LM Lê Quang Oánh cùng Thích Tâm Châu mừng vui khi nghe tin TT Ngô Đình Diệm đã bị ám sát |
Sau khi
ăn sáng, Trung Tá Nguyễn Ngọc Khôi, tư lệnh Lữ Đoàn Phòng Vệ rủ tôi lên lầu nói
chuyện. Hôm đó, ông ăn sáng ở Câu lạc bộ với tôi, vì tối hôm trước ông ngủ lại
trong trại. Phòng ngủ của ông ngay trên lầu Câu lạc bộ.
Tôi dùng
điện thoại ở phòng ông để kiểm soát lại việc chào kính đô đốc Harry Felt, tư lệnh
hạm đội Thái Bình Dương sáng hôm đó đến thăm Tổng Thống. Vừa gác ống nghe
thì chuông điện thoại kêu. Tôi nhấc máy, nghe tiếng Đại Úy Hoa, chánh văn phòng
của Trung Tướng Đôn, quyền tổng tham mưu trưởng, cho biết trung tướng muốn nói
chuyện với Trung Tá Khôi. Tôi đưa ống nghe cho Trung Tá Khôi. Sau khi nói
chuyện, ông cho biết:
- Trung
Tướng Đôn bảo tôi sáng nay phải đích thân đi họp ở tổng tham mưu, để nhận những
lệnh hết sức quan trọng, và ăn cơm trưa luôn ở đó.
Thật là
ít có, vì xưa nay bộ tổng tham mưu triệu tập họp thì chỉ dùng công điện. Nếu gấp,
chỉ chánh văn phòng hay một sĩ quan nào đó gọi, đâu cần đến vị tổng tham mưu
trưởng gọi. Trường hợp này tôi chưa thấy bao giờ. Sau này tôi được biết, cũng
chính Trung Tướng Đôn gọi dây nói cho Đại Tá Lê Quang Tung, tư lệnh Lực Lượng Đặc
Biệt, mời đi họp.
Trung Tá
Khôi bảo tôi:
- Chiều
nay lúc 3 giờ có buổi học tập, tôi cố về sớm, nhưng nếu không kịp thì anh cứ
cho bắt đầu đúng giờ, khỏi đợi tôi.
Trước
ngày đảo chính, tuy không có gì lộn xộn, nhưng tình hình có vẻ căng thẳng, khiến
tôi linh cảm như có chuyện nghiêm trọng sắp xảy ra, vì vậy, tôi hết sức chú ý đến
việc canh gác, và vẫn duy trì lệnh cấm trại. Khoảng 1 giờ chiều ngày 1-11,
tôi đang nằm đọc sách, bỗng nghe có tiếng báo động ở vọng gác ngay cạnh phòng
ngủ của tôi. Lính gác báo cáo có một số binh sĩ lạ, đang tiến về phía thành Cộng
Hòa.
Đứng trên
lầu cao, tôi thấy độ 2 hay 3 đại đội Thủy quân lục chiến đang núp sau mấy gốc
cây to, trong tư thế tác chiến, sau thành Cộng Hòa, phía đường Hồng Thập Tự.
Trong khi đó, phía Lữ Đoàn Phòng Vệ đã báo động sẵn sàng.
Sau khi
ra lệnh cho các đơn vị ở dinh Gia Long báo động, và gọi cho sĩ quan tùy viên rõ
tình hình để trình Tổng Thống, tôi gọi dây nói cho Thiếu Tá Dụng, tham mưu trưởng
Biệt khu thủ đô, để hỏi cho biết đơn vị nào đã xâm nhập vào Đặc khu 1 (quanh
dinh Gia Long và thành Cộng Hòa là Đặc khu 1, nơi không đơn vị nào có võ khí được
xâm nhập nếu không báo trước cho Lữ Đoàn Phòng Vệ). Thiếu Tá Dụng trả lời là
không rõ. Tôi cũng gọi dây nói hỏi Thủy quân lục chiến. Sĩ quan trực cũng trả lời
là không rõ.
Thật khó
xử, nếu là địch thì dễ cho tôi vô cùng. Chỉ với những súng máy và súng phòng
không trong thành, có thể tiêu diệt gần hết các đơn vị này. Nhưng lại là đơn vị
bạn cùng trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, nên tôi do dự, chỉ ra lệnh cho bắn một
tràng súng máy trên đầu các đơn vị này để cảnh cáo, cho họ ngừng lại. Quả nhiên
họ ngừng lại, và núp sát vào các gốc cây, hay chân tường ở các nhà hai bên đường.
Sau khi
quan sát kỹ, tôi nhận đúng là Thủy quân lục chiến, và ước lượng độ 2 đại đội.
Trung Úy Bảo, trưởng phòng 5 lữ đoàn, báo cáo với tôi rằng ông cũng quan sát thấy
đúng là quân của Thủy quân lục chiến. Ông còn nhận ra hai sĩ quan chỉ huy là
hai người đã tốt nghiệp ở trường Võ bị Đà Lạt, là nơi Trung Úy Bảo phục vụ trước
đây. Tôi bèn cho 1 đại đội của lữ Đoàn có thiết giáp tăng cường, cùng Trung Úy
Bảo ra vây bọc đơn vị này lại, hỏi lý do tại sao họ xâm nhập khu gần bộ tư lệnh
Lữ Đoàn Phòng Vệ, là nơi đơn vị nào vào gần cũng phải thông báo trước. Tôi cũng
dặn kỷ phải cố tránh giao tranh, vì là bạn cả.
Sau đó
Trung Úy Bảo đưa hai sĩ quan, trong đó có một đại đội trưởng của Thủy quân lục
chiến, vào trình diện tôi.
Tôi hỏi
do lệnh của ai mà các anh xâm nhập Đặc Khu 1, với mục đích gì. Vị đại đội trưởng
cấp bậc trung úy, trả lời rất lễ phép.
- Thưa
thiếu tá, chúng tôi đang hành quân ở Tây Ninh thì được lệnh về đây để bảo vệ Tổng
Thống, vì lính Lữ Đoàn Phòng Vệ làm phản.
Tôi nghĩ
trong đầu là sao giống hệt ngày 11/11/1960, họ cũng nói với anh em Dù như vậy để
tạo ra cớ gây binh biến.
Tôi trả lời:
- Các anh
bị lừa rồi, làm gì có chuyện này. Các anh là sĩ quan và cũng rõ là nếu với số
thiết giáp, súng phòng không và súng máy trong thành thì liệu các anh có chống
đỡ nổi không?
- Thưa
thiếu tá, chúng tôi chỉ thi hành lệnh trên thôi.
- Đúng,
tôi không trách các anh, nhưng nay các anh đã rõ sự việc thì phải theo lệnh
tôi, rút anh em ra xa, tập trung lại tại sân vận động Hoa Lư, và không được động
súng, để tôi trình Tổng Thống rõ.
Họ chào
tôi, và ra thi hành như lệnh của tôi.
Tôi trình
Tổng Thống qua sĩ quan tùy viên, được chỉ thị cố tránh đổ máu, và đợi lệnh.
Quá sốt
ruột, tôi gọi dây nói lên văn phòng Thiếu Tướng Khiêm, nhờ tìm cách cho tôi
liên lạc được với Trung Tá Khôi, là tư lệnh Lữ Đoàn Phòng Vệ. Tôi được gặp ông
chánh văn phòng, kể ông nghe sự việc, ông trả lời là không biết gì, và nói để
ông vào hỏi Thiếu Tướng Khiêm, vì cuộc họp chưa bắt đầu. Sau đó, tôi không còn
liên lạc gì với Trung Tá Khôi nữa. Tôi gọi điện thoại cho bộ tư lệnh Lực Lượng
Đặc Biệt, mới biết Đại Tá Tung, tư lệnh, cũng đi họp. Xin gặp tham mưu trưởng,
thì không có mặt.
Sau đó, một
loạt đạn pháo binh phóng vào thành Cộng Hòa, lạc cả sang phía sau thành, gần
sân vận động Hoa Lư mà tôi bắt đơn vị Thủy quân lục chiến tập trung ở đó. Tôi
báo cáo cho Tổng Thống rõ chắc chắn là có đảo chính, xin Tổng Thống xuống hầm để
tránh pháo kích. Đồng thời, tôi cũng nghe đài phát thanh lên tiếng, kể tên những
người tham dự đảo chính, gồm hầu hết các tướng lãnh và Đại Tá Đỗ Mậu. Ngoài Thiếu
Tướng Đính là tư lệnh Quân đoàn III, còn các vị tư lệnh Quân đoàn II, Quân đoàn
I và Quân đoàn IV chưa có tên qua đài phát thanh.
Tôi gọi dây
nói kiếm Trung Tá Hùng, là tham mưu trưởng Biệt bộ Phủ Tổng Thống, cũng không
có mặt. Kiểm điểm lại những sĩ quan có trọng trách ở cạnh Tổng Thống lúc này,
ngoài tôi, chỉ có Thiếu Tá Nguyễn Văn Hưởng là Tham Mưu phó của tôi, và Thiếu
Tá Huỳnh Văn Lạc, là đại đội trưởng cận vệ mà thôi.
Tôi gọi
dây nói sang dinh Gia Long, hỏi sĩ quan tùy viên của Tổng Thống, xem Tổng Thống
đã xuống hầm tránh pháo kích chưa. Được trả lời là Tổng Thống chưa xuống hầm,
và còn bận liên lạc bằng điện thoại. Sợ bị pháo kích, tôi cho các đơn vị của lữ
đoàn phân tán lên tăng cường tối đa cho dinh Gia Long, nơi Tổng Thống đang ở,
và một đại đội sang đóng ở sở thú. Trong thành Cộng Hòa chỉ để có đại đội chỉ
huy và đại đội quân nhạc.
Sợ đơn vị
bạn Thủy quân lục chiến đóng rải rác quanh sân vận động Hoa Lư bị pháo kích,
tôi cho họ rút về căn cứ của họ. Một trung đội Thủy quân lục chiến, do một chuẩn
úy là con của một vị ở quân nhạc chỉ huy, xin ở lại, trở vào thành Cộng Hòa để
bảo vệ Tổng Thống, nhưng tôi không đồng ý.
Tôi liên
lạc lên tổng tham mưu, gặp trung úy Bùi Xuân Đáng ở Quân cảnh, là anh em con cô
cậu với tôi để hỏi tình hình. Được biết ở trên đó vẫn như thường, chỉ có một số
tân binh quân dịch ở Quang Trung lên tăng cường mà thôi. Tôi cũng gọi cho Đại
Úy Đoàn Bá Trí là anh rể của tôi ở phòng 4 bộ tổng tham mưu. Anh tôi cũng cho
biết là lực lượng phòng thủ rất sơ sài, với một số tân binh ở Quang Trung lên,
trông ngơ ngác lắm.
Tôi gọi một
lần nữa cho bộ tư lệnh lực lượngđặc biệt, với hy vọng biết được thêm tin tức,
nhưng không được (sau này tôi mới biết là bộ tư lệnh Lực Lượng Đặc Biệt vào lúc
đó đã bị tiểu đoàn Truyền tin chiếm rồi).
Tôi lại
trình tin tức mới thu thập được ở tổng tham mưu lên Tổng Thống, và nêu ý kiến nếu
Lữ Đoàn Phòng Vệ chỉ giữ dinh Gia Long và thành Cộng Hòa, thì chắc chắn sẽ bị tấn
công bởi nhiều đơn vị. Do đó, xin Tổng Thống cho bỏ thành Cộng Hòa, dồn lực lượng
chính là thiết giáp và 3 đại đội của lữ đoàn, kéo lên tấn công thẳng vào tổng
tham mưu.
Tổng Thống
không đồng ý, và ra lệnh rõ ràng như sau qua sĩ quan tùy viên:
- Bảo Duệ
đừng nóng nảy, Tổng Thống đang liên lạc với các tướng lãnh để cố tránh đổ máu.
Nghe lệnh
như vậy, tôi hy vọng là Tổng Thống đã có kế hoạch chống đảo chánh rồi. Cùng lúc
đó, do khẩu lệnh của Tổng Thống, tôi là tư lệnh Lữ Đoàn Phòng Vệ, thay Trung Tá
Khôi. Tôi lại trình Tổng Thống xin cho Lữ đoàn cử một đại đội có thiết giáp yểm
trợ, để tái chiếm đài phát thanh, sợ dân chúng và quân đội hoang mang khi nghe
đài này. Mãi 15 phút sau mới được Tổng Thống đồng ý.
Tôi cử đại
đội 2 do Đại Úy Xuân chỉ huy, được tăng cường một chi đội thiết giáp để làm nhiệm
vụ này. Đại đội này đã thành công trong đợt đầu, và đã có một số anh em vào được
tầng dưới của đài. Tôi mừng vô cùng, cử Trung Úy Bảo là trưởng phòng 5 lên dinh
Gia Long lấy cuốn băng kêu gọi của Tổng Thống đem ra đài phát thanh để phát.
Nhưng rồi đơn vị này không chiếm được đài, báo cáo là gặp Trung Tá Thiện, chỉ
huy trưởng Thiết giáp ở đó, ông ngăn không cho đơn vị tấn công tiếp. Vì vậy,
chi đội thiết giáp của lữ đoàn bị Trung Tá Thiện cầm chân tại đó.
Tôi hết sức
sửng sốt, vì Trung Tá Thiện, một người được Tổng Thống tin cậy mà theo đảo
chính thì nguy quá rồi. Đánh nhau trong thành phố thì thiết giáp là chủ lực.
Trung Tá Thiện học khóa 3 Đà Lạt, cùng khóa với Trung Tá Khôi, tư lệnh Lữ đoàn,
sau ông lên đại tá và làm thị trưởng Đà Nẵng. Khi được vinh thăng chuẩn tướng,
trên đường từ Đà Nẵng về dinh Độc Lập để được gắn lon, ông bị thiệt mạng vì tai
nạn máy bay. Cuốn băng với lời kêu gọi của Tổng Thống, Trung Úy Bảo còn cất giữ.
Ngoài ra, sau đảo chính, Trung Úy Bảo lại vào được dinh Gia Long, lấy được một
số hình ảnh về gia đình Tổng Thống, sau đem in thành sách, tựa là Đời Một Tổng
Thống.
Cho đến
khoảng gần 4 giờ chiều, tôi mới được điện thoại của Trung Tá Lê Như Hùng, tham
mưu trưởng Biệt bộ phủ Tổng Thống.
- Duệ,
Trung Tá Hùng đây. Tình hình thế nào?
- Trung
tá ở đâu đấy, sao không vào đây để chỉ huy anh em? Tôi chả biết nghe lệnh ai! Về
tình hình, ngoài pháo kích thì chưa thấy có gì nguy hiểm, tôi đã bắt gọn mấy đại
đội Thủy quân lục chiến ngay từ đầu, và bắt họ về lại trại của họ rồi. Việc bảo
vệ dinh Gia Long và thành Cộng Hòa, tôi tin là nếu bị tấn công thì mình thừa sức
chống trả. Trung tá có ý kiến gì không?
- Ờ, ờ !
moa sẽ vào và sẽ gọi lại cho Duệ.
Nói rồi
ông cúp máy. Cũng không cho biết ông đang ở đâu. Từ đó trở đi, tôi không nghe
tin gì của ông nữa. Tôi thẫn thờ gác máy, quay sang nói với Đại Úy Đỗ Trọng
Khôi là trưởng phòng 3:
- Thật hết
nói! Ngày thường ở cạnh cụ bao nhiêu quan to, nay sự việc xảy ra thế này, tôi lại
là người cao cấp nhất ở đây.
Trung Tá
Hùng là tham mưu trưởng biệt bộ, người luôn ở cạnh Tổng Thống và ban hành lệnh
của Tổng Thống cho các nơi. Ngày thường, tôi vẫn theo lệnh chỉ huy của ông. Mỗi
khi Tổng Thống đi đâu, ông đều đi sát bên cạnh, các tỉnh trưởng đều nể sợ ông.
Sau đảo chính, tôi không gặp ông nữa.
Vì sự việc
xảy ra quá lâu, tôi không còn nhớ rõ về thời gian, nên không kể đúng giờ giấc
được. Nhưng vẫn có thể nhớ được những việc đã xảy ra, nên xin ghi lại đây những
cố gắng của tôi trong ngày 1-11-63.
Vào trước
ngày đảo chính, Đại Úy Sơn Thương là tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 41 Biệt động
quân, đem tiểu đoàn này ra huấn luyện ở Dục Mỹ. Tiểu đoàn đang đóng tại căn cứ
chuyển vận, chờ tầu đưa ra trung tâm huấn luyện Biệt động quân. Anh Sơn với tôi
là bạn rất thân. Khi tôi coi trung đoàn 12, sư đoàn 7, lúc bấy giờ anh là đại đội
trưởng Biệt động quân biệt lập, đại đội của anh hầu như thường xuyên được biệt
phái cho trung đoàn của tôi, nên anh em quý nhau lắm. Khi đợi ở căn cứ chuyển vận,
anh đến thăm tôi ở thành Cộng Hòa, có em ruột của tôi là Chuẩn Úy Nguyễn Sỹ
Anh, trưởng ban 3 của tiểu đoàn đi cùng.
Chợt nhớ
ra vào ngày đảo chính, tôi liền gọi cho anh. Rất tiếc anh vắng mặt, nhưng gặp
được em tôi là Chuẩn Úy Anh. Tôi kể rõ tình hình, và bảo em tôi cố tìm cách nào
đưa được tiểu đoàn về bảo vệ Tổng Thống. Em tôi rất sốt sắng, bảo tôi nói chuyện
với một trung úy là đại đội trưởng (tôi quên tên). Anh do dự nói với tôi:
- Thưa
thiếu tá, Đại Úy tiểu đoàn trưởng không có đây, tôi không dám quyết định.
- Thì anh
biết Tổng Thống là tổng tư lệnh quân đội ra lệnh anh phải thi hành, anh là quyền
tiểu đoàn trưởng từ lúc này.
- Nhưng
mà tôi không có phương tiện chuyên chở.
- Yên
trí, tôi sẽ cho xe sang đón anh, có cả thiết giáp bảo vệ. Anh sẽ là người có
công nhất đấy.
Tôi cho
Chuẩn Úy Cẩm là sĩ quan ở phòng 4 mang theo 14 GMC, có một chi đội thiết giáp
đi cùng, sang đón đơn vị này. Lòng thầm mừng rỡ là có thêm một tiểu đoàn bảo vệ
Tổng Thống nữa. Khi đơn vị này đến nơi, tôi cho tạm trú ở Bưu Điện để làm trừ bị.
Tôi nói với anh em ở bộ tham mưu lữ đoàn, sáng mai sẽ bố trí đơn vị Biệt động
quân này ở dinh Độc Lập và bảo vệ phía đường Hồng Thập Tự. Thêm đơn vị thiện
chiến này, cộng với đoàn quân trung thành của Lữ Đoàn Phòng Vệ, tôi tin là nếu
bị tấn công bởi một đại đơn vị cấp sư đoàn, thì cũng vẫn giữ được. Mình ở thế
phòng thủ mà quân tấn công chưa chắc đã hết lòng, vì chỉ có một số cấp chỉ huy
mưu phản mà thôi, theo như tôi biết qua ngày đảo chính 11/11/60.
Sau này,
tôi được Đại Tá Mạnh (sau lên trung tướng) kể là khi các tướng phía đảo chính
nghe có một đơn vị Biệt động quân tham gia cùng Lữ Đoàn Phòng Vệ thì cuống lên,
không ai rõ là đơn vị nào và ở đâu đến. Hỏi mãi ở bộ chỉ huy Biệt động quân mới
rõ là tiểu đoàn của Đại Úy Sơn Thương. Lúc đó Đại Tá Tôn Thất Xứng là chỉ huy
trưởng Biệt động quân vắng mặt, vì đang đi thanh tra ở miền trung. Trung Tướng
Đôn viết một thư tay cho người cầm đến cho Đại Úy Sơn Thương, hứa sẽ trọng thưởng
nếu anh theo đảo chính. Thư này tôi không được đọc nên không rõ nội dung, mà chỉ
nghe kể lại. Thư được trao cho Đại Úy Sơn Thương vào sáng sớm ngày 2/11. Lúc đó
anh đã đến với đơn vị của mình ở Bưu Điện, và cũng vào lúc lữ đoàn đã được Tổng
Thống ra lệnh buông súng. Với thư này, anh Sơn Thương được lên chức thiếu tá vì
cách mạng.
Còn em
tôi là Chuẩn Úy Anh, vì móc nối anh em về bảo vệ Tổng Thống, bị phạt 30
ngày trọng cấm. May cho Chuẩn Úy Anh vì được Đại Tá Xứng bênh vực, nếu không đã
bị truy tố ra tòa án quân sự. Tôi nhớ mãi lòng tử tế của Đại Tá Xứng, vì tôi đã
làm việc với ông nhiều năm. Khi tôi đến gặp ông để xin cho em tôi sau ngày đảo
chính, ông mừng rỡ, ôm lấy tôi, nói: Duệ, toa làm đúng lắm, phải như vậy. Moa
thích những người chung thủy như toa. Nghe ông Cụ bị thảm sát, moa cũng khóc.
Còn việc thằng Anh để moa lo cho. Moa phải phạt nó để tổng tham mưu không lôi
việc này ra làm to chuyện. Moa còn ở đây thì moa sẽ lo cho nó sau này.
Ngoài ra,
tôi còn liên lạc với sư đoàn 7 ở Mỹ Tho nữa. Lúc đó, tôi biết chắc sư đoàn 5 của
Đại Tá Thiệu đã theo đảo chính. Pháo binh của sư đoàn này đã pháo rất nhiều vào
thành Cộng Hòa (Chỉ huy trưởng Pháo binh sư đoàn 5 là Đại Úy Đào Trọng Tường, bạn
cùng khóa với tôi ở trường Võ bị Đà Lạt), nhưng tôi vẫn hy vọng sư đoàn 7 là sư
đoàn tôi đã phục vụ ở đó từ ngày di cư đến khi về lữ đoàn. Tôi không gặp Đại Tá
Đạm là tư lệnh, nhưng tôi gặp Thiếu Tá Ấm là tham mưu trưởng (sau này mới biết
Đại Tá Đạm đã bị tướng Đôn cho Đại Tá Phát thay thế vào buổi sáng).
- Thưa
anh Ấm, tôi là Duệ ở Lữ Đoàn Phòng Vệ đây, sao sư đoàn chưa cho đơn vị nào về bảo
vệ Tổng Thống vậy anh?
Anh trả lời:
- Không
được rồi anh ơi, tôi không làm gì được. Rồi anh cúp máy.
Thấy vậy,
tôi biết sư đoàn 7 đã theo đảo chính rồi, mà sư đoàn 7 ở Mỹ Tho, thì sư đoàn 9 ở
Kiến Hòa và sư đoàn 21 làm sao về được, khiến tôi thất vọng vô cùng. Rồi tôi được
điện thoại của Thiếu Tá Phú coi liên đoàn 77 thuộc Lực Lượng Đặc Biệt, là đơn vị
rất thiện chiến và rất trung thành với Tổng Thống (Thiếu Tá Phú sau lên thiếu
tướng, làm tư lệnh Quân khu II, ông đã tự vẫn khi mất nước)
- Anh Duệ
hả? Tôi là Phú đây, anh cho tôi rõ tình hình bây giờ thế nào?
- Tôi
đang ở thành Cộng Hòa. Về tình hình ở đây, ngoài việc bị pháo kích ra, chưa có
một đơn vị nào xâm nhập được vào đặc khu của tôi cả.
- Theo ý
anh thì mình nên làm gì?
- Tôi đề
nghị anh đưa lực lượng của anh về vườn Tao Đàn để bảo vệ Tổng Thống, đợi sáng
mai xem tình hình thế nào, rồi Tổng Thống quyết định.
- Tôi sẽ
liên lạc với anh sau.
Rồi anh
cúp máy. Sau đó, tôi được Đại Tá Quan gọi, rồi tới Đại Úy Tôn Thất Đình, là anh
của Trung Tướng Tôn Thất Đính gọi, như đã trình bày trong bài Đại Tá Quan và biến
cố 1/11/63 cùng trong cuốn sách này.
Tôi được
báo tin là Tổng Thống đã di chuyển khỏi dinh khoảng 8 giờ tối, nhưng không cho
các đơn vị rõ tin này. Tôi nghĩ Tổng Thống ra đi theo một kế hoạch đã định trước,
đến một nơi nào có an ninh đã được sắp xếp sẵn. Chúng tôi chỉ cần giữ vững vị
trí để đợi lệnh, khi quân đảo chính biết Tổng Thống đã ở khu an toàn rồi, thì tự
động tan như ngày 11/11/60.
Tôi hy vọng
Tổng Thống ở bộ tư lệnh Hải quân, hoặc trên một chiếc tầu nào đó thuộc Hải
quân.
Sau đó, đại
đội 3 đóng ở sở thú báo cáo bắt được một thiếu tá Hải quân tên là Lực, và một đại
úy tên là Giang, họ tưởng quân của lữ đoàn là quân của phe đảo chính, nên vào
nhờ báo cáo lên tổng tham mưu là họ đã giết được Đại Tá Quyền, tư lệnh Hải quân
rồi.
Đại đội 3
xin tôi quyết định về hai ông này. Tôi ra lệnh phải giam giữ hai ông cẩn thận,
để sau này Tổng Thống quyết định.
Thiếu Tá
Lực tôi quen, vì ông đã làm chỉ huy trưởng giang đoàn ở Mỹ Tho ngày tôi ở sư
đoàn 7. Trong một cuộc hành quân ở vùng Hậu Mỹ, giang đoàn này được đặt dưới
quyền của tôi (lúc đó anh là đại úy).Trong một cuộc hành quân, đơn vị của anh
không mở máy liên lạc với tôi, và bắn lầm bằng súng đại liên 12 ly 7 vào Tiểu
đoàn 3/12 đang di chuyển, làm chết và bị thương một số anh em. Tôi phải cho
pháo binh bắn đạn khói ngay trên sông nơi các tầu của anh đang di chuyển, lúc
đó anh mới mở máy. Tôi đã la trong máy, dọa sẽ trình Sư đoàn truy tố anh ra tòa
án. Đại tá tư lệnh sư đoàn cũng bực lắm. Đích thân đại tá tư lệnh Hải quân phải
xuống Mỹ Tho để giải quyết. Tính Thiếu Tá Lực nóng nẩy, khi uống rượu vào thì
hay bắn bậy. Sau cách mạng, ông được lên trung tá. Đại Úy Giang, người cùng Thiếu
Tá Lực giết Đại Tá Quyền, sau cũng lên trung tá và anh cũng sang Mỹ tỵ nạn,
cùng ở San Diego như tôi. Chúng tôi cũng đôi khi gặp nhau. Hai ông này trở về
đơn vị vào sáng ngày 2/11, sau khi lữ đoàn buông súng.
Nghe tin
Đại Tá Hồ Tấn Quyền bị giết, tôi lại thất vọng nữa, vì như vậy Hải quân cũng
không giúp gì cho Tổng Thống được. Và như vậy Tổng Thống đang ở đâu? Lúc này
tôi băn khoăn và lo cho Tổng Thống quá, tôi mong được tin của ông, để biết ông
có được an toàn không.
Thời gian
chờ đợi thật dài. Lúc này tôi chỉ ao ước được một vị nào cao cấp hơn tôi, cho
tôi một chỉ thị, hay một lệnh thật rõ ràng để tôi thi hành. Tiếc thay, những vị
thân cận và có trách nhiệm lo cho Tổng Thống bây giờ chả có ai ở đây. Tôi chỉ
là một sĩ quan cấp nhỏ trung thành với Tổng Thống, người mà tôi kính trọng và
yêu mến như một người cha. Tôi đã cố gắng làm hết sức mình để bảo vệ cho ông,
nhưng nay biết ông ở đâu mà bảo vệ.
Lúc gần
sáng, khi ông ra lệnh buông súng, vì không muốn binh sĩ đổ máu vì ông, tôi thấy
rã rời, thất vọng. Nhưng vẫn còn chút hy vọng mong manh, là ông sẽ được đối xử
tử tế bởi các tướng lãnh làm đảo chính, vì hầu hết những vị này đều do ông gắn
sao cho họ. Chẳng bao lâu, được tin ông chết. Nghĩ mà thương cho ông, vì sợ anh
em bảo vệ cho ông đổ máu, sợ quân đội anh em giao tranh với nhau mất tiềm lực
chống cộng, mà ông bị làm nhục, phải chết trong tay những kẻ vũ phu, trong một
xe thiết giáp.
Kẻ giết
ông, tôi biết chắc là Đại Úy Nhung, cận vệ của Trung Tướng Minh, và Thiếu Tá
Dương Hiếu Nghĩa. Đại Úy Nhung đã chết, anh cũng không chối cãi gì về việc giết
hai anh em Tổng Thống, nhưng Thiếu Tá Nghĩa (sau lên đại tá) thường cải chính
điều này. Đại Úy Nhung thật ra không đáng trách lắm, vì anh theo lệnh mà làm.
Nhưng ghê tởm cho hành động của anh là đã bắn chết hai ông còn đâm chém nữa.
Không biết khi đâm hai ông, anh có nói gì hỗn hào không?
Còn Thiếu
Tá Nghĩa, dù ông cố cải chính, nhưng căn cứ vào hành động của ông, cũng như một
số nhân chứng, chỉ có những người ngây thơ tới mức ngu xuẩn mới tin là ông đã
không nhúng tay vào vụ thảm sát này. Ai đã cắt cử ông đi trong đoàn xe này? Ông
có nhiệm vụ gì mà vào nhà thờ gặp Tổng Thống? Thiếu Tá Vũ Quang (sau lên đại
tá) là bạn cùng khóa với tôi, và cũng đã phục vụ ở lữ đoàn một thời gian, kể với
tôi là mắt anh thấy Thiếu Tá Nghĩa vừa đi vừa lau bàn tay đẫm máu, vào báo cáo
với Trung Tướng Minh (anh Quang bây giờ cũng ở Hoa Kỳ). Một hạ sĩ quan Quân cảnh
(rất tiếc không nhớ tên anh), kể với tôi là anh cũng thấy ông Nghĩa tay vấy
máu. Anh nói với tôi bằng giọng rất cảm động là khi thấy xác hai ông, anh đã chẩy
nước mắt, không ngờ hai ông chết một cách thảm thiết như vậy.
Trung Tá
Nghĩa cũng là một trong những phụ thẩm của tòa án cách mạng đã kết án tử hình
ông Ngô Đình Cẩn. Như vậy, cái chết của ba anh em Tổng Thống Diệm cũng đều do
Trung Tá Nghĩa nhúng tay vào. Một hạ sĩ quan còn cảm động khi thấy xác hai ông,
người nhúng tay vào nội vụ mà không ghê tay, thật là đáng sợ. Còn ông Phan Hòa
Hiệp (sau lên chuẩn tướng) thì sao? Ông cũng có trách nhiệm trong vụ này. Là chỉ
huy đoàn xe thiết giáp đi đón Tổng Thống, và được lệnh rõ ràng là đón, đâu có lệnh
giết, sao để cho Thiếu Tá Nghĩa lộng hành như vậy?
Sáng ngày
2/11, tôi và một số sĩ quan ở bộ tham mưu không muốn bị nhục khi phải đầu hàng,
cùng nhau rút ra khỏi thành Cộng Hòa, qua ngả đường Hồng Thập Tự. Tụi tôi chạy
đến nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi, rồi tôi đến nhà anh rể tôi là Đại Úy Đoàn Bá Trí ở
đường Cao Thắng. Anh rể tôi gọi dây nói từ tổng tham mưu về cho biết xác hai
ông đã chở về đây rồi. Vì quá xúc động về việc Tổng Thống và ông cố vấn bị giết,
tôi được chị tôi cho uống thuốc ngủ, mà cũng không ngủ được, cũng không biết sẽ
phải làm gì. Chiều đó, Thiếu Tá Hưởng là tham mưu phó, cùng với mấy sĩ quan ở bộ
tham mưu đến gặp tôi. Tụi tôi bàn nhau mãi, mà vẫn không biết phải làm gì.
Thiếu Tá
Hưởng, tuy là phó của tôi, nhưng tôi rất kính trọng anh, vì anh là niên trưởng
của tôi ở trường Võ Bị (anh học khóa 2, còn tôi khóa 6). Chúng tôi ngồi cùng một
phòng, làm việc với nhau và ở chung một căn nhà trong thành Cộng Hòa. Anh ở lữ
đoàn trước tôi nhiều. Ngày đảo chính năm 60 anh đã có mặt ở lữ đoàn rồi. Vì vậy,
khi mới đổi về lữ đoàn, việc gì tôi cũng hỏi anh.
Ngày đảo
chính, anh ở dinh Gia Long để chỉ huy các đơn vị chính bên đó. Chính anh là người
báo cho tôi biết Tổng Thống đã đi khỏi dinh lúc 8 giờ tối, và cùng bàn nhau rút
ra ngoài lúc được lệnh buông súng. Ngày hành quân ở Bắc Việt, anh đã bị Việt cộng
bắt. Sau khi mất nước, anh cũng bị bắt giam, rồi sang đây theo diện H.O. Lúc
anh sang, tôi vì đau yếu và ở xa nơi anh định cư, nên chưa có dịp gặp lại anh,
nhưng tôi vẫn kính mến anh.
Anh bảo
tôi:
- Tụi
mình chỉ làm đúng nhiệm vụ giao phó, chả có gì mà phải sợ ai.
Tôi bèn lấy
điện thoại gọi cho văn phòng Thiếu Tướng Khiêm là tham mưu trưởng bộ Tổng tham
mưu. Gặp được Đại Úy Hoa, chánh văn phòng của ông. Anh rất tử tế và khi nghe
tôi nói muốn xin gặp Thiếu Tướng Khiêm, anh sốt sắng trả lời:
- Thiếu
tá đừng rời máy, để tôi vào trình. Rồi ra trả lời là thiếu tướng muốn tôi
và Thiếu Tá Hưởng lên gặp ông.
Thiếu Tướng
Khiêm khi làm tư lệnh Sư đoàn 7 thì tôi là trung đoàn trưởng của ông, được ông
rất quý mến và thân mật. Sau này, khi tôi về phủ Tổng Thống cũng hay gặp lại
ông, nên tôi nghĩ gặp ông chắc ông sẽ lo cho anh em tôi. Khi chúng tôi đến văn
phòng ông, thấy rất nhiều sĩ quan cao cấp ở đó để xin gặp ông. Tôi cũng ngồi đợi,
nghĩ bụng đợi ông tiếp hết mấy vị này, chắc phải hơi lâu. Anh Hoa thấy chúng
tôi thì vào trình ngay, không ngờ được ông tiếp ngay lập tức.
Vào gặp,
thấy ông đã đeo 3 sao (trung tướng), ông niềm nở bảo tụi tôi ngồi, và nói ngay:
- Chắc
các anh cũng biết cụ và ông cố vấn đã chết rồi chứ. Xác hai ông để ở nhà thương
Saint Paul bây giờ. Nói rồi ông bỏ kiếng xuống bàn, chùi nước mắt. Tôi quen miệng
vẫn gọi ông là thiếu tướng:
- Thưa
thiếu tướng, xin thiếu tướng cho chúng tôi rõ sự việc, và chúng tôi cũng không
biết phải làm sao với anh em chúng tôi bây giờ. (Lúc bấy giờ Trung Tá Khôi đang
bị giam giữ ở Chí Hòa)
- Việc
chính trị khó mà nói được, sau này các anh sẽ rõ. Còn các anh có gì phải lo
đâu, mình là anh em trong quân đội với nhau, các anh cứ về thu xếp anh em lại,
rồi đợi lệnh.
Nghĩ một
lúc, ông lại nói:
- Thôi,
hai anh sang gặp Thiếu Tướng Là ở biệt khu thủ đô, rồi đợi xem việc giải quyết
lữ đoàn ra sao. Tôi sẽ liên lạc với biệt khu thủ đô.
Khi chào
ra về, chúng tôi được ông bắt tay từ biệt, thấy ông buồn rầu ra mặt.
Sau này,
ông luôn hết sức giúp đỡ tôi. Khi tôi xin đi học anh văn, ông đồng ý ngay. Có lần
tôi đến thăm ông ở tư thất gặp lúc ông chưa về, bà ở trên lầu, nghe tôi đến thì
tất tả chạy xuống mừng rỡ, ngồi tiếp tôi cho đến khi ông về. Ông bà còn giữ tôi
ở lại ăn cơm, như khi còn ở sư đoàn 7 trước đây. Ông có tâm sự với tôi là ông không
biết việc giết ông cụ và ông cố vấn. Tôi ngỏ lời xin sau khi học Anh văn thì được
đi học khóa chỉ huy và tham Mưu cao cấp ở Lewenworth, ông đồng ý ngay. Bà còn
nhắc tôi sao không về làm việc với ông. Nhưng tôi không xin, và từ đó, nhiều biến
cố liên tiếp xảy ra, tôi không đến thăm ông bà nữa, và chỉ gặp lại khi ông làm
đại sứ ở Đài Loan.
Lúc đó,
tôi làm ở tổng cục Chiến tranh chính Trị, được đi du hành quan sát ngành Chiến
tranh chính trị của quân đội Đài Loan. Tôi nhờ phái bộ Trung Hoa và cố vấn Mỹ ở
tổng cục cho tôi đi trước 3 ngày, để thu xếp chương trình cho phái đoàn của chuẩn
tướng Kiểm sẽ đến sau. Tôi được một sĩ quan thông dịch viên và Đại Úy Đời, là
trưởng phòng của tôi đi cùng. Thật ra chương trình cũng chả có gì để thu xếp,
vì tổng cục ở Đài Loan đã sắp xếp rất chu đáo rồi.
Tôi đến
thăm ông ở Đài Loan, thầy trò gặp nhau rất vui vẻ, nhưng ông nói với tôi là ở
đây buồn lắm, và nhớ anh em trong quân đội. Ông nghĩ là ông sẽ về ngày gần đây.
Bà cũng vậy, nói mong sớm về Việt Nam. Quả nhiên ít lâu sau ông về thật, giữ bộ
Nội vụ, kiêm cả bộ Quốc phòng nữa. Tôi cũng đến thăm ông một buổi sáng khi ông
mới về, và chưa giữ nhiệm vụ gì, ông bà mời tôi ăn sáng. Lúc ăn gần xong, có
người vào báo là có một vị tướng đến thăm. Tôi xin cáo từ để ông tiếp khách, ông
giữ tôi lại, bảo:
- Lâu quá
không gặp, anh cứ thong thả ngồi chơi.
Ông cứ nhắc
lại những anh em ở sư đoàn 7 cũ, ông còn nhắc tôi nhớ bảo anh tôi là trưởng
phòng 5 cũ của ông đến thăm nữa (Anh tôi là Trung Tá Nguyễn Hải Trù). Anh ruột
của ông là Đại Úy Trần Thiện Nguơn, lúc ông lưu vong thì xin về tổng cục Chiến
tranh chính trị. Tôi để anh là trưởng phòng Nhân viên trong khối Tổ chức của
tôi. Khi ông coi bộ Quốc phòng, anh Nguơn về làm với ông, rủ tôi sang bộ Quốc
phòng, nhưng tôi từ chối.
Rồi tôi
được chỉ định ra làm tỉnh trưởng Thừa Thiên kiêm thị trưởng Huế. Việc này làm
tôi quá sửng sốt, vì tôi đang làm việc rất vui vẻ ở tổng cục Chiến tranh chính
trị, và được Trung Tướng Trung rất quý mến. Tôi nhờ Trung Tướng Trung (bây giờ
ông đang ở Pháp) xin với Tổng Thống cho tôi ở lại. Trung Tướng Trung gọi cho Đại
Tá Cầm là chánh văn phòng của Tổng Thống hỏi sự việc, anh Cầm trả lời là sắc lệnh
đã ký rồi, và thay một lúc bốn ông tỉnh trưởng, chắc chả thay đổi được.
Tôi lại
chạy đến ông một lần nữa, lúc đó ông là Thủ Tướng, và đã lên đại tướng. Tôi xin
ông giúp cho tôi được ở lại tổng cục, ông từ chối ngay, và nói:
- Tôi và
ông Thiệu đã đồng ý với nhau là trong quân đội từ cấp tướng trở lên là do ông ấy
quyết định, và cả các tỉnh trưởng nữa. Vì vậy, tôi không giúp anh được.
- Vậy xin
đại tướng cho tôi ở ngoài đó độ hai năm, rồi cho về lại quân đội.
- Việc
này thì tôi giúp anh được. Anh ở ngoài đó đến ngày bầu cử Tổng Thống lại thì về
đây, anh xin đi đâu tôi cũng giúp được.
Từ đó đến
ngày mất nước, tôi không gặp lại ông. Sang Mỹ, một lần tôi đến WashingtonD.C.,
có ghé thăm ông bà. Đối với tôi, ông quá tử tế, tôi vẫn nhớ ơn ông vì tình
nghĩa ông đối xử với những người đã làm việc với ông. Nhưng tôi vẫn buồn về việc
ông đã phản lại Tổng Thống Diệm, và có thể nói, nếu không có ông, cuộc đảo
chính đã khó có thể thành công được.
Trở lại
việc tôi và Thiếu Tá Hưởng sang trình diện Thiếu Tướng Là ở Biệt khu thủ đô. Tụi
tôi gặp Đại Úy Nguyễn Văn Đông (tác giả bản nhạc Chiều Mưa Biên Giới), anh chỉ
vào phòng tướng Là, nói:
- Ông
đang nằm nghỉ vì buồn về việc cụ và ông cố vấn chết. Thiếu tá có gặp ông, chắc
ông cũng chả giải quyết được việc gì đâu, vì mọi việc bây giờ do Trung Tướng
Đính ở Quân đoàn III lo hết. Tôi nghĩ thiếu tá nên xuống gặp Thiếu Tá Dụng là
tham mưu trưởng Biệt khu, để ông giải quyết.
Tụi tôi lại
xuống gặp Thiếu Tá Dụng, trái với sự vắng lặng ở phòng Thiếu Tướng Là, ở đây
đèn sáng trưng, người ra vào tấp nập. Gặp tôi, ông (mới được lên trung tá rồi)
làm mặt lạnh như chưa quen biết nhau bao giờ, cũng chả thèm bắt tay, nói như
thượng cấp:
- Tôi
chưa biết giải quyết việc của các anh bây giờ ra sao nữa, tôi phải đợi lệnh
trung tướng tư lệnh Quân đoàn III.
Ngồi đợi
một lúc, ông bảo tôi lên phòng 5 của Biệt khu, để thu băng lời kêu gọi anh em ở
lữ đoàn về trình diện ở thành Cộng Hòa. Lên phòng 5, gặp đại úy trưởng phòng
(tôi không nhớ chắc, hình như Đại Úy Nghinh thì phải) anh rất tử tế, mời tôi ngồi
và nói:
- Tôi được
lệnh thảo lời kêu gọi anh em ở lữ đoàn. Tôi sẽ thảo tạm để thiếu tá xem, nếu có
ý kiến gì, tôi xin sửa lại.
- Tùy anh
thảo sao cũng được, nhưng tôi nói trước, nói động đến Tổng Thống thì có giết
tôi, tôi cũng không đọc đâu.
- Thiếu
tá yên trí, tôi cũng có lương tâm của tôi chứ.
Thảo xong
lời kêu gọi, anh đưa tôi xem. đại ý là kêu gọi anh em ở Lữ Đoàn Phòng Vệ phải về
tập trung ở thành Cộng Hòa trong vòng 24 giờ. Tôi đồng ý và đọc lời kêu gọi
này. Đặc biệt là khi ra cửa, tôi gặp Thiếu Tá Phan Huy Lương, trưởng phòng 3 của
Biệt khu, anh ân cần mời tôi về phòng anh nghỉ, và nói những câu làm tôi cảm động:
- Chắc
anh mệt lắm rồi, về phòng tôi nghỉ tạm đi.
14. 2
Rồi anh bảo
nhân viên kê thêm một giường vải cạnh giường của anh, cho tôi nghỉ. Anh là em
ruột bác sĩ Phan Huy Quát, sau làm Thủ Tướng. Ở lại đây, tôi gặp Thiếu Tá Hứa Yến,
là bạn học cùng khóa với tôi, và cũng là trung đoàn phó của tôi trước đây. Lúc ấy
anh coi trung đoàn 11 thuộc sư đoàn 7, anh mang quân về theo cách mạng. Khi gặp,
anh ôm lấy tôi một cách mừng rỡ:
- Tôi lo
cho anh quá đi. Gặp được anh ở đây, tôi yên tâm rồi. Tôi được lệnh về đây và
đơn vị đang ở Phú Lâm, chưa có lệnh gì. Thật không gì mừng bằng gặp anh còn
bình yên.
Tình chiến
hữu trong quân đội chúng tôi là như vậy. Chúng tôi đâu muốn có những biến cố để
anh em phải đối đầu với nhau vì tham vọng của mấy vị chỉ huy cao cấp.
Rồi tôi lại
phải xuống gặp Trung Tá Dụng để đi với một toán Quân cảnh, vì có một đơn vị
phòng không của lữ đoàn đóng trên lầu của bộ Tài chánh nhất định không chịu
buông súng, mặc dầu được kêu gọi nhiều lần. Chuẩn úy chỉ huy bằng lòng buông
súng, nếu được tôi ra lệnh. Khi đến nơi gặp anh em, nhiều người khóc vì biết Tổng
Thống đã chết.
Tính ra
đã hai ngày hai đêm tôi chưa được ngủ. Người tôi rã rời và chán nản cùng cực.
Thay vì để tôi về nhà đợi lệnh của Trung Tướng Đính, ông Dụng lại giao tôi về sở
An ninh quân đội Biệt khu thủ đô, giữ ở đó đợi lệnh. Ông này trong quân đội có
biệt hiệu là Dụng Bụng, nổi danh về việc nịnh người trên, khó với người dưới. Từ
đó, tôi không gặp lại ông. Cho đến khi tôi làm tham mưu trưởng tổng cục Chiến
tranh chính trị, ông lại đến xin với Trung Tướng Trung để được về tổng cục. Lúc
đó, tôi đã lên đại tá và ông vẫn còn là trung tá. Gặp ông, tôi vẫn vui vẻ như
thường, nhưng Trung Tướng Trung không xin ông về.
Tôi đến sở
An ninh quân đội gặp Thiếu Tá Long là chánh sở, anh cũng là bạn cùng khóa. Tôi
nghĩ sẽ được anh đối xử tử tế với tôi hơn ông Dụng, ai ngờ anh đem tôi vào nhà
vòm, giam cùng với những tội phạm khác. Vào đây, những anh em can phạm đều là
quân nhân cả, họ rất quý mến tôi và lo cho tôi mọi sự. Ở nhà vòm ban ngày nóng,
đêm quá lạnh, mà mỗi người chỉ có một cái mền mỏng, nhiều anh em nhường mền cho
tôi, nhưng tôi không chịu. Sáng hôm sau, anh Hưởng gọi dây nói cho Trung Tá Lê
Ngọc Triển, lúc đó là giám đốc Nha quân nhu, ông lập tức cho một sĩ quan mang đủ
thứ mền, mùng và quần áo cho hai chúng tôi dùng. Thật đáng buồn, nghĩ mình có
phải là tội phạm gì đâu mà họ đối với tôi như vậy.
Mấy ngày
sau, tôi được lịnh trình diện Trung Tướng Đính. Đến văn phòng ông, tôi lại gặp
Đại Úy Đình là anh ruột của ông, và cũng đã lên thiếu tá rồi. Thật buồn cười,
tôi đã vào văn phòng Tổng Thống, văn phòng đại tướng, mà không đâu như ở đây. Cận
vệ đứng đầy, Quân cảnh gác đến mấy chặng. Họ còn đưa tôi vào phòng bên cạnh,
khám xem tôi có mang vũ khí không, mặc dầu họ biết tôi mới từ nhà tù ở An ninh
ra.
Gặp Trung
Tướng Đính, ông đang bận điện thoại, chỉ vào ghế salon mời tôi ngồi. Khi điện
thoại xong, ông ra bắt tay tôi rồi ngồi ghế salon nói chuyện. Lúc ông ngồi, tôi
thấy lộ ra một con dao găm gắn trên giầy. Ông bảo tôi:
- Duệ, chắc
anh em tụi mày hận tao lắm phải không? Tình thế buộc tao phải làm như vậy.
Chúng toa phải biết, nếu Ba Đính này không theo cách mạng, thì thằng Mai Hữu
Xuân nó sẽ mượn thế giết hết tụi mày rồi.
Rồi ông
làm mặt cảm động, chùi nước mắt, nói tiếp:
- Tụi nó
giết cụ, tao có biết gì đâu. Đặt Ba Đính này vào sự việc đã rồi. Nếu cụ nghe
tao thì đâu đến nỗi nào.
Tôi thưa:
- Trung
tướng biết tụi tôi còn nhỏ, và chỉ lo làm phận sự giao phó, có tội gì mà giam như
tội phạm vậy?
- Ai ra lệnh
giam? Tôi đâu có biết, thực ra Duệ ạ, Mày giỏi lắm! Một mình mày mà chống lại
được các tướng lãnh, có lúc làm tao lên ruột vì mày rủ được tiểu đoàn Biệt động
quân về mới mày. Yên trí đi, tao sẽ lo cho mày ra đơn vị chỉ huy.
Ông nói
huyên thuyên, lúc mày tao, vẻ thân mật, lúc toa, moa. Ông còn trách tôi:
- Mày biết
không, xưa nay chưa có ai dám chửi lại tao, khi thằng Đình gọi dây nói cho
mày…, nhưng thôi, vì tình anh em, tao không chấp đâu.
Rồi ông lại
thủ thỉ với tôi:
- Mày gặp
anh em, nói cho tụi nó rõ. Ba Đính này đâu có biết thằng Mai Hữu Xuân nó giết
ông cụ như vậy. Tao phải theo tụi nó để bảo vệ anh em tụi mày.
Ông nói
thao thao, nhắc đi nhắc lại là ông theo đảo chính để bảo vệ anh em. Nói đi nói
lại cả nửa giờ mà tôi chỉ hiểu có như vậy. Tôi thấy ông cũng có vẻ bối rối và
luôn miệng gọi tướng Mai Hữu Xuân là thằng. Trước đây, ông làm Tổng trấn đô
thành, vỗ ngực tự hào dẹp biểu tình của Phật giáo để cứu nước. Sau đảo chính giết
được cụ Diệm, ông lại là người của Phật giáo, được làm tổng trưởng bộ An ninh,
rồi lại bị tướng Khánh chỉnh lý bắt giam. Sau ra ứng cử trong liên danh Hoa Sen
của Phật giáo, làm thượng nghị sĩ. Khi sang Mỹ tỵ nạn, ông làm tổng tham mưu
trưởng cho một nhóm nhiều tai tiếng, tự xưng chính phủ lưu vong. Trong đời, ít
ai có dịp ở nhiều vị thế khác nhau như vậy.
Khi về
đơn vị, tôi gặp Thiếu Tá Huỳnh Văn Lạc, là người chỉ huy lực lượng cận vệ luôn ở
cạnh Tổng Thống, anh nói với tôi: Tụi mình đã làm hết bổn phận với cụ, và cụ đã
cám ơn anh em trước khi chết, và anh cũng như tôi đều nghĩ Cụ ra khỏi dinh là
theo kế hoạch. (Sau này anh lên chuẩn tướng, làm tư lệnh sư đoàn 9 của Quân
đoàn IV).
Tôi về được
ít ngày, bị bắt lại và giam ở Nha an ninh của tướng Đỗ Mậu. Phòng giam gồm 6
người: Ngoài tôi ra, có Đại Tá Phước, trưởng phòng 2 Tổng tham mưu; Đại Úy Tuệ ở
văn phòng ông cố vấn Nhu; Thiếu Tá Phước và hai Thiếu Uý T và P (tôi không viết
tên hai anh này ra, sợ hai anh còn kẹt ở Việt Nam). Thiếu Tá Phước luôn phàn
nàn là không hiểu sao, khi đảo chính xảy ra, ông lại bị Đại Tá Huyến là chỉ huy
trưởng trường Võ Bị bắt giam, đến khám nhà của ông, bắt mở cả tủ đựng tiền. Và
từ hôm bắt đến nay, chưa ai hỏi đến ông, và ông cũng không biết là có tội gì.
(Sau này ông làm đại sứ ở Cam Bốt, gặp lại tôi ông rủ sang chơi, mà chưa có dịp).
Đặc biệt,
các Thiếu Uý T và P là hai sĩ quan mới tốt nghiệp trường Võ bị Đà Lạt, bị giam
về tội là người của Việt cộng. Hai anh này khi mãn khóa học thì về Truyền tin,
được đi học bổ túc ở Hoa Kỳ, và bị bắt ở Mỹ. Hai anh coi tôi như đàn anh, thực
thà kể cho nghe về chuyện đời của mình.
Theo lời
kể, hai anh đã được Việt cộng huấn luyện từ khi còn nhỏ ở Bắc, rồi gài vào đoàn
di cư vào Nam. Anh T. đi cùng gia đình, anh P. ở cùng với anh T., sau lấy em
gái anh T.
Hai anh
vào Nam, đi học và đổi chỗ ở nhiều lần. Cứ tưởng đã mất liên lạc với bên kia rồi,
ai ngờ đột nhiên có người đến gặp, nhắc hai anh phải hoạt động cho họ. Hai anh
lại dọn nhà lần nữa, cũng vẫn bị họ tìm ra. Họ không cho hai anh học tiếp lên đại
học, bảo phải vào trường Võ bị Đà Lạt. Khi ra trường phải xin vào ngành Truyền
tin, rồi đi Mỹ học, đều do chỉ thị của họ.
- Thế hai
anh học xong rồi vào ngành Truyền tin, và đi học Hoa Kỳ, chắc cũng do họ sắp xếp
chứ đâu có dễ như vậy.
- Chắc có
thể đúng như thiếu tá nghĩ.
- Thế hai
anh bị phát giác là do tình báo Mỹ hay phía Việt Nam ?
- Chắc do
Mỹ, vì sau khi bị bắt, tôi bị hỏi nhiều điều của tình báo Hoa Kỳ.
- Hai anh
đã hoạt động gì cho họ chưa ?
- Thì vừa
ra trường và đi học Hoa Kỳ thì bị bắt, chúng tôi đã ra đến đơn vị nào đâu.
Hai anh
chàng này đều đẹp trai, thông minh và rất giỏi Anh ngữ. Tôi cũng đi học ở Hoa Kỳ
rồi, nhưng Anh ngữ còn rất kém, anh P. nhiều lần còn chỉ cho tôi về Anh văn, và
chê tôi nói tiếng Anh như nói tiếng Pháp. Nghĩ mà phát sợ, ngoài trường hợp hai
anh này, có thể còn rất nhiều trường hợp khác nữa, chắc trong quân đội có nhiều
đơn vị bị gài người rồi. Đại Tá Phước phàn nàn:
- Đó Duệ
xem, An ninh quân đội chỉ lo chơi anh em nhà như tụi mình, còn Việt cộng gài
người vào mà có biết gì đâu. Trước khi đi học ngoại quốc, đều phải sưu tra ở sở
An ninh mà. Thằng cha Mậu này có học hành gì đâu, mà có khỉ gì về tình báo, được
ông cụ tin là vì theo ông cụ từ trước. Nay xẩy ra việc này mới thấy (Tôi đã kể
về Đại Tá Phước ở mấy bài khác trong sách này)
Ngoài ra,
tôi còn gặp Thiếu Tá Đặng Sỹ. Anh cũng bị bắt giam ở An ninh, nhưng không được ở
phòng như tụi tôi, mà biệt giam riêng ở một phòng nhỏ. Một hôm ra ngoài tắm, thấy
anh ngồi ở cửa phòng, tôi vội chạy về lấy quả cam được người nhà tiếp tế chuyển
cho anh, để anh rõ tôi vẫn là anh em của anh. Anh nguyên là phó tỉnh trưởng Nội
an ở Thừa Thiên, khi vụ Phật giáo xảy ra ở Huế, anh bị Tổng Thống gọi về để hỏi
sự việc. Khi ở Sàigòn, anh đến gặp tôi tại lữ đoàn, nhờ tôi lo cho anh chỗ ở.
Tôi mời anh về ở cùng phòng với tôi, và dùng xe của tôi để đi lại. Anh kể với
tôi là khi đài phát thanh Huế bị dân chúng tràn ngập, anh có mặt ở đó. Anh
không ra lệnh bắn, binh sĩ của mình không bắn, nhưng có tiếng nổ làm chết và bị
thương một số người (anh hiện ở vùng WashingtonD.C.)
Tôi bị
giam ở An ninh gần một tháng thì được thả, vì đã gửi thư cho Trung Tướng Dương
Văn Minh, qua sự giúp đỡ của Đại Tá Nguyễn Văn Quan. Tôi nhớ trong thư có câu:
… tôi là
sĩ quan của quân đội, tôi đã làm hết nhiệm vụ được giao phó là bảo vệ Tổng Thống
và gia đình của Người. Bây giờ trung tướng là Quốc Trưởng, Lữ Đoàn Phòng Vệ lại
có nhiệm vụ bảo vệ trung tướng và gia đình của trung tướng. Nếu giam tôi và kết
tội tôi thì sẽ là tấm gương cho anh em lữ đoàn bây giờ. Nếu lại xảy ra biến cố
thì lữ đoàn chả ai dám trung thành với trung tướng nữa…
Quả nhiên
khi tướng Nguyễn Khánh làm chỉnh lý, lữ đoàn chả có hành động gì bảo vệ tướng
Minh. Ngoài ra, các tướng khác như tướng Đôn, Kim, Xuân, Đính cũng bị bắt giam
và đám cận vệ cũng như lính bảo vệ không dám kháng cự.
Lúc được
tha, tôi phải lên gặp tướng Đỗ Mậu trước khi về. Trong khi đợi ở phòng Thiếu Tá
Độ là chánh văn phòng của ông, tôi gặp Đại Tá Hoàng Lạc, là cấp chỉ huy cũ của
tôi ở sư đoàn 31 trước đây. Ông mừng rỡ:
- Anh đã
làm đúng nhiệm vụ của anh. Tôi khen anh đấy.
Đại Tá Lạc
sau lên thiếu tướng, coi trung tâm huấn luyện Quang Trung. Sau có lần ông làm
thứ trưởng bộ Canh nông và làm tư lệnh phó Quân đoàn I cho Trung Tướng Trưởng.
Gặp tôi, bao giờ ông cũng ân cần vui vẻ. Ông là cấp chỉ huy rất được thuộc cấp
quý mến và kính trọng, ông chỉ nhẹ nhàng chỉ bảo nếu người dưới làm sai và luôn
bênh vực họ (ông hiện ở Houston, Texas).
Ngồi đợi
một lúc thì ông Mậu về, theo sau một đoàn cận vệ lên thang gác rầm rập súng cầm
tay như người ta ám sát đến nơi ngay các vị tư lệnh ngoài mặt trận cũng không
có ai quá lố như ông và ông Đính ở ngay Nha của mình mà cứ như là ở vùng Việt cộng.
Hôm ấy, ông mặc bộ đồ gaberdine, đã đeo lon tướng trên cầu vai, mà ở cổ áo cũng
có lon nữa. Chắc tùy viên của ông quên tháo lon ở cổ ra. Ông đứng tiếp tôi ngay
ở phòng Thiếu Tá Độ, có cả Đại Tá Lạc ở đấy.
-Anh Duệ,
việc không có gì đâu, anh hãy quên mọi việc đi, dù sao thì hai ông cũng đã chết
rồi; ông Nhu ông ấy kiêu ngạo quá mà. Sao lại tin thằng Tung quá vậy?
Tôi hỏi lại
ông:
- Thiếu
tướng cũng biết, tôi chỉ làm bổn phận của tôi, mà cả Phủ Tổng Thống, trong số
các sĩ quan cao cấp, chỉ có tôi bị bắt.
Ông không
trả lời, bắt tay tôi rồi mời Đại Tá Lạc vào phòng ông nói chuyện. Tôi chắc Đại
Tá Lạc cũng được mời đến, vì đại tá đang làm ở ban thường trực ấp Chiến lược,
và trước đây cũng là tư lệnh Lữ Đoàn Phòng Vệ. Sau ông Mậu theo tướng Khánh làm
chỉnh lý, rồi làm đến phó Thủ Tướng đặc trách văn Hóa. Chuyện này thường làm đề
tài mua vui cho báo chí và dân chúng. Sau đó ít lâu, khi các tướng trẻ lên cầm
quyền, ông bị thất sủng, và được về vườn ở Nha Trang. Nhớ có lần gặp ông ở dinh
Gia Long, lúc tôi mới đổi về lữ đoàn, ông thân mật bá vai tôi, nói:
- Duệ
này, anh em đưa toa về đây lo cho ông cụ, trách nhiệm của toa lớn lắm đấy. Cả
miền Nam chỉ có ông cụ mình mới có thể đối đầu với Hồ Chí Minh ở miền Bắc. Nếu
xảy ra chuyện gì cho cụ thì khó mà giữ được miền Nam tự do này.
Đại Tá
Phùng Ngọc Trưng, là bạn thiết của ông từ hồi niên thiếu, kể với tôi:
- Thằng Đổ
Máu từ ngày nó phản ông cụ để được lên tướng, tụi moa ai cũng lánh xa, chả ai
thèm chơi với nó nữa. Chắc nó đeo sao mà chả vui gì đâu.
Tôi gặp Đại
Úy Bằng, là sĩ quan hầu cận của Tổng Thống, để tìm hiểu lý do tại sao Tổng Thống
lại ra khỏi dinh, vào Chợ Lớn rồi ra hàng để họ giết. Anh Bằng ở cạnh Tổng Thống
từ lúc đảo chính đến khi ra khỏi dinh. Anh kể với tôi:
- Thật ra
lúc đầu cụ nghĩ là các tướng lãnh bị bắt cóc trong phiên họp chứ không phải đồng
lòng làm phản. Cụ cố tìm cách liên lạc với tướng Khiêm mà không được, chỉ có tướng
Minh và Đôn nói điện thoại với cụ. Sau cụ cũng nói chuyện với tướng Đính, tôi
không rõ tướng Đính nói gì, nhưng cụ có vẻ giận lắm, và thất vọng.
-Tướng
Khánh ở vùng 2 có liên lạc, nhưng nói không lo gì cho cụ được, vì ở quá xa.
-Tôi gọi
tướng Cao ở vùng 4 mà không được, vì ông đang hành quân ở Cà Mâu, mãi sau mới gặp
thì cụ đi rồi.
- Tôi
cũng không rõ tại sao cụ ra khỏi dinh, và cũng nghĩ như anh là đã có kế hoạch
trước. Chắc cụ quá buồn vì tất cả những người cụ tin đều phản cả. Ngoài ra, tôi
chắc cụ đi là vì không muốn ở lại để anh em phải chết khi bị tấn công.
Đại Úy Bằng
theo Tổng Thống từ khi anh còn nhỏ. Anh luôn ở cạnh ông để lo những việc cá
nhân cho ông. Ở ngoài ai cũng nể, vì anh ở sát ông nên việc gì anh cũng rõ.
Tôi gặp Đại
Úy Đỗ Thọ, là tùy viên đi theo Tổng Thống vào Chợ Lớn. Anh em tôi rủ nhau vào
nhà hàng Lacave ở trước chợ Bến Thành ăn trưa, để nói chuyện. Tôi hỏi về thời
gian Tổng Thống ở Chợ Lớn, anh kể:
- Cụ và
ông cố vấn mệt mỏi thấy rõ, ở đó được báo cáo toàn là tin xấu; nhất là nghe
radio thì thấy các tỉnh đều điện về ủng hộ cách mạng, cả tướng Khánh vùng 2, tướng
Trí vùng 1 cũng lên tiếng ủng hộ. Chỉ có tướng Cao ở vùng 4 là không. Từ khi
vào đây, cụ không liên lạc với các tướng nữa.
- Thế cụ
có biết là dinh Gia Long và thành Cộng Hòa vẫn giữ được, và chưa có đơn vị nào
tấn công không?
- Biết chứ,
nhưng tôi chắc cụ nghĩ lữ đoàn khó mà chống lại được. Lúc khoảng 2 giờ sáng, cụ
có bảo tôi gọi về hỏi anh em có bị chết và vị thương nhiều không? Tôi có trình
là chỉ có một số ít bị chết và bị thương vì pháo kích mà thôi.
- Thế cụ
có dặn gì anh trước khi ra hàng không?
- Có, cụ
có dặn tôi nói với tướng Khánh ở vùng II mấy chuyện, nhưng bây giờ ông Khánh lại
đổi ra vùng I rồi, nên tôi chưa có dịp.
Anh không
kể tôi nghe cụ dặn nói với tướng Khánh việc gì.
Đại Úy Thọ
chết vì rơi máy bay sau đảo chánh ít lâu. Anh là người cởi mở, vui vẻ, trẻ
trung và hơi tếu. Sau này tôi có đọc cuốn Hồi ký Đỗ Thọ của anh.
Tôi gặp Đại
Úy Lê Công Hoàn, cũng là tùy viên ở cạnh Tổng Thống từ khi khởi sự đảo chính, đến
lúc Tổng Thống ra khỏi dinh. Anh ở đó trước khi Đại Úy Thọ chạy đến dinh. Chính
anh là người chuyển khẩu lệnh của Tổng Thống cử tôi là tư lệnh lữ Đoàn vào chiều
ngày 1-11 (nhưng Đại Úy Bằng đã gọi trước cho tôi rồi). Anh cũng kể giống Đại
Úy Bằng, là lúc đầu, cụ nghĩ các tướng bị uy hiếp bởi một nhóm phản loạn. Nhưng
sau khi gặp tướng Đôn và tướng Đính qua điện thoại, thì cụ giận và thất vọng.
Nhất là khi biết pháo binh bắn vào thuộc sư đoàn 5 của Đại Tá Thiệu.
Vẫn theo
lời Đại Úy Hoàn, cụ nhiều lần muốn gặp Thiếu Tướng Khiêm, nhưng ông Khiêm né. Từ
đầu chí cuối, cụ luôn nhắc phải tránh đổ máu, như anh đã gọi dây nói cho tôi
nhiều lần. Cụ sợ tôi nóng nẩy, nếu tấn công vào tổng tham mưu thì đổ máu, và nhỡ
chết các tướng lãnh đang họp. Anh Hoàn kể tiếp:
- Lúc anh
trình xin tấn công tổng tham mưu thì nhiều người đồng ý. Cụ la ông Cao Xuân Vỹ
vì quá sốt sắng, rằng cụ là tổng tư lệnh quân đội mà lại ra lệnh cho quân đội
đánh nhau sao được. Tôi nghĩ cụ muốn từ chức cho êm đẹp, để anh em không đổ
máu. Ngoài ra, chắc cụ cũng nghĩ là các tướng lãnh vẫn còn mến cụ, và đảo chính
là do Mỹ tạo và ép các tướng lãnh phải làm. Có lần cụ bảo tôi xem có thằng Mỹ
nào ở đó không?
- Thế sao
anh không đi theo cụ? Tôi hỏi.
- Đầu
tiên cụ đưa cái cặp cho tôi, và tôi muốn đi theo cụ, nhưng Thọ xin đi với cụ,
vì nó chưa có gia đình, mà tôi có vợ con. Nó sợ nếu phải đi xa, ai lo cho vợ
con tôi. Cụ không nói gì, và Thọ lấy cái cặp đi theo.
Anh Hoàn
sau xin về tổng cục Chiến tranh chính Trị. Tôi để anh làm phụ tá cho tôi, ngồi
cùng một phòng. Đơn vị cuối cùng của anh là tham mưu phó Chiến tranh chính trị
Quân đoàn II. Tôi với anh rất thân, việc gì anh cũng hỏi tôi, khi đảo chính
xong, thấy tôi xin đi học Anh văn, anh cũng đi học Anh văn. Khi tôi về tổng cục
Chiến tranh chiến trị, anh cũng về cùng ngành với tôi, cho đến khi mất nước.
Anh mất sau khi đi tù cải tạo về.
Nhớ lại
thời làm chung ở tổng cục, gặp lúc rảnh, tôi và Hoàn thường tâm sự với nhau.
Tôi cứ thắc mắc sao cuộc đảo chính lại quá dễ dàng như vậy, mà sao Tổng Thống,
và nhất là ông cố vấn Nhu, lại chẳng chuẩn bị đề phòng gì. Đặc biệt là lúc bấy
giờ ai cũng cảm thấy có cái gì rất nghiêm trọng sẽ xẩy ra. Tôi nghĩ chỉ vì Tổng
Thống quá tin người, rồi đến khi nghe đảo chính xảy ra, gọi ai cũng không được.
Tư lệnh Hải quân đi vắng, tư lệnh Không quân đi vắng, nhảy Dù, Thủy quân lục
chiến, Lực Lượng Đặc Biệt đều vắng mặt. Khổ nỗi, mấy ông này không ai ra một lệnh
gì rõ ràng cho người thay mình lúc vắng mặt, hoặc phải làm gì nếu biến cố xảy
ra trong khi các ông vắng mặt. Vì quá tin người nên Tổng Thống nghĩ cứ giao cho
tướng Đính, tướng Khiêm là đủ. Không nghĩ tới trường hợp chính các ông này làm
phản, nên mới chết một cách thê thảm như vậy.
Tôi chả
bao giờ quên được lòng trung thành của anh em ở lữ đoàn đối với Tổng Thống. Sự
việc xẩy ra lúc trưa vào ngày nghỉ, mà anh em có mặt gần như đầy đủ. Đại Úy Huỳnh
Khắc Minh đang học Anh văn, cũng tất tả chạy về hỏi tôi có cần anh lo gì không.
Cô nữ trợ tá xã hội tên Lệ (tôi quên họ), mặc dầu tôi bảo cô có thể về nhà được,
vì sợ giao tranh nguy hiểm, nhưng cô nhất định ở lại với anh em. Bác sĩ Đại Úy
Nguyễn Tuấn Anh chạy vào ngay, và ông ở lại thành Cộng Hòa đến phút chót lo tản
thương cho anh em. Thiếu Tá Huỳnh Văn Lạc cũng ở lại dinh Gia Long với đầy đủ
anh em cận vệ của ông đến phút chót.
Sau này,
anh em tứ tán ở các đơn vị, nhưng mỗi khi tụi tôi gặp nhau đều ân cần, thăm hỏi
và lo lắng cho nhau như trong một gia đình.
Thống Tướng
Lê Văn Tỵ
Khi di cư
từ miền Bắc, tôi là Đại Đội trưởng Đại Đội 4 – Tiểu Đoàn 52, sau được đổi về đại
đội tổng hành dinh Sư Đoàn 32. Sư đoàn này sau đổi thành Sư Đoàn 4 dã chiến,
sau lại đổi tên là Sư Đoàn 7 Bộ Binh.
Ngày mới
từ Bắc vào, đơn vị đóng tại Quảng Ngãi, chưa có chiến trận gì, binh sĩ chỉ lo sửa
sang doanh trại, lau chùi vũ khí và học tập qua loa ngày mấy giờ, nên vui vẻ lắm.
Hơn nữa, giá sinh hoạt ở đây quá rẻ, 1 đồng 3 quả trứng, 4 hay 5 đồng một
con gà nên anh em ai cũng thừa tiền.
Khi ấy, Tổng
Tham Mưu trưởng là Trung Tướng Nguyễn Văn Hinh. Ông này nghịch với Thủ Tướng
Ngô Đình Diệm. Tư lệnh sư đoàn 32 là Trung Tá Nguyễn Hữu Có, cùng phe với Trung
Tướng Hinh. Binh sĩ hoang mang vô cùng, vì ngày nào cũng nghe đài phát thanh
Quân Đội chỉ trích Thủ Tướng. Những binh sĩ ở ngoài Bắc vô, 90% là Công Giáo và
ai cũng ủng hộ Thủ Tướng Diệm, vì gia đình họ được Phủ Tổng Ủy Di Cư giúp
đỡ. Nhiều buổi học tập, anh em đều thắc mắc về tình trạng này. Tôi bao giờ cũng
khuyên anh em bình tĩnh và ca tụng Thủ Tướng, nên được anh em có cảm tình.
Anh em
thuộc đại đội tổng hành dinh sư đoàn, ở ngay bộ tư lệnh mà Trung Tá Có là tư lệnh
sư đoàn, và Thiếu Tá Nguyễn Vĩnh Nghi là tham mưu trưởng. Trung Tá Có thường vắng
mặt ở sư đoàn nên Thiếu Tá Nghi luôn luôn ở bộ tư lệnh. Ông là người rất kỷ luật
và tử tế, chắc ông biết là khi học tập anh em đều có thiện cảm và kính trọng Thủ
Tướng, nhưng ông không có thái độ gì, và vẫn quý mến chúng tôi.
Binh sĩ
vào ngày Chủ Nhật đi xem lễ ngồi đầy nhà thờ, và rất có trật tự, nên được Cha Xứ
hài lòng lắm. Mỗi lần đến thăm Cha Xứ, ông đều khen ngợi binh sĩ hết lời, và
nhiều lần mời tôi ăn cơm. Trong câu chuyện, ông ca ngợi Thủ Tướng Diệm và ông tin
rằng miền Nam sau này sẽ được độc lập, tự do và phồn thịnh. Ông hỏi tôi nghĩ gì
về Thủ Tướng, tôi cũng trả lời là tôi ủng hộ Thủ Tướng hết mình, và rất mừng được
di cư vào đây, cả họ nhà tôi đều di cư và được giúp đỡ để định cư yên ổn. Ông kể
cho tôi nghe về sự khổ sở của dân chúng ở đây dưới thời Cộng Sản như thế nào,
nhất là những người Công Giáo: nhà thờ vắng lặng và bị canh chừng chặt chẽ, Cha
không được đi đâu, vì bị theo dõi sát.
Thấy tôi ủng
hộ Thủ Tướng, ông mừng lắm. Nhiều lần đi Huế, ông đều rủ tôi đi theo. Ý ông muốn
đưa tôi vào thăm ông Ngô Đình Cẩn mà ông thường gọi là cậu Cẩn. Tôi ngạc nhiên
hỏi ông, sao gọi là cậu, vì ông Cẩn đã nhiều tuổi . Ông nói ngoài này, các con
quan khi còn nhỏ được người ta gọi là cậu. Ông Cẩn vì chưa có vợ, người ta cứ
quen gọi là cậu.
Tôi hứa với
ông là sẽ đi đến thăm ông Cẩn sau. Khi ở Huế về, ông nói là ông có thăm cậu Cẩn,
kể cho cậu nghe về tôi, và cậu thích lắm. Cậu nói với Cha là cậu muốn gặp các
sĩ quan và hạ sĩ quan trẻ. Theo cậu, các sĩ quan cao cấp đều có liên hệ với
Tây nhiều, và hầu hết đều ủng hộ tướng Hinh. Cậu nói nếu tôi chưa về Huế được,
thì sẽ cho người liên lạc với tôi.
Quả nhiên
độ một tuần sau, Thiếu Tá Nguyễn Văn Châu (sau lên trung tá, giám đốc Nha Chiến
Tranh Tâm Lý) vào thăm tôi, mang cho tôi nhiều tài liệu nói về thân thế và sự
nghiệp của Thủ Tướng Diệm, kể cả những tin về Trung Tướng Hinh chống đối Thủ Tướng
như thế nào, và cả các giáo phái nữa.
Tôi quay
ronéo các tài liệu này, cho phổ biến, không những ở đơn vị tôi, mà cho cả các
đơn vị bạn ở Quảng Ngãi nữa. Anh Châu vui mừng lắm, từ đó gửi tài liệu đều cho
tôi phổ biến.
Một hôm
vào khoảng 10 giờ, một anh trung sĩ ở ban mật mã Truyền Tin đến cho tôi hay, có
một công điện mật của Trung Tá Có ở Huế gửi về. Nội dung như sau: Thủ Tướng
sẽ đến thăm Quảng Ngãi ngày gần đây chuẩn bị sẵn sàng đợi lệnh
Tôi hoang
mang vô cùng, tại sao công điện không nói rõ là chuẩn bị đón Thủ Tướng, hay phản
đối Thủ Tướng. Tôi liền cho một hạ sĩ quan thân tín, ngay đêm đó về Huế báo cho
anh Châu hay. Ở Huế, anh Châu cũng được tin là Đại Tá Trương Văn Xương, tư lệnh
Quân khu II, cũng là người của Trung Tướng Hinh, có một phiên họp với Trung Tá
Có và mấy sĩ quan cao cấp, để lợi dụng khi Thủ Tướng đến Quảng Ngãi, thì chất vấn
và phản đối.
Thế là Thủ
Tướng được đề nghị hủy bỏ chuyến đi thăm Quảng Ngãi. Chỉ đi thăm Qui Nhơn, rồi
về Sài Gòn.
Sau đó ít
lâu, Trung Tướng Hinh, Tổng Tham Mưu trưởng được thay thế bởi Thiếu Tướng Lê
Văn Tỵ. Trung Tá Có cũng rời sư đoàn để Đại Tá Dương Quý Phan thay thế, và
Trung Tá Hoàng Văn Lạc làm tham mưu trưởng, để lo tiếp thu phần còn lại của tỉnh
Quảng Ngãi về phía Nam giáp đến Qui Nhơn. Bộ tư lệnh sư đoàn tiền phương ra
đóng tại sông Vệ, và hậu cứ vẫn đóng tại thị xã Quảng Ngãi. Tôi là chỉ huy trưởng
hậu cứ sư đoàn.
Đài Quân
đội cũng chấm dứt việc đả kích Thủ Tướng. Anh em binh sĩ vô cùng mừng rỡ, càng ủng
hộ Thủ Tướng hơn. Khi Thủ Tướng gặp khó khăn với quân Bình Xuyên, tôi và Trung
Úy Trần Văn Minh bàn nhau trình với tư lệnh sư đoàn đánh điện ủng hộ Thủ Tướng.
Anh Minh và tôi lên gặp Đại Tá Phan khoảng 9 giờ tối ở bộ tư lệnh tiền phương,
tại xe ngủ của ông (ngày ấy bộ tư lệnh làm việc và ngủ ngay tại lều, riêng tư lệnh
ngủ trên xe được cải biến thành phòng ngủ). Chúng tôi trình ý kiến, được ông chấp
thuận ngay, và bảo: thì hai trung úy thảo ngay công điện hộ tôi. Tôi nhớ đại ý
công điện như sau:
Toàn thể
quân nhân thuộc sư đoàn 32 rất bất mãn về hành động gây hấn của quân Bình
Xuyên, kính xin thiếu tướng Tổng Tham Mưu trưởng chấp thuận cho sư đoàn 32 về dẹp
loạn Bình Xuyên. Toàn thể sĩ quan, hạ sĩ quan và binh sĩ Sư đoàn 32 nguyện
hết lòng trung thành với Thủ Tướng Ngô Đình Diệm
Công điện
được gửi về Bộ Tổng Tham Mưu ngay đêm ấy, ngày hôm sau được đọc trên đài phát
thanh.
Thiếu Tướng
Tỵ, Tổng Tham Mưu trưởng đánh điện khen sư đoàn và nói Thủ Tướng rất hài lòng.
Sau đó, sư đoàn 31 của Đại Tá Tôn Thất Đính, và các tiểu khu ở quân khu II đều
theo sư đoàn 32 đánh điện về ủng hộ Thủ Tướng. Anh Minh và tôi được đại tá tư lệnh
sư đoàn gọi lên khen và cám ơn.
Sau khi
tiếp thu xong, Sư đoàn lại được đổi tên là sư đoàn 4 và Đại Tá Tôn Thất Xứng
làm tư lệnh sư đoàn, thay thế Đại Tá Dương Quý Phan về coi Quân trấn Sài Gòn.
Bộ tư lệnh
sư đoàn được di chuyển về Biên Hòa, đóng tại nhà Dù. Bộ chỉ huy trung đoàn 10
và 11đóng tại Tam Hiệp, trung đoàn 12 đóng tại Bà Rịa.
Trước khi
di chuyển vào Nam, bộ tư lệnh sư đoàn 4 đóng tại Đà Nẵng cả mấy tháng, để sắp xếp
và đợi tàu. Trong thời gian này, vì chẳng bận rộn lắm nên những đơn vị trực thuộc
Bộ Tư Lệnh, nhất là Đại Đội Công binh, giúp dân chúng sửa đường làm cầu. Binh
sĩ rất có kỷ luật nên được dân chúng quý mến lắm.
Có hạ sĩ
Nguyễn Mạnh Hùng, là đả tự viên ở văn phòng, một hôm xin tôi lãnh lương trước,
để có tiền gửi cho em mới di cư từ Bắc vào cần tiền mua tự điển và sách vở. Tôi
xui anh Sao không viết thư xin Thiếu Tướng Tỵ xem, cứ kể rõ hoàn cảnh, thử xem
ông có thương anh em không. Thế là tôi giúp anh ta thảo một thư xin đứng tên hạ
sĩ Hùng. Độ 3 tuần sau, sư đoàn nhận được một công điện gọi hạ sĩ Hùng lên
trình diện đại tá tư lệnh Quân khu. Anh em trong đơn vị ai cũng ngạc nhiên,
riêng tôi và Hùng biết là thư có kết quả.
Hạ sĩ
Hùng được đại tá tư lệnh trao lại quà của thiếu tướng Tổng Tham Mưu trưởng, gồm
2 cuốn tự điển, một viết máy Pilot và nhiều tập vở. Sau đó đại tá còn cho đương
sự thêm 15 ngày phép để về thăm em.
Từ đó,
anh em ai cũng thích thú về cử chỉ của vị tân Tổng Tham Mưu trưởng Quân lực Việt
Nam Cộng Hòa. Đặc biệt ở Đà Nẵng, tôi được dự buổi ra mắt phong trào Cách Mạng
Quốc Gia, có ông cố vấn Ngô Đình Cẩn tham dự. Ông mặc áo dài đen, đầu đội khăn
đóng, cử chỉ rất khiêm tốn khi được giới thiệu. Sau buổi ra mắt là vở kịch thơ
Về Hồ, nói về tâm trạng của Hồ Quý Ly tại sao phải đứng dậy truất phế nhà Trần.
Tôi nhớ trong vở kịch có câu thơ do Hồ Quý Ly nói:Vua không ra vua mà quan chẳng
ra quan, nên ta buộc lòng phải hô phế đế. Lúc đó ông Ngô Đình Diệm còn làm Thủ
Tướng và ông Bảo Đại làm Quốc Trưởng. Sau vào Nam có cuộc bỏ phiếu truất phế Bảo
Đại, tôi lại nhớ đến vở kịch Về Hồ đã được xem khi ở Đà Nẵng.
Ngày ở
ngoài Trung, tôi được gặp ông Cẩn nhiều lần. Ông tiếp tôi rất ân cần và thân mật,
ông coi tôi là cán bộ nòng cốt của ông và thường gọi tôi là chú. Khi chào ông để
vào Nam ông còn mời tôi và anh em uống bia và dặn tôi cần gì ở ông cứ liên lạc
với ông. Đặc biệt ông tiếp tôi và anh em ở nhà khách, nhà gỗ lợp tranh có bộ
tràng kỷ rất sơ sài. Sau này, khi tôi đã về phủ Tổng Thống, năm 1963 đại diện
anh em ra chúc Tết, ông vẫn tiếp tôi ở ngôi nhà sơ sài đó. Có một chi tiết khiến
tôi cảm động, được bầy tỏ qua thái độ ân cần ông dành cho tôi. Tết năm ấy, tôi
đem một bó hoa vào chúc Tết. Khi tôi đến phòng đợi, có Thiếu Tướng Lê Văn
Nghiêm, tư lệnh quân khu I và ông đại biểu chính phủ miền trung đã đợi từ trước
ở đó. Được vị sĩ quan tùy viên của ông mời vào trước, tôi vội nói: anh mời thiếu
tướng và ông đại biểu vào trước. Anh sĩ quan tùy viên lúng túng thưa, tôi có
trình nhưng cậu dạy mời thiếu tá. Tôi không chịu, nhưng Thiếu Tướng Nghiêm bảo:
Duệ vào trước đi, chắc ông cần gặp toi để dặn công việc, vậy toi cứ vào. Gặp
ông tôi mừng lắm. Ông trách sao lâu quá tôi không ra thăm ông. Ông vẫn nhớ chuyện
ngày tôi ở Quảng Ngãi đã hoạt động giúp ông và vẫn gọi tôi là chú. Mẹ tôi bị
đau bại một cánh tay, có người mách nếu được cao hổ cốt thật mà uống thế nào
cũng đỡ. Biết ông có cao tốt cho cụ cố dùng, tôi nhắn ra xin và ông gửi ngay
cho 5 lạng, mẹ tôi uống có hơn 2 lạng đã khỏi. Tôi thấy ông đối với cán bộ của
ông thật chân tình nên ai gặp cũng quý mến, trái hẳn với những tin đồn nói ông
hách dịch quan liêu. Sau đảo chánh, người ta gọi ông là Út Trầu vì ông hay ăn
trầu. Nhưng ông không phải là con út, ông Ngô Đình Luyện mới là con út.
Khi đóng
tại nhà Dù Biên Hòa, ngay cạnh quốc lộ 1, vào một buổi sáng Chủ nhật, tôi vừa
ăn sáng xong thì thấy ngoài đồn canh nhốn nháo, ồn ào. Tôi vội chạy ra xem, thấy
đại tướng Tổng Tham Mưu trưởng đang nói chuyện với đại tá tư lệnh sư đoàn bằng
điện thoại của đồn canh, và binh sĩ đang hối hả động súng để sắp hàng chào. Tôi
chào đại tướng, và đứng cạnh khi ông đang nói chuyện với đại tá tư lệnh.
- Xứng hả,
đại tướng Tỵ đây. Sao mày không dạy bảo lính của mày vậy cà? Tao đi qua đây bao
nhiêu lần mà lính gác gặp tao cũng không chào nữa.
Không biết
Đại Tá Xứng bên kia đầu dây trả lời ra sao, chỉ nghe ông nói:
- Thôi được,
kỳ tới phải dạy tụi nó.
Nói rồi
ông gác máy, quay lại nhìn tôi:
- Đại úy tên
gì ?
- Dạ thưa
đại tướng, tôi là Đại Úy Duệ, chỉ huy tổng hành dinh sư đoàn 4.
- Tao đi
qua đây nhiều lần mà lính gác thấy tao chẳng bao giờ chào cả.
- Dạ thưa
đại tướng, anh em mới đổi từ miền Trung vào nên ít người nhận ra đại tướng. Xin
đại tướng tha lỗi. Tôi sẽ nhắc anh em phải chào kính trong những buổi học tập.
Thế là
ông cười vui vẻ ngay và bảo:
- Thôi được,
phải dạy tụi nó, rồi ông hỏi lại tôi – Vậy chứ hôm nay Chủ nhật anh không đi
chơi à ?
- Dạ tôi
là sĩ quan trực của sư đoàn.
Khi ông về,
lính canh đã sẵn dàn chào, ông vui vẻ lên xe. Vì ông có đồn điền cà phê ở Long
Khánh nên ngày nghỉ hay lên thăm. Ông thường đi xe số ẩn tế, mặc áo kaki và quần
trận, đội chapeau de Brousse nên anh em không biết là đại tướng.
Sau tôi
vào điếm canh, anh em sợ bị la nên phân trần là ngay khi ông vào điếm canh, anh
em cũng không biết ông là ai. Ông hỏi thằng nào là điếm trưởng trung sĩ điếm
trưởng trả lời : Tôi đây, ông là ai? Gọi dây cho tao nói chuyện với thằng Xứng
coi, tao là đại tướng tham mưu trưởng đây. Điếm trưởng hoảng hồn, hô vào hàng
phắc lính canh đứng dậy nghiêm trang. Ông cầm điện thoại và cũng bảo tổng đài
- Gọi cho
tao nói chuyện với thằng Xứng coi. Tổng đài sau báo cáo với tôi, tưởng ai đùa
nên la
- Thôi đừng
dỡn cha nội, đụng đến ông Thất Sừng là ăn củ đó (anh em vẫn đùa gọi Đại Tá Tôn
Thất Xứng là ông Thất Sừng).
Ông cũng
phì cười, và bảo:
- Tao mà
đùa à, gọi ngay.
Điếm trưởng
phải cầm điện thoại bảo tổng đài đúng là đại tướng đó.
Từ đó, mỗi
sáng Chủ nhật, đồn canh phải cắt một binh sĩ có nhiệm vụ đứng xa độ 300 thước,
để đón xe đại tướng. Trong này phải giá súng sẵn, khi nghe tiếng còi báo hiệu
là tức khắc dàn chào. Buồn cười nhất là trong sổ gác có mục ghi – binh sĩ X…
Gác đại tướng. Tôi đọc cũng thấy buồn cười, nhưng không sửa, để làm kỷ niệm, vì
sổ gác chỉ trình tôi đọc hàng ngày mà thôi. Chắc là đơn vị ở cầu Bình Lợi cũng
bị la như vậy, nên có lần suýt xẩy ra tai nạn. Một hôm xe đại tướng tới cầu,
thì xe lửa cũng sắp đến. Thấy xe đại tướng đến, lính gác sợ quá, vội mở ngay cần
chắn xe để xe đại tướng đi. Cùng lúc ấy, xe hỏa chợt đến, thế là xe đại tướng
chạy trước, xe hỏa chạy sau. Tài xế sợ muốn chết, may anh cận vệ nhảy xuống lề,
mở cây chắn xe bên kia, nên xe đại tướng chạy qua được an toàn.
Một năm
vào ngày Tết, phái đoàn sư đoàn 7 do Đại Tá Huỳnh Văn Cao hướng dẫn (tôi cũng ở
trong phái đoàn) lên chúc Tết đại tướng. Ông tiếp rất niềm nở, và kể cho tụi
tôi nghe chuyện xẩy ra vào ngày đảo chánh 11 tháng 11 năm 1960. Hôm ấy ông bị
Trung Tá Vương Văn Đông vào văn phòng ép, nhưng ông vẫn không chịu theo phe đảo
chánh, và nói chỉ nhận lệnh của Tổng Thống mà thôi. Khi ra ngoài, tôi gặp Đại
Tá Nguyễn Hữu Có, là tư lệnh Quân khu I, cũng đến chúc Tết đại tướng. Thấy tụi
tôi mang hoa, còn ông thì đi tay không, ông vồ lấy bó hoa mà phái đoàn sư đoàn
7 mang đến, rồi cầm vào chúc Tết.
Trước
ngày đảo chánh, các tướng lãnh và sĩ quan như tụi tôi đối xử với nhau như anh
em. Tôi nhớ ngày ở Mỹ Tho, làm trung đoàn trưởng trung đoàn12, tôi lên chúc Tết
Đại Tá Cao, sau đó xin phép ông về Sài Gòn thăm cha mẹ tôi. Ông cho tôi chai rượu
và hộp bánh, nói để tặng cha mẹ tôi, trong khi tôi đến chúc Tết ông tay không.
Ông còn đặc biệt cho tôi ở lại Sài Gòn đến mai mới về.
Ở trung
đoàn tôi có Trung Úy Loan được đi học tham mưu ở trường đại học Quân sự ở Sài
Gòn. Một hôm, trong khi ngồi trên xe GMC đi học, anh em nói chuyện huyên
thuyên, và anh Loan nói câu nhất vợ nhì trời. Anh bạn ngồi cạnh hỏi thế thứ
ba là ai ? Anh buột miệng trả lời thứ ba là Ngô Tổng Thống, anh em cười vang.
Thế là Nha An Ninh gửi công văn về cho tôi để theo dõi, và yêu cầu không cho
đương sự giữ nhiệm vụ gì quan trọng, không được làm ở bộ tham mưu như đương sự
đi học. Tôi làm một văn thư lên Bộ Tổng Tham Mưu, trình bày đương sự là một sĩ
quan có kỷ luật, và khi đương sự thốt ra câu ấy cũng chả có gì là vô phép, xin
đại tướng xét lại. đại tướng cũng đồng ý.
Đại tướng
gặp tụi nhỏ, hay các sĩ quan cao cấp, đều vui vẻ và mày tao một cách tự nhiên,
vì ông là người cao tuổi và cấp bậc lớn, nên coi mọi người như em út của ông.
Ai mà ông gọi bằng cấp bậc một cách nghiêm trang, là ông buồn người đó.
Tết năm
1963, phái đoàn tướng lãnh và sĩ quan cao cấp đến chúc Tết Tổng Thống, tôi cũng
được ở trong phái đoàn. Khi Tổng Thống vào phòng, có vị tướng nào đội lộn mũ của
đại tướng, ông gọi tôi và bảo:” Duệ, mày xem thằng tướng nào dám đội mũ của
tao” ông vừa nói vừa cười, và nói thêm “chắc thằng này muốn thay tao quá!”. Vì
đại tướng chưa về, nên chưa ai dám về. Tôi phải đi gặp từng vị tướng, để xem lại
mũ. Người đội nhầm mũ, là Trung Tướng Dương Văn Minh. Tôi xin đổi lại mũ, và
ông nói:
- Ừ,
“moi” đội hơi rộng.
Sau khi
phái đoàn tướng tá chúc Tết ra về, Đại Úy Hoàn, sĩ quan tùy viên vẫy tôi, và chỉ
vào phòng Tổng Thống. Tôi ghé xem, thấy Trung Tướng Lễ, Thiếu Tướng Đính, Đại
Tá Mậu, Trung Tá Hùng, và Thiếu Tá Xích (tỉnh trưởng Gia Định), đang quỳ một dọc
trước bàn của Tổng Thống. Các vị này nhân danh là con cháu trong nhà, chúc Tết
riêng một lần nữa.
Hoàn nói
với tôi : “Anh xem chả có tư cách gì, mặc quân phục mà quỳ trông chướng quá.!”
Tôi cũng nói mấy ông này đặt ông cụ vào chuyện đã rồi, vì tôi nghĩ ông cụ đâu
có thích chuyện này. Ngày 1-11-63 các ông Lễ, Đính, Mậu là những người đầu não
trong bộ tham mưu đảo chính, và chính ông Lễ đã xui Trung Tướng Dương Văn Minh
là “Nhổ cỏ phải nhổ cả rễ ” theo như Đại Tá Nguyễn Văn Quan, phụ tá của tướng
Minh kể với tôi.
Vào tháng
7-1963, đại tướng bị ung thư phổi. Ngày đó, việc chữa trị ung thư ở Việt Nam
chưa tốt lắm, Tổng Thống phải liên lạc nhờ tòa đại sứ Mỹ lo liệu, để chở đại tướng
sang Mỹ chữa trị.
Hôm đại
tướng đến chào Tổng Thống để xuất ngoại, chính Tổng Thống ra lệnh cho đội danh
dự dàn chào, và tiếp đại tướng lâu lắm. Đó là ngoại lệ, thường thì đại tướng đến
gặp Tổng Thống hay Phó Tổng Thống cùng các bộ trưởng, chưa có vị nào được đơn vị
dàn chào. Thiếu Tá Cao Tiêu làm ở văn phòng đại tướng (sau là Đại Tá Cao Tiêu,
cục trưởng cục tâm lý chiến) kể với tôi đại tướng về kể lại: Ông được Tổng Thống
đón rất trang trọng, và hai người ôn lại chuyện xưa. Đặc biệt, Tổng Thống nói,
đại tướng không còn mẹ già như Tổng Thống, mà ông thì vì trọng trách ít có dịp
về thăm mẹ nên ông mong sớm được về hưu để phụng dưỡng mẹ già. Ông tháo chuỗi
tràng hạt mà ông đang đeo đưa tặng đại tướng, mong đại tướng chóng bình phục để
về tiếp tục lo cho quân đội. Ông nói chỉ đặt chức quyền Tổng Tham Mưu trưởng mà
thôi, ý muốn để đại tướng rõ là ông vẫn mong đại tướng về lại chức vụ cũ. Anh
Tiêu nói đại tướng rất cảm động về cử chỉ của Tổng Thống (Đại Tá Tiêu hiện ở
Orange County, California)
Đặc biệt
có một cử chỉ tôi chưa hề thấy bao giờ là khi đại tướng ra về, Tổng Thống tiễn
chân đại tướng ra đến tận xe, bắt tay đại tướng, đợi khi đại tướng lên xe, ông
còn cúi đầu chào trước khi xe lăn bánh. Khi trở lại văn phòng, ông có vẻ buồn rầu.
Đại tướng
chữa bệnh ở Mỹ lúc đảo chính xảy ra. Sau một thời gian ông về lại, vì bịnh tình
không thuyên giảm. Đại Tá Trần Vĩnh Đắt là phụ tá của Trung Tướng Trung, tổng cục
trưởng tổng cục Chiến Tranh Chính Trị đặc trách về tù binh, kể với tôi. Khi đại
tướng về, đại tá ra đón, sau luôn đến thăm ông, và ông rất đau xót về việc các
tướng lãnh đã giết Tổng Thống. Ông nói mấy thằng tướng này làm sao lãnh tụ được
mà cũng đòi có thằng nào chịu phục thằng nào đâu. Tụi nó giết ông cụ thì sau
này tụi nó sẽ hối hận. Tìm đâu được người yêu nước và can đảm như Ông Diệm,
nghĩ đến ông tao muốn khóc. Đại tướng còn lôi ở trong cổ ra chuỗi tràng hạt do
Tổng Thống tặng, mà ông luôn để trong người (Đại Tá Đắt đã chết ở Việt Nam)
Đại tướng
được vinh thăng thống tướng (5 sao), vị thống tướng duy nhất của quân đội Việt
Nam Cộng Hòa, trước khi từ trần vào cuối tháng 10-1964. Nghe nói khi mai táng,
gia đình đã chôn theo đại tướng cỗ tràng hạt mà Tổng Thống đã tặng.
Không nhớ
rõ là ngày nào, vào khoảng trước tết năm 1973 độ vài tháng, tôi đã được vinh dự
gặp Phó Tổng Thống Trần Văn Hương. Cho đến bây giờ khi nhớ lại, tôi vẫn còn
thích thú, vì không ngờ được ông tiếp lâu như vậy. Hơn nữa, ông đã giải thích
rõ ràng những điều tôi thắc mắc, như một thầy giáo chỉ vẽ cho người học trò của
ông vậy.
Tôi và
Trung Tá Thạch, chánh võ phòng của ông là bạn – chúng tôi thân nhau, tuy ít khi
gặp nhau sau ngày đảo chánh 1-11-63. Khi tôi làm tư lệnh phó kiêm tham mưu trưởng
Lữ đoàn phòng vệ phủ Tổng Thống, anh Thạch là đại đội trưởng của lữ đoàn.
Một hôm,
anh đến thăm tôi tại tổng cục Chiến tranh chính trị, và cho một món quà mà tôi
nghĩ là vô giá, vì lòng quý mến của anh với tôi. Đó là một tượng Phật chạm trổ
rất sắc sảo, trên một cái nanh heo rừng lớn, dài đến hơn một tấc. Tượng
được chạm trên đầu lớn của nanh heo. Đầu nhỏ nhọn hoắt, đã lên nước vàng đậm.
Tượng đựng trong túi bằng da mầu đỏ. Anh nói với tôi:
- Tượng
này quý lắm, và là của cụ Phó Tổng Thống cho tôi. Nhưng tôi là người Công
giáo, không đeo được.
Vậy tôi
xin biếu để đại tá đeo. Người ta nói ai giữ tượng này và chịu khó cầu nguyện, sẽ
gặp nhiều may mắn.
Tôi cảm động
vô cùng, và cám ơn anh hết lòng.
Khi hàn
huyên, tôi được nghe anh kể về cụ Hương. Anh quý mến cụ nhiều, và khen cụ hết lời,
như: cụ thương anh em ở gần; sự trong sạch cũng như tính cương quyết của cụ
trong việc bài trừ tham nhũng, không nể nang bất cứ ai, kể cả các giới chức cao
cấp v.v…
Tôi hỏi
anh Thạch:
- Thế Phó
Tổng Thống có biết trước đây anh ở lữ đoàn lo an ninh cho Tổng Thống Diệm
không?
- Sao lại
không biết, tôi thấy cụ không bao giờ tỏ vẻ bất mãn với Tổng Thống Diệm cả. Mỗi
lần đề cập đến Tổng Thống Diệm cụ vẫn gọi là cụ Diệm, chứ không bao giờ chê
trách gì. Để có dịp, tôi sẽ sắp xếp cho đại tá gặp Ông Cụ, tôi tin là khi gặp,
đại tá sẽ có cảm tình và quý mến cụ ngay, vì sự nhiệt tình yêu nước của cụ.
Tôi được
may mắn ở gần Tổng Thống Ngô Đình Diệm, gặp Quốc Trưởng Dương Văn Minh, gặp Phó
Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ, gặp đại tướng Lê Văn Tỵ cùng nhiều vị bộ trưởng và
nhiều tướng lãnh. Tôi thường nghĩ các vị làm lớn giữ vận mệnh quốc gia, thế nào
cũng có gì hơn người, nên muốn tìm hiểu xem họ có những gì đặc biệt. Nhất là về
những đức tính của họ.
Cụ Hương
đã từng làm đô trưởng Sài Gòn thời Tổng Thống Diệm, rồi có lúc đối lập với Tổng
Thống Diệm, trong nhóm Caravelle. Sau này, vào đầu tháng 11-1964, trong lúc đất
nước rối ren, cụ nhận chức Thủ Tướng, lãnh đạo đất nước một cách cương quyết,
và được tiếng là rất trong sạch. Có thể nói, cụ đã bị lật đổ chỉ vì không chịu
chiều theo đòi hỏi của các nhóm tranh đấu nhân danh Phật giáo. Cụ đã phải lên
tiếng thẳng trên đài phát thanh và báo chí, nghiêm khắc chỉ trích những hành động
gây xáo trộn của các nhà tu hành, làm đất nước rối ren thêm.
Tôi rất mừng
khi nghe anh Thạch nói sẽ thu xếp để tôi được gặp cụ trong một dịp nào đó.
Ngày ấy,
mỗi dịp Tết, tổng cục Chiến tranh chính trị đều lo tặng quà cho binh sĩ ngoài
tiền tuyến, nên đã phát động Cây mùa xuân chiến sĩ mà tôi là phụ tá của trung
tướng tổng cục trưởng, đặc trách lo việc này.
Chiến dịch
này được nhân dân hưởng ứng nồng nhiệt; kết quả ngoài sự dự trù của Tổng cục,
quỹ lên đến mấy trăm triệu và phong trào hậu phương yểm trợ tiền tuyến lên cao,
anh em chiến sĩ cũng lên tinh thần.
Có một cuốn
sổ vàng để ghi lời phát biểu của Tổng Thống và các vị ân nhân. Tôi nhớ Tổng Thống
Nguyễn Văn Thiệu bao giờ cũng ghi trang đầu, kêu gọi mọi người ủng hộ cây mùa
xuân, và tặng 1 triệu đồng. Các thương gia, hội đoàn cũng tham gia đông lắm.
Bao giờ tôi cũng để sẵn nhiều trang đầu, để khi các vị cao cấp muốn ký sổ vàng
thì ghi ở những trang ấy.
Một hôm
anh Thạch gọi tôi, nói Phó Tổng Thống Trần Văn Hương muốn ghi sổ vàng tặng anh
em chiến sĩ tiền tuyến. Tôi xin ngày giờ hẹn để đến gặp. Anh Thạch sắp xếp để
tôi gặp cụ lúc 7 giờ tối, sau khi cụ dùng cơm, để tôi có thể hầu chuyện cụ lâu
một chút.
Cụ tiếp
tôi ngay tại bàn ăn ở tư dinh. Cụ ngồi đầu bàn, tôi ngồi ghế bên phải cụ, và được
mời uống trà.
Khi tôi
được anh Thạch giới thiệu, cụ đứng dậy bắt tay tôi rất niềm nở, và gọi tôi là
ông đại tá. Tôi thưa với cụ là cụ Phó Tổng Thống. Nhưng sau ít phút, cụ thân mật
gọi tôi là anh. Tôi thưa cụ và xưng cháu.
Mặc dầu
thấy tôi mang cuốn sổ vàng, nhưng cụ chưa ghi vội. Cụ hỏi thăm tôi rất nhiều về
quân đội – nhất là về trại gia binh, việc ăn uống của binh sĩ – có một câu hỏi
làm tôi ngạc nhiên là cụ so sánh mức sống ăn uống của anh em ở 4 vùng chiến thuật.
Cụ nói anh em ở Sàigòn và vùng 4 vùng 3 giá sinh hoạt rẻ nhưng ở vùng 1 và vùng
2 chắc khó khăn hơn. Ngoài ra, cụ cũng nói đến việc nên cho anh em ở các đồn
bót được tăng gia sản xuất như nuôi gà, heo, đào ao thả cá để ăn uống tốt hơn.
Tôi chợt
nhớ có lần Tổng Thống Diệm đã đề cập đến việc cho các đơn vị tăng gia sản xuất,
nhưng chưa thấy thi hành.
Cụ Hương
còn hỏi tôi về những vụ đấu thầu trong quân đội nữa. Tôi thưa là về vụ này, tôi
không rõ lắm. Cụ cũng nhắc tôi là tiền quyên góp về cây mùa xuân, nên cho anh
em ngoài tiền tuyến nhiều hơn v.v…
Sau cùng
có một câu cụ hỏi làm tôi khó trả lời:
- Anh có
bạn bè trong quân đội nhiều và cũng tiếp xúc với nhân dân nữa, anh thấy họ phàn
nàn hay phê bình gì về tôi cứ cho tôi rõ.
Tôi dè dặt
trả lời:
- Thưa cụ,
cụ đã cho phép thì cháu xin được nói ý nghĩ của cháu và nhiều anh em bè bạn
cũng bàn bạc như vậy
- Riêng về
cụ, ai cũng trọng đức tính thanh liêm và lòng can đảm của cụ. Cháu cũng thấy
anh em nói về việc cụ đã thẳng tay bài trừ tệ nạn tham nhũng mà không kể gì đến
những người cao cấp, nên anh em quý mến cụ lắm.
Nghe vậy,
tôi thấy cụ không vui lắm, và nói một cách hết sức chậm rãi, đượm buồn:
- Tôi chỉ
mới bắt một vài vụ để dằn lại những sự vi phạm sau này, chứ kể ra còn nhiều lắm.
Người cộng tác thì ít quá và muốn cho công bằng thì phải xét kỹ nên không thể
nào làm cho nhanh được. Việc gì cũng do người làm với mình trình lên chứ tôi lo
sao cho hết. Thật ra, số người lo việc này chả có là bao nên càng ngày càng
khó.
Thấy cụ
có vẻ cởi mở, tôi bạo dạn hỏi thêm:
- Thưa cụ,
cháu có mấy điều thắc mắc, xin cụ cho phép cháu được hỏi thêm ít điều.
- Anh cứ
hỏi.
- Thưa cụ,
nghe anh em nói, cụ ghét Bắc kỳ nên ít dùng người Bắc.
- Làm gì
có chuyện này. Tôi là người học thức và là thầy giáo nữa. Tôi phải làm gương
cho học trò noi theo. Cái điều sơ đẳng ai cũng biết, là người Việt Nam mình từ
Bắc đến Nam cũng là dòng người Việt cả. Nhiều người Nam này đều có ông cha xuất
xứ từ miền Bắc, như vậy chúng ta như gà một mẹ. Sao lại nói là tôi ghét người Bắc
được. Có một điều là tôi sinh trưởng trong Nam này nên ít có bạn người Bắc. Tôi
tìm người cộng tác hay mời những người tôi biết để làm việc chung, nên người ta
hiểu lầm tôi.
Thấy tôi
dám hỏi, cụ khuyến khích thêm.
- Anh có
gì cần hỏi cứ nói đi.
- Dạ thưa
cụ, cháu xin phép được hỏi thêm: cụ nghĩ sao về Tổng Thống Diệm? Ông gật gù suy
nghĩ và trả lời:
- Tôi lúc
nào cũng trọng cụ Diệm và biết cụ là người yêu nước thương dân. Tôi cũng từng cộng
tác với cụ, nhưng rất tiếc tôi có những điều không đồng ý với cụ, nhất là với
ông cố vấn Ngô Đình Nhu. Sau này, khi đảo chánh xảy ra cho đến bây giờ, tôi vẫn
tiếc thương về cái chết của cụ Diệm.
Rồi ông hỏi
lại tôi:
- Nghe
anh Thạch nói anh hết lòng trung thành với cụ Diệm trong lúc đảo chánh, như vậy
là phải.
- Cháu
xin phép được hỏi thêm cụ một điều nữa. Cháu nghe nói khi làm Thủ Tướng, cụ
cũng gặp những điều khó khăn với phía Phật giáo tranh đấu, nên cụ giận phải
tuyên bố với báo chí và truyền thanh, cháu nghĩ cụ cũng là Phật giáo, đúng ra họ
phải ủng hộ cụ chứ.
- Người học
thức và là kẻ sĩ thì thấy gì đúng là phải làm, họ lợi dụng quá và quên cả việc
tu hành mà chỉ muốn xen vào việc cai trị. Tôi quen nhiều vị lãnh đạo Phật giáo
và họ chỉ muốn tu hành trong phạm vi tôn giáo mà thôi, nhưng lại có nhiều người
lợi dụng quá đáng. (Cụ nói dài về việc này, nhưng tôi không nhớ hết và tóm tắt
điều tôi hiểu là như vậy).
Thấy cụ hắt
hơi, lấy khăn ra lau mũi và tôi xem đồng hồ đã thấy cụ tiếp tôi gần 2 tiếng rồi,
sợ cụ mệt nên tôi thưa:
- Cháu được
hầu chuyện cụ lâu như thế này, thật là điều vinh hạnh nhất trong đời cháu, bây
giờ cháu mới rõ những điều khó khăn của các vị lãnh đạo. Cháu xin cám ơn cụ và
cháu xin phép để cụ nghỉ.
Sau đó,
tôi trình cuốn sổ vàng, cụ hỏi:
- Tổng Thống
Thiệu tặng bao nhiêu?
- Dạ, Tổng
Thống tặng một triệu đồng.
- Tôi
cũng tặng một triệu.
- Cháu
xin cụ ghi cho mấy dòng để nói lên lòng thương mến của cụ với anh em chiến sĩ.
Cụ đã viết
vào sổ những lời rất chân tình và cảm động. Tôi không còn nhớ rõ, nhưng đại ý cụ
hiểu là đời sống anh em rất cực khổ và gian lao và cụ lúc nào cũng nhớ đến.
- Cháu
xin phép cụ để được đọc những lời cụ viết trên đài phát thanh. Cháu sẽ nhớ mãi
trong đời cháu là đã được cái vinh dự hầu chuyện cụ.
Cụ đứng dậy
bắt tay tôi và chậm rãi đi vào. Anh Thạch nói với tôi:
- Thật là
đặc biệt. Ít khi tôi thấy cụ tiếp ai lâu và vui vẻ như vậy.
Khi quân
đội Việt Nam Cộng Hòa bắt đầu thành lập đến cấp sư đoàn, bộ tư lệnh sư đoàn 32
đóng ở Quảng Ngãi. Bộ tư lệnh này được di chuyển về Biên Hòa, đóng tại nhà Dù,
để lấy ba trung đoàn 10, ll, 12 lập ra sư đoàn (sau đó đổi tên là sư đoàn
7, xuống đóng ở vùng 4).
Trung
đoàn 12 là tên của trung đoàn 54 cũ, do Thiếu Tá Đỗ Hữu Độ làm trung đoàn trưởng.
Thiếu Tá Độ học khóa 5 Đà Lạt, tôi học khóa 6, nên ông là niên trưởng của
tôi. Chúng tôi biết nhau từ khi ông coi tiểu đoàn 2 ở Quảng Ngãi. Ông giầu kinh
nghiệm chiến trường vì hành quân nhiều ở ngoài Bắc, là một trong những tiểu
đoàn trưởng trẻ ở Bắc Việt. Tôi sau khi đi học ở FortBenning về, được làm trung
đoàn phó cho ông.
Trong sư
đoàn ngày ấy, người ta đồn ông rất giàu có, vì khi hành quân dẹp Bình Xuyên ở Rừng
Sắt, ông đã bắt được Lê Paul là con của tướng Bảy Viễn, và đã thu được một
trong những kho tàng của Bảy Viễn ở Rừng Sát. Ông cũng nổi tiếng là người dám tổ
chức cướp kho súng của Pháp, kể cả xe tăng, khi quân Pháp tập trung ở căn cứ Bà
Rịa để rút về Pháp qua ngả Vũng Tàu. Căn cứ này sau là nơi tạm trú của trung
đoàn 12. Khi trung đoàn 12 thuộc sư đoàn 7 chuyển về miền Tây, nơi này trở
thành trung tâm Huấn luyện Chi Lăng sau này.
Khi quân
Pháp đóng tại căn cứ này, trung đoàn 54 cũng đóng cùng trại. Một số quân nhân của
trung đoàn được sự đồng ý của Thiếu Tá Độ, tổ chức lấy lại một số súng của Pháp
trước khi họ về nước, và cũng định lấy lại một số xe tăng nữa cho quân ta xài
sau này. Họ cho lính Pháp lái xe tăng và coi kho uống rượu pha thuốc ngủ, để dễ
hành động. Rủi sự việc có người tiết lộ, hay không biết do đâu mà cấp chỉ huy
Pháp biết được, nên báo động kịp thời. Quân ta chỉ mới lấy được một số súng cá
nhân.
Đại sứ
Pháp liền viết thư phản đối với Thủ Tướng Diệm. Thủ Tướng giao cho nha An ninh
Quân đội điều tra. Ngày ấy nha An ninh do Thiếu Tướng Mai Hữu Xuân coi. Buổi
sáng Chủ nhật hôm ấy tôi lên tư thất Đại Tá Tôn Thất Xứng, là tư lệnh sư đoàn 4
lúc bấy giờ để đi cùng ông xuống trại Tam Hiệp (thuộc Biên Hòa) để tìm nơi lập
trung tâm huấn luyện sư đoàn. Tôi đến gặp lúc ông đang cắt tóc, nên ngồi đợi và
nói chuyện cùng ông (ngày ấy tôi là chỉ huy trưởng tổng hành dinh sư đoàn). Chợt
có tiếng điện thoại reo, tôi ra nghe, người đầu dây bên kia xưng là Thiếu Tướng
Xuân của Nha An ninh. Tôi trình Đại Tá Xứng ra nghe. Không rõ bên kia nói gì,
nhưng nét mặt đại tá có vẻ nghiêm trọng, và hỏi lại: “Thiếu tướng muốn Thiếu Tá
Độ về ngay hôm nay?” rồi ông trả lời tiếp là vâng và cúp máy.
Ông quay
nhìn tôi hỏi:
- Anh có
biết việc Độ đầu độc quân Pháp để cướp súng và xe tăng không?
- Tôi có
nghe đồn, nhưng sự việc xảy ra từ hồi mình còn ở Quảng Ngãi, và có thành công
đâu.
- Sao moa
không biết gì. Ông Xuân nói Thủ Tướng bắt điều tra gấp, và bắt Độ về trình diện
An ninh quân đội. Anh gọi Độ ra gấp gặp tôi.
Tôi dùng
ngay điện thoại gọi Thiếu Tá Độ. Ông hỏi lại tôi Anh biết đại tá gọi về có việc
gì? Moa có phải mang thêm tài liệu gì không?
- Dạ chắc
không cần mang tài liệu gì. Thiếu tá về gấp đi, tôi đang ở tư thất của đại tá
tư lệnh, vậy thiếu tá về thẳng nhà đại tá. Tôi cũng đợi thiếu tá ở đây.
Vừa gác
điện thoại thì Đại Tá Xứng nói với tôi, có vẻ băn khoăn lắm:
- Moa lo
Độ sẽ gặp khó khăn về việc này. Ông Xuân nói với moa có vẻ quan trọng lắm, moa
sợ Độ về gặp ổng dám giữ lại lắm.
- Thì đại
tá phải lo cho ông ấy chứ. Ông làm vì quân đội, đâu phải cho cá nhân ông. Đại
tá nghĩ lấy súng và xe tăng để giữ cho quân đội chứ ông bán được sao!
- Vẫn biết
vậy, nhưng toa biết không, ông Xuân này là người của Pháp, và là một mật thám
cũ, thế nào cũng bênh Pháp, làm lớn chuyện ra.
- Hay đại
tá đừng cho ông Độ về trình diện vội. Đại tá gọi giây nói cho Thiếu Tướng Xuân
trước, nói Thiếu Tá Độ đang bận hành quân, xin cho xong rồi về trình diện sau.
- Đâu có
được, moa đã đồng ý rồi. Vả lại, hoãn ít hôm cũng phải về trình diện.
Đại Tá Xứng
là người nóng tính, thanh liêm, nhất là quý mến anh em hết lòng. Bất cứ việc gì
có hại đến người dưới quyền, ông bênh đến cùng. Điều cần là trình thẳng với ông
và phải thành thực.
Lúc bấy
giờ, tuy là thời bình nhưng ông gay gắt vấn đề huấn luyện lắm. Ông là người đầu
tiên bắt binh sĩ tập di hành. Tuần nào binh sĩ cũng phải di hành, đeo ba lô nặng
20 kí, đi cả mấy chục cây số. Lính đứng gác cũng phải đeo ba lô. Có lần binh sĩ
của tôi di hành qua Hố Nai, dân chúng hỏi các anh đi hành quân chiến dịch nào
đây. Có anh trả lời – chúng tôi đi chiến dịch Tôn Thất Xứng đây, mọi người cười
vang. Thế mà có người mách ông, ông chỉ cười và hỏi lại tôi có đúng không? Nhiều
lần cần tiền, ông nhờ tôi cho vay lương trước, để chi tiêu trong gia đình. Tôi
làm việc với ông rất thoải mái, tuy hơi vất vả nhưng yên tâm, vì biết tính ông
rất tốt với anh em. Có lần tôi gặp khó khăn với nha Quân nhu về việc đổi quân
trang cho anh em. Khi lên trình xin ông can thiệp, ông gọi ngay cho đại tá giám
đốc Quân Nhu phàn nàn, và tôi được đổi ngay.
Về Thiếu
Tướng Xuân, tôi cũng được biết ông khá nhiều sau này. Năm 1955, có hai chiến dịch
là Trương Tấn Bửu ở miền Đông, và Thoại Ngọc Hầu ở miền Tây. Tướng Dương Văn
Minh chỉ huy chiến dịch Thoại Ngọc Hầu, tướng Mai Hữu Xuân chỉ huy chiến dịch
Trương Tấn Bửu.
Sư đoàn 4
hành quân ở miền Tây, tôi là chỉ huy trưởng hậu cứ Biên Hòa.
Đại Úy
Trương Văn Minh là trưởng phòng 2 sư đoàn, kiêm nhiệm trưởng phòng 2 chiến dịch
Trương Tấn Bửu. Tham mưu trưởng là Đại Tá Trần Thiện Khiêm.
Một lần Đại
Úy Minh gặp tôi, nói Thiếu Tướng Xuân nhờ anh về sư đoàn mượn từ 20 đến 80 chiếc
GMC để có thêm phương tiện di chuyển quân, và chở vũ khí tịch thu được của binh
sĩ Cao Đài về hàng, cùng các vũ khí thặng dư của các tỉnh.
Tôi trình
cho đại tá tư lệnh, ông đồng ý cho mượn theo tôi thu xếp. Thiếu Tướng Xuân bằng
lòng lắm. Ngay gần bộ tư lệnh chiến dịch có một trại giáo huấn khá lớn, giam giữ
khá đông tù chính trị, hầu hết là Cộng Sản (tôi không biết chắc là bao nhiêu,
nhưng ước lượng từ 6 đến 7 trăm người). Trại này đóng ngay trước dưỡng trí viện
(nhà thương điên) Biên Hòa. Một sáng Chủ nhật, tù nhân lợi dụng canh gác lỏng lẻo
vào cuối tuần, bắt giam giám thị, phá cổng chạy trốn vào rừng cao su quanh đó.
Trại giam báo động, gọi về bộ tư lệnh chiến dịch xin tiếp ứng, gọi cả về sư
đoàn cầu cứu nữa. Rất may hôm ấy tôi có mặt, vội điều động lính gác sư đoàn, và
cho xe đi trại gia binh điều động các quân nhân đi tiếp cứu. Cả một vùng rộng lớn
bị bao vây, bắt lại được gần 40 tên trốn trại (tính ra chỉ mất có 12 người).
Anh Minh
kể với tôi là thiếu tướng tư lệnh mừng lắm, tặng tôi cùng một số anh em Huy
chương của chiến dịch. Ông Xuân cũng nói may mà bắt lại được đám này, nếu
không, Tổng Thống biết được thì khó mà trả lời, vì trại giam nằm gần ngay bộ tư
lệnh chiến dịch. Anh Minh cũng đưa tôi lên trình diện theo lời yêu cầu của ông,
để ông có dịp khen ngợi và cám ơn. Khi chào ra về, ông bảo anh Minh ở lại gặp
riêng ông. Tôi ra đợi anh Minh ở phòng làm việc của anh. Sau đó, anh Minh về
phòng gặp tôi, có vẻ đăm chiêu lắm anh và tôi rất thân nhau, vì cùng làm việc với
nhau từ hồi mới thành lập sư đoàn, việc gì anh em cũng tâm sự cùng nhau.
Anh than
với tôi: chết thật rồi, ông giao cho tôi một nhiệm vụ mà tôi nghĩ khó thi hành
quá anh Duệ ơi. Ông ra lệnh cho tôi phải đem đám tù trốn trại bắt lại được vào
rừng thủ tiêu hết. Ông bảo nuôi tụi này làm gì cho tốn cơm. Anh nghĩ tôi phải
làm sao bây giờ (Anh Minh hiện ở WashingtonD.C.).
Tôi trả lời
ngay:
- Sao anh
phải thi hành lệnh nầy, và anh làm gì có người? Anh nên trình lại và xin ông ra
lệnh cho trại cải huấn, hay nhân viên của ông ở An ninh quân đội. Chả nhẽ anh
và anh em ở phòng 2 này đi thủ tiêu người sao? Anh nhớ đừng chuyển lệnh của ông
cho ai, đâu phải việc của anh.
- Thì tôi
cũng nghĩ như anh vậy, anh Minh trả lời. Và chợt reo lên:
- Mình chỉ
là một trưởng phòng trong bộ tham mưu. Đâu dám làm việc gì không trình ông tham
mưu trưởng được. Tôi phải đem trình Đại Tá Khiêm để đại tá giải quyết. Anh đi với
tôi sang Đại Tá Khiêm, tiện thể tôi giới thiệu anh với đại tá luôn.
Tôi từ chối,
vì không muốn để anh Minh khó xử trong việc bí mật này trước mặt tôi Anh nói: –
Vậy anh đợi tôi sang đại tá, rồi tụi mình về nhà tôi ăn cơm chiều (nhà anh Minh
ở trong cư xá sĩ quan Biên Hòa). Tôi đợi anh Minh về, mặt mày tươi rói, anh kể
với tôi: Anh biết không, tôi trình Đại Tá Khiêm và nói vì không biết thi hành lệnh
của Thiếu Tướng Xuân ra sao, nên phải trình để đại tá quyết định.
Đại Tá
Khiêm trả lời ngay: Thiếu Tướng Xuân là sĩ quan đồng hóa từ công an Pháp sang,
còn mình là quân đội chính qui, làm việc gì cũng phải theo đúng nguyên tắc tham
mưu. Phải coi chừng, thi hành ẩu là anh ra tòa án lúc nào không hay. Nếu ông
Xuân hỏi, anh cứ thưa là đã trình tôi rồi, và tôi ra lệnh không thi hành, mình
chỉ làm công việc tham mưu mà thôi. Ông muốn thì để tay chân ông làm; mình
không làm theo kiểu mật thám được.
- Đúng,
thế là xong! Nên nhớ anh là trưởng phòng 2 sư đoàn, chỉ kiêm nhiệm phòng 2 chiến
dịch mà thôi. Ít lâu nữa chiến dịch chấm dứt, anh lại về sư đoàn, tôi trả lời.
Sau này,
anh Minh và tôi xuống bộ tư lệnh tiền phương, gặp Đại Tá Xứng trình lại ông sự
việc, ông nói làm theo lệnh Đại Tá Khiêm là đúng và ông bảo anh Minh ở lại làm
việc theo sư đoàn. Cử trung úy phó trưởng phòng làm việc ở bộ tư lệnh chiến dịch,
anh Minh chỉ về ít ngày một tuần, hoặc khi có hành quân mà thôi.
Sau sư
đoàn 4 đổi thành sư đoàn 7, tôi có một tiểu đoàn đặt dưới quyền của trung tâm
huấn luyện Quang Trung, do Trung Tướng Xuân coi. Theo lệnh tổng tham mưu, tiểu
đoàn biệt phái này để lo giữ an ninh cho trung tâm, nhưng trung tâm đã sử dụng
tiểu đoàn này như tiểu đoàn công vụ, bị chia cắt biệt phái đủ mọi nơi, khiến việc
huấn luyện không theo kịp các đơn vị khác. Tôi lại phải đến trình diện Trung Tướng
Xuân, xin ông xem lại. Gặp tôi ông vui lắm, nhắc tới việc tôi giúp bắt lại đám
tù ở trung tâm cải huấn. Nghe tôi trình vấn đề, ông bảo để xem lại, nhưng mọi
việc vẫn như cũ, chẳng có gì thay đổi.
Tôi còn
nhớ lúc ngồi nói chuyện với ông, có một sĩ quan đem vào đặt trên bàn làm việc một
cái giá để gần chục cái tẩu hút thuốc (pipe) đã nhồi sẵn, cái nào cũng đẹp.
Ngày tôi làm ở tổng cục Chiến tranh chính trị, được đọc một báo cáo của cục An
ninh, trình về việc một thượng sĩ biệt phái làm việc cho ông, đã dám chống cự
ông và xô ông té nặng, bị ông trả đương sự về lại Cục An ninh và xin trừng phạt
nặng. Tôi không rõ sự việc đã giải quyết ra sao, vì không phải phần việc của
tôi. Ngày ấy ông đã giải ngũ khỏi quân đội. Theo lệnh của tổng tham mưu, các vị
tướng hồi hưu có quyền giữ một sĩ quan chánh văn phòng, tài xế và một cận vệ,
nhưng ông giữ với ông quá số ấy nhiều.
Trở lại vụ
Thiếu Tá Độ bị gọi về trình diện. Đại Tá Xứng bảo tôi gọi giây nói cho trung
đoàn 10 ở trại Tam Hiệp rõ, là ông bận việc, không xuống tìm dịa điểm để lập
trung tâm huấn luyện sư đoàn được. Khi Thiếu Tá Độ về trình diện, lúc ấy khoảng
10 giờ. Ông cau mặt hỏi sự việc và trách Thiếu Tá Độ sao không cho ông rõ. Thiếu
Tá Độ có vẻ lo, thưa lại là việc ấy đã xẩy ra lâu rồi, khi trung đoàn 12 còn là
trung đoàn 54, và lúc đó đại tá còn ở ngoài trung. Thiếu Tá Độ nói tiếp:
- Trình đại
tá, thấy tụi Tây chuyển về toàn súng tốt của Mỹ viện trợ, hầu hết là súng máy
và carbine, chúng chất đầy kho, súng garant chúng xếp như đống củi, mà quân đội
mình có toàn là mas 36 của Tây. Tụi sĩ quan tiếp liệu kể là số vú khí này sẽ
chuyển sang Algérie, và nhiều quá, chúng không kiểm kê hết được. Vả lại, đóng tại
trại này là để đợi triệt thoái về Algérie hay Pháp, chúng chỉ lo nhậu nhẹt ăn
chơi. Vì vậy, các sĩ quan trung đoàn và binh sĩ cho chúng boire un coup là xin
gì chúng cũng cho. Thấy vậy, anh em bàn nhau cho chúng uống say, rồi lấy lại một
số súng, để quân đội mình dùng sau này. Việc này tôi không nhúng tay vào, để
cho một số anh em lo, coi như tôi không biết.
- Thế còn
việc lấy thiết giáp thì sao?
- Dạ, thấy
chúng đậu ngổn ngang, các anh em định lấy độ 5, 7 chiếc đem vào rừng giấu, cũng
là để cho quân đội thôi. Anh em cũng đã rủ được mấy thằng Tây lái xe tăng đào
ngũ ở lại với mình rồi!
- Thật rủi
là có thằng Tây báo cho tụi an ninh Pháp biết, nên chúng báo động, và chuyển cấp
tốc các xe tăng ra Vũng Tàu, cả kho súng nữa. Mình chỉ mới lấy được ít khẩu
súng lục và carbine, hiện các tiểu đoàn vẫn xài riêng, coi như đồ thặng dư.
(Sau này,
khi tôi thay Thiếu Tá Độ làm trung đoàn trưởng trung đoàn 12, trong kho của
trung đoàn vẫn còn một số mấy khẩu Garant và 2 máy truyền tin, tôi tặng cho cha
Dụ là chánh xứ Cao Xá, để trang bị cho tự vệ của xứ đạo di cư tại Tâm Long (tôi
không nhớ rõ) ở Tây Ninh, giáp biên giới Cam Bốt.)
Thiếu Tá
Độ có vẻ lo lắng, xin Đại Tá Xứng giúp đỡ cách nào để ông khỏi về trình diện
Thiếu Tướng Xuân. Sau một hồi suy nghĩ, Đại Tá Xứng nói: Như vậy moa phải xin yết
kiến Thủ Tướng để trình bày rõ sự việc. Rồi đại tá đi ngay Saigon. Chiều hôm ấy
trở về, ông rất vui vẻ, vì vào ngày Chủ nhật, Thủ Tướng không bận gì nên được
tiếp ngay. Thủ Tướng đồng ý bỏ qua, và tỏ vẻ bằng lòng về lòng yêu nước của Thiếu
Tá Độ. Từ đó, Thiếu Tá Độ và tôi trở thành thân thiết.
Sau đó,
tôi được đi học lớp bộ binh cao cấp ở Fort Bennimg Hoa Kỳ (lớp advance đầu tiên
sĩ quan Việt Nam học với sĩ quan Hoa Kỳ). Khi tốt nghiệp, về lại sư đoàn 4, lúc
đó do Đại Tá Trần Thiên Khiêm là tư lệnh. Tôi được bổ nhậm làm trung đoàn phó
cho Thiếu Tá Độ. Vì không có gia đình, Thiếu Tá Độ hay rủ tôi về nhà ông ăn
cơm.
Một buổi
tối sau khi ăn cơm xong, tôi hỏi về tin đồn ông tìm được kho tàng của Bảy Viễn ở
Rừng Sát. Ông kể cho tôi nghe rất rành mạch:
- Ngày ấy,
tôi cũng ở căn nhà này (là kho bạc cũ của Bà Rịa, được cấp cho trung đoàn làm
tư thất của trung đoàn trưởng). Lớ ngớ làm sao mà tiểu đoàn 3 của mình bắt được
một toán quân của Bình Xuyên, trong đó có Lê Paul, là con của Bảy Viễn, tại Hắc
Dịch. Lúc đó chỉ biết là quân Bình Xuyên có võ khí, và không ai biết con của Bảy
Viễn ở trong đó. Toán này được tiểu đoàn giải về phòng 2 trung tâm để khai
thác. Anh còn lạ gì thằng trung úy Lưu đen là trưởng phòng nữa, ai gặp hắn mà
không sợ (Thật vậy, trung úy Lưu người đen đủi, mắt lác nhiều, môi dày và thâm,
trông dữ dằn lắm). Vì vậy Lê Paul và đồng bọn gặp hắn là hết hồn. Lưu đen hô lớn
dọa: Các anh mang mấy tên giặc này đến đây làm gì, mắc công anh em phải tra khảo,
sao không thủ tiêu tụi nó đi? (anh Lưu dọa vậy chứ đâu có ngờ trong đám này có
một tù binh quan trọng vậy).
Thế là
Paul sợ quá, vội xin gặp riêng trung úy Lưu, nhận y là con của Bảy Viễn, để xin
giữ mạng sống. Chưa tra khảo, nó đã khai ngay là biết chỗ chôn tiền, để lập
công. Tôi (Thiếu Tá Độ) vội dẫn hắn đến chỗ giấu tiền, đựng trong những sac
marin (sắc này hình tròn to và cao dùng đủ để đựng toàn bộ quân trang cho một
quân nhân) và trong các thùng gỗ. Tôi cũng giấu được vài sắc trong đựng toàn giấy
$500, rồi báo về bộ tư lệnh hành quân của Đại Tá Dương Văn Minh, lúc đó đóng tại
Thủ Đức. Kho tàng này đâu có chôn giấu gì, chỉ gác lên các nhành cây rậm rạp,
vì ở Rừng Sát lúc đó đang ngập nước. Vì Lê Paul là một tù binh quan trọng, nên
bộ tư lệnh hành quân đích thân đến khai thác. Tôi nghĩ hắn còn chỉ nhiều chỗ dấu
tiền khác nữa.
Tôi hỏi lại:
- Thiếu
tá nói dấu được mấy sac marin thì độ bao nhiêu tiền?
- Thì đếm
làm sao cho xuể, tôi nghĩ cả mấy mươi triệu chứ đâu có ít. Ngay đêm đó, tôi
mang số tiền giấu được, xuống xuồng máy cùng ông bác sĩ Huấn, là bác sĩ của
trung đoàn (bác sĩ Huấn sau là đại tá trưởng khối của cục Quân y, tôi không rõ
ông có sang được Mỹ hay không), và thằng trung sĩ Dương Tác Nam, là cận vệ của
tôi (trung sĩ Nam là người Nùng, anh này nhanh nhẹn, cao lớn và giỏi võ, sau
này anh cũng là cận vệ của tôi, nhưng vì hay say sưa nên tôi không dùng) đi xuồng
máy về ngay Bà Rịa. Sáng sớm hôm sau, tôi khởi hành thật sớm về Saigon định
giao cho gia đình giấu đi. Mới về qua khỏi Biên Hòa, đến cầu Hang thì bị hai xe
quân cảnh đón sẵn ở đó giữ lại. Gần đó có Đại Tá Dương Văn Minh, tư lệnh hành
quân, đang đi đi lại lại với mấy cận vệ và sĩ quan tùy viên. Có xe traction của
ông đậu gần đó (tướng Minh chỉ đi xe traction, kể cả khi ông làm Quốc Trưởng).
Tụi quân cảnh đối xử với tôi rất lễ phép, mời tôi đến trình diện Đại Tá Minh. Gặp
tôi, ông bắt tay và nói: Thôi về bộ tư lệnh ở Thủ Đức nói chuyện. Ông bắt tôi
lên xe với ông, và bảo sĩ quan tùy viên của ông đi xe Jeep của tôi để gác tiền.
Trên xe,
tôi phân trần cùng ông, nhưng ông gạt đi và nói chuyện khác vui vẻ lắm. Đến bộ
tư lệnh, thấy nhiều anh em sĩ quan chạy ra cửa nhìn, tôi biết là tin tôi lấy được
tiền, nhiều người đã biết rồi. Vừa ngồi xuống ghế ở văn phòng ông, tôi vội
trình ngay: Thưa đại tá, xin đại tá xét cho, bắt được Lê Paul là tôi báo cáo
ngay về cho bộ tư lệnh, chứ tôi đâu có dấu diếm gì đầu. Tuy nhiên, xin đại tá
xét cho, ai cũng có lòng tham, tôi chỉ xin dấu lại chút ít, định đem về Saigon
cho gia đình. Ông cười: Thì moa có trách gì toa đâu, ai ở địa vị toa cũng làm
như vây, nhưng toa biết là không ai qua mặt moa được. Thôi, để lại cho toa ít
nhiều, vì số còn lại moa phải trình thượng cấp. Thế là ông cho lại tôi ba trăm
ngàn, tôi xin thêm ông cho hơn trăm ngàn nữa, rồi cho tôi về.
Ngày ấy,
lương của tôi độ trên dưới hai ngàn gì đó, cũng là hơn một lạng vàng, mà có đến
gần nửa triệu như ông Độ, là điều tụi tôi không bao giờ dám mơ tới. Tôi hỏi tiếp:
- Thế tại
sao thiếu tá không giấu cất lại ít nhiều ở hậu cứ trung đoàn?
- Thật là
dại, vì lúc đó mình có nhiều tiền quá nên bối rối, có nghĩ gì đâu. Nếu giấu được
ít nhiều thì tôi sống cả đời không hết.
- Thế thiếu
tá ước lượng số tiền ông thu được của thiếu tá và tại chỗ giấu là bao nhiêu tất
cả.
- Nhiều lắm,
làm sao tính cho xuể. Chỉ mấy cái xác marin của moa, ông lấy ra cho lại 400.000
mà chỉ vơi chút đỉnh. Còn cả một kho tiền và nhiều chỗ cất dấu khác do Le Paul
chỉ, thì biết bao nhiêu mà kể. Số tiền ông cho lại moa mua được một căn nhà ở
đường Đồn Đất, và một xe Peugeot 203, còn cất làm vốn gửi nhà bank. Lạ một điều
là mãi khuya mình mới về tới Bà Rịa, và sáng đã đi sớm mà bị lộ, nên moa chắc ở
trung đoàn có thằng báo với ông Minh. Anh nghĩ, tôi chỉ được một số tiền nhỏ mà
đồn ầm ĩ cả quân đội. Còn ông Minh giầu đến mức nào…
Tôi bàn
thêm:
- Bảy Viễn
còn giàu gấp mấy nữa, dù hắn có lưu vong sang Pháp thì bao giờ mới tiêu hết tiền.
Buồn cười
nhất là, tối đó về tôi bị mất ngủ, vì cứ lẩn thẩn miên man nghĩ ngợi, là nếu
vào địa vị mình, thì phải sắp xếp làm sao, chia cho anh em bằng cách nào, và
làm sao giữ được số tiền này. Nghĩ thật vô duyên, tự dưng bị mất ngủ một cách
lãng xẹt.
Đọc
tiếp: Đức TỪ CUNG HOÀNG THÁI HẬU
Ghi chú
thêm:
- Thiếu
Tá Độ đã tử nạn khi làm tham Mưu trưởng sư đoàn l, do Đại Tá Nguyễn Đức Thắng
làm tư lệnh, trong khi đi máy bay vào tiền đồn A Sao, A Lưới ủy lạo binh sĩ
trong dịp Tết.
- Thiếu
Tướng Tôn Thất Xứng định cư ở Montreal Canada.
- Trung
Tướng Mai Hữu Xuân đã qua đời tại vùng Washington D.C.
- Đại tướng
Trần Thiện Khiêm cư ngụ ở vùng Washington D.C.
- Tướng
Dương Văn Minh đã qua đời tại Pomona, Califomia.
- Cha Dụ,
chánh xứ Cao Xá, khi di cư vào Nam được định cư ở Tây Ninh với các con chiên
Cao Xá đi theo lập thành một xứ đạo di cư chống Cộng triệt để. Người hiện ở
Houston, Texas.
- Tôi
cũng nghe nói là Lê Paul đã tiết lộ thêm nhiều chỗ chôn tiền và quí kim nữa.
Sau đương sự bị bắn chết với lý do chạy trốn, nhưng dư luận lúc bấy giờ nói
đương sự phải chết để bịt miệng. Tôi không dám chắc tin đồn này có đúng hay
không, vì không biết rõ sự việc.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét