ca khiêng trở lại khám đường. Bảo đi theo. Trong gian phòng hoang lạnh, không còn ai ngoài Bảo, người hiến binh áp giải và lát sau thì bà Ấm lật đật chạy vào. Ông Cẩn nằm trên băng ca, phủ tấm vải trắng loang lổ máu. Người chị ông khóc rưng rức, nước mắt giàn giụa trên gò má. Thế là xong một đời người.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét