Chủ Nhật, 20 tháng 1, 2013

NHỚ LẠI NHỮNG NGÀY Ở CẠNH TỔNG THỐNG NGÔ ĐÌNH DIỆM - PHẦN 3

LM  Lê Quang Oánh cùng Thích Tâm Châu mừng vui khi
nghe tin TT Ngô Đình Diệm đã bị ám sát
 1-11-1963

Sau khi ăn sáng, Trung Tá Nguyễn Ngọc Khôi, tư lệnh Lữ Đoàn Phòng Vệ rủ tôi lên lầu nói chuyện. Hôm đó, ông ăn sáng ở Câu lạc bộ với tôi, vì tối hôm trước ông ngủ lại trong trại. Phòng ngủ của ông ngay trên lầu Câu lạc bộ.

Tôi dùng điện thoại ở phòng ông để kiểm soát lại việc chào kính đô đốc Harry Felt, tư lệnh hạm đội Thái Bình Dương sáng hôm đó đến thăm Tổng Thống. Vừa gác ống  nghe thì chuông điện thoại kêu. Tôi nhấc máy, nghe tiếng Đại Úy Hoa, chánh văn phòng của Trung Tướng Đôn, quyền tổng tham mưu trưởng, cho biết trung tướng muốn nói chuyện với Trung Tá Khôi. Tôi đưa ống  nghe cho Trung Tá Khôi. Sau khi nói chuyện, ông cho biết:

- Trung Tướng Đôn bảo tôi sáng nay phải đích thân đi họp ở tổng tham mưu, để nhận những lệnh hết sức quan trọng, và ăn cơm trưa luôn ở đó.
Thật là ít có, vì xưa nay bộ tổng tham mưu triệu tập họp thì chỉ dùng công điện. Nếu gấp, chỉ chánh văn phòng hay một sĩ quan nào đó gọi, đâu cần đến vị tổng tham mưu trưởng gọi. Trường hợp này tôi chưa thấy bao giờ. Sau này tôi được biết, cũng chính Trung Tướng Đôn gọi dây nói cho Đại Tá Lê Quang Tung, tư lệnh Lực Lượng Đặc Biệt, mời đi họp.

Trung Tá Khôi bảo tôi:
- Chiều nay lúc 3 giờ có buổi học tập, tôi cố về sớm, nhưng nếu không kịp thì anh cứ cho bắt đầu đúng giờ, khỏi đợi tôi.
Trước ngày đảo chính, tuy không có gì lộn xộn, nhưng tình hình có vẻ căng thẳng, khiến tôi linh cảm như có chuyện nghiêm trọng sắp xảy ra, vì vậy, tôi hết sức chú ý đến việc canh gác, và vẫn duy trì lệnh cấm trại. Khoảng 1 giờ chiều ngày 1-11, tôi đang nằm đọc sách, bỗng nghe có tiếng báo động ở vọng gác ngay cạnh phòng ngủ của tôi. Lính gác báo cáo có một số binh sĩ lạ, đang tiến về phía thành Cộng Hòa.
Đứng trên lầu cao, tôi thấy độ 2 hay 3 đại đội Thủy quân lục chiến đang núp sau mấy gốc cây to, trong tư thế tác chiến, sau thành Cộng Hòa, phía đường Hồng Thập Tự. Trong khi đó, phía Lữ Đoàn Phòng Vệ đã báo động sẵn sàng.
Sau khi ra lệnh cho các đơn vị ở dinh Gia Long báo động, và gọi cho sĩ quan tùy viên rõ tình hình để trình Tổng Thống, tôi gọi dây nói cho Thiếu Tá Dụng, tham mưu trưởng Biệt khu thủ đô, để hỏi cho biết đơn vị nào đã xâm nhập vào Đặc khu 1 (quanh dinh Gia Long và thành Cộng Hòa là Đặc khu 1, nơi không đơn vị nào có võ khí được xâm nhập nếu không báo trước cho Lữ Đoàn Phòng Vệ). Thiếu Tá Dụng trả lời là không rõ. Tôi cũng gọi dây nói hỏi Thủy quân lục chiến. Sĩ quan trực cũng trả lời là không rõ.
Thật khó xử, nếu là địch thì dễ cho tôi vô cùng. Chỉ với những súng máy và súng phòng không trong thành, có thể tiêu diệt gần hết các đơn vị này. Nhưng lại là đơn vị bạn cùng trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, nên tôi do dự, chỉ ra lệnh cho bắn một tràng súng máy trên đầu các đơn vị này để cảnh cáo, cho họ ngừng lại. Quả nhiên họ ngừng lại, và núp sát vào các gốc cây, hay chân tường ở các nhà hai bên đường.
Sau khi quan sát kỹ, tôi nhận đúng là Thủy quân lục chiến, và ước lượng độ 2 đại đội. Trung Úy Bảo, trưởng phòng 5 lữ đoàn, báo cáo với tôi rằng ông cũng quan sát thấy đúng là quân của Thủy quân lục chiến. Ông còn nhận ra hai sĩ quan chỉ huy là hai người đã tốt nghiệp ở trường Võ bị Đà Lạt, là nơi Trung Úy Bảo phục vụ trước đây. Tôi bèn cho 1 đại đội của lữ Đoàn có thiết giáp tăng cường, cùng Trung Úy Bảo ra vây bọc đơn vị này lại, hỏi lý do tại sao họ xâm nhập khu gần bộ tư lệnh Lữ Đoàn Phòng Vệ, là nơi đơn vị nào vào gần cũng phải thông báo trước. Tôi cũng dặn kỷ phải cố tránh giao tranh, vì là bạn cả.
Sau đó Trung Úy Bảo đưa hai sĩ quan, trong đó có một đại đội trưởng của Thủy quân lục chiến, vào trình diện tôi.
Tôi hỏi do lệnh của ai mà các anh xâm nhập Đặc Khu 1, với mục đích gì. Vị đại đội trưởng cấp bậc trung úy, trả lời rất lễ phép.
- Thưa thiếu tá, chúng tôi đang hành quân ở Tây Ninh thì được lệnh về đây để bảo vệ Tổng Thống, vì lính Lữ Đoàn Phòng Vệ làm phản.
Tôi nghĩ trong đầu là sao giống hệt ngày 11/11/1960, họ cũng nói với anh em Dù như vậy để tạo ra cớ gây binh biến.
Tôi trả lời:
- Các anh bị lừa rồi, làm gì có chuyện này. Các anh là sĩ quan và cũng rõ là nếu với số thiết giáp, súng phòng không và súng máy trong thành thì liệu các anh có chống đỡ nổi không?
- Thưa thiếu tá, chúng tôi chỉ thi hành lệnh trên thôi.
- Đúng, tôi không trách các anh, nhưng nay các anh đã rõ sự việc thì phải theo lệnh tôi, rút anh em ra xa, tập trung lại tại sân vận động Hoa Lư, và không được động súng, để tôi trình Tổng Thống rõ.
Họ chào tôi, và ra thi hành như lệnh của tôi.
Tôi trình Tổng Thống qua sĩ quan tùy viên, được chỉ thị cố tránh đổ máu, và đợi lệnh.
Quá sốt ruột, tôi gọi dây nói lên văn phòng Thiếu Tướng Khiêm, nhờ tìm cách cho tôi liên lạc được với Trung Tá Khôi, là tư lệnh Lữ Đoàn Phòng Vệ. Tôi được gặp ông chánh văn phòng, kể ông nghe sự việc, ông trả lời là không biết gì, và nói để ông vào hỏi Thiếu Tướng Khiêm, vì cuộc họp chưa bắt đầu. Sau đó, tôi không còn liên lạc gì với Trung Tá Khôi nữa. Tôi gọi điện thoại cho bộ tư lệnh Lực Lượng Đặc Biệt, mới biết Đại Tá Tung, tư lệnh, cũng đi họp. Xin gặp tham mưu trưởng, thì không có mặt.
Sau đó, một loạt đạn pháo binh phóng vào thành Cộng Hòa, lạc cả sang phía sau thành, gần sân vận động Hoa Lư mà tôi bắt đơn vị Thủy quân lục chiến tập trung ở đó. Tôi báo cáo cho Tổng Thống rõ chắc chắn là có đảo chính, xin Tổng Thống xuống hầm để tránh pháo kích. Đồng thời, tôi cũng nghe đài phát thanh lên tiếng, kể tên những người tham dự đảo chính, gồm hầu hết các tướng lãnh và Đại Tá Đỗ Mậu. Ngoài Thiếu Tướng Đính là tư lệnh Quân đoàn III, còn các vị tư lệnh Quân đoàn II, Quân đoàn I và Quân đoàn IV chưa có tên qua đài phát thanh.
Tôi gọi dây nói kiếm Trung Tá Hùng, là tham mưu trưởng Biệt bộ Phủ Tổng Thống, cũng không có mặt. Kiểm điểm lại những sĩ quan có trọng trách ở cạnh Tổng Thống lúc này, ngoài tôi, chỉ có Thiếu Tá Nguyễn Văn Hưởng là Tham Mưu phó của tôi, và Thiếu Tá Huỳnh Văn Lạc, là đại đội trưởng cận vệ mà thôi.
Tôi gọi dây nói sang dinh Gia Long, hỏi sĩ quan tùy viên của Tổng Thống, xem Tổng Thống đã xuống hầm tránh pháo kích chưa. Được trả lời là Tổng Thống chưa xuống hầm, và còn bận liên lạc bằng điện thoại. Sợ bị pháo kích, tôi cho các đơn vị của lữ đoàn phân tán lên tăng cường tối đa cho dinh Gia Long, nơi Tổng Thống đang ở, và một đại đội sang đóng ở sở thú. Trong thành Cộng Hòa chỉ để có đại đội chỉ huy và đại đội quân nhạc.
Sợ đơn vị bạn Thủy quân lục chiến đóng rải rác quanh sân vận động Hoa Lư bị pháo kích, tôi cho họ rút về căn cứ của họ. Một trung đội Thủy quân lục chiến, do một chuẩn úy là con của một vị ở quân nhạc chỉ huy, xin ở lại, trở vào thành Cộng Hòa để bảo vệ Tổng Thống, nhưng tôi không đồng ý.
Tôi liên lạc lên tổng tham mưu, gặp trung úy Bùi Xuân Đáng ở Quân cảnh, là anh em con cô cậu với tôi để hỏi tình hình. Được biết ở trên đó vẫn như thường, chỉ có một số tân binh quân dịch ở Quang Trung lên tăng cường mà thôi. Tôi cũng gọi cho Đại Úy Đoàn Bá Trí là anh rể của tôi ở phòng 4 bộ tổng tham mưu. Anh tôi cũng cho biết là lực lượng phòng thủ rất sơ sài, với một số tân binh ở Quang Trung lên, trông ngơ ngác lắm.
Tôi gọi một lần nữa cho bộ tư lệnh lực lượngđặc biệt, với hy vọng biết được thêm tin tức, nhưng không được (sau này tôi mới biết là bộ tư lệnh Lực Lượng Đặc Biệt vào lúc đó đã bị tiểu đoàn Truyền tin chiếm rồi).
Tôi lại trình tin tức mới thu thập được ở tổng tham mưu lên Tổng Thống, và nêu ý kiến nếu Lữ Đoàn Phòng Vệ chỉ giữ dinh Gia Long và thành Cộng Hòa, thì chắc chắn sẽ bị tấn công bởi nhiều đơn vị. Do đó, xin Tổng Thống cho bỏ thành Cộng Hòa, dồn lực lượng chính là thiết giáp và 3 đại đội của lữ đoàn, kéo lên tấn công thẳng vào tổng tham mưu.
Tổng Thống không đồng ý, và ra lệnh rõ ràng như sau qua sĩ quan tùy viên:
- Bảo Duệ đừng nóng nảy, Tổng Thống đang liên lạc với các tướng lãnh để cố tránh đổ máu.
Nghe lệnh như vậy, tôi hy vọng là Tổng Thống đã có kế hoạch chống đảo chánh rồi. Cùng lúc đó, do khẩu lệnh của Tổng Thống, tôi là tư lệnh Lữ Đoàn Phòng Vệ, thay Trung Tá Khôi. Tôi lại trình Tổng Thống xin cho Lữ đoàn cử một đại đội có thiết giáp yểm trợ, để tái chiếm đài phát thanh, sợ dân chúng và quân đội hoang mang khi nghe đài này. Mãi 15 phút sau mới được Tổng Thống đồng ý.
Tôi cử đại đội 2 do Đại Úy Xuân chỉ huy, được tăng cường một chi đội thiết giáp để làm nhiệm vụ này. Đại đội này đã thành công trong đợt đầu, và đã có một số anh em vào được tầng dưới của đài. Tôi mừng vô cùng, cử Trung Úy Bảo là trưởng phòng 5 lên dinh Gia Long lấy cuốn băng kêu gọi của Tổng Thống đem ra đài phát thanh để phát. Nhưng rồi đơn vị này không chiếm được đài, báo cáo là gặp Trung Tá Thiện, chỉ huy trưởng Thiết giáp ở đó, ông ngăn không cho đơn vị tấn công tiếp. Vì vậy, chi đội thiết giáp của lữ đoàn bị Trung Tá Thiện cầm chân tại đó.
Tôi hết sức sửng sốt, vì Trung Tá Thiện, một người được Tổng Thống tin cậy mà theo đảo chính thì nguy quá rồi. Đánh nhau trong thành phố thì thiết giáp là chủ lực. Trung Tá Thiện học khóa 3 Đà Lạt, cùng khóa với Trung Tá Khôi, tư lệnh Lữ đoàn, sau ông lên đại tá và làm thị trưởng Đà Nẵng. Khi được vinh thăng chuẩn tướng, trên đường từ Đà Nẵng về dinh Độc Lập để được gắn lon, ông bị thiệt mạng vì tai nạn máy bay. Cuốn băng với lời kêu gọi của Tổng Thống, Trung Úy Bảo còn cất giữ. Ngoài ra, sau đảo chính, Trung Úy Bảo lại vào được dinh Gia Long, lấy được một số hình ảnh về gia đình Tổng Thống, sau đem in thành sách, tựa là Đời Một Tổng Thống.
Cho đến khoảng gần 4 giờ chiều, tôi mới được điện thoại của Trung Tá Lê Như Hùng, tham mưu trưởng Biệt bộ phủ Tổng Thống.
- Duệ, Trung Tá Hùng đây. Tình hình thế nào?
- Trung tá ở đâu đấy, sao không vào đây để chỉ huy anh em? Tôi chả biết nghe lệnh ai! Về tình hình, ngoài pháo kích thì chưa thấy có gì nguy hiểm, tôi đã bắt gọn mấy đại đội Thủy quân lục chiến ngay từ đầu, và bắt họ về lại trại của họ rồi. Việc bảo vệ dinh Gia Long và thành Cộng Hòa, tôi tin là nếu bị tấn công thì mình thừa sức chống trả. Trung tá có ý kiến gì không?
- Ờ, ờ ! moa sẽ vào và sẽ gọi lại cho Duệ.
Nói rồi ông cúp máy. Cũng không cho biết ông đang ở đâu. Từ đó trở đi, tôi không nghe tin gì của ông nữa. Tôi thẫn thờ gác máy, quay sang nói với Đại Úy Đỗ Trọng Khôi là trưởng phòng 3:
- Thật hết nói! Ngày thường ở cạnh cụ bao nhiêu quan to, nay sự việc xảy ra thế này, tôi lại là người cao cấp nhất ở đây.
Trung Tá Hùng là tham mưu trưởng biệt bộ, người luôn ở cạnh Tổng Thống và ban hành lệnh của Tổng Thống cho các nơi. Ngày thường, tôi vẫn theo lệnh chỉ huy của ông. Mỗi khi Tổng Thống đi đâu, ông đều đi sát bên cạnh, các tỉnh trưởng đều nể sợ ông. Sau đảo chính, tôi không gặp ông nữa.
Vì sự việc xảy ra quá lâu, tôi không còn nhớ rõ về thời gian, nên không kể đúng giờ giấc được. Nhưng vẫn có thể nhớ được những việc đã xảy ra, nên xin ghi lại đây những cố gắng của tôi trong ngày 1-11-63.
Vào trước ngày đảo chính, Đại Úy Sơn Thương là tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 41 Biệt động quân, đem tiểu đoàn này ra huấn luyện ở Dục Mỹ. Tiểu đoàn đang đóng tại căn cứ chuyển vận, chờ tầu đưa ra trung tâm huấn luyện Biệt động quân. Anh Sơn với tôi là bạn rất thân. Khi tôi coi trung đoàn 12, sư đoàn 7, lúc bấy giờ anh là đại đội trưởng Biệt động quân biệt lập, đại đội của anh hầu như thường xuyên được biệt phái cho trung đoàn của tôi, nên anh em quý nhau lắm. Khi đợi ở căn cứ chuyển vận, anh đến thăm tôi ở thành Cộng Hòa, có em ruột của tôi là Chuẩn Úy Nguyễn Sỹ Anh, trưởng ban 3 của tiểu đoàn đi cùng.
Chợt nhớ ra vào ngày đảo chính, tôi liền gọi cho anh. Rất tiếc anh vắng mặt, nhưng gặp được em tôi là Chuẩn Úy Anh. Tôi kể rõ tình hình, và bảo em tôi cố tìm cách nào đưa được tiểu đoàn về bảo vệ Tổng Thống. Em tôi rất sốt sắng, bảo tôi nói chuyện với một trung úy là đại đội trưởng (tôi quên tên). Anh do dự nói với tôi:
- Thưa thiếu tá, Đại Úy tiểu đoàn trưởng không có đây, tôi không dám quyết định.
- Thì anh biết Tổng Thống là tổng tư lệnh quân đội ra lệnh anh phải thi hành, anh là quyền tiểu đoàn trưởng từ lúc này.
- Nhưng mà tôi không có phương tiện chuyên chở.
- Yên trí, tôi sẽ cho xe sang đón anh, có cả thiết giáp bảo vệ. Anh sẽ là người có công nhất đấy.
Tôi cho Chuẩn Úy Cẩm là sĩ quan ở phòng 4 mang theo 14 GMC, có một chi đội thiết giáp đi cùng, sang đón đơn vị này. Lòng thầm mừng rỡ là có thêm một tiểu đoàn bảo vệ Tổng Thống nữa. Khi đơn vị này đến nơi, tôi cho tạm trú ở Bưu Điện để làm trừ bị. Tôi nói với anh em ở bộ tham mưu lữ đoàn, sáng mai sẽ bố trí đơn vị Biệt động quân này ở dinh Độc Lập và bảo vệ phía đường Hồng Thập Tự. Thêm đơn vị thiện chiến này, cộng với đoàn quân trung thành của Lữ Đoàn Phòng Vệ, tôi tin là nếu bị tấn công bởi một đại đơn vị cấp sư đoàn, thì cũng vẫn giữ được. Mình ở thế phòng thủ mà quân tấn công chưa chắc đã hết lòng, vì chỉ có một số cấp chỉ huy mưu phản mà thôi, theo như tôi biết qua ngày đảo chính 11/11/60.
Sau này, tôi được Đại Tá Mạnh (sau lên trung tướng) kể là khi các tướng phía đảo chính nghe có một đơn vị Biệt động quân tham gia cùng Lữ Đoàn Phòng Vệ thì cuống lên, không ai rõ là đơn vị nào và ở đâu đến. Hỏi mãi ở bộ chỉ huy Biệt động quân mới rõ là tiểu đoàn của Đại Úy Sơn Thương. Lúc đó Đại Tá Tôn Thất Xứng là chỉ huy trưởng Biệt động quân vắng mặt, vì đang đi thanh tra ở miền trung. Trung Tướng Đôn viết một thư tay cho người cầm đến cho Đại Úy Sơn Thương, hứa sẽ trọng thưởng nếu anh theo đảo chính. Thư này tôi không được đọc nên không rõ nội dung, mà chỉ nghe kể lại. Thư được trao cho Đại Úy Sơn Thương vào sáng sớm ngày 2/11. Lúc đó anh đã đến với đơn vị của mình ở Bưu Điện, và cũng vào lúc lữ đoàn đã được Tổng Thống ra lệnh buông súng. Với thư này, anh Sơn Thương được lên chức thiếu tá vì cách mạng.
Còn em tôi là Chuẩn Úy Anh, vì móc nối anh em về bảo vệ Tổng Thống, bị phạt 30 ngày trọng cấm. May cho Chuẩn Úy Anh vì được Đại Tá Xứng bênh vực, nếu không đã bị truy tố ra tòa án quân sự. Tôi nhớ mãi lòng tử tế của Đại Tá Xứng, vì tôi đã làm việc với ông nhiều năm. Khi tôi đến gặp ông để xin cho em tôi sau ngày đảo chính, ông mừng rỡ, ôm lấy tôi, nói: Duệ, toa làm đúng lắm, phải như vậy. Moa thích những người chung thủy như toa. Nghe ông Cụ bị thảm sát, moa cũng khóc. Còn việc thằng Anh để moa lo cho. Moa phải phạt nó để tổng tham mưu không lôi việc này ra làm to chuyện. Moa còn ở đây thì moa sẽ lo cho nó sau này.
Ngoài ra, tôi còn liên lạc với sư đoàn 7 ở Mỹ Tho nữa. Lúc đó, tôi biết chắc sư đoàn 5 của Đại Tá Thiệu đã theo đảo chính. Pháo binh của sư đoàn này đã pháo rất nhiều vào thành Cộng Hòa (Chỉ huy trưởng Pháo binh sư đoàn 5 là Đại Úy Đào Trọng Tường, bạn cùng khóa với tôi ở trường Võ bị Đà Lạt), nhưng tôi vẫn hy vọng sư đoàn 7 là sư đoàn tôi đã phục vụ ở đó từ ngày di cư đến khi về lữ đoàn. Tôi không gặp Đại Tá Đạm là tư lệnh, nhưng tôi gặp Thiếu Tá Ấm là tham mưu trưởng (sau này mới biết Đại Tá Đạm đã bị tướng Đôn cho Đại Tá Phát thay thế vào buổi sáng).
- Thưa anh Ấm, tôi là Duệ ở Lữ Đoàn Phòng Vệ đây, sao sư đoàn chưa cho đơn vị nào về bảo vệ Tổng Thống vậy anh?
Anh trả lời:
- Không được rồi anh ơi, tôi không làm gì được. Rồi anh cúp máy.
Thấy vậy, tôi biết sư đoàn 7 đã theo đảo chính rồi, mà sư đoàn 7 ở Mỹ Tho, thì sư đoàn 9 ở Kiến Hòa và sư đoàn 21 làm sao về được, khiến tôi thất vọng vô cùng. Rồi tôi được điện thoại của Thiếu Tá Phú coi liên đoàn 77 thuộc Lực Lượng Đặc Biệt, là đơn vị rất thiện chiến và rất trung thành với Tổng Thống (Thiếu Tá Phú sau lên thiếu tướng, làm tư lệnh Quân khu II, ông đã tự vẫn khi mất nước)
- Anh Duệ hả? Tôi là Phú đây, anh cho tôi rõ tình hình bây giờ thế nào?
- Tôi đang ở thành Cộng Hòa. Về tình hình ở đây, ngoài việc bị pháo kích ra, chưa có một đơn vị nào xâm nhập được vào đặc khu của tôi cả.
- Theo ý anh thì mình nên làm gì?
- Tôi đề nghị anh đưa lực lượng của anh về vườn Tao Đàn để bảo vệ Tổng Thống, đợi sáng mai xem tình hình thế nào, rồi Tổng Thống quyết định.
- Tôi sẽ liên lạc với anh sau.
Rồi anh cúp máy. Sau đó, tôi được Đại Tá Quan gọi, rồi tới Đại Úy Tôn Thất Đình, là anh của Trung Tướng Tôn Thất Đính gọi, như đã trình bày trong bài Đại Tá Quan và biến cố 1/11/63 cùng trong cuốn sách này.
Tôi được báo tin là Tổng Thống đã di chuyển khỏi dinh khoảng 8 giờ tối, nhưng không cho các đơn vị rõ tin này. Tôi nghĩ Tổng Thống ra đi theo một kế hoạch đã định trước, đến một nơi nào có an ninh đã được sắp xếp sẵn. Chúng tôi chỉ cần giữ vững vị trí để đợi lệnh, khi quân đảo chính biết Tổng Thống đã ở khu an toàn rồi, thì tự động tan như ngày 11/11/60.
Tôi hy vọng Tổng Thống ở bộ tư lệnh Hải quân, hoặc trên một chiếc tầu nào đó thuộc Hải quân.
Sau đó, đại đội 3 đóng ở sở thú báo cáo bắt được một thiếu tá Hải quân tên là Lực, và một đại úy tên là Giang, họ tưởng quân của lữ đoàn là quân của phe đảo chính, nên vào nhờ báo cáo lên tổng tham mưu là họ đã giết được Đại Tá Quyền, tư lệnh Hải quân rồi.
Đại đội 3 xin tôi quyết định về hai ông này. Tôi ra lệnh phải giam giữ hai ông cẩn thận, để sau này Tổng Thống quyết định.
Thiếu Tá Lực tôi quen, vì ông đã làm chỉ huy trưởng giang đoàn ở Mỹ Tho ngày tôi ở sư đoàn 7. Trong một cuộc hành quân ở vùng Hậu Mỹ, giang đoàn này được đặt dưới quyền của tôi (lúc đó anh là đại úy).Trong một cuộc hành quân, đơn vị của anh không mở máy liên lạc với tôi, và bắn lầm bằng súng đại liên 12 ly 7 vào Tiểu đoàn 3/12 đang di chuyển, làm chết và bị thương một số anh em. Tôi phải cho pháo binh bắn đạn khói ngay trên sông nơi các tầu của anh đang di chuyển, lúc đó anh mới mở máy. Tôi đã la trong máy, dọa sẽ trình Sư đoàn truy tố anh ra tòa án. Đại tá tư lệnh sư đoàn cũng bực lắm. Đích thân đại tá tư lệnh Hải quân phải xuống Mỹ Tho để giải quyết. Tính Thiếu Tá Lực nóng nẩy, khi uống rượu vào thì hay bắn bậy. Sau cách mạng, ông được lên trung tá. Đại Úy Giang, người cùng Thiếu Tá Lực giết Đại Tá Quyền, sau cũng lên trung tá và anh cũng sang Mỹ tỵ nạn, cùng ở San Diego như tôi. Chúng tôi cũng đôi khi gặp nhau. Hai ông này trở về đơn vị vào sáng ngày 2/11, sau khi lữ đoàn buông súng.
Nghe tin Đại Tá Hồ Tấn Quyền bị giết, tôi lại thất vọng nữa, vì như vậy Hải quân cũng không giúp gì cho Tổng Thống được. Và như vậy Tổng Thống đang ở đâu? Lúc này tôi băn khoăn và lo cho Tổng Thống quá, tôi mong được tin của ông, để biết ông có được an toàn không.
Thời gian chờ đợi thật dài. Lúc này tôi chỉ ao ước được một vị nào cao cấp hơn tôi, cho tôi một chỉ thị, hay một lệnh thật rõ ràng để tôi thi hành. Tiếc thay, những vị thân cận và có trách nhiệm lo cho Tổng Thống bây giờ chả có ai ở đây. Tôi chỉ là một sĩ quan cấp nhỏ trung thành với Tổng Thống, người mà tôi kính trọng và yêu mến như một người cha. Tôi đã cố gắng làm hết sức mình để bảo vệ cho ông, nhưng nay biết ông ở đâu mà bảo vệ.
Lúc gần sáng, khi ông ra lệnh buông súng, vì không muốn binh sĩ đổ máu vì ông, tôi thấy rã rời, thất vọng. Nhưng vẫn còn chút hy vọng mong manh, là ông sẽ được đối xử tử tế bởi các tướng lãnh làm đảo chính, vì hầu hết những vị này đều do ông gắn sao cho họ. Chẳng bao lâu, được tin ông chết. Nghĩ mà thương cho ông, vì sợ anh em bảo vệ cho ông đổ máu, sợ quân đội anh em giao tranh với nhau mất tiềm lực chống cộng, mà ông bị làm nhục, phải chết trong tay những kẻ vũ phu, trong một xe thiết giáp.
Kẻ giết ông, tôi biết chắc là Đại Úy Nhung, cận vệ của Trung Tướng Minh, và Thiếu Tá Dương Hiếu Nghĩa. Đại Úy Nhung đã chết, anh cũng không chối cãi gì về việc giết hai anh em Tổng Thống, nhưng Thiếu Tá Nghĩa (sau lên đại tá) thường cải chính điều này. Đại Úy Nhung thật ra không đáng trách lắm, vì anh theo lệnh mà làm. Nhưng ghê tởm cho hành động của anh là đã bắn chết hai ông còn đâm chém nữa. Không biết khi đâm hai ông, anh có nói gì hỗn hào không?
Còn Thiếu Tá Nghĩa, dù ông cố cải chính, nhưng căn cứ vào hành động của ông, cũng như một số nhân chứng, chỉ có những người ngây thơ tới mức ngu xuẩn mới tin là ông đã không nhúng tay vào vụ thảm sát này. Ai đã cắt cử ông đi trong đoàn xe này? Ông có nhiệm vụ gì mà vào nhà thờ gặp Tổng Thống? Thiếu Tá Vũ Quang (sau lên đại tá) là bạn cùng khóa với tôi, và cũng đã phục vụ ở lữ đoàn một thời gian, kể với tôi là mắt anh thấy Thiếu Tá Nghĩa vừa đi vừa lau bàn tay đẫm máu, vào báo cáo với Trung Tướng Minh (anh Quang bây giờ cũng ở Hoa Kỳ). Một hạ sĩ quan Quân cảnh (rất tiếc không nhớ tên anh), kể với tôi là anh cũng thấy ông Nghĩa tay vấy máu. Anh nói với tôi bằng giọng rất cảm động là khi thấy xác hai ông, anh đã chẩy nước mắt, không ngờ hai ông chết một cách thảm thiết như vậy.
Trung Tá Nghĩa cũng là một trong những phụ thẩm của tòa án cách mạng đã kết án tử hình ông Ngô Đình Cẩn. Như vậy, cái chết của ba anh em Tổng Thống Diệm cũng đều do Trung Tá Nghĩa nhúng tay vào. Một hạ sĩ quan còn cảm động khi thấy xác hai ông, người nhúng tay vào nội vụ mà không ghê tay, thật là đáng sợ. Còn ông Phan Hòa Hiệp (sau lên chuẩn tướng) thì sao? Ông cũng có trách nhiệm trong vụ này. Là chỉ huy đoàn xe thiết giáp đi đón Tổng Thống, và được lệnh rõ ràng là đón, đâu có lệnh giết, sao để cho Thiếu Tá Nghĩa lộng hành như vậy?
Sáng ngày 2/11, tôi và một số sĩ quan ở bộ tham mưu không muốn bị nhục khi phải đầu hàng, cùng nhau rút ra khỏi thành Cộng Hòa, qua ngả đường Hồng Thập Tự. Tụi tôi chạy đến nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi, rồi tôi đến nhà anh rể tôi là Đại Úy Đoàn Bá Trí ở đường Cao Thắng. Anh rể tôi gọi dây nói từ tổng tham mưu về cho biết xác hai ông đã chở về đây rồi. Vì quá xúc động về việc Tổng Thống và ông cố vấn bị giết, tôi được chị tôi cho uống thuốc ngủ, mà cũng không ngủ được, cũng không biết sẽ phải làm gì. Chiều đó, Thiếu Tá Hưởng là tham mưu phó, cùng với mấy sĩ quan ở bộ tham mưu đến gặp tôi. Tụi tôi bàn nhau mãi, mà vẫn không biết phải làm gì.
Thiếu Tá Hưởng, tuy là phó của tôi, nhưng tôi rất kính trọng anh, vì anh là niên trưởng của tôi ở trường Võ Bị (anh học khóa 2, còn tôi khóa 6). Chúng tôi ngồi cùng một phòng, làm việc với nhau và ở chung một căn nhà trong thành Cộng Hòa. Anh ở lữ đoàn trước tôi nhiều. Ngày đảo chính năm 60 anh đã có mặt ở lữ đoàn rồi. Vì vậy, khi mới đổi về lữ đoàn, việc gì tôi cũng hỏi anh.
Ngày đảo chính, anh ở dinh Gia Long để chỉ huy các đơn vị chính bên đó. Chính anh là người báo cho tôi biết Tổng Thống đã đi khỏi dinh lúc 8 giờ tối, và cùng bàn nhau rút ra ngoài lúc được lệnh buông súng. Ngày hành quân ở Bắc Việt, anh đã bị Việt cộng bắt. Sau khi mất nước, anh cũng bị bắt giam, rồi sang đây theo diện H.O. Lúc anh sang, tôi vì đau yếu và ở xa nơi anh định cư, nên chưa có dịp gặp lại anh, nhưng tôi vẫn kính mến anh.
Anh bảo tôi:
- Tụi mình chỉ làm đúng nhiệm vụ giao phó, chả có gì mà phải sợ ai.
Tôi bèn lấy điện thoại gọi cho văn phòng Thiếu Tướng Khiêm là tham mưu trưởng bộ Tổng tham mưu. Gặp được Đại Úy Hoa, chánh văn phòng của ông. Anh rất tử tế và khi nghe tôi nói muốn xin gặp Thiếu Tướng Khiêm, anh sốt sắng trả lời:
- Thiếu tá đừng rời máy, để tôi vào trình. Rồi ra trả lời là thiếu tướng muốn tôi và Thiếu Tá Hưởng lên gặp ông.
Thiếu Tướng Khiêm khi làm tư lệnh Sư đoàn 7 thì tôi là trung đoàn trưởng của ông, được ông rất quý mến và thân mật. Sau này, khi tôi về phủ Tổng Thống cũng hay gặp lại ông, nên tôi nghĩ gặp ông chắc ông sẽ lo cho anh em tôi. Khi chúng tôi đến văn phòng ông, thấy rất nhiều sĩ quan cao cấp ở đó để xin gặp ông. Tôi cũng ngồi đợi, nghĩ bụng đợi ông tiếp hết mấy vị này, chắc phải hơi lâu. Anh Hoa thấy chúng tôi thì vào trình ngay, không ngờ được ông tiếp ngay lập tức.
Vào gặp, thấy ông đã đeo 3 sao (trung tướng), ông niềm nở bảo tụi tôi ngồi, và nói ngay:
- Chắc các anh cũng biết cụ và ông cố vấn đã chết rồi chứ. Xác hai ông để ở nhà thương Saint Paul bây giờ. Nói rồi ông bỏ kiếng xuống bàn, chùi nước mắt. Tôi quen miệng vẫn gọi ông là thiếu tướng:
- Thưa thiếu tướng, xin thiếu tướng cho chúng tôi rõ sự việc, và chúng tôi cũng không biết phải làm sao với anh em chúng tôi bây giờ. (Lúc bấy giờ Trung Tá Khôi đang bị giam giữ ở Chí Hòa)
- Việc chính trị khó mà nói được, sau này các anh sẽ rõ. Còn các anh có gì phải lo đâu, mình là anh em trong quân đội với nhau, các anh cứ về thu xếp anh em lại, rồi đợi lệnh.
Nghĩ một lúc, ông lại nói:
- Thôi, hai anh sang gặp Thiếu Tướng Là ở biệt khu thủ đô, rồi đợi xem việc giải quyết lữ đoàn ra sao. Tôi sẽ liên lạc với biệt khu thủ đô.
Khi chào ra về, chúng tôi được ông bắt tay từ biệt, thấy ông buồn rầu ra mặt.
Sau này, ông luôn hết sức giúp đỡ tôi. Khi tôi xin đi học anh văn, ông đồng ý ngay. Có lần tôi đến thăm ông ở tư thất gặp lúc ông chưa về, bà ở trên lầu, nghe tôi đến thì tất tả chạy xuống mừng rỡ, ngồi tiếp tôi cho đến khi ông về. Ông bà còn giữ tôi ở lại ăn cơm, như khi còn ở sư đoàn 7 trước đây. Ông có tâm sự với tôi là ông không biết việc giết ông cụ và ông cố vấn. Tôi ngỏ lời xin sau khi học Anh văn thì được đi học khóa chỉ huy và tham Mưu cao cấp ở Lewenworth, ông đồng ý ngay. Bà còn nhắc tôi sao không về làm việc với ông. Nhưng tôi không xin, và từ đó, nhiều biến cố liên tiếp xảy ra, tôi không đến thăm ông bà nữa, và chỉ gặp lại khi ông làm đại sứ ở Đài Loan.
Lúc đó, tôi làm ở tổng cục Chiến tranh chính Trị, được đi du hành quan sát ngành Chiến tranh chính trị của quân đội Đài Loan. Tôi nhờ phái bộ Trung Hoa và cố vấn Mỹ ở tổng cục cho tôi đi trước 3 ngày, để thu xếp chương trình cho phái đoàn của chuẩn tướng Kiểm sẽ đến sau. Tôi được một sĩ quan thông dịch viên và Đại Úy Đời, là trưởng phòng của tôi đi cùng. Thật ra chương trình cũng chả có gì để thu xếp, vì tổng cục ở Đài Loan đã sắp xếp rất chu đáo rồi.
Tôi đến thăm ông ở Đài Loan, thầy trò gặp nhau rất vui vẻ, nhưng ông nói với tôi là ở đây buồn lắm, và nhớ anh em trong quân đội. Ông nghĩ là ông sẽ về ngày gần đây. Bà cũng vậy, nói mong sớm về Việt Nam. Quả nhiên ít lâu sau ông về thật, giữ bộ Nội vụ, kiêm cả bộ Quốc phòng nữa. Tôi cũng đến thăm ông một buổi sáng khi ông mới về, và chưa giữ nhiệm vụ gì, ông bà mời tôi ăn sáng. Lúc ăn gần xong, có người vào báo là có một vị tướng đến thăm. Tôi xin cáo từ để ông tiếp khách, ông giữ tôi lại, bảo:
- Lâu quá không gặp, anh cứ thong thả ngồi chơi.
Ông cứ nhắc lại những anh em ở sư đoàn 7 cũ, ông còn nhắc tôi nhớ bảo anh tôi là trưởng phòng 5 cũ của ông đến thăm nữa (Anh tôi là Trung Tá Nguyễn Hải Trù). Anh ruột của ông là Đại Úy Trần Thiện Nguơn, lúc ông lưu vong thì xin về tổng cục Chiến tranh chính trị. Tôi để anh là trưởng phòng Nhân viên trong khối Tổ chức của tôi. Khi ông coi bộ Quốc phòng, anh Nguơn về làm với ông, rủ tôi sang bộ Quốc phòng, nhưng tôi từ chối.
Rồi tôi được chỉ định ra làm tỉnh trưởng Thừa Thiên kiêm thị trưởng Huế. Việc này làm tôi quá sửng sốt, vì tôi đang làm việc rất vui vẻ ở tổng cục Chiến tranh chính trị, và được Trung Tướng Trung rất quý mến. Tôi nhờ Trung Tướng Trung (bây giờ ông đang ở Pháp) xin với Tổng Thống cho tôi ở lại. Trung Tướng Trung gọi cho Đại Tá Cầm là chánh văn phòng của Tổng Thống hỏi sự việc, anh Cầm trả lời là sắc lệnh đã ký rồi, và thay một lúc bốn ông tỉnh trưởng, chắc chả thay đổi được.
Tôi lại chạy đến ông một lần nữa, lúc đó ông là Thủ Tướng, và đã lên đại tướng. Tôi xin ông giúp cho tôi được ở lại tổng cục, ông từ chối ngay, và nói:
- Tôi và ông Thiệu đã đồng ý với nhau là trong quân đội từ cấp tướng trở lên là do ông ấy quyết định, và cả các tỉnh trưởng nữa. Vì vậy, tôi không giúp anh được.
- Vậy xin đại tướng cho tôi ở ngoài đó độ hai năm, rồi cho về lại quân đội.
- Việc này thì tôi giúp anh được. Anh ở ngoài đó đến ngày bầu cử Tổng Thống lại thì về đây, anh xin đi đâu tôi cũng giúp được.
Từ đó đến ngày mất nước, tôi không gặp lại ông. Sang Mỹ, một lần tôi đến WashingtonD.C., có ghé thăm ông bà. Đối với tôi, ông quá tử tế, tôi vẫn nhớ ơn ông vì tình nghĩa ông đối xử với những người đã làm việc với ông. Nhưng tôi vẫn buồn về việc ông đã phản lại Tổng Thống Diệm, và có thể nói, nếu không có ông, cuộc đảo chính đã khó có thể thành công được.
Trở lại việc tôi và Thiếu Tá Hưởng sang trình diện Thiếu Tướng Là ở Biệt khu thủ đô. Tụi tôi gặp Đại Úy Nguyễn Văn Đông (tác giả bản nhạc Chiều Mưa Biên Giới), anh chỉ vào phòng tướng Là, nói:
- Ông đang nằm nghỉ vì buồn về việc cụ và ông cố vấn chết. Thiếu tá có gặp ông, chắc ông cũng chả giải quyết được việc gì đâu, vì mọi việc bây giờ do Trung Tướng Đính ở Quân đoàn III lo hết. Tôi nghĩ thiếu tá nên xuống gặp Thiếu Tá Dụng là tham mưu trưởng Biệt khu, để ông giải quyết.
Tụi tôi lại xuống gặp Thiếu Tá Dụng, trái với sự vắng lặng ở phòng Thiếu Tướng Là, ở đây đèn sáng trưng, người ra vào tấp nập. Gặp tôi, ông (mới được lên trung tá rồi) làm mặt lạnh như chưa quen biết nhau bao giờ, cũng chả thèm bắt tay, nói như thượng cấp:
- Tôi chưa biết giải quyết việc của các anh bây giờ ra sao nữa, tôi phải đợi lệnh trung tướng tư lệnh Quân đoàn III.
Ngồi đợi một lúc, ông bảo tôi lên phòng 5 của Biệt khu, để thu băng lời kêu gọi anh em ở lữ đoàn về trình diện ở thành Cộng Hòa. Lên phòng 5, gặp đại úy trưởng phòng (tôi không nhớ chắc, hình như Đại Úy Nghinh thì phải) anh rất tử tế, mời tôi ngồi và nói:
- Tôi được lệnh thảo lời kêu gọi anh em ở lữ đoàn. Tôi sẽ thảo tạm để thiếu tá xem, nếu có ý kiến gì, tôi xin sửa lại.
- Tùy anh thảo sao cũng được, nhưng tôi nói trước, nói động đến Tổng Thống thì có giết tôi, tôi cũng không đọc đâu.
- Thiếu tá yên trí, tôi cũng có lương tâm của tôi chứ.
Thảo xong lời kêu gọi, anh đưa tôi xem. đại ý là kêu gọi anh em ở Lữ Đoàn Phòng Vệ phải về tập trung ở thành Cộng Hòa trong vòng 24 giờ. Tôi đồng ý và đọc lời kêu gọi này. Đặc biệt là khi ra cửa, tôi gặp Thiếu Tá Phan Huy Lương, trưởng phòng 3 của Biệt khu, anh ân cần mời tôi về phòng anh nghỉ, và nói những câu làm tôi cảm động:
- Chắc anh mệt lắm rồi, về phòng tôi nghỉ tạm đi.
14. 2
Rồi anh bảo nhân viên kê thêm một giường vải cạnh giường của anh, cho tôi nghỉ. Anh là em ruột bác sĩ Phan Huy Quát, sau làm Thủ Tướng. Ở lại đây, tôi gặp Thiếu Tá Hứa Yến, là bạn học cùng khóa với tôi, và cũng là trung đoàn phó của tôi trước đây. Lúc ấy anh coi trung đoàn 11 thuộc sư đoàn 7, anh mang quân về theo cách mạng. Khi gặp, anh ôm lấy tôi một cách mừng rỡ:
- Tôi lo cho anh quá đi. Gặp được anh ở đây, tôi yên tâm rồi. Tôi được lệnh về đây và đơn vị đang ở Phú Lâm, chưa có lệnh gì. Thật không gì mừng bằng gặp anh còn bình yên.
Tình chiến hữu trong quân đội chúng tôi là như vậy. Chúng tôi đâu muốn có những biến cố để anh em phải đối đầu với nhau vì tham vọng của mấy vị chỉ huy cao cấp.
Rồi tôi lại phải xuống gặp Trung Tá Dụng để đi với một toán Quân cảnh, vì có một đơn vị phòng không của lữ đoàn đóng trên lầu của bộ Tài chánh nhất định không chịu buông súng, mặc dầu được kêu gọi nhiều lần. Chuẩn úy chỉ huy bằng lòng buông súng, nếu được tôi ra lệnh. Khi đến nơi gặp anh em, nhiều người khóc vì biết Tổng Thống đã chết.
Tính ra đã hai ngày hai đêm tôi chưa được ngủ. Người tôi rã rời và chán nản cùng cực. Thay vì để tôi về nhà đợi lệnh của Trung Tướng Đính, ông Dụng lại giao tôi về sở An ninh quân đội Biệt khu thủ đô, giữ ở đó đợi lệnh. Ông này trong quân đội có biệt hiệu là Dụng Bụng, nổi danh về việc nịnh người trên, khó với người dưới. Từ đó, tôi không gặp lại ông. Cho đến khi tôi làm tham mưu trưởng tổng cục Chiến tranh chính trị, ông lại đến xin với Trung Tướng Trung để được về tổng cục. Lúc đó, tôi đã lên đại tá và ông vẫn còn là trung tá. Gặp ông, tôi vẫn vui vẻ như thường, nhưng Trung Tướng Trung không xin ông về.
Tôi đến sở An ninh quân đội gặp Thiếu Tá Long là chánh sở, anh cũng là bạn cùng khóa. Tôi nghĩ sẽ được anh đối xử tử tế với tôi hơn ông Dụng, ai ngờ anh đem tôi vào nhà vòm, giam cùng với những tội phạm khác. Vào đây, những anh em can phạm đều là quân nhân cả, họ rất quý mến tôi và lo cho tôi mọi sự. Ở nhà vòm ban ngày nóng, đêm quá lạnh, mà mỗi người chỉ có một cái mền mỏng, nhiều anh em nhường mền cho tôi, nhưng tôi không chịu. Sáng hôm sau, anh Hưởng gọi dây nói cho Trung Tá Lê Ngọc Triển, lúc đó là giám đốc Nha quân nhu, ông lập tức cho một sĩ quan mang đủ thứ mền, mùng và quần áo cho hai chúng tôi dùng. Thật đáng buồn, nghĩ mình có phải là tội phạm gì đâu mà họ đối với tôi như vậy.
Mấy ngày sau, tôi được lịnh trình diện Trung Tướng Đính. Đến văn phòng ông, tôi lại gặp Đại Úy Đình là anh ruột của ông, và cũng đã lên thiếu tá rồi. Thật buồn cười, tôi đã vào văn phòng Tổng Thống, văn phòng đại tướng, mà không đâu như ở đây. Cận vệ đứng đầy, Quân cảnh gác đến mấy chặng. Họ còn đưa tôi vào phòng bên cạnh, khám xem tôi có mang vũ khí không, mặc dầu họ biết tôi mới từ nhà tù ở An ninh ra.
Gặp Trung Tướng Đính, ông đang bận điện thoại, chỉ vào ghế salon mời tôi ngồi. Khi điện thoại xong, ông ra bắt tay tôi rồi ngồi ghế salon nói chuyện. Lúc ông ngồi, tôi thấy lộ ra một con dao găm gắn trên giầy. Ông bảo tôi:
- Duệ, chắc anh em tụi mày hận tao lắm phải không? Tình thế buộc tao phải làm như vậy. Chúng toa phải biết, nếu Ba Đính này không theo cách mạng, thì thằng Mai Hữu Xuân nó sẽ mượn thế giết hết tụi mày rồi.
Rồi ông làm mặt cảm động, chùi nước mắt, nói tiếp:
- Tụi nó giết cụ, tao có biết gì đâu. Đặt Ba Đính này vào sự việc đã rồi. Nếu cụ nghe tao thì đâu đến nỗi nào.
Tôi thưa:
- Trung tướng biết tụi tôi còn nhỏ, và chỉ lo làm phận sự giao phó, có tội gì mà giam như tội phạm vậy?
- Ai ra lệnh giam? Tôi đâu có biết, thực ra Duệ ạ, Mày giỏi lắm! Một mình mày mà chống lại được các tướng lãnh, có lúc làm tao lên ruột vì mày rủ được tiểu đoàn Biệt động quân về mới mày. Yên trí đi, tao sẽ lo cho mày ra đơn vị chỉ huy.
Ông nói huyên thuyên, lúc mày tao, vẻ thân mật, lúc toa, moa. Ông còn trách tôi:
- Mày biết không, xưa nay chưa có ai dám chửi lại tao, khi thằng Đình gọi dây nói cho mày…, nhưng thôi, vì tình anh em, tao không chấp đâu.
Rồi ông lại thủ thỉ với tôi:
- Mày gặp anh em, nói cho tụi nó rõ. Ba Đính này đâu có biết thằng Mai Hữu Xuân nó giết ông cụ như vậy. Tao phải theo tụi nó để bảo vệ anh em tụi mày.
Ông nói thao thao, nhắc đi nhắc lại là ông theo đảo chính để bảo vệ anh em. Nói đi nói lại cả nửa giờ mà tôi chỉ hiểu có như vậy. Tôi thấy ông cũng có vẻ bối rối và luôn miệng gọi tướng Mai Hữu Xuân là thằng. Trước đây, ông làm Tổng trấn đô thành, vỗ ngực tự hào dẹp biểu tình của Phật giáo để cứu nước. Sau đảo chính giết được cụ Diệm, ông lại là người của Phật giáo, được làm tổng trưởng bộ An ninh, rồi lại bị tướng Khánh chỉnh lý bắt giam. Sau ra ứng cử trong liên danh Hoa Sen của Phật giáo, làm thượng nghị sĩ. Khi sang Mỹ tỵ nạn, ông làm tổng tham mưu trưởng cho một nhóm nhiều tai tiếng, tự xưng chính phủ lưu vong. Trong đời, ít ai có dịp ở nhiều vị thế khác nhau như vậy.
Khi về đơn vị, tôi gặp Thiếu Tá Huỳnh Văn Lạc, là người chỉ huy lực lượng cận vệ luôn ở cạnh Tổng Thống, anh nói với tôi: Tụi mình đã làm hết bổn phận với cụ, và cụ đã cám ơn anh em trước khi chết, và anh cũng như tôi đều nghĩ Cụ ra khỏi dinh là theo kế hoạch. (Sau này anh lên chuẩn tướng, làm tư lệnh sư đoàn 9 của Quân đoàn IV).
Tôi về được ít ngày, bị bắt lại và giam ở Nha an ninh của tướng Đỗ Mậu. Phòng giam gồm 6 người: Ngoài tôi ra, có Đại Tá Phước, trưởng phòng 2 Tổng tham mưu; Đại Úy Tuệ ở văn phòng ông cố vấn Nhu; Thiếu Tá Phước và hai Thiếu Uý T và P (tôi không viết tên hai anh này ra, sợ hai anh còn kẹt ở Việt Nam). Thiếu Tá Phước luôn phàn nàn là không hiểu sao, khi đảo chính xảy ra, ông lại bị Đại Tá Huyến là chỉ huy trưởng trường Võ Bị bắt giam, đến khám nhà của ông, bắt mở cả tủ đựng tiền. Và từ hôm bắt đến nay, chưa ai hỏi đến ông, và ông cũng không biết là có tội gì. (Sau này ông làm đại sứ ở Cam Bốt, gặp lại tôi ông rủ sang chơi, mà chưa có dịp).
Đặc biệt, các Thiếu Uý T và P là hai sĩ quan mới tốt nghiệp trường Võ bị Đà Lạt, bị giam về tội là người của Việt cộng. Hai anh này khi mãn khóa học thì về Truyền tin, được đi học bổ túc ở Hoa Kỳ, và bị bắt ở Mỹ. Hai anh coi tôi như đàn anh, thực thà kể cho nghe về chuyện đời của mình.
Theo lời kể, hai anh đã được Việt cộng huấn luyện từ khi còn nhỏ ở Bắc, rồi gài vào đoàn di cư vào Nam. Anh T. đi cùng gia đình, anh P. ở cùng với anh T., sau lấy em gái anh T.
Hai anh vào Nam, đi học và đổi chỗ ở nhiều lần. Cứ tưởng đã mất liên lạc với bên kia rồi, ai ngờ đột nhiên có người đến gặp, nhắc hai anh phải hoạt động cho họ. Hai anh lại dọn nhà lần nữa, cũng vẫn bị họ tìm ra. Họ không cho hai anh học tiếp lên đại học, bảo phải vào trường Võ bị Đà Lạt. Khi ra trường phải xin vào ngành Truyền tin, rồi đi Mỹ học, đều do chỉ thị của họ.
- Thế hai anh học xong rồi vào ngành Truyền tin, và đi học Hoa Kỳ, chắc cũng do họ sắp xếp chứ đâu có dễ như vậy.
- Chắc có thể đúng như thiếu tá nghĩ.
- Thế hai anh bị phát giác là do tình báo Mỹ hay phía Việt Nam ?
- Chắc do Mỹ, vì sau khi bị bắt, tôi bị hỏi nhiều điều của tình báo Hoa Kỳ.
- Hai anh đã hoạt động gì cho họ chưa ?
- Thì vừa ra trường và đi học Hoa Kỳ thì bị bắt, chúng tôi đã ra đến đơn vị nào đâu.
Hai anh chàng này đều đẹp trai, thông minh và rất giỏi Anh ngữ. Tôi cũng đi học ở Hoa Kỳ rồi, nhưng Anh ngữ còn rất kém, anh P. nhiều lần còn chỉ cho tôi về Anh văn, và chê tôi nói tiếng Anh như nói tiếng Pháp. Nghĩ mà phát sợ, ngoài trường hợp hai anh này, có thể còn rất nhiều trường hợp khác nữa, chắc trong quân đội có nhiều đơn vị bị gài người rồi. Đại Tá Phước phàn nàn:
- Đó Duệ xem, An ninh quân đội chỉ lo chơi anh em nhà như tụi mình, còn Việt cộng gài người vào mà có biết gì đâu. Trước khi đi học ngoại quốc, đều phải sưu tra ở sở An ninh mà. Thằng cha Mậu này có học hành gì đâu, mà có khỉ gì về tình báo, được ông cụ tin là vì theo ông cụ từ trước. Nay xẩy ra việc này mới thấy (Tôi đã kể về Đại Tá Phước ở mấy bài khác trong sách này)
Ngoài ra, tôi còn gặp Thiếu Tá Đặng Sỹ. Anh cũng bị bắt giam ở An ninh, nhưng không được ở phòng như tụi tôi, mà biệt giam riêng ở một phòng nhỏ. Một hôm ra ngoài tắm, thấy anh ngồi ở cửa phòng, tôi vội chạy về lấy quả cam được người nhà tiếp tế chuyển cho anh, để anh rõ tôi vẫn là anh em của anh. Anh nguyên là phó tỉnh trưởng Nội an ở Thừa Thiên, khi vụ Phật giáo xảy ra ở Huế, anh bị Tổng Thống gọi về để hỏi sự việc. Khi ở Sàigòn, anh đến gặp tôi tại lữ đoàn, nhờ tôi lo cho anh chỗ ở. Tôi mời anh về ở cùng phòng với tôi, và dùng xe của tôi để đi lại. Anh kể với tôi là khi đài phát thanh Huế bị dân chúng tràn ngập, anh có mặt ở đó. Anh không ra lệnh bắn, binh sĩ của mình không bắn, nhưng có tiếng nổ làm chết và bị thương một số người (anh hiện ở vùng WashingtonD.C.)
Tôi bị giam ở An ninh gần một tháng thì được thả, vì đã gửi thư cho Trung Tướng Dương Văn Minh, qua sự giúp đỡ của Đại Tá Nguyễn Văn Quan. Tôi nhớ trong thư có câu:
… tôi là sĩ quan của quân đội, tôi đã làm hết nhiệm vụ được giao phó là bảo vệ Tổng Thống và gia đình của Người. Bây giờ trung tướng là Quốc Trưởng, Lữ Đoàn Phòng Vệ lại có nhiệm vụ bảo vệ trung tướng và gia đình của trung tướng. Nếu giam tôi và kết tội tôi thì sẽ là tấm gương cho anh em lữ đoàn bây giờ. Nếu lại xảy ra biến cố thì lữ đoàn chả ai dám trung thành với trung tướng nữa…
Quả nhiên khi tướng Nguyễn Khánh làm chỉnh lý, lữ đoàn chả có hành động gì bảo vệ tướng Minh. Ngoài ra, các tướng khác như tướng Đôn, Kim, Xuân, Đính cũng bị bắt giam và đám cận vệ cũng như lính bảo vệ không dám kháng cự.
Lúc được tha, tôi phải lên gặp tướng Đỗ Mậu trước khi về. Trong khi đợi ở phòng Thiếu Tá Độ là chánh văn phòng của ông, tôi gặp Đại Tá Hoàng Lạc, là cấp chỉ huy cũ của tôi ở sư đoàn 31 trước đây. Ông mừng rỡ:
- Anh đã làm đúng nhiệm vụ của anh. Tôi khen anh đấy.
Đại Tá Lạc sau lên thiếu tướng, coi trung tâm huấn luyện Quang Trung. Sau có lần ông làm thứ trưởng bộ Canh nông và làm tư lệnh phó Quân đoàn I cho Trung Tướng Trưởng. Gặp tôi, bao giờ ông cũng ân cần vui vẻ. Ông là cấp chỉ huy rất được thuộc cấp quý mến và kính trọng, ông chỉ nhẹ nhàng chỉ bảo nếu người dưới làm sai và luôn bênh vực họ (ông hiện ở Houston, Texas).
Ngồi đợi một lúc thì ông Mậu về, theo sau một đoàn cận vệ lên thang gác rầm rập súng cầm tay như người ta ám sát đến nơi ngay các vị tư lệnh ngoài mặt trận cũng không có ai quá lố như ông và ông Đính ở ngay Nha của mình mà cứ như là ở vùng Việt cộng. Hôm ấy, ông mặc bộ đồ gaberdine, đã đeo lon tướng trên cầu vai, mà ở cổ áo cũng có lon nữa. Chắc tùy viên của ông quên tháo lon ở cổ ra. Ông đứng tiếp tôi ngay ở phòng Thiếu Tá Độ, có cả Đại Tá Lạc ở đấy.
-Anh Duệ, việc không có gì đâu, anh hãy quên mọi việc đi, dù sao thì hai ông cũng đã chết rồi; ông Nhu ông ấy kiêu ngạo quá mà. Sao lại tin thằng Tung quá vậy?
Tôi hỏi lại ông:
- Thiếu tướng cũng biết, tôi chỉ làm bổn phận của tôi, mà cả Phủ Tổng Thống, trong số các sĩ quan cao cấp, chỉ có tôi bị bắt.
Ông không trả lời, bắt tay tôi rồi mời Đại Tá Lạc vào phòng ông nói chuyện. Tôi chắc Đại Tá Lạc cũng được mời đến, vì đại tá đang làm ở ban thường trực ấp Chiến lược, và trước đây cũng là tư lệnh Lữ Đoàn Phòng Vệ. Sau ông Mậu theo tướng Khánh làm chỉnh lý, rồi làm đến phó Thủ Tướng đặc trách văn Hóa. Chuyện này thường làm đề tài mua vui cho báo chí và dân chúng. Sau đó ít lâu, khi các tướng trẻ lên cầm quyền, ông bị thất sủng, và được về vườn ở Nha Trang. Nhớ có lần gặp ông ở dinh Gia Long, lúc tôi mới đổi về lữ đoàn, ông thân mật bá vai tôi, nói:
- Duệ này, anh em đưa toa về đây lo cho ông cụ, trách nhiệm của toa lớn lắm đấy. Cả miền Nam chỉ có ông cụ mình mới có thể đối đầu với Hồ Chí Minh ở miền Bắc. Nếu xảy ra chuyện gì cho cụ thì khó mà giữ được miền Nam tự do này.
Đại Tá Phùng Ngọc Trưng, là bạn thiết của ông từ hồi niên thiếu, kể với tôi:
- Thằng Đổ Máu từ ngày nó phản ông cụ để được lên tướng, tụi moa ai cũng lánh xa, chả ai thèm chơi với nó nữa. Chắc nó đeo sao mà chả vui gì đâu.
Tôi gặp Đại Úy Bằng, là sĩ quan hầu cận của Tổng Thống, để tìm hiểu lý do tại sao Tổng Thống lại ra khỏi dinh, vào Chợ Lớn rồi ra hàng để họ giết. Anh Bằng ở cạnh Tổng Thống từ lúc đảo chính đến khi ra khỏi dinh. Anh kể với tôi:
- Thật ra lúc đầu cụ nghĩ là các tướng lãnh bị bắt cóc trong phiên họp chứ không phải đồng lòng làm phản. Cụ cố tìm cách liên lạc với tướng Khiêm mà không được, chỉ có tướng Minh và Đôn nói điện thoại với cụ. Sau cụ cũng nói chuyện với tướng Đính, tôi không rõ tướng Đính nói gì, nhưng cụ có vẻ giận lắm, và thất vọng.
-Tướng Khánh ở vùng 2 có liên lạc, nhưng nói không lo gì cho cụ được, vì ở quá xa.
-Tôi gọi tướng Cao ở vùng 4 mà không được, vì ông đang hành quân ở Cà Mâu, mãi sau mới gặp thì cụ đi rồi.
- Tôi cũng không rõ tại sao cụ ra khỏi dinh, và cũng nghĩ như anh là đã có kế hoạch trước. Chắc cụ quá buồn vì tất cả những người cụ tin đều phản cả. Ngoài ra, tôi chắc cụ đi là vì không muốn ở lại để anh em phải chết khi bị tấn công.
Đại Úy Bằng theo Tổng Thống từ khi anh còn nhỏ. Anh luôn ở cạnh ông để lo những việc cá nhân cho ông. Ở ngoài ai cũng nể, vì anh ở sát ông nên việc gì anh cũng rõ.
Tôi gặp Đại Úy Đỗ Thọ, là tùy viên đi theo Tổng Thống vào Chợ Lớn. Anh em tôi rủ nhau vào nhà hàng Lacave ở trước chợ Bến Thành ăn trưa, để nói chuyện. Tôi hỏi về thời gian Tổng Thống ở Chợ Lớn, anh kể:
- Cụ và ông cố vấn mệt mỏi thấy rõ, ở đó được báo cáo toàn là tin xấu; nhất là nghe radio thì thấy các tỉnh đều điện về ủng hộ cách mạng, cả tướng Khánh vùng 2, tướng Trí vùng 1 cũng lên tiếng ủng hộ. Chỉ có tướng Cao ở vùng 4 là không. Từ khi vào đây, cụ không liên lạc với các tướng nữa.
- Thế cụ có biết là dinh Gia Long và thành Cộng Hòa vẫn giữ được, và chưa có đơn vị nào tấn công không?
- Biết chứ, nhưng tôi chắc cụ nghĩ lữ đoàn khó mà chống lại được. Lúc khoảng 2 giờ sáng, cụ có bảo tôi gọi về hỏi anh em có bị chết và vị thương nhiều không? Tôi có trình là chỉ có một số ít bị chết và bị thương vì pháo kích mà thôi.
- Thế cụ có dặn gì anh trước khi ra hàng không?
- Có, cụ có dặn tôi nói với tướng Khánh ở vùng II mấy chuyện, nhưng bây giờ ông Khánh lại đổi ra vùng I rồi, nên tôi chưa có dịp.
Anh không kể tôi nghe cụ dặn nói với tướng Khánh việc gì.
Đại Úy Thọ chết vì rơi máy bay sau đảo chánh ít lâu. Anh là người cởi mở, vui vẻ, trẻ trung và hơi tếu. Sau này tôi có đọc cuốn Hồi ký Đỗ Thọ của anh.
Tôi gặp Đại Úy Lê Công Hoàn, cũng là tùy viên ở cạnh Tổng Thống từ khi khởi sự đảo chính, đến lúc Tổng Thống ra khỏi dinh. Anh ở đó trước khi Đại Úy Thọ chạy đến dinh. Chính anh là người chuyển khẩu lệnh của Tổng Thống cử tôi là tư lệnh lữ Đoàn vào chiều ngày 1-11 (nhưng Đại Úy Bằng đã gọi trước cho tôi rồi). Anh cũng kể giống Đại Úy Bằng, là lúc đầu, cụ nghĩ các tướng bị uy hiếp bởi một nhóm phản loạn. Nhưng sau khi gặp tướng Đôn và tướng Đính qua điện thoại, thì cụ giận và thất vọng. Nhất là khi biết pháo binh bắn vào thuộc sư đoàn 5 của Đại Tá Thiệu.
Vẫn theo lời Đại Úy Hoàn, cụ nhiều lần muốn gặp Thiếu Tướng Khiêm, nhưng ông Khiêm né. Từ đầu chí cuối, cụ luôn nhắc phải tránh đổ máu, như anh đã gọi dây nói cho tôi nhiều lần. Cụ sợ tôi nóng nẩy, nếu tấn công vào tổng tham mưu thì đổ máu, và nhỡ chết các tướng lãnh đang họp. Anh Hoàn kể tiếp:
- Lúc anh trình xin tấn công tổng tham mưu thì nhiều người đồng ý. Cụ la ông Cao Xuân Vỹ vì quá sốt sắng, rằng cụ là tổng tư lệnh quân đội mà lại ra lệnh cho quân đội đánh nhau sao được. Tôi nghĩ cụ muốn từ chức cho êm đẹp, để anh em không đổ máu. Ngoài ra, chắc cụ cũng nghĩ là các tướng lãnh vẫn còn mến cụ, và đảo chính là do Mỹ tạo và ép các tướng lãnh phải làm. Có lần cụ bảo tôi xem có thằng Mỹ nào ở đó không?
- Thế sao anh không đi theo cụ? Tôi hỏi.
- Đầu tiên cụ đưa cái cặp cho tôi, và tôi muốn đi theo cụ, nhưng Thọ xin đi với cụ, vì nó chưa có gia đình, mà tôi có vợ con. Nó sợ nếu phải đi xa, ai lo cho vợ con tôi. Cụ không nói gì, và Thọ lấy cái cặp đi theo.
Anh Hoàn sau xin về tổng cục Chiến tranh chính Trị. Tôi để anh làm phụ tá cho tôi, ngồi cùng một phòng. Đơn vị cuối cùng của anh là tham mưu phó Chiến tranh chính trị Quân đoàn II. Tôi với anh rất thân, việc gì anh cũng hỏi tôi, khi đảo chính xong, thấy tôi xin đi học Anh văn, anh cũng đi học Anh văn. Khi tôi về tổng cục Chiến tranh chiến trị, anh cũng về cùng ngành với tôi, cho đến khi mất nước. Anh mất sau khi đi tù cải tạo về.
Nhớ lại thời làm chung ở tổng cục, gặp lúc rảnh, tôi và Hoàn thường tâm sự với nhau. Tôi cứ thắc mắc sao cuộc đảo chính lại quá dễ dàng như vậy, mà sao Tổng Thống, và nhất là ông cố vấn Nhu, lại chẳng chuẩn bị đề phòng gì. Đặc biệt là lúc bấy giờ ai cũng cảm thấy có cái gì rất nghiêm trọng sẽ xẩy ra. Tôi nghĩ chỉ vì Tổng Thống quá tin người, rồi đến khi nghe đảo chính xảy ra, gọi ai cũng không được. Tư lệnh Hải quân đi vắng, tư lệnh Không quân đi vắng, nhảy Dù, Thủy quân lục chiến, Lực Lượng Đặc Biệt đều vắng mặt. Khổ nỗi, mấy ông này không ai ra một lệnh gì rõ ràng cho người thay mình lúc vắng mặt, hoặc phải làm gì nếu biến cố xảy ra trong khi các ông vắng mặt. Vì quá tin người nên Tổng Thống nghĩ cứ giao cho tướng Đính, tướng Khiêm là đủ. Không nghĩ tới trường hợp chính các ông này làm phản, nên mới chết một cách thê thảm như vậy.
Tôi chả bao giờ quên được lòng trung thành của anh em ở lữ đoàn đối với Tổng Thống. Sự việc xẩy ra lúc trưa vào ngày nghỉ, mà anh em có mặt gần như đầy đủ. Đại Úy Huỳnh Khắc Minh đang học Anh văn, cũng tất tả chạy về hỏi tôi có cần anh lo gì không. Cô nữ trợ tá xã hội tên Lệ (tôi quên họ), mặc dầu tôi bảo cô có thể về nhà được, vì sợ giao tranh nguy hiểm, nhưng cô nhất định ở lại với anh em. Bác sĩ Đại Úy Nguyễn Tuấn Anh chạy vào ngay, và ông ở lại thành Cộng Hòa đến phút chót lo tản thương cho anh em. Thiếu Tá Huỳnh Văn Lạc cũng ở lại dinh Gia Long với đầy đủ anh em cận vệ của ông đến phút chót.
Sau này, anh em tứ tán ở các đơn vị, nhưng mỗi khi tụi tôi gặp nhau đều ân cần, thăm hỏi và lo lắng cho nhau như trong một gia đình.
Thống Tướng Lê Văn Tỵ
Khi di cư từ miền Bắc, tôi là Đại Đội trưởng Đại Đội 4 – Tiểu Đoàn 52, sau được đổi về đại đội tổng hành dinh Sư Đoàn 32. Sư đoàn này sau đổi thành Sư Đoàn 4 dã chiến, sau lại đổi tên là Sư Đoàn 7 Bộ Binh.
Ngày mới từ Bắc vào, đơn vị đóng tại Quảng Ngãi, chưa có chiến trận gì, binh sĩ chỉ lo sửa sang doanh trại, lau chùi vũ khí và học tập qua loa ngày mấy giờ, nên vui vẻ lắm. Hơn nữa, giá sinh hoạt ở đây quá rẻ, 1 đồng 3 quả trứng,  4 hay 5 đồng một con gà nên anh em ai cũng thừa tiền.
Khi ấy, Tổng Tham Mưu trưởng là Trung Tướng Nguyễn Văn Hinh. Ông này nghịch với Thủ Tướng Ngô Đình Diệm. Tư lệnh sư đoàn 32 là Trung Tá Nguyễn Hữu Có, cùng phe với Trung Tướng Hinh. Binh sĩ hoang mang vô cùng, vì ngày nào cũng nghe đài phát thanh Quân Đội chỉ trích Thủ Tướng. Những binh sĩ ở ngoài Bắc vô, 90% là Công Giáo và ai cũng ủng hộ Thủ Tướng Diệm, vì gia đình họ được Phủ Tổng Ủy Di Cư giúp đỡ. Nhiều buổi học tập, anh em đều thắc mắc về tình trạng này. Tôi bao giờ cũng khuyên anh em bình tĩnh và ca tụng Thủ Tướng, nên được anh em có cảm tình.
Anh em thuộc đại đội tổng hành dinh sư đoàn, ở ngay bộ tư lệnh mà Trung Tá Có là tư lệnh sư đoàn, và Thiếu Tá Nguyễn Vĩnh Nghi là tham mưu trưởng. Trung Tá Có thường vắng mặt ở sư đoàn nên Thiếu Tá Nghi luôn luôn ở bộ tư lệnh. Ông là người rất kỷ luật và tử tế, chắc ông biết là khi học tập anh em đều có thiện cảm và kính trọng Thủ Tướng, nhưng ông không có thái độ gì, và vẫn quý mến chúng tôi.
Binh sĩ vào ngày Chủ Nhật đi xem lễ ngồi đầy nhà thờ, và rất có trật tự, nên được Cha Xứ hài lòng lắm. Mỗi lần đến thăm Cha Xứ, ông đều khen ngợi binh sĩ hết lời, và nhiều lần mời tôi ăn cơm. Trong câu chuyện, ông ca ngợi Thủ Tướng Diệm và ông tin rằng miền Nam sau này sẽ được độc lập, tự do và phồn thịnh. Ông hỏi tôi nghĩ gì về Thủ Tướng, tôi cũng trả lời là tôi ủng hộ Thủ Tướng hết mình, và rất mừng được di cư vào đây, cả họ nhà tôi đều di cư và được giúp đỡ để định cư yên ổn. Ông kể cho tôi nghe về sự khổ sở của dân chúng ở đây dưới thời Cộng Sản như thế nào, nhất là những người Công Giáo: nhà thờ vắng lặng và bị canh chừng chặt chẽ, Cha không được đi đâu, vì bị theo dõi sát.
Thấy tôi ủng hộ Thủ Tướng, ông mừng lắm. Nhiều lần đi Huế, ông đều rủ tôi đi theo. Ý ông muốn đưa tôi vào thăm ông Ngô Đình Cẩn mà ông thường gọi là cậu Cẩn. Tôi ngạc nhiên hỏi ông, sao gọi là cậu, vì ông Cẩn đã nhiều tuổi . Ông nói ngoài này, các con quan khi còn nhỏ được người ta gọi là cậu. Ông Cẩn vì chưa có vợ, người ta cứ quen gọi là cậu.
Tôi hứa với ông là sẽ đi đến thăm ông Cẩn sau. Khi ở Huế về, ông nói là ông có thăm cậu Cẩn, kể cho cậu nghe về tôi, và cậu thích lắm. Cậu nói với Cha là cậu muốn gặp các sĩ quan và hạ sĩ quan trẻ. Theo cậu, các sĩ quan cao cấp đều có liên hệ với Tây nhiều, và hầu hết đều ủng hộ tướng Hinh. Cậu nói nếu tôi chưa về Huế được, thì sẽ cho người liên lạc với tôi.
Quả nhiên độ một tuần sau, Thiếu Tá Nguyễn Văn Châu (sau lên trung tá, giám đốc Nha Chiến Tranh Tâm Lý) vào thăm tôi, mang cho tôi nhiều tài liệu nói về thân thế và sự nghiệp của Thủ Tướng Diệm, kể cả những tin về Trung Tướng Hinh chống đối Thủ Tướng như thế nào, và cả các giáo phái nữa.
Tôi quay ronéo các tài liệu này, cho phổ biến, không những ở đơn vị tôi, mà cho cả các đơn vị bạn ở Quảng Ngãi nữa. Anh Châu vui mừng lắm, từ đó gửi tài liệu đều cho tôi phổ biến.
Một hôm vào khoảng 10 giờ, một anh trung sĩ ở ban mật mã Truyền Tin đến cho tôi hay, có một công điện mật của Trung Tá Có ở Huế gửi về. Nội dung như sau: Thủ Tướng sẽ đến thăm Quảng Ngãi ngày gần đây chuẩn bị sẵn sàng đợi lệnh
Tôi hoang mang vô cùng, tại sao công điện không nói rõ là chuẩn bị đón Thủ Tướng, hay phản đối Thủ Tướng. Tôi liền cho một hạ sĩ quan thân tín, ngay đêm đó về Huế báo cho anh Châu hay. Ở Huế, anh Châu cũng được tin là Đại Tá Trương Văn Xương, tư lệnh Quân khu II, cũng là người của Trung Tướng Hinh, có một phiên họp với Trung Tá Có và mấy sĩ quan cao cấp, để lợi dụng khi Thủ Tướng đến Quảng Ngãi, thì chất vấn và phản đối.
Thế là Thủ Tướng được đề nghị hủy bỏ chuyến đi thăm Quảng Ngãi. Chỉ đi thăm Qui Nhơn, rồi về Sài Gòn.
Sau đó ít lâu, Trung Tướng Hinh, Tổng Tham Mưu trưởng được thay thế bởi Thiếu Tướng Lê Văn Tỵ. Trung Tá Có cũng rời sư đoàn để Đại Tá Dương Quý Phan thay thế, và Trung Tá Hoàng Văn Lạc làm tham mưu trưởng, để lo tiếp thu phần còn lại của tỉnh Quảng Ngãi về phía Nam giáp đến Qui Nhơn. Bộ tư lệnh sư đoàn tiền phương ra đóng tại sông Vệ, và hậu cứ vẫn đóng tại thị xã Quảng Ngãi. Tôi là chỉ huy trưởng hậu cứ sư đoàn.
Đài Quân đội cũng chấm dứt việc đả kích Thủ Tướng. Anh em binh sĩ vô cùng mừng rỡ, càng ủng hộ Thủ Tướng hơn. Khi Thủ Tướng gặp khó khăn với quân Bình Xuyên, tôi và Trung Úy Trần Văn Minh bàn nhau trình với tư lệnh sư đoàn đánh điện ủng hộ Thủ Tướng. Anh Minh và tôi lên gặp Đại Tá Phan khoảng 9 giờ tối ở bộ tư lệnh tiền phương, tại xe ngủ của ông (ngày ấy bộ tư lệnh làm việc và ngủ ngay tại lều, riêng tư lệnh ngủ trên xe được cải biến thành phòng ngủ). Chúng tôi trình ý kiến, được ông chấp thuận ngay, và bảo: thì hai trung úy thảo ngay công điện hộ tôi. Tôi nhớ đại ý công điện như sau:
Toàn thể quân nhân thuộc sư đoàn 32 rất bất mãn về hành động gây hấn của quân Bình Xuyên, kính xin thiếu tướng Tổng Tham Mưu trưởng chấp thuận cho sư đoàn 32 về dẹp loạn Bình Xuyên. Toàn thể sĩ quan, hạ sĩ quan và binh sĩ Sư đoàn 32 nguyện hết lòng trung thành với Thủ Tướng Ngô Đình Diệm
Công điện được gửi về Bộ Tổng Tham Mưu ngay đêm ấy, ngày hôm sau được đọc trên đài phát thanh.
Thiếu Tướng Tỵ, Tổng Tham Mưu trưởng đánh điện khen sư đoàn và nói Thủ Tướng rất hài lòng. Sau đó, sư đoàn 31 của Đại Tá Tôn Thất Đính, và các tiểu khu ở quân khu II đều theo sư đoàn 32 đánh điện về ủng hộ Thủ Tướng. Anh Minh và tôi được đại tá tư lệnh sư đoàn gọi lên khen và cám ơn.
Sau khi tiếp thu xong, Sư đoàn lại được đổi tên là sư đoàn 4 và Đại Tá Tôn Thất Xứng làm tư lệnh sư đoàn, thay thế Đại Tá Dương Quý Phan về coi Quân trấn Sài Gòn.
Bộ tư lệnh sư đoàn được di chuyển về Biên Hòa, đóng tại nhà Dù. Bộ chỉ huy trung đoàn 10 và 11đóng tại Tam Hiệp, trung đoàn 12 đóng tại Bà Rịa.
Trước khi di chuyển vào Nam, bộ tư lệnh sư đoàn 4 đóng tại Đà Nẵng cả mấy tháng, để sắp xếp và đợi tàu. Trong thời gian này, vì chẳng bận rộn lắm nên những đơn vị trực thuộc Bộ Tư Lệnh, nhất là Đại Đội Công binh, giúp dân chúng sửa đường làm cầu. Binh sĩ rất có kỷ luật nên được dân chúng quý mến lắm.
Có hạ sĩ Nguyễn Mạnh Hùng, là đả tự viên ở văn phòng, một hôm xin tôi lãnh lương trước, để có tiền gửi cho em mới di cư từ Bắc vào cần tiền mua tự điển và sách vở. Tôi xui anh Sao không viết thư xin Thiếu Tướng Tỵ xem, cứ kể rõ hoàn cảnh, thử xem ông có thương anh em không. Thế là tôi giúp anh ta thảo một thư xin đứng tên hạ sĩ Hùng. Độ 3 tuần sau, sư đoàn nhận được một công điện gọi hạ sĩ Hùng lên trình diện đại tá tư lệnh Quân khu. Anh em trong đơn vị ai cũng ngạc nhiên, riêng tôi và Hùng biết là thư có kết quả.
Hạ sĩ Hùng được đại tá tư lệnh trao lại quà của thiếu tướng Tổng Tham Mưu trưởng, gồm 2 cuốn tự điển, một viết máy Pilot và nhiều tập vở. Sau đó đại tá còn cho đương sự thêm 15 ngày phép để về thăm em.
Từ đó, anh em ai cũng thích thú về cử chỉ của vị tân Tổng Tham Mưu trưởng Quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Đặc biệt ở Đà Nẵng, tôi được dự buổi ra mắt phong trào Cách Mạng Quốc Gia, có ông cố vấn Ngô Đình Cẩn tham dự. Ông mặc áo dài đen, đầu đội khăn đóng, cử chỉ rất khiêm tốn khi được giới thiệu. Sau buổi ra mắt là vở kịch thơ Về Hồ, nói về tâm trạng của Hồ Quý Ly tại sao phải đứng dậy truất phế nhà Trần. Tôi nhớ trong vở kịch có câu thơ do Hồ Quý Ly nói:Vua không ra vua mà quan chẳng ra quan, nên ta buộc lòng phải hô phế đế. Lúc đó ông Ngô Đình Diệm còn làm Thủ Tướng và ông Bảo Đại làm Quốc Trưởng. Sau vào Nam có cuộc bỏ phiếu truất phế Bảo Đại, tôi lại nhớ đến vở kịch Về Hồ đã được xem khi ở Đà Nẵng.
Ngày ở ngoài Trung, tôi được gặp ông Cẩn nhiều lần. Ông tiếp tôi rất ân cần và thân mật, ông coi tôi là cán bộ nòng cốt của ông và thường gọi tôi là chú. Khi chào ông để vào Nam ông còn mời tôi và anh em uống bia và dặn tôi cần gì ở ông cứ liên lạc với ông. Đặc biệt ông tiếp tôi và anh em ở nhà khách, nhà gỗ lợp tranh có bộ tràng kỷ rất sơ sài. Sau này, khi tôi đã về phủ Tổng Thống, năm 1963 đại diện anh em ra chúc Tết, ông vẫn tiếp tôi ở ngôi nhà sơ sài đó. Có một chi tiết khiến tôi cảm động, được bầy tỏ qua thái độ ân cần ông dành cho tôi. Tết năm ấy, tôi đem một bó hoa vào chúc Tết. Khi tôi đến phòng đợi, có Thiếu Tướng Lê Văn Nghiêm, tư lệnh quân khu I và ông đại biểu chính phủ miền trung đã đợi từ trước ở đó. Được vị sĩ quan tùy viên của ông mời vào trước, tôi vội nói: anh mời thiếu tướng và ông đại biểu vào trước. Anh sĩ quan tùy viên lúng túng thưa, tôi có trình nhưng cậu dạy mời thiếu tá. Tôi không chịu, nhưng Thiếu Tướng Nghiêm bảo: Duệ vào trước đi, chắc ông cần gặp toi để dặn công việc, vậy toi cứ vào. Gặp ông tôi mừng lắm. Ông trách sao lâu quá tôi không ra thăm ông. Ông vẫn nhớ chuyện ngày tôi ở Quảng Ngãi đã hoạt động giúp ông và vẫn gọi tôi là chú. Mẹ tôi bị đau bại một cánh tay, có người mách nếu được cao hổ cốt thật mà uống thế nào cũng đỡ. Biết ông có cao tốt cho cụ cố dùng, tôi nhắn ra xin và ông gửi ngay cho 5 lạng, mẹ tôi uống có hơn 2 lạng đã khỏi. Tôi thấy ông đối với cán bộ của ông thật chân tình nên ai gặp cũng quý mến, trái hẳn với những tin đồn nói ông hách dịch quan liêu. Sau đảo chánh, người ta gọi ông là Út Trầu vì ông hay ăn trầu. Nhưng ông không phải là con út, ông Ngô Đình Luyện mới là con út.
Khi đóng tại nhà Dù Biên Hòa, ngay cạnh quốc lộ 1, vào một buổi sáng Chủ nhật, tôi vừa ăn sáng xong thì thấy ngoài đồn canh nhốn nháo, ồn ào. Tôi vội chạy ra xem, thấy đại tướng Tổng Tham Mưu trưởng đang nói chuyện với đại tá tư lệnh sư đoàn bằng điện thoại của đồn canh, và binh sĩ đang hối hả động súng để sắp hàng chào. Tôi chào đại tướng, và đứng cạnh khi ông đang nói chuyện với đại tá tư lệnh.
- Xứng hả, đại tướng Tỵ đây. Sao mày không dạy bảo lính của mày vậy cà? Tao đi qua đây bao nhiêu lần mà lính gác gặp tao cũng không chào nữa.
Không biết Đại Tá Xứng bên kia đầu dây trả lời ra sao, chỉ nghe ông nói:
- Thôi được, kỳ tới phải dạy tụi nó.
Nói rồi ông gác máy, quay lại nhìn tôi:
- Đại úy tên gì ?
- Dạ thưa đại tướng, tôi là Đại Úy Duệ, chỉ huy tổng hành dinh sư đoàn 4.
- Tao đi qua đây nhiều lần mà lính gác thấy tao chẳng bao giờ chào cả.
- Dạ thưa đại tướng, anh em mới đổi từ miền Trung vào nên ít người nhận ra đại tướng. Xin đại tướng tha lỗi. Tôi sẽ nhắc anh em phải chào kính trong những buổi học tập.
Thế là ông cười vui vẻ ngay và bảo:
- Thôi được, phải dạy tụi nó, rồi ông hỏi lại tôi – Vậy chứ hôm nay Chủ nhật anh không đi chơi à ?
- Dạ tôi là sĩ quan trực của sư đoàn.
Khi ông về, lính canh đã sẵn dàn chào, ông vui vẻ lên xe. Vì ông có đồn điền cà phê ở Long Khánh nên ngày nghỉ hay lên thăm. Ông thường đi xe số ẩn tế, mặc áo kaki và quần trận, đội chapeau de Brousse nên anh em không biết là đại tướng.
Sau tôi vào điếm canh, anh em sợ bị la nên phân trần là ngay khi ông vào điếm canh, anh em cũng không biết ông là ai. Ông hỏi thằng nào là điếm trưởng trung sĩ điếm trưởng trả lời : Tôi đây, ông là ai? Gọi dây cho tao nói chuyện với thằng Xứng coi, tao là đại tướng tham mưu trưởng đây. Điếm trưởng hoảng hồn, hô vào hàng phắc lính canh đứng dậy nghiêm trang. Ông cầm điện thoại và cũng bảo tổng đài
- Gọi cho tao nói chuyện với thằng Xứng coi. Tổng đài sau báo cáo với tôi, tưởng ai đùa nên la
- Thôi đừng dỡn cha nội, đụng đến ông Thất Sừng là ăn củ đó (anh em vẫn đùa gọi Đại Tá Tôn Thất Xứng là ông Thất Sừng).
Ông cũng phì cười, và bảo:
- Tao mà đùa à, gọi ngay.
Điếm trưởng phải cầm điện thoại bảo tổng đài đúng là đại tướng đó.
Từ đó, mỗi sáng Chủ nhật, đồn canh phải cắt một binh sĩ có nhiệm vụ đứng xa độ 300 thước, để đón xe đại tướng. Trong này phải giá súng sẵn, khi nghe tiếng còi báo hiệu là tức khắc dàn chào. Buồn cười nhất là trong sổ gác có mục ghi – binh sĩ X… Gác đại tướng. Tôi đọc cũng thấy buồn cười, nhưng không sửa, để làm kỷ niệm, vì sổ gác chỉ trình tôi đọc hàng ngày mà thôi. Chắc là đơn vị ở cầu Bình Lợi cũng bị la như vậy, nên có lần suýt xẩy ra tai nạn. Một hôm xe đại tướng tới cầu, thì xe lửa cũng sắp đến. Thấy xe đại tướng đến, lính gác sợ quá, vội mở ngay cần chắn xe để xe đại tướng đi. Cùng lúc ấy, xe hỏa chợt đến, thế là xe đại tướng chạy trước, xe hỏa chạy sau. Tài xế sợ muốn chết, may anh cận vệ nhảy xuống lề, mở cây chắn xe bên kia, nên xe đại tướng chạy qua được an toàn.
Một năm vào ngày Tết, phái đoàn sư đoàn 7 do Đại Tá Huỳnh Văn Cao hướng dẫn (tôi cũng ở trong phái đoàn) lên chúc Tết đại tướng. Ông tiếp rất niềm nở, và kể cho tụi tôi nghe chuyện xẩy ra vào ngày đảo chánh 11 tháng 11 năm 1960. Hôm ấy ông bị Trung Tá Vương Văn Đông vào văn phòng ép, nhưng ông vẫn không chịu theo phe đảo chánh, và nói chỉ nhận lệnh của Tổng Thống mà thôi. Khi ra ngoài, tôi gặp Đại Tá Nguyễn Hữu Có, là tư lệnh Quân khu I, cũng đến chúc Tết đại tướng. Thấy tụi tôi mang hoa, còn ông thì đi tay không, ông vồ lấy bó hoa mà phái đoàn sư đoàn 7 mang đến, rồi cầm vào chúc Tết.
Trước ngày đảo chánh, các tướng lãnh và sĩ quan như tụi tôi đối xử với nhau như anh em. Tôi nhớ ngày ở Mỹ Tho, làm trung đoàn trưởng trung đoàn12, tôi lên chúc Tết Đại Tá Cao, sau đó xin phép ông về Sài Gòn thăm cha mẹ tôi. Ông cho tôi chai rượu và hộp bánh, nói để tặng cha mẹ tôi, trong khi tôi đến chúc Tết ông tay không. Ông còn đặc biệt cho tôi ở lại Sài Gòn đến mai mới về.
Ở trung đoàn tôi có Trung Úy Loan được đi học tham mưu ở trường đại học Quân sự ở Sài Gòn. Một hôm, trong khi ngồi trên xe GMC đi học, anh em nói chuyện huyên thuyên, và anh Loan nói câu nhất vợ nhì trời. Anh bạn ngồi cạnh hỏi thế thứ ba là ai ? Anh buột miệng trả lời thứ ba là Ngô Tổng Thống, anh em cười vang. Thế là Nha An Ninh gửi công văn về cho tôi để theo dõi, và yêu cầu không cho đương sự giữ nhiệm vụ gì quan trọng, không được làm ở bộ tham mưu như đương sự đi học. Tôi làm một văn thư lên Bộ Tổng Tham Mưu, trình bày đương sự là một sĩ quan có kỷ luật, và khi đương sự thốt ra câu ấy cũng chả có gì là vô phép, xin đại tướng xét lại. đại tướng cũng đồng ý.
Đại tướng gặp tụi nhỏ, hay các sĩ quan cao cấp, đều vui vẻ và mày tao một cách tự nhiên, vì ông là người cao tuổi và cấp bậc lớn, nên coi mọi người như em út của ông. Ai mà ông gọi bằng cấp bậc một cách nghiêm trang, là ông buồn người đó.
Tết năm 1963, phái đoàn tướng lãnh và sĩ quan cao cấp đến chúc Tết Tổng Thống, tôi cũng được ở trong phái đoàn. Khi Tổng Thống vào phòng, có vị tướng nào đội lộn mũ của đại tướng, ông gọi tôi và bảo:” Duệ, mày xem thằng tướng nào dám đội mũ của tao” ông vừa nói vừa cười, và nói thêm “chắc thằng này muốn thay tao quá!”. Vì đại tướng chưa về, nên chưa ai dám về. Tôi phải đi gặp từng vị tướng, để xem lại mũ. Người đội nhầm mũ, là Trung Tướng Dương Văn Minh. Tôi xin đổi lại mũ, và ông nói:
- Ừ, “moi” đội hơi rộng.
Sau khi phái đoàn tướng tá chúc Tết ra về, Đại Úy Hoàn, sĩ quan tùy viên vẫy tôi, và chỉ vào phòng Tổng Thống. Tôi ghé xem, thấy Trung Tướng Lễ, Thiếu Tướng Đính, Đại Tá Mậu, Trung Tá Hùng, và Thiếu Tá Xích (tỉnh trưởng Gia Định), đang quỳ một dọc trước bàn của Tổng Thống. Các vị này nhân danh là con cháu trong nhà, chúc Tết riêng một lần nữa.
Hoàn nói với tôi : “Anh xem chả có tư cách gì, mặc quân phục mà quỳ trông chướng quá.!” Tôi cũng nói mấy ông này đặt ông cụ vào chuyện đã rồi, vì tôi nghĩ ông cụ đâu có thích chuyện này. Ngày 1-11-63 các ông Lễ, Đính, Mậu là những người đầu não trong bộ tham mưu đảo chính, và chính ông Lễ đã xui Trung Tướng Dương Văn Minh là “Nhổ cỏ phải nhổ cả rễ ” theo như Đại Tá Nguyễn Văn Quan, phụ tá của tướng Minh kể với tôi.
Vào tháng 7-1963, đại tướng bị ung thư phổi. Ngày đó, việc chữa trị ung thư ở Việt Nam chưa tốt lắm, Tổng Thống phải liên lạc nhờ tòa đại sứ Mỹ lo liệu, để chở đại tướng sang Mỹ chữa trị.
Hôm đại tướng đến chào Tổng Thống để xuất ngoại, chính Tổng Thống ra lệnh cho đội danh dự dàn chào, và tiếp đại tướng lâu lắm. Đó là ngoại lệ, thường thì đại tướng đến gặp Tổng Thống hay Phó Tổng Thống cùng các bộ trưởng, chưa có vị nào được đơn vị dàn chào. Thiếu Tá Cao Tiêu làm ở văn phòng đại tướng (sau là Đại Tá Cao Tiêu, cục trưởng cục tâm lý chiến) kể với tôi đại tướng về kể lại: Ông được Tổng Thống đón rất trang trọng, và hai người ôn lại chuyện xưa. Đặc biệt, Tổng Thống nói, đại tướng không còn mẹ già như Tổng Thống, mà ông thì vì trọng trách ít có dịp về thăm mẹ nên ông mong sớm được về hưu để phụng dưỡng mẹ già. Ông tháo chuỗi tràng hạt mà ông đang đeo đưa tặng đại tướng, mong đại tướng chóng bình phục để về tiếp tục lo cho quân đội. Ông nói chỉ đặt chức quyền Tổng Tham Mưu trưởng mà thôi, ý muốn để đại tướng rõ là ông vẫn mong đại tướng về lại chức vụ cũ. Anh Tiêu nói đại tướng rất cảm động về cử chỉ của Tổng Thống (Đại Tá Tiêu hiện ở Orange County, California)
Đặc biệt có một cử chỉ tôi chưa hề thấy bao giờ là khi đại tướng ra về, Tổng Thống tiễn chân đại tướng ra đến tận xe, bắt tay đại tướng, đợi khi đại tướng lên xe, ông còn cúi đầu chào trước khi xe lăn bánh. Khi trở lại văn phòng, ông có vẻ buồn rầu.
Đại tướng chữa bệnh ở Mỹ lúc đảo chính xảy ra. Sau một thời gian ông về lại, vì bịnh tình không thuyên giảm. Đại Tá Trần Vĩnh Đắt là phụ tá của Trung Tướng Trung, tổng cục trưởng tổng cục Chiến Tranh Chính Trị đặc trách về tù binh, kể với tôi. Khi đại tướng về, đại tá ra đón, sau luôn đến thăm ông, và ông rất đau xót về việc các tướng lãnh đã giết Tổng Thống. Ông nói mấy thằng tướng này làm sao lãnh tụ được mà cũng đòi có thằng nào chịu phục thằng nào đâu. Tụi nó giết ông cụ thì sau này tụi nó sẽ hối hận. Tìm đâu được người yêu nước và can đảm như Ông Diệm, nghĩ đến ông tao muốn khóc. Đại tướng còn lôi ở trong cổ ra chuỗi tràng hạt do Tổng Thống tặng, mà ông luôn để trong người (Đại Tá Đắt đã chết ở Việt Nam)
Đại tướng được vinh thăng thống tướng (5 sao), vị thống tướng duy nhất của quân đội Việt Nam Cộng Hòa, trước khi từ trần vào cuối tháng 10-1964. Nghe nói khi mai táng, gia đình đã chôn theo đại tướng cỗ tràng hạt mà Tổng Thống đã tặng.
Không nhớ rõ là ngày nào, vào khoảng trước tết năm 1973 độ vài tháng, tôi đã được vinh dự gặp Phó Tổng Thống Trần Văn Hương. Cho đến bây giờ khi nhớ lại, tôi vẫn còn thích thú, vì không ngờ được ông tiếp lâu như vậy. Hơn nữa, ông đã giải thích rõ ràng những điều tôi thắc mắc, như một thầy giáo chỉ vẽ cho người học trò của ông vậy.
Tôi và Trung Tá Thạch, chánh võ phòng của ông là bạn – chúng tôi thân nhau, tuy ít khi gặp nhau sau ngày đảo chánh 1-11-63. Khi tôi làm tư lệnh phó kiêm tham mưu trưởng Lữ đoàn phòng vệ phủ Tổng Thống, anh Thạch là đại đội trưởng của lữ đoàn.
Một hôm, anh đến thăm tôi tại tổng cục Chiến tranh chính trị, và cho một món quà mà tôi nghĩ là vô giá, vì lòng quý mến của anh với tôi. Đó là một tượng Phật chạm trổ rất sắc sảo, trên một cái  nanh heo rừng lớn, dài đến hơn một tấc. Tượng được chạm trên đầu lớn của nanh heo. Đầu nhỏ nhọn hoắt, đã lên nước vàng đậm. Tượng đựng trong túi bằng da mầu đỏ. Anh nói với tôi:
- Tượng này quý lắm, và là của cụ Phó Tổng Thống cho tôi. Nhưng tôi là người Công giáo, không đeo được.
Vậy tôi xin biếu để đại tá đeo. Người ta nói ai giữ tượng này và chịu khó cầu nguyện, sẽ gặp nhiều may mắn.
Tôi cảm động vô cùng, và cám ơn anh hết lòng.
Khi hàn huyên, tôi được nghe anh kể về cụ Hương. Anh quý mến cụ nhiều, và khen cụ hết lời, như: cụ thương anh em ở gần; sự trong sạch cũng như tính cương quyết của cụ trong việc bài trừ tham nhũng, không nể nang bất cứ ai, kể cả các giới chức cao cấp v.v…
Tôi hỏi anh Thạch:
- Thế Phó Tổng Thống có biết trước đây anh ở lữ đoàn lo an ninh cho Tổng Thống Diệm không?
- Sao lại không biết, tôi thấy cụ không bao giờ tỏ vẻ bất mãn với Tổng Thống Diệm cả. Mỗi lần đề cập đến Tổng Thống Diệm cụ vẫn gọi là cụ Diệm, chứ không bao giờ chê trách gì. Để có dịp, tôi sẽ sắp xếp cho đại tá gặp Ông Cụ, tôi tin là khi gặp, đại tá sẽ có cảm tình và quý mến cụ ngay, vì sự nhiệt tình yêu nước của cụ.
Tôi được may mắn ở gần Tổng Thống Ngô Đình Diệm, gặp Quốc Trưởng Dương Văn Minh, gặp Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ, gặp đại tướng Lê Văn Tỵ cùng nhiều vị bộ trưởng và nhiều tướng lãnh. Tôi thường nghĩ các vị làm lớn giữ vận mệnh quốc gia, thế nào cũng có gì hơn người, nên muốn tìm hiểu xem họ có những gì đặc biệt. Nhất là về những đức tính của họ.
Cụ Hương đã từng làm đô trưởng Sài Gòn thời Tổng Thống Diệm, rồi có lúc đối lập với Tổng Thống Diệm, trong nhóm Caravelle. Sau này, vào đầu tháng 11-1964, trong lúc đất nước rối ren, cụ nhận chức Thủ Tướng, lãnh đạo đất nước một cách cương quyết, và được tiếng là rất trong sạch. Có thể nói, cụ đã bị lật đổ chỉ vì không chịu chiều theo đòi hỏi của các nhóm tranh đấu nhân danh Phật giáo. Cụ đã phải lên tiếng thẳng trên đài phát thanh và báo chí, nghiêm khắc chỉ trích những hành động gây xáo trộn của các nhà tu hành, làm đất nước rối ren thêm.
Tôi rất mừng khi nghe anh Thạch nói sẽ thu xếp để tôi được gặp cụ trong một dịp nào đó.
Ngày ấy, mỗi dịp Tết, tổng cục Chiến tranh chính trị đều lo tặng quà cho binh sĩ ngoài tiền tuyến, nên đã phát động Cây mùa xuân chiến sĩ mà tôi là phụ tá của trung tướng tổng cục trưởng, đặc trách lo việc này.
Chiến dịch này được nhân dân hưởng ứng nồng nhiệt; kết quả ngoài sự dự trù của Tổng cục, quỹ lên đến mấy trăm triệu và phong trào hậu phương yểm trợ tiền tuyến lên cao, anh em chiến sĩ cũng lên tinh thần.
Có một cuốn sổ vàng để ghi lời phát biểu của Tổng Thống và các vị ân nhân. Tôi nhớ Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu bao giờ cũng ghi trang đầu, kêu gọi mọi người ủng hộ cây mùa xuân, và tặng 1 triệu đồng. Các thương gia, hội đoàn cũng tham gia đông lắm. Bao giờ tôi cũng để sẵn nhiều trang đầu, để khi các vị cao cấp muốn ký sổ vàng thì ghi ở những trang ấy.
Một hôm anh Thạch gọi tôi, nói Phó Tổng Thống Trần Văn Hương muốn ghi sổ vàng tặng anh em chiến sĩ tiền tuyến. Tôi xin ngày giờ hẹn để đến gặp. Anh Thạch sắp xếp để tôi gặp cụ lúc 7 giờ tối, sau khi cụ dùng cơm, để tôi có thể hầu chuyện cụ lâu một chút.
Cụ tiếp tôi ngay tại bàn ăn ở tư dinh. Cụ ngồi đầu bàn, tôi ngồi ghế bên phải cụ, và được mời uống trà.
Khi tôi được anh Thạch giới thiệu, cụ đứng dậy bắt tay tôi rất niềm nở, và gọi tôi là ông đại tá. Tôi thưa với cụ là cụ Phó Tổng Thống. Nhưng sau ít phút, cụ thân mật gọi tôi là anh. Tôi thưa cụ và xưng cháu.
Mặc dầu thấy tôi mang cuốn sổ vàng, nhưng cụ chưa ghi vội. Cụ hỏi thăm tôi rất nhiều về quân đội – nhất là về trại gia binh, việc ăn uống của binh sĩ – có một câu hỏi làm tôi ngạc nhiên là cụ so sánh mức sống ăn uống của anh em ở 4 vùng chiến thuật. Cụ nói anh em ở Sàigòn và vùng 4 vùng 3 giá sinh hoạt rẻ nhưng ở vùng 1 và vùng 2 chắc khó khăn hơn. Ngoài ra, cụ cũng nói đến việc nên cho anh em ở các đồn bót được tăng gia sản xuất như nuôi gà, heo, đào ao thả cá để ăn uống tốt hơn.
Tôi chợt nhớ có lần Tổng Thống Diệm đã đề cập đến việc cho các đơn vị tăng gia sản xuất, nhưng chưa thấy thi hành.
Cụ Hương còn hỏi tôi về những vụ đấu thầu trong quân đội nữa. Tôi thưa là về vụ này, tôi không rõ lắm. Cụ cũng nhắc tôi là tiền quyên góp về cây mùa xuân, nên cho anh em ngoài tiền tuyến nhiều hơn v.v…
Sau cùng có một câu cụ hỏi làm tôi khó trả lời:
- Anh có bạn bè trong quân đội nhiều và cũng tiếp xúc với nhân dân nữa, anh thấy họ phàn nàn hay phê bình gì về tôi cứ cho tôi rõ.
Tôi dè dặt trả lời:
- Thưa cụ, cụ đã cho phép thì cháu xin được nói ý nghĩ của cháu và nhiều anh em bè bạn cũng bàn bạc như vậy
- Riêng về cụ, ai cũng trọng đức tính thanh liêm và lòng can đảm của cụ. Cháu cũng thấy anh em nói về việc cụ đã thẳng tay bài trừ tệ nạn tham nhũng mà không kể gì đến những người cao cấp, nên anh em quý mến cụ lắm.
Nghe vậy, tôi thấy cụ không vui lắm, và nói một cách hết sức chậm rãi, đượm buồn:
- Tôi chỉ mới bắt một vài vụ để dằn lại những sự vi phạm sau này, chứ kể ra còn nhiều lắm. Người cộng tác thì ít quá và muốn cho công bằng thì phải xét kỹ nên không thể nào làm cho nhanh được. Việc gì cũng do người làm với mình trình lên chứ tôi lo sao cho hết. Thật ra, số người lo việc này chả có là bao nên càng ngày càng khó.
Thấy cụ có vẻ cởi mở, tôi bạo dạn hỏi thêm:
- Thưa cụ, cháu có mấy điều thắc mắc, xin cụ cho phép cháu được hỏi thêm ít điều.
- Anh cứ hỏi.
- Thưa cụ, nghe anh em nói, cụ ghét Bắc kỳ nên ít dùng người Bắc.
- Làm gì có chuyện này. Tôi là người học thức và là thầy giáo nữa. Tôi phải làm gương cho học trò noi theo. Cái điều sơ đẳng ai cũng biết, là người Việt Nam mình từ Bắc đến Nam cũng là dòng người Việt cả. Nhiều người Nam này đều có ông cha xuất xứ từ miền Bắc, như vậy chúng ta như gà một mẹ. Sao lại nói là tôi ghét người Bắc được. Có một điều là tôi sinh trưởng trong Nam này nên ít có bạn người Bắc. Tôi tìm người cộng tác hay mời những người tôi biết để làm việc chung, nên người ta hiểu lầm tôi.
Thấy tôi dám hỏi, cụ khuyến khích thêm.
- Anh có gì cần hỏi cứ nói đi.
- Dạ thưa cụ, cháu xin phép được hỏi thêm: cụ nghĩ sao về Tổng Thống Diệm? Ông gật gù suy nghĩ và trả lời:
- Tôi lúc nào cũng trọng cụ Diệm và biết cụ là người yêu nước thương dân. Tôi cũng từng cộng tác với cụ, nhưng rất tiếc tôi có những điều không đồng ý với cụ, nhất là với ông cố vấn Ngô Đình Nhu. Sau này, khi đảo chánh xảy ra cho đến bây giờ, tôi vẫn tiếc thương về cái chết của cụ Diệm.
Rồi ông hỏi lại tôi:
- Nghe anh Thạch nói anh hết lòng trung thành với cụ Diệm trong lúc đảo chánh, như vậy là phải.
- Cháu xin phép được hỏi thêm cụ một điều nữa. Cháu nghe nói khi làm Thủ Tướng, cụ cũng gặp những điều khó khăn với phía Phật giáo tranh đấu, nên cụ giận phải tuyên bố với báo chí và truyền thanh, cháu nghĩ cụ cũng là Phật giáo, đúng ra họ phải ủng hộ cụ chứ.
- Người học thức và là kẻ sĩ thì thấy gì đúng là phải làm, họ lợi dụng quá và quên cả việc tu hành mà chỉ muốn xen vào việc cai trị. Tôi quen nhiều vị lãnh đạo Phật giáo và họ chỉ muốn tu hành trong phạm vi tôn giáo mà thôi, nhưng lại có nhiều người lợi dụng quá đáng. (Cụ nói dài về việc này, nhưng tôi không nhớ hết và tóm tắt điều tôi hiểu là như vậy).
Thấy cụ hắt hơi, lấy khăn ra lau mũi và tôi xem đồng hồ đã thấy cụ tiếp tôi gần 2 tiếng rồi, sợ cụ mệt nên tôi thưa:
- Cháu được hầu chuyện cụ lâu như thế này, thật là điều vinh hạnh nhất trong đời cháu, bây giờ cháu mới rõ những điều khó khăn của các vị lãnh đạo. Cháu xin cám ơn cụ và cháu xin phép để cụ nghỉ.
Sau đó, tôi trình cuốn sổ vàng, cụ hỏi:
- Tổng Thống Thiệu tặng bao nhiêu?
- Dạ, Tổng Thống tặng một triệu đồng.
- Tôi cũng tặng một triệu.
- Cháu xin cụ ghi cho mấy dòng để nói lên lòng thương mến của cụ với anh em chiến sĩ.
Cụ đã viết vào sổ những lời rất chân tình và cảm động. Tôi không còn nhớ rõ, nhưng đại ý cụ hiểu là đời sống anh em rất cực khổ và gian lao và cụ lúc nào cũng nhớ đến.
- Cháu xin phép cụ để được đọc những lời cụ viết trên đài phát thanh. Cháu sẽ nhớ mãi trong đời cháu là đã được cái vinh dự hầu chuyện cụ.
Cụ đứng dậy bắt tay tôi và chậm rãi đi vào. Anh Thạch nói với tôi:
- Thật là đặc biệt. Ít khi tôi thấy cụ tiếp ai lâu và vui vẻ như vậy.
Khi quân đội Việt Nam Cộng Hòa bắt đầu thành lập đến cấp sư đoàn, bộ tư lệnh sư đoàn 32 đóng ở Quảng Ngãi. Bộ tư lệnh này được di chuyển về Biên Hòa, đóng tại nhà Dù, để lấy  ba trung đoàn 10, ll, 12 lập ra sư đoàn (sau đó đổi tên là sư đoàn 7, xuống đóng ở vùng 4).
Trung đoàn 12 là tên của trung đoàn 54 cũ, do Thiếu Tá Đỗ Hữu Độ làm trung đoàn trưởng. Thiếu Tá Độ học khóa 5 Đà Lạt, tôi học khóa 6, nên ông là niên trưởng của tôi. Chúng tôi biết nhau từ khi ông coi tiểu đoàn 2 ở Quảng Ngãi. Ông giầu kinh nghiệm chiến trường vì hành quân nhiều ở ngoài Bắc, là một  trong những tiểu đoàn trưởng trẻ ở Bắc Việt. Tôi sau khi đi học ở FortBenning về, được làm trung đoàn phó cho ông.
Trong sư đoàn ngày ấy, người ta đồn ông rất giàu có, vì khi hành quân dẹp Bình Xuyên ở Rừng Sắt, ông đã bắt được Lê Paul là con của tướng Bảy Viễn, và đã thu được một trong những kho tàng của Bảy Viễn ở Rừng Sát. Ông cũng nổi tiếng là người dám tổ chức cướp kho súng của Pháp, kể cả xe tăng, khi quân Pháp tập trung ở căn cứ Bà Rịa để rút về Pháp qua ngả Vũng Tàu. Căn cứ này sau là nơi tạm trú của trung đoàn 12.  Khi trung đoàn 12 thuộc sư đoàn 7 chuyển về miền Tây, nơi này trở thành trung tâm Huấn luyện Chi Lăng sau này.
Khi quân Pháp đóng tại căn cứ này, trung đoàn 54 cũng đóng cùng trại. Một số quân nhân của trung đoàn được sự đồng ý của Thiếu Tá Độ, tổ chức lấy lại một số súng của Pháp trước khi họ về nước, và cũng định lấy lại một số xe tăng nữa cho quân ta xài sau này. Họ cho lính Pháp lái xe tăng và coi kho uống rượu pha thuốc ngủ, để dễ hành động. Rủi sự việc có người tiết lộ, hay không biết do đâu mà cấp chỉ huy Pháp biết được, nên báo động kịp thời. Quân ta chỉ mới lấy được một số súng cá nhân.
Đại sứ Pháp liền viết thư phản đối với Thủ Tướng Diệm. Thủ Tướng giao cho nha An ninh Quân đội điều tra. Ngày ấy nha An ninh do Thiếu Tướng Mai Hữu Xuân coi. Buổi sáng Chủ nhật hôm ấy tôi lên tư thất Đại Tá Tôn Thất Xứng, là tư lệnh sư đoàn 4 lúc bấy giờ để đi cùng ông xuống trại Tam Hiệp (thuộc Biên Hòa) để tìm nơi lập trung tâm huấn luyện sư đoàn. Tôi đến gặp lúc ông đang cắt tóc, nên ngồi đợi và nói chuyện cùng ông (ngày ấy tôi là chỉ huy trưởng tổng hành dinh sư đoàn). Chợt có tiếng điện thoại reo, tôi ra nghe, người đầu dây bên kia xưng là Thiếu Tướng Xuân của Nha An ninh. Tôi trình Đại Tá Xứng ra nghe. Không rõ bên kia nói gì, nhưng nét mặt đại tá có vẻ nghiêm trọng, và hỏi lại: “Thiếu tướng muốn Thiếu Tá Độ về ngay hôm nay?” rồi ông trả lời tiếp là vâng và cúp máy.
Ông quay nhìn tôi hỏi:
- Anh có biết việc Độ đầu độc quân Pháp để cướp súng và xe tăng không?
- Tôi có nghe đồn, nhưng sự việc xảy ra từ hồi mình còn ở Quảng Ngãi, và có thành công đâu.
- Sao moa không biết gì. Ông Xuân nói Thủ Tướng bắt điều tra gấp, và bắt Độ về trình diện An ninh quân đội. Anh gọi Độ ra gấp gặp tôi.
Tôi dùng ngay điện thoại gọi Thiếu Tá Độ. Ông hỏi lại tôi Anh biết đại tá gọi về có việc gì? Moa có phải mang thêm tài liệu gì không?
- Dạ chắc không cần mang tài liệu gì. Thiếu tá về gấp đi, tôi đang ở tư thất của đại tá tư lệnh, vậy thiếu tá về thẳng nhà đại tá. Tôi cũng đợi thiếu tá ở đây.
Vừa gác điện thoại thì Đại Tá Xứng nói với tôi, có vẻ băn khoăn lắm:
- Moa lo Độ sẽ gặp khó khăn về việc này. Ông Xuân nói với moa có vẻ quan trọng lắm, moa sợ Độ về gặp ổng dám giữ lại lắm.
- Thì đại tá phải lo cho ông ấy chứ. Ông làm vì quân đội, đâu phải cho cá nhân ông. Đại tá nghĩ lấy súng và xe tăng để giữ cho quân đội chứ ông bán được sao!
- Vẫn biết vậy, nhưng toa biết không, ông Xuân này là người của Pháp, và là một mật thám cũ, thế nào cũng bênh Pháp, làm lớn chuyện ra.
- Hay đại tá đừng cho ông Độ về trình diện vội. Đại tá gọi giây nói cho Thiếu Tướng Xuân trước, nói Thiếu Tá Độ đang bận hành quân, xin cho xong rồi về trình diện sau.
- Đâu có được, moa đã đồng ý rồi. Vả lại, hoãn ít hôm cũng phải về trình diện.
Đại Tá Xứng là người nóng tính, thanh liêm, nhất là quý mến anh em hết lòng. Bất cứ việc gì có hại đến người dưới quyền, ông bênh đến cùng. Điều cần là trình thẳng với ông và phải thành thực.
Lúc bấy giờ, tuy là thời bình nhưng ông gay gắt vấn đề huấn luyện lắm. Ông là người đầu tiên bắt binh sĩ tập di hành. Tuần nào binh sĩ cũng phải di hành, đeo ba lô nặng 20 kí, đi cả mấy chục cây số. Lính đứng gác cũng phải đeo ba lô. Có lần binh sĩ của tôi di hành qua Hố Nai, dân chúng hỏi các anh đi hành quân chiến dịch nào đây. Có anh trả lời – chúng tôi đi chiến dịch Tôn Thất Xứng đây, mọi người cười vang. Thế mà có người mách ông, ông chỉ cười và hỏi lại tôi có đúng không? Nhiều lần cần tiền, ông nhờ tôi cho vay lương trước, để chi tiêu trong gia đình. Tôi làm việc với ông rất thoải mái, tuy hơi vất vả nhưng yên tâm, vì biết tính ông rất tốt với anh em. Có lần tôi gặp khó khăn với nha Quân nhu về việc đổi quân trang cho anh em. Khi lên trình xin ông can thiệp, ông gọi ngay cho đại tá giám đốc Quân Nhu phàn nàn, và tôi được đổi ngay.
Về Thiếu Tướng Xuân, tôi cũng được biết ông khá nhiều sau này. Năm 1955, có hai chiến dịch là Trương Tấn Bửu ở miền Đông, và Thoại Ngọc Hầu ở miền Tây. Tướng Dương Văn Minh chỉ huy chiến dịch Thoại Ngọc Hầu, tướng Mai Hữu Xuân chỉ huy chiến dịch Trương Tấn Bửu.
Sư đoàn 4 hành quân ở miền Tây, tôi là chỉ huy trưởng hậu cứ Biên Hòa.
Đại Úy Trương Văn Minh là trưởng phòng 2 sư đoàn, kiêm nhiệm trưởng phòng 2 chiến dịch Trương Tấn Bửu. Tham mưu trưởng là Đại Tá Trần Thiện Khiêm.
Một lần Đại Úy Minh gặp tôi, nói Thiếu Tướng Xuân nhờ anh về sư đoàn mượn từ 20 đến 80 chiếc GMC để có thêm phương tiện di chuyển quân, và chở vũ khí tịch thu được của binh sĩ Cao Đài về hàng, cùng các vũ khí thặng dư của các tỉnh.
Tôi trình cho đại tá tư lệnh, ông đồng ý cho mượn theo tôi thu xếp. Thiếu Tướng Xuân bằng lòng lắm. Ngay gần bộ tư lệnh chiến dịch có một trại giáo huấn khá lớn, giam giữ khá đông tù chính trị, hầu hết là Cộng Sản (tôi không biết chắc là bao nhiêu, nhưng ước lượng từ 6 đến 7 trăm người). Trại này đóng ngay trước dưỡng trí viện (nhà thương điên) Biên Hòa. Một sáng Chủ nhật, tù nhân lợi dụng canh gác lỏng lẻo vào cuối tuần, bắt giam giám thị, phá cổng chạy trốn vào rừng cao su quanh đó. Trại giam báo động, gọi về bộ tư lệnh chiến dịch xin tiếp ứng, gọi cả về sư đoàn cầu cứu nữa. Rất may hôm ấy tôi có mặt, vội điều động lính gác sư đoàn, và cho xe đi trại gia binh điều động các quân nhân đi tiếp cứu. Cả một vùng rộng lớn bị bao vây, bắt lại được gần 40 tên trốn trại (tính ra chỉ mất có 12 người).
Anh Minh kể với tôi là thiếu tướng tư lệnh mừng lắm, tặng tôi cùng một số anh em Huy chương của chiến dịch. Ông Xuân cũng nói may mà bắt lại được đám này, nếu không, Tổng Thống biết được thì khó mà trả lời, vì trại giam nằm gần ngay bộ tư lệnh chiến dịch. Anh Minh cũng đưa tôi lên trình diện theo lời yêu cầu của ông, để ông có dịp khen ngợi và cám ơn. Khi chào ra về, ông bảo anh Minh ở lại gặp riêng ông. Tôi ra đợi anh Minh ở phòng làm việc của anh. Sau đó, anh Minh về phòng gặp tôi, có vẻ đăm chiêu lắm anh và tôi rất thân nhau, vì cùng làm việc với nhau từ hồi mới thành lập sư đoàn, việc gì anh em cũng tâm sự cùng nhau.
Anh than với tôi: chết thật rồi, ông giao cho tôi một nhiệm vụ mà tôi nghĩ khó thi hành quá anh Duệ ơi. Ông ra lệnh cho tôi phải đem đám tù trốn trại bắt lại được vào rừng thủ tiêu hết. Ông bảo nuôi tụi này làm gì cho tốn cơm. Anh nghĩ tôi phải làm sao bây giờ (Anh Minh hiện ở WashingtonD.C.).
Tôi trả lời ngay:
- Sao anh phải thi hành lệnh nầy, và anh làm gì có người? Anh nên trình lại và xin ông ra lệnh cho trại cải huấn, hay nhân viên của ông ở An ninh quân đội. Chả nhẽ anh và anh em ở phòng 2 này đi thủ tiêu người sao? Anh nhớ đừng chuyển lệnh của ông cho ai, đâu phải việc của anh.
- Thì tôi cũng nghĩ như anh vậy, anh Minh trả lời. Và chợt reo lên:
- Mình chỉ là một trưởng phòng trong bộ tham mưu. Đâu dám làm việc gì không trình ông tham mưu trưởng được. Tôi phải đem trình Đại Tá Khiêm để đại tá giải quyết. Anh đi với tôi sang Đại Tá Khiêm, tiện thể tôi giới thiệu anh với đại tá luôn.
Tôi từ chối, vì không muốn để anh Minh khó xử trong việc bí mật này trước mặt tôi Anh nói: – Vậy anh đợi tôi sang đại tá, rồi tụi mình về nhà tôi ăn cơm chiều (nhà anh Minh ở trong cư xá sĩ quan Biên Hòa). Tôi đợi anh Minh về, mặt mày tươi rói, anh kể với tôi: Anh biết không, tôi trình Đại Tá Khiêm và nói vì không biết thi hành lệnh của Thiếu Tướng Xuân ra sao, nên phải trình để đại tá quyết định.
Đại Tá Khiêm trả lời ngay: Thiếu Tướng Xuân là sĩ quan đồng hóa từ công an Pháp sang, còn mình là quân đội chính qui, làm việc gì cũng phải theo đúng nguyên tắc tham mưu. Phải coi chừng, thi hành ẩu là anh ra tòa án lúc nào không hay. Nếu ông Xuân hỏi, anh cứ thưa là đã trình tôi rồi, và tôi ra lệnh không thi hành, mình chỉ làm công việc tham mưu mà thôi. Ông muốn thì để tay chân ông làm; mình không làm theo kiểu mật thám được.
- Đúng, thế là xong! Nên nhớ anh là trưởng phòng 2 sư đoàn, chỉ kiêm nhiệm phòng 2 chiến dịch mà thôi. Ít lâu nữa chiến dịch chấm dứt, anh lại về sư đoàn, tôi trả lời.
Sau này, anh Minh và tôi xuống bộ tư lệnh tiền phương, gặp Đại Tá Xứng trình lại ông sự việc, ông nói làm theo lệnh Đại Tá Khiêm là đúng và ông bảo anh Minh ở lại làm việc theo sư đoàn. Cử trung úy phó trưởng phòng làm việc ở bộ tư lệnh chiến dịch, anh Minh chỉ về ít ngày một tuần, hoặc khi có hành quân mà thôi.
Sau sư đoàn 4 đổi thành sư đoàn 7, tôi có một tiểu đoàn đặt dưới quyền của trung tâm huấn luyện Quang Trung, do Trung Tướng Xuân coi. Theo lệnh tổng tham mưu, tiểu đoàn biệt phái này để lo giữ an ninh cho trung tâm, nhưng trung tâm đã sử dụng tiểu đoàn này như tiểu đoàn công vụ, bị chia cắt biệt phái đủ mọi nơi, khiến việc huấn luyện không theo kịp các đơn vị khác. Tôi lại phải đến trình diện Trung Tướng Xuân, xin ông xem lại. Gặp tôi ông vui lắm, nhắc tới việc tôi giúp bắt lại đám tù ở trung tâm cải huấn. Nghe tôi trình vấn đề, ông bảo để xem lại, nhưng mọi việc vẫn như cũ, chẳng có gì thay đổi.
Tôi còn nhớ lúc ngồi nói chuyện với ông, có một sĩ quan đem vào đặt trên bàn làm việc một cái giá để gần chục cái tẩu hút thuốc (pipe) đã nhồi sẵn, cái nào cũng đẹp. Ngày tôi làm ở tổng cục Chiến tranh chính trị, được đọc một báo cáo của cục An ninh, trình về việc một thượng sĩ biệt phái làm việc cho ông, đã dám chống cự ông và xô ông té nặng, bị ông trả đương sự về lại Cục An ninh và xin trừng phạt nặng. Tôi không rõ sự việc đã giải quyết ra sao, vì không phải phần việc của tôi. Ngày ấy ông đã giải ngũ khỏi quân đội. Theo lệnh của tổng tham mưu, các vị tướng hồi hưu có quyền giữ một sĩ quan chánh văn phòng, tài xế và một cận vệ, nhưng ông giữ với ông quá số ấy nhiều.
Trở lại vụ Thiếu Tá Độ bị gọi về trình diện. Đại Tá Xứng bảo tôi gọi giây nói cho trung đoàn 10 ở trại Tam Hiệp rõ, là ông bận việc, không xuống tìm dịa điểm để lập trung tâm huấn luyện sư đoàn được. Khi Thiếu Tá Độ về trình diện, lúc ấy khoảng 10 giờ. Ông cau mặt hỏi sự việc và trách Thiếu Tá Độ sao không cho ông rõ. Thiếu Tá Độ có vẻ lo, thưa lại là việc ấy đã xẩy ra lâu rồi, khi trung đoàn 12 còn là trung đoàn 54, và lúc đó đại tá còn ở ngoài trung. Thiếu Tá Độ nói tiếp:
- Trình đại tá, thấy tụi Tây chuyển về toàn súng tốt của Mỹ viện trợ, hầu hết là súng máy và carbine, chúng chất đầy kho, súng garant chúng xếp như đống củi, mà quân đội mình có toàn là mas 36 của Tây. Tụi sĩ quan tiếp liệu kể là số vú khí này sẽ chuyển sang Algérie, và nhiều quá, chúng không kiểm kê hết được. Vả lại, đóng tại trại này là để đợi triệt thoái về Algérie hay Pháp, chúng chỉ lo nhậu nhẹt ăn chơi. Vì vậy, các sĩ quan trung đoàn và binh sĩ cho chúng boire un coup là xin gì chúng cũng cho. Thấy vậy, anh em bàn nhau cho chúng uống say, rồi lấy lại một số súng, để quân đội mình dùng sau này. Việc này tôi không nhúng tay vào, để cho một số anh em lo, coi như tôi không biết.
- Thế còn việc lấy thiết giáp thì sao?
- Dạ, thấy chúng đậu ngổn ngang, các anh em định lấy độ 5, 7 chiếc đem vào rừng giấu, cũng là để cho quân đội thôi. Anh em cũng đã rủ được mấy thằng Tây lái xe tăng đào ngũ ở lại với mình rồi!
- Thật rủi là có thằng Tây báo cho tụi an ninh Pháp biết, nên chúng báo động, và chuyển cấp tốc các xe tăng ra Vũng Tàu, cả kho súng nữa. Mình chỉ mới lấy được ít khẩu súng lục và carbine, hiện các tiểu đoàn vẫn xài riêng, coi như đồ thặng dư.
(Sau này, khi tôi thay Thiếu Tá Độ làm trung đoàn trưởng trung đoàn 12, trong kho của trung đoàn vẫn còn một số mấy khẩu Garant và 2 máy truyền tin, tôi tặng cho cha Dụ là chánh xứ Cao Xá, để trang bị cho tự vệ của xứ đạo di cư tại Tâm Long (tôi không nhớ rõ) ở Tây Ninh, giáp biên giới Cam Bốt.)
Thiếu Tá Độ có vẻ lo lắng, xin Đại Tá Xứng giúp đỡ cách nào để ông khỏi về trình diện Thiếu Tướng Xuân. Sau một hồi suy nghĩ, Đại Tá Xứng nói: Như vậy moa phải xin yết kiến Thủ Tướng để trình bày rõ sự việc. Rồi đại tá đi ngay Saigon. Chiều hôm ấy trở về, ông rất vui vẻ, vì vào ngày Chủ nhật, Thủ Tướng không bận gì nên được tiếp ngay. Thủ Tướng đồng ý bỏ qua, và tỏ vẻ bằng lòng về lòng yêu nước của Thiếu Tá Độ. Từ đó, Thiếu Tá Độ và tôi trở thành thân thiết.
Sau đó, tôi được đi học lớp bộ binh cao cấp ở Fort Bennimg Hoa Kỳ (lớp advance đầu tiên sĩ quan Việt Nam học với sĩ quan Hoa Kỳ). Khi tốt nghiệp, về lại sư đoàn 4, lúc đó do Đại Tá Trần Thiên Khiêm là tư lệnh. Tôi được bổ nhậm làm trung đoàn phó cho Thiếu Tá Độ. Vì không có gia đình, Thiếu Tá Độ hay rủ tôi về nhà ông ăn cơm.
Một buổi tối sau khi ăn cơm xong, tôi hỏi về tin đồn ông tìm được kho tàng của Bảy Viễn ở Rừng Sát. Ông kể cho tôi nghe rất rành mạch:
- Ngày ấy, tôi cũng ở căn nhà này (là kho bạc cũ của Bà Rịa, được cấp cho trung đoàn làm tư thất của trung đoàn trưởng). Lớ ngớ làm sao mà tiểu đoàn 3 của mình bắt được một toán quân của Bình Xuyên, trong đó có Lê Paul, là con của Bảy Viễn, tại Hắc Dịch. Lúc đó chỉ biết là quân Bình Xuyên có võ khí, và không ai biết con của Bảy Viễn ở trong đó. Toán này được tiểu đoàn giải về phòng 2 trung tâm để khai thác. Anh còn lạ gì thằng trung úy Lưu đen là trưởng phòng nữa, ai gặp hắn mà không sợ (Thật vậy, trung úy Lưu người đen đủi, mắt lác nhiều, môi dày và thâm, trông dữ dằn lắm). Vì vậy Lê Paul và đồng bọn gặp hắn là hết hồn. Lưu đen hô lớn dọa: Các anh mang mấy tên giặc này đến đây làm gì, mắc công anh em phải tra khảo, sao không thủ tiêu tụi nó đi? (anh Lưu dọa vậy chứ đâu có ngờ trong đám này có một tù binh quan trọng vậy).
Thế là Paul sợ quá, vội xin gặp riêng trung úy Lưu, nhận y là con của Bảy Viễn, để xin giữ mạng sống. Chưa tra khảo, nó đã khai ngay là biết chỗ chôn tiền, để lập công. Tôi (Thiếu Tá Độ) vội dẫn hắn đến chỗ giấu tiền, đựng trong những sac marin (sắc này hình tròn to và cao dùng đủ để đựng toàn bộ quân trang cho một quân nhân) và trong các thùng gỗ. Tôi cũng giấu được vài sắc trong đựng toàn giấy $500, rồi báo về bộ tư lệnh hành quân của Đại Tá Dương Văn Minh, lúc đó đóng tại Thủ Đức. Kho tàng này đâu có chôn giấu gì, chỉ gác lên các nhành cây rậm rạp, vì ở Rừng Sát lúc đó đang ngập nước. Vì Lê Paul là một tù binh quan trọng, nên bộ tư lệnh hành quân đích thân đến khai thác. Tôi nghĩ hắn còn chỉ nhiều chỗ dấu tiền khác nữa.
Tôi hỏi lại:
- Thiếu tá nói dấu được mấy sac marin thì độ bao nhiêu tiền?
- Thì đếm làm sao cho xuể, tôi nghĩ cả mấy mươi triệu chứ đâu có ít. Ngay đêm đó, tôi mang số tiền giấu được, xuống xuồng máy cùng ông bác sĩ Huấn, là bác sĩ của trung đoàn (bác sĩ Huấn sau là đại tá trưởng khối của cục Quân y, tôi không rõ ông có sang được Mỹ hay không), và thằng trung sĩ Dương Tác Nam, là cận vệ của tôi (trung sĩ Nam là người Nùng, anh này nhanh nhẹn, cao lớn và giỏi võ, sau này anh cũng là cận vệ của tôi, nhưng vì hay say sưa nên tôi không dùng) đi xuồng máy về ngay Bà Rịa. Sáng sớm hôm sau, tôi khởi hành thật sớm về Saigon định giao cho gia đình giấu đi. Mới về qua khỏi Biên Hòa, đến cầu Hang thì bị hai xe quân cảnh đón sẵn ở đó giữ lại. Gần đó có Đại Tá Dương Văn Minh, tư lệnh hành quân, đang đi đi lại lại với mấy cận vệ và sĩ quan tùy viên. Có xe traction của ông đậu gần đó (tướng Minh chỉ đi xe traction, kể cả khi ông làm Quốc Trưởng). Tụi quân cảnh đối xử với tôi rất lễ phép, mời tôi đến trình diện Đại Tá Minh. Gặp tôi, ông bắt tay và nói: Thôi về bộ tư lệnh ở Thủ Đức nói chuyện. Ông bắt tôi lên xe với ông, và bảo sĩ quan tùy viên của ông đi xe Jeep của tôi để gác tiền.
Trên xe, tôi phân trần cùng ông, nhưng ông gạt đi và nói chuyện khác vui vẻ lắm. Đến bộ tư lệnh, thấy nhiều anh em sĩ quan chạy ra cửa nhìn, tôi biết là tin tôi lấy được tiền, nhiều người đã biết rồi. Vừa ngồi xuống ghế ở văn phòng ông, tôi vội trình ngay: Thưa đại tá, xin đại tá xét cho, bắt được Lê Paul là tôi báo cáo ngay về cho bộ tư lệnh, chứ tôi đâu có dấu diếm gì đầu. Tuy nhiên, xin đại tá xét cho, ai cũng có lòng tham, tôi chỉ xin dấu lại chút ít, định đem về Saigon cho gia đình. Ông cười: Thì moa có trách gì toa đâu, ai ở địa vị toa cũng làm như vây, nhưng toa biết là không ai qua mặt moa được. Thôi, để lại cho toa ít nhiều, vì số còn lại moa phải trình thượng cấp. Thế là ông cho lại tôi ba trăm ngàn, tôi xin thêm ông cho hơn trăm ngàn nữa, rồi cho tôi về.
Ngày ấy, lương của tôi độ trên dưới hai ngàn gì đó, cũng là hơn một lạng vàng, mà có đến gần nửa triệu như ông Độ, là điều tụi tôi không bao giờ dám mơ tới. Tôi hỏi tiếp:
- Thế tại sao thiếu tá không giấu cất lại ít nhiều ở hậu cứ trung đoàn?
- Thật là dại, vì lúc đó mình có nhiều tiền quá nên bối rối, có nghĩ gì đâu. Nếu giấu được ít nhiều thì tôi sống cả đời không hết.
- Thế thiếu tá ước lượng số tiền ông thu được của thiếu tá và tại chỗ giấu là bao nhiêu tất cả.
- Nhiều lắm, làm sao tính cho xuể. Chỉ mấy cái xác marin của moa, ông lấy ra cho lại 400.000 mà chỉ vơi chút đỉnh. Còn cả một kho tiền và nhiều chỗ cất dấu khác do Le Paul chỉ, thì biết bao nhiêu mà kể. Số tiền ông cho lại moa mua được một căn nhà ở đường Đồn Đất, và một xe Peugeot 203, còn cất làm vốn gửi nhà bank. Lạ một điều là mãi khuya mình mới về tới Bà Rịa, và sáng đã đi sớm mà bị lộ, nên moa chắc ở trung đoàn có thằng báo với ông Minh. Anh nghĩ, tôi chỉ được một số tiền nhỏ mà đồn ầm ĩ cả quân đội. Còn ông Minh giầu đến mức nào…
Tôi bàn thêm:
- Bảy Viễn còn giàu gấp mấy nữa, dù hắn có lưu vong sang Pháp thì bao giờ mới tiêu hết tiền.
Buồn cười nhất là, tối đó về tôi bị mất ngủ, vì cứ lẩn thẩn miên man nghĩ ngợi, là nếu vào địa vị mình, thì phải sắp xếp làm sao, chia cho anh em bằng cách nào, và làm sao giữ được số tiền này. Nghĩ thật vô duyên, tự dưng bị mất ngủ một cách lãng xẹt.


Ghi chú thêm:
- Thiếu Tá Độ đã tử nạn khi làm tham Mưu trưởng sư đoàn l, do Đại Tá Nguyễn Đức Thắng làm tư lệnh, trong khi đi máy bay vào tiền đồn A Sao, A Lưới ủy lạo binh sĩ trong dịp Tết.
- Thiếu Tướng Tôn Thất Xứng định cư ở Montreal Canada.
- Trung Tướng Mai Hữu Xuân đã qua đời tại vùng Washington D.C.
- Đại tướng Trần Thiện Khiêm cư ngụ ở vùng Washington D.C.
- Tướng Dương Văn Minh đã qua đời tại Pomona, Califomia.
- Cha Dụ, chánh xứ Cao Xá, khi di cư vào Nam được định cư ở Tây Ninh với các con chiên Cao Xá đi theo lập thành một xứ đạo di cư chống Cộng triệt để. Người hiện ở Houston, Texas.
- Tôi cũng nghe nói là Lê Paul đã tiết lộ thêm nhiều chỗ chôn tiền và quí kim nữa. Sau đương sự bị bắn chết với lý do chạy trốn, nhưng dư luận lúc bấy giờ nói đương sự phải chết để bịt miệng. Tôi không dám chắc tin đồn này có đúng hay không, vì không biết rõ sự việc.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét