Chủ Nhật, 22 tháng 12, 2013

MỸ CỘNG (02): MẶT TRẬN HÒA BÌNH – HÀ NỘI HOẠT ĐỘNG TẠI HOA KỲ TRƯỚC TẾT.


 SÀI GÒN – GIỚI THIỆU KẺ THÙ: NHỮNG NGUYÊN TẮC BAN ĐẦU VÀ CÁC HÀNH VI TIÊN KHỞI


Chương 1: Lời nhập đề và các Hậu quả: Câu Chuyện Đại Sự

Phong Trào Chủ Hòa đã làm gì trong suốt cuộc chiến Việt Nam? Vì sao vấn đề Việt Nam nay trở thành thích đáng? Các nhân vật chính. Hà Nội phong thưởng các thành viên của Phong trào Hòa bình. Kết cuộc: Giải phóng Miền Nam Việt Nam, 1975. Đoàn kết mãi mãi sau đó. Những khởi thủy tại Moscow và Hà-nội.
1. Phong Trào Chủ Hòa đã làm gì trong suốt cuộc chiến Việt Nam?

Đã không bao giờ có bằng chứng được đưa ra về việc can dự của cộng sản nước ngoài  trong phong trào chống chiến tranh  Việt Nam.

TOM Wells, Cuộc chiến nhìn trong nội bộ nước Mỹ

Các phong trào chống chiến tranh tự phát ở Mỹ đã nhận được sự trợ giúp và hướng dẫn từ các [Việt Cộng / Bắc Việt] phái đoàn thân thiện đại biểu tại cuộc đàm phán hòa bình Ba Lê …. PCPJ [Uỷ ban nhân dân [sic] cho Hòa bình và Tư pháp] … duy trì mối quan hệ với chúng tôi…

Thông tư của Việt-cộng số 33/VP/TD, ngày 16 tháng 7 1971 [1]

Chúng tôi hiểu được lý do người Việt Nam gọi cuộc họp [ở Cuba] là để thúc đẩy chúng tôi lại chống đôi chiến tranh. Việt Cộng đã đá đít chúng ta  … 2 BERNARDINE DOHRN, Havana 1969 [2]

Phong trào phản chiến không phải là một phong trào lấy cảm hứng hay là do các cường quốc nước ngoài chỉ huy.

NANCY ZAROULIS GERALD Sullivan, Ai đã lên tiếng?

Kẻ chủ mưu của phong trào chống chiến tranh Việt Namchính là Việt Cộng. Việt Cộng đã tổ chức Lệnh Đình chỉ và họ đã tổ chức chúng tôi. [3]

TED GOLD

“Phe đối lập của các dân tộc yêu chuộng hòa bình, cả nhân dân Mỹ “ đã đặt quốc gia vào một vị trí thụ động.” KIN, tháng 1 năm 1967 [4]

Thúc đẩy người dân Mỹ … Chúng tôi luôn luôn … cố gắng để thúc đẩy thanh niên, trí thức, và các giáo phái để phản đối chiến tranh …. Nỗ lực sâu rộng để tranh thủ sự hỗ trợ … tạo thành một mặt trận thống nhất hành động chống lại bọn đế quốc.

CSVN, một Báo cáo về Tuyên truyền và các Vấn đề Ngoại giao, tháng 4 năm 1967 [5]

Hình ảnh của các phong trào hòa bình đã được gửi đến COSVN bởi các tổ chức hòa bình ở Mỹ và chúng đã được sử dụng trong các truyền đơn (NFL) và đôi khi được in ra bởi ngay họ. [6]

… các chiến thắng là do … các khả năng đấu tranh của nhân dân ta và của những người yêu chuộng hoà bình … kể cả người Mỹ.” [7]

Thông tư số 75, 1969

Chúng ta phải thúc đẩy phong trào đấu tranh của người dân ở Mỹ, [8]

CHỈ THỊ số 96, COSVN, tháng 1969

Tấn công ngoại giao nhằm . . .  phối họp phong trào phản chiến Mỹ. [9]

CHỈ THỊ số 6, ngày 17 tháng 9 năm 1970

Đẩy mạnh … phong trào phản chiến chống chiến tranh Việt Nam của người Mỹ. Sử dụng báo chí … và các đài phát thanh … Nhấn mạnh vào việc bùng nổ của chiến dịch đấu tranh của Mỹ. [10]

Viet Cong Directive No. 31 OT/TV, 1971

Chúng ta cùng có một kẻ thù chung – đế quốc Mỹ.

JANE FONDA, July 1972

Chủ thuyết chống cộng [cũng là] phá hoại y như chủ-thuyết Sì-ta-lin.[11]

NEIL SHEEHAN, New York Times  

 “Khoảng một nửa số người mà tôi tiếp xúc thì ghét chiến tranh … nửa còn lại thì ghét bọn ‘hippies’”.[12]

BILL SULLIVAN, bác sỹ bệnh tâm thần

Chính phủ Mỹ không bao giờ nhận rõ được là (phải bảo vệ quốc gia) trên chiến trường cốt yếu … tim và tâm trí của người dân Mỹ …

Tướng  Phillip B. DAVIDSON

Cuộc đấu tranh chống cộng sản ở Việt Nam là 75% chính trị và 25% quân sự, mọi thứ mà người Mỹ đã quyết chí làm chỉ liên hệ đến phần 25% và đã không làm gì cho phần 75% còn lại. 13

Dan Văn SUNG

Chúng ta không muốn tin vào việc ác nên chúng ta chỉ trốn nó.

JON VOIGHT

Nạn nhân đầu tiên của chiến tranh là sự thật.

RUDYARD KIPLING

Roger Canfield

Lê Bá Hùng chuyển ngữ với sự chấp thuận của Tác giả

VRNs đăng và biên tập với sự chấp thuận của dịch giả

Ghi chú:

1-Về phong trào phản chiến ở Mỹ, “Thông tư số 33/VP/TD, Trung tâm Kết hợp Tài liệu Khai thác , CDEC, tại Bộ Chỉ huy Viện trợ Quân sự Hoa Kỳ, Sài Gòn, Việt Nam, tài liệu CDEC  liệt kê số 12-1370-71, Quận ủy Hoài Hương , tỉnh Bình Tuy VC,  Khu VC , 16 Tháng 7, 1971. Trung tâm Kết hợp Tài liệu Khai thác (CDEC) được thành lập trong tháng 10 năm 1966 dưới quyền Phụ tá Tham Mưu Trưởng về Tình báo của MACV (J-2) , với nhiệm vụ tiếp nhận và khai thác tài liệu của đối phương bị tịch thu như là một nguồn tình báo quân sự nhằm đánh giá và thiết lập kế hoạch.

2- Bernardine Dohrn, các ghi chú, bị bắt tại một nhà máy sản xuất bom ở Chicago được trích dẫn trong FBI, FOIA, Weather Underground. Nguồn chính là sổ nhật ký của Đương Quyền SAC Chicago gởi cho Giám đốc, Tổ chức Bí mật Weather về Ảnh hưởng Nước ngoài,  20 tháng 8, 1976, 106; Xem thêm: AP, chính quyền Chicago ngưng truy tố trong vụ Xưởng làm bom , New York Times, ngày 17 tháng 6  năm 1970.

3- FBI, FOIA, Weather Underground. Nguồn chính là sổ nhật ký của Đương Quyền SAC Chicago gởi cho Giám đốc, Tổ chức Bí mật Weather về Ảnh hưởng Nước ngoài,  20 tháng 8, 1976, 204;

4 – CDEC, liệt kê 02-1856-67, KÍN (mật), – Định giá về Chiến lược Mỹ bởi VC,  6,8, 28 tháng giêng 1967, tịch thu ngày 7 tháng 2, ấn hành ngày 3 tháng 5 năm 1967.

5 – AIRGRAM, A-579, văn kiện đính kèm của tài liệu VC ngày 15 tháng 6 năm 1966, Nhiệm Sở Hoa kỳ tại Sài gòn gởi Bộ Ngoại giao, 4 tháng 4 năm 1967, (Đại học Tech Texas, Trung tâm Văn khố Việt Nam), 1. Viện dẫn bởi James Rothrock, Chúng ta sẽ thua nếu chia rẻ, 6-8.

6 –  Bell và Veith

7 –  THÔNG TƯ. 75/CTNT, – Tăng cường . . . các cuộc đấu tranh ngoại giao … để dành Chiến thắng lớn hơn,  27 tháng 2 năm 1969 tại Nhiệm Sở Hoa kỳ Mỹ tại Miền Nam Việt Nam,, Ghi chú về Tài liệu và Nghiên cứu Việt Nam , văn bản số 101, Phần IV, Sài Gòn, tháng giêng  năm 1972, 2,10-11.

Việc tấn công về ngoại giao nhằm . . . phát động để kết hợp với phong trào phản chiến

8 –  THÔNG TƯ số 4 VÀ CHỈ THỊ số 96/CTNT, 31 tháng 5, 1969 –  Phát triển cuộc đấu tranh ngoại giao kết hợp với cuộc đấu tranh quân sự và chính trị …  trong Nhiệm Sở Hoa kỳ Mỹ tại Miền Nam Việt Nam, , Ghi chú về Tài liệu và Nghiên cứu Việt Nam , văn bản số 101, Phần IV, Sài Gòn, năm 1972, 22-27.

9 –   CHỈ THỊ  6 CT / BT, Ban chấp hành Đảng Bình Tân chia, PRP của Việt Nam,  17 tháng 9 năm 1970 tại Nhiệm Sở Hoa kỳ Mỹ tại Miền Nam Việt Nam, Việt Nam Tài liệu và các ghi chú nghiên cứu, văn bản số 101, Phần IV, Sài Gòn, tháng 1 năm 1972, pp 36-39.

10 –   CHỈ THỊ số 10. 31 OT / truyền hình, 28 tháng 4 năm 1971 bắt tại chiến trường do Sư đoàn bộ binh 23 chuyển về Chỉ huy, Bộ Chỉ huy Viện trợ Quân sự Hoa Kỳ, Việt Nam (COMUSMACV) và cho Trung tâm Khai thác Kết hợp Tài liệu, tại CDEC, tại Bộ Chỉ huy Viện trợ Quân sự Hoa Kỳ , Saigon , Việt Nam. Chỉ thị 31 là tài liệu  CDEC liệt kê  số 05-1660-71 và số mục 2150901041 trên mạng tại Trung Tâm Văn Khố Việt Nam của  Texas Tech. Chỉ thị này cũng được trích dẫn một phần nhỏ trong Thomas Lipscomb, Hà Nội đã  chấp thuận vai trò của các Cựu chiến binh phản chiến,  New York Sun, ngày 26 tháng 10, 2004 tại  nysun.com/article/7356A.

11 –  Alice Widener, – The Coo of the Doves: From Waldorf to Hilton, 1949-69, USA Bộ XV, Số 26, tháng 3 năm 1968.

12 –  A. R. Issacs,  Vietnam Shadows: The War, it‘s Ghosts, and it‘s Legacy, Baltimore: Johns Hopkins University Press, 1997, 28.

13 –   Đặng Văn Sung,  Dilemmas in Vietnam, tháng giêng 1964 viện dẫn trong Rufus Phillips, Why Vietnam Matters: An Eyewitness Account of Lessons Not Learned, Naval Institute Press, 2008, XIV.


MỸ CỘNG (3): TRUYỀN THÔNG TRONG CUỘC CHIẾN VIỆT NAM
​​

Sài Gòn – 2. Vì sao vấn đề Việt Nam nay trở thành thích đáng?

Vai trò của giới truyền thông và Chính trị trong cuộc Chiến: Việt-nam, Iraq, A-phú-hãn và Trung-quốc

“Rõ ràng là cuộc chiến tranh về truyền thông trong thế kỷ này là một trong những phương pháp mạnh nhất; trong thực tế,  nó có thể chiếm tới  90% của việc chuẩn bị cho các trận chiến.”  Osama bin Laden bức thư gửi cho lãnh đạo Taliban Mullah Omar, không ghi ngày tháng 1998-2.003 [14]

-Các khía cạnh chính trị và quân sự của các cuộc nổi dậy bị ràng buộc chung với nhau không thể tách rời. … Quân đội Mỹ, Chính sách chống nổi dậy, tài liệu chiến trường, năm 2006.

Làm thế nào mà phía Hoa Kỳ lại thua tại Việt Nam? Chiến tranh Việt Nam là một cuộc chiến chính trị, một cuộc đấu tranh thống nhất, đấu tranh, về chính trị nhiều hơn là về vũ khí. Kẻ thù tại Hà Nội đã biến các đường phố của Mỹ, các trung tâm đại học, các phòng tin tức của giới truyền thông chính thống, và các nhóm vận động chính trị hành lang tại Quốc hội, thành chiến trường cốt yếu. Cuộc đấu tranh chính trị tại ngay quê hương có hiệu quả:

- Hạn chế chiến lược, chiến thuật và vũ khí của Mỹ

- Làm kiệt lực ý chí chính trị của các nhà lãnh đạo Mỹ

- Chấm dứt sự ủng hộ của Quốc-hội cho đồnh minh tại Đông-dương, và rốt cuộc

- Bỏ rơi các dân-tộc Nam-việt, Lào và Kam-pu-chia

Hòa bình không mang lại điều Cộng sản đã hứa là hòa giải hòa hợp quốc gia , dân chủ và thịnh vượng, mà chỉ là:

• thủ tiêu các nhà bất đồng chính kiến,

• các trại cải tạo,

• cưởng bách tái định cư tại các vùng kinh tế mới cằn cỗi ,

•  lao động trẻ em,

•  buôn người,

• đàn áp tôn giáo,

• tham nhũng,

• đàn áp ,

• nghèo đói

Các nhà lãnh đạo quân sự và dân sự của Mỹ đã không hiểu đủ hoạt động của đối phương trên đất Mỹ. Chính sách của Mỹ không bao giờ đi xa hơn sự hiểu biết mơ hồ về một khái niệm rời rạc đối với chiến tranh chính trị, chẳng hạn như chiến tranh tâm lý, các hoạt động tình báo, các biện pháp tích cực của Liên-xô, ví dụ như tuyên truyền, lật đổ chính quyền, mị dân. Tuy là gần cuối thì cũng có vài thành công trong việc tiến hành cuộc chiến tranh chính trị ở Nam Việt Nam, kẻ thù đã dành chiếm được cho mình tòan bộ chiến trường quốc nội.

Liệu lịch sử sẽ bị lặp lại chăng với các chiến tranh chống khủng bố hay trong các đụng độ với Trung-quốc?

Liệu lịch sử có sẽ lặp lại trong cuộc trường chiến chống khủng bố Hồi giáo hay trong cuộc xung đột sắp đến với Trung Quốc? Bọn khủng bố Jidahist và Trung-cộng đỏ đang thi hành cuộc đấu tranh theo kiểu nhượng quyền thương mại của Hà Nội. Chúng hoạt động gần như hòan toàn tự do công khai, kích động việc bất đồng chính kiến mà chúng không hề cho phép trong nước chúng. Khi nào thì bất đồng chính kiến trở thành phản quốc? Làm thế nào để các nước cộng hòa có thể chiến đấu lâu dài chống lại các chế-độ độc tài cuồng tín và đẫm máu trong khi các kẻ thù của họ thì biết rỏ các yếu điêể của họ là dân chúng của họ kinh tởm tính cách dã man của chiến tranh cùng sự hy sinh của các thường dân vô tội? Làm sao các nền dân-chủ lại có thể chống lại bọn đối thủ mà không hề có khái niệm về thế nào là thường dân vô tội, phụ nữ và trẻ em? Còn bao lâu nữa các dân tộc văn minh, biết trân quý đời sống con người, sẽ biến thành các tổ tiên đã từng chứng kiến các báo cáo hàng ngày về hành vi dùng sắt thép để tàn sát con người, đó là chưa nói đến các mất mát  khủng khiếp về dân sự và người vô tội cũng như các chiến binh trong chiến tranh?

Khi chúng ta chưa hiểu được kiểu chiến tranh chính trị của Việt Namvà các thánh chiến Jihadist  thì chúng ta sẽ không bao giờ đạt được mục-đích về hạn chế phong trào nổi dậy và về tình báo, đó là chưa nói tới chiến thắng. Có một cuộc chiến – thắng hoặc thua , cả luôn về quân sự lẫn chính trị, chống khủng bố và chống nổi dậy. [15]  Có nhiều dấu chỉ cho thấy là yếu tố quốc-nội lại một lần nữa có thể là chiến trường chính trị quan yếu trong cuộc chiến chống khủng bố Hồi giáo. Nhểu nước lên mặt, quấn quần lót lên đầu, không cho ngủ, và chơi nhạc kích động rình rang đã bị cải biến từ những sự mạ nhục và làm mất thể diện thành những lời tố cáo hoang đường về tra tấn mà trước đây đã được định nghĩa là rất đau đớn cùng đau khổ. Để đáp lại lối tuyên truyền bị bóp méo của đối phương , các giới truyên tin trong nước đã cứ lặp đi lặp lại các cáo buộc bị thổi phồng này về tội ác Mỹ, về khủng bố và tra tấn tại nhà tù Abu Ghraib, Guantanamo và Haditha. Chính quyền Obama đã bị thuyết phục để cố gắng đóng cửa Guantanamo và cho  kẻ thù hưởng các quyền hiến định trong thời chiến của Mỹ. Đó cũng là những quyền Miranda, các luật sư, và các phiên tòa hình dành cho bọn móc túi, cắp vặt trong siêu-thị và các kẻ phạm pháp. Một lần nữa đối phương đang tuyển dụng các đồng chí ngay trên đất nước Mỹ.

Về ViệtNam, hầu hết các lãnh đạo hàng đầu của phong trào hòa bình đã áp dụng chính sách tuyên truyền về việc tàn bạo của quân đội Hoa Kỳ  mà Hà Nội đã bảo trợ. Việc tuyên truyền khéo léo, mà thường không được trả lời, đã hạn chế một cách đáng kể hành động quân sự ở Bắc Việt, Kam-pu-chia và Lào bởi quân đội Mỹ như đánh phá đê, đập, bến cảng và các đường tiếp liệu; sử dụng bom napan, bom chùm, B-52.

Đây là một lịch sử chính trị không rỏ ràng của các phong trào phản chiến ở Mỹ trong thời chiến tranh Việt Nam. Nó lấp đầy một lỗ đen trong lịch sử, một câu chuyện về sự hợp tác tích cực, với các đồng nghiệp đi đi về về và về tội phản quốc mà đã chưa bao giờ được nói tới mà cũng luôn luôn bị  chối bỏ. Nó cho thấy bằng cách nào Hà Nội đã dùng các phong trào hòa bình như là yếu tố cốt yếu trong chiến lược chính trị của mình để chiến thắng trong chiến tranh cách mạng, một chiến tranh nhân dân, và làm thế nào mà Mỹ đã chưa bao giờ có được một sự hiểu biết có ý nghĩa về đấu tranh chính trị, đó là chưa nói đến một chiến lược để chống lại nó. [16]  Mike Waller của Viện Chính trị Thế giới, nhận xét là:

Không có chiến lược lớn nào mà có thể tồn tại ngoài chiến lược quân sự – một chiến lược quân sự với mức thông tin và tình báo yếu kém sẽ thất bại trong chiến tranh ý thức hệ hiện đại. … đa phần cuộc chiến đều có tính cách tâm lý và chính trị. [17]

Trong giai đoạn thứ nhì, cuộc Đấu Tranh Chung Sống Hoà Bình của kế hoạch chiến lược Liên Xô trong các năm 1966-1967 nhằm giúp khối Hiệp ước Warsaw thúc đẩy chia rẽ chính trị và phân hóa xã hội, đặc biệt tập trung các cuộc tấn công của phong trào cấp tiến (bên trong Hoa Kỳ) … vào quân đội và công nghiệp mà đã bị xem như là rào cản đối với hòa bình.  Việt Nam đã là một tưởng thưởng bất ngờ, tiết lộ sự yếu kém của quân đội Mỹ và ý chí chính trị của Mỹ. [18]

Vì khã năng bị tấn công về chính trị hãy còn, Chiến Tranh Việt Nam vẫn rất tiêu biểu trong các chiến lược của Mỹ để đối đầu với chủ nghĩa khủng bố Hồi giáo và Trung Cộng mà đang nhanh chóng trở thành một cường lực . Hiểu đúng Chiến Tranh Việt Nam sẽ làm sáng tỏ các vấn đề cần được giải quyết trong việc tiến hành chiến tranh chống khủng bố Hồi giáo, thu thập thông tin tình báo về bọn khủng bố trong nước và các điệp viên của các cường quốc nước ngoài, và chuẩn bị đối với các sức mạnh quân sự đang bành trướng, ví dụ: Trung Quốc. Ngày nay tính cách hấp dẫn về chính trị của Jihadist đang được dùng để tuyển các tên khủng bố sinh tại Mỹ. Bây giờ Trung Quốc đã thuyết phục được thế giới rằng họ không còn là Cộng sản; các lời vọng từ mạng lưới các nhà tù, lao gai, đều lặng câm, bản án tử hình và việc mổ lấy cắp các bộ phận cơ thể đều có thể xảy ra cho bất cứ ai, và phản ứng điển hình đối với các gián điệp và cố gắng hiện đại hóa quân sự của họ đều chỉ là một sự thờ ơ hoặc là sự cộng tác kỹ thuật của các công ty Mỹ trong việc đàn áp quyền phát biểu, quyền tụ hợp và đưa kiến nghị bên trong Trung Quốc. Hàng ngàn gián điệp Trung Quốc hoạt động ở Mỹ mà rất ít khi bị trở ngại gì.

Không thể phân biệt: Tuyên truyền của phong trào hòa bình và tuyên truyền chiến tranh của Hà Nội.

Trong cuộc Chiến Tranh Việt Nam, phong trào hòa bình cấp tiến Mỹ đã nhiệt tình phổ biến dùm trận chiến tâm lý của Hà Nội và tuyên truyền kiểu Orwellian cùng lên án sự thật chỉ là gian dối. Phong trào đấu tranh chính trị của Hà Nội trong dân chúng Mỹ (địch vận) phỉ báng cách Mỹ tiến hành chiến tranh (nhằm cho thấy chỉ riêng Mỹ là tàn bạo, vô đạo đức và bất công), lại che dấu các hành vi tàn bạo của Việt Cộng , lại thần thánh hóa các  lãnh đạo cộng sản và lãng mạn hóa lòng dũng cảm và quyền lực của quân địch . Chương trình tuyên truyền này tạo ra nhiều huyền thoại về Việt Nam mà nay phần lớn vẫn còn không bị thách thức. Địch vậnđã biến các phóng viên đa nghi thành cả tin, các học giả từng rất cẩn thận trở thành dửng dưng với thực tế, các kẻ đáng kính trở thành mù quáng mà không thấy việc vô luân. 19  Sách lịch sử về Việt Nam ngày nay gần như gần giống với các bích chương chính trị trên các đường phố của thành phố Hồ Chí Minh (Sài Gòn) nhằm gạt gẫm muôn điều giả dối lại là sự thật.

Phần lớn toàn bộ tuyên truyền chính trị của Hà Nội đều đã  không được trả lời và thanh lọc trong những cuốn sách sử, trong khi ảnh hưởng của vai trò kẻ thù trong phong trào hòa bình chỉ tương xứng với không hơn một vài chú thích nhỏ trong sách sử. Trẻ em của chúng ta bị giảng dạy chiếu theo tuyên truyền chiến tranh của Hà Nội và bọn tả phái cấp tiến mà đã từng tuyên bố là tư bản chủ nghĩa đế quốc Mỹ tiến hành một cuộc chiến tranh bất hợp pháp, bất công và không thể chiến thắng tại Việt Nam, một nơi xa, rất xa đối với lợi ích quốc gia của Mỹ.

A-phú-hãn và I-rắc: Cùng một bố trí, vai tuồng và bài bản.

Tổ chức – Cũng rất nhiều loại tổ chức, cá nhân và chủ đề tuyên truyền nay phát sinh để phản đối cuộc chiến tranh chống khủng bố tại I-rắc và A-phú-hãn như đã từng xẩy ra thời  Việt Nam.

Vào ngày 19 tháng 3 năm 2001 một cuộc biểu tình trên toàn quốc nhằm kỷ niệm việc Mỹ can thiệp vào I-rắc dưới thời Tổng thống George W. Bush. ANSWER , một con đẻ của Đảng Công nhân Thế Giới có khuynh hướng Mác-Lê-nin đã tổ chức tụ hợp tại Washington, New York, San Francisco, Chicago, Los Angeles. Khắp mọi nơi, liên minh bao gồm các tổ chức với các tên gọi là: Liên minh chống chiến tranh và phân biệt chủng tộc, Đảng Cộng sản Mỹ, CODEPINK, Liên Minh Palestine Tự Do, Các Gia đình Sao vàng vì hòa bình, Các Bà Nội Ngoại Vì Hòa Bình, Tổ chức Quốc tế Xã hội, Tiếng Nói Các Gia Đình Quân Nhân, Hành Động Cho Hòa Bình, Hiệp Hội Quốc Gia Luật Gia Guild, Hiệp hội Các Phụ Nữ Mỹ Gốc Palestine, Ủy ban Lao Động Đoàn kết Palestine, Đảng cho Chủ Nghĩa Xã Hội và Giải Phóng, Liên minh Hòa Bình và Công Lý, Liên minh Nhân Dân, Đảng Dân chủ Tiến bộ Mỹ, Liên minh 11/9 , Hiệp Hội các Người Bạn (Quakers), Sinh Viên cho Công Lý tại Palestine, Cựu Chiến Binh vì Hòa Bình, Đoàn Kết cho Hòa Bình, Cựu Chiến Binh Việt Nam Chống Chiến Tranh, Liên đoàn Quốc tế Phụ Nữ vì Hòa bình và Tự do và Liên đoàn Công Nhân Quốc Tế . 20 Các cá nhân tham dự gồm có Bob Borosage, Ramsey Clark, Daniel Ellsberg, Jane Fonda, dân biểu Raul Grijalva, Jesse Jackson, Clark Kissinger, Ralph Nader, Dân biểu Charles Rangle, Oliver Stone, và Kurt Vonnegut. 21

Các liên minh thường bao gồm những nhóm từ thời Việt Nam: Đoàn Kết cho Hòa Bình và Công Lý gồm AFSC, Trung Tâm Về Các Quyền Hiến Định, Liên minh Hòa bình và Công Lý, Đảng Cộng Sản, Hội Các Giám mục Vì Hòa Bình, IPS, Hội Hòa Giải, Liên Đoàn Quốc Gia Luật Sư.

Ngoài ra còn có  Hành Động cho Hòa Bình , Cam kết Kháng Chiến, Sinh Viên cho một Xã Hội Dân Chủ, Unitarian Universalists , Giáo Hội Đoàn Kết , Thánh Hội cho Chúa Kitô, Hội Sinh Viên Hoa Kỳ , Cựu Chiến Binh vì Hòa Bình, Cựu Chiến Binh Việt Nam Chống Chiến Tranh, Liên Minh các Kẻ Chống Chiến Tranh và WILPF.22

Các Người Cấp tiến Ủng Hộ Obama – Quả thực, các thành viên của nhóm Các Người Cấp tiến Ủng Hộ Obama cũng có những quan điểm tương tự về các cuộc chiến tranh ở I-rắc và A-phú-hãn y như thời Việt Nam. Các kẻ nổi bật sau đây từng chống chiến tranh Việt Nam thì nay cũng ủng hộ Barack Obama làm Tổng thống: Bill Ayers, Noam Chomsky, Carl Davidson, Bernardine Dohrn, Thorne Dreyer, Terry Dubose, Roxanne Dunbar-Ortiz, Barbara Ehrenreich, Daniel Ellsberg, Richard Flacks, Jane Fonda, Jon Frappier, Todd Gitlen, Al Haber, Tom Hayden, Howard Machtinger, John McAuliff, Jeff Jones, Mike Klonsky, Mark Rudd, Stanley Sheinbaum, Steve Tappis, Arthur Waskow, Quinton Young, và nhiều kẻ khác .23

Tính cách hợp pháp của Mỹ bị thách thức

Nhận thức phổ biến rằng Mỹ từng khởi xuất những cuộc chiến tranh bất công đã xói mòn tính hợp pháp của lời cam kết đặc biệt của Mỹ tự xưng mình là một chế độ của tự do. Các quốc gia trên thế giới đã không lắng nghe Barack Obama, nhưng đã cùng đứng lên hoan nghênh Robert Mugabe, Hugo Chavez, Fidel Castro. Thật vậy, vì hầu hết những gì chúng ta nghĩ rằng chúng ta biết về chiến tranh Việt Nam đều là sai, chúng ta có cái nhìn méo mó về chính chúng ta, về vị trí của chúng ta trên thế giới và về vì sao phải khởi chiến . 24  Như Nã-phá-luân đã nói, – Lịch sử là một gian lận cùng được thỏa thuận trước đó.  25

Hoa cấm nòng súng

Lịch sử chủ yếu ghi nhận là các kẻ tham gia đòi hỏi hòa bình thường đột nhiên cùng tụ hợp lại cả ngàn người, cùng mặc áo thun có chữ HÒA BÌNH và CÔNG LÝ và cùng yêu quý hai quan niệm này.

Hình: Trung Sĩ Albert R. Simpson, “Một nữ biểu tình tặng hoa cho quân cảnh tại Ngũ Giác Đài, 21 tháng 10 năm 1967

Kẻ cùng đi

 Các tên phản chiến ít khi được nhìn thấy rỏ ràng là đã tham dự các cuộc hội nghị với kẻ thù, cùng áp dụng các chủ đề tuyên truyền của Hà Nội và mang cờ Việt Cộng. Dù không được tường trình, các cuộc họp , chủ đề và lá cờ như vậy đều rất phổ biến. Cho đến nay, lịch sử hoàn toàn không cho thấy một chút liên hệ mật thiết nào của các lãnh tụ phong trào phản chiến Mỹ với kẻ thù từ 1962-1975 tại Hà Nội và Paris và trên toàn cầu. Phong trào phản chiến Mỹ đã hân hoan phổ biến hầu như bất kỳ câu chuyện nào của Cộng Sản Việt Nam hoặc rút ngắn là Việt Cộng. Các người Mỹ cộng tác với kẻ thù và nhắm đến một chiến thắng cho cộng sản vẫn còn được ca ngợi khắp nơi về sự cam kết của họ đối với hòa bình và công bằng xã hội. Các sử gia về phong trào hòa bình làm lơ hay chỉ đơn giản bỏ qua vô số các giao dịch giữa giới lãnh đạo của phong trào phản chiến của Mỹ với các lãnh đạo hàng đầu của Bắc Việt. 26 Không có bất kỳ bằng chứng nào đã từng được công bố về sự tham gia của cộng sản nước ngoài trong các phong trào chống chiến tranh  Việt Nam, Tom Wells đã viết trong tác phẫm đồ sộ của ông Nội Chiến (The War Within). -Phong trào phản chiến không phải là một phong trào lấy cảm hứng từ hoặc do các cường quốc nước ngoài, Nancy Zaroulis và Gerald Sullivan đã viết trong Ai lên tiếng? (Who Spoke Up?) . Hà Nội thì lại hiểu ngược lại và cũng đã nói như vậy – Bạn đọc hãy so sánh điều này với – các phong trào chống chiến tranh tự phát ở Mỹ đã nhận được sự trợ giúp và hướng dẫn từ các phái đoàn bạn [Việt Cộng / Bắc Việt Nam] tại cuộc đàm phán hòa bình Paris …. PCPJ [Uỷ ban nhân dân [sic] cho Hòa bình và Công Lý … duy trì quan hệ với chúng tôi … trích từ Thông tư Việt Cộng số 33/VP/TD.

Lịch Trình và Các Điểm Tranh Luận Chung

Mãi mãi và một cách liên tục, Hà Nội, Cuba và khối Liên Xô bằng các hội họp và hội nghị khắp thế giới đã un đúc được một sự thống nhất quốc tế về ngày tháng, sự kiện và chủ đề tuyên truyền áp đặt trên các nhóm cánh tả mà thường hay cãi vã nhau ở Mỹ. Sự kiện này lại được trợ giúp bởi các báo cáo cố ý không nhìn tới việc lũng đoạn trong nước của CIA, bởi vì thật rỏ ràng đó không phải là nhiệm vụ của họ, mà đã tuyên bố khăp nơi rằng phong trào phản chiến đã không liên hệ với Đảng Cộng sản Hoa Kỳ do Liên Xô kiểm soát và tài trợ, cũng không với đối phương ở Hà Nội. Tuy nhiên, việc hợp tác này chủ yếu xảy ra vào ban ngày ở nơi công khai dễ thấy cho bất cứ ai mà chịu nhìn và chịu nghe. Báo chí trên toàn thế giới, các ấn phẩm của phong trào, các hồi ký cá nhân, các chương trình phát thanh, 27  các tài liệu tịch thu từ kẻ thù và các tài liệu mật hàng ngày  ghi nhận mọi chi tiết và dữ kiện đang diễn ra. Đã có cả hàng ngàn điểm chưa được kết nối lại với nhau, nhưng các cơ quan tình báo Mỹ đã từng có mười năm trong chiến tranh để thu thập và phân tích chúng và nói chung đã không làm được việc này. Nhiều chính trị gia và các thành viên của các ủy ban Quốc hội, mà sự nghiệp phụ thuộc vào việc hiểu biết chính trị , đều tin rằng Cộng sản Việt Nam đã ảnh hưởng đến phong trào phản chiến Mỹ và cũng tìm thấy được khắp mọi nơi đủ bằng chứng  để tuyên bố lên điều này nhưng để rồi lại bị chê cười, bị biến thành kẻ câm điếc vì phạm lổi sai lầm về chính trị.

Chiến lược của Hà-nội: Một vết đen trong Lịch Sử

Đa số các chuyện kể đều bới mốc chưởi rũa các quyết định bí mật và dối trá của các nhân vật chính trị và quân sự Mỹ  28 nhưng lại nhẹ nhàng lướt phớt qua các chiến lược chính trị tàn bạo từng được công khai công bố và các chiến thuật dối trá của Cộng sản Việt Nam. Các kẻ lãnh đạo chống chiến tranh Mỹ đã là một phần không tách rời của chiến lược chiến thắng chiến tranh của Hà Nội bằng  Cuộc Chiến Tranh Cách Mạng Nhân Dân. Hà Nội đã có ý đồ chính tri khi nhắm vào phong trào phản chiến và các phương tiện truyền thông Mỹ. Việc này đã là một chương trình được nghiên cứu thành công trong ý đồ thống nhất – hoạt động ngay trong sinh hoạt của kẻ thù (địch vận), nguyên là một trong ba mủi dùi của – đấu tranh với vũ khí (đấu tranh vũ trang)  trong tổng chiến lược của Hà Nội để chiến thắng cuộc chiến tranh cách mạng chống lại một kẻ địch mạnh hơn. 29 Hà Nội đã thành công áp dụng lý thuyết để thi hành thành công nhằm và phát triển một chiến dịch chính trị tại Paris:  giải giới miền Nam Việt Nam, phát động y như vậy tại German Town, cùng thực hiện việc này ngay từ văn phòng của Dân Biểu Ron Dellums và nhiều kẻ khác để cuối cùng đã thuyết phục được Quốc hội Mỹ  cắt dứt, bỏ chạy và phản bội miền Nam Việt Nam, bất kể các chiến thắng tuyệt vời của đồng minh trên chiến trường và trong các thôn làng của miền Nam Việt Nam sau năm 1968.

Thù Ghét Việt-Nam và Hoa-Kỳ: Phá Hoại Lịch Sử Hoa-Kỳ

Các hậu quả của một ngụy sử còn rất nhiều hơn là những hậu quả quân sự của một cuộc thua trận. Kể từ khi các khuôn mẫu về tội phạm chiến tranh Việt-Nam của chính phủ cùng hình ảnh những người mưu tìm hòa bình vô thưởng vô phạt được tạo dựng ra cho đến nay, trẻ em của chúng ta đã được giáo dục một lịch sử đầy tính phá hoại không chỉ của chiến tranh Việt Nam, mà còn luôn cả về một nước Mỹ cực kỳ xấu xa. Nhiều người không tin rằng Mỹ đáng để được bênh vực. Rất nhiều người Mỹ thuộc tín ngưỡng tả phái cấp tiến cho rằng tất cả các nỗ lực quân sự Mỹ đều chỉ là của một chủ nghĩa đế quốc ác độc, là một công việc vô ích chứ không phải là để bảo vệ lợi ích quốc gia Mỹ hay để bảo vệ tự do. Những kẻ từng học thói ghét chiến tranh Việt Nam đã đạt đến mức ghét luôn các chính trị gia, các quân nhân và ngay cả nước Mỹ. Howard Zinn, tay hoạt động phản chiến và thành viên bí mật của CPUSA (Đảng CS Hoa-Kỳ), đã viết tài liệu đầy căm thù A Peoples‘ History of the United States (Lịch Sử Nhân Dân của Hoa Kỳ), mà đã bị phải đọc trong hàng ngàn trường trung học và đại học Mỹ.

Di sản  – Thù Mỹ – này dựa một phần lớn vào những câu chuyện chúng ta tự kể cho nhau nghe về Việt Nam. Các nhà lãnh đạo chính trị đã nhanh chóng chấp nhận một chính sách cắt bỏ để chạy trong mọi cuộc xung đột quốc tế, để theo đuổi một chính sách ngoại giao thương thảo mà thôi, và luôn luôn không tin là  Mỹ có bất kỳ một lợi ích chiến lược tại nơi nào cả. Thật vậy, tả phái không bao giờ tìm thấy bất kỳ lợi ích hay chiến lược gì của Mỹ mà đủ cần thiết để đi đến chiến tranh. Mỹ không thể tồn tại nếu gần một nửa công dân của mình tin rằng quốc gia của họ là một sức mạnh tư bản chủ nghĩa đế quốc ác độc xứng đáng để bị hủy diệt, hoặc là một quốc gia tội lỗi với nhu cầu luôn luôn phải xin lỗi. Nếu kiểu nhìn tăm tối này lại là sự hiểu biết của ngay chúng ta về Việt Nam và về lịch sử của chúng ta, thì việc bảo vệ Mỹ chống lại chủ nghĩa Hồi giáo phát xít hay cộng sản Trung Quốc cũng sẽ tương tự, không đáng ngay cả một đồng 5 xu  hay chỉ một giọt máu. Ở một mức tối thiểu nào đó, các bài học chính thống về  Việt Nam đã như một  mủi thuốc tiêm đề cao việc phải thận trọng, chần chừ tới mức rụt rè và luôn luôn nhằm xoa dịu – tất cả đều là những tín hiệu của sự yếu đuối và thiếu vắng ý chí để đối đầu với kẻ có khã năng là thù. Chủ nghĩa Chủ Bại đang có một số lớn cử tri và đang phát triển trong quốc nội, điều mà các nước ngoài cũng đã  nhận thấy được .

Bọn Thánh Chiến Jihadist và Trung Cộng Biết Công Thức để Chiến Thắng Hoa-Kỳ

Dù chúng ta nghỉ ra sao về mình, từ kinh nghiệm của Việt Nam, kẻ thù của chúng ta đã học được cách để đánh bại Hoa Kỳ về quân sự ở ngay mặt trận quốc nội. Công thức này thật đơn giản và hiệu quả: mở rộng các lĩnh vực chiến đấu để bao gồm luôn các biện pháp tâm lý và chính trị để ảnh hưởng đến tinh thần quân đội, đến công luận và đến ý chí chính trị. Một cựu sĩ quan tình báo, nguyên là viên chức về động viên công dân tại Việt Nam, nhà sử học Bill Laurie tranh luận là kẻ thù có thể mong đợi sẽ không có một phản ứng có hiệu quả, sẽ không có đối đáp lại việc tuyên truyền, sẽ không có chương trình lâu dài để chống lại các giả dối bằng chân lý. 30Sẽ không có phản ứng ngược chống lại những điều bị che dấu trong đám sương mù đang bao phủ các vong linh trong những trận chiến từng bị lãng quên lâu nay.

Ngày nay, Trung Cộng và bọn chiến binh thánh chiến Hồi giáo hiểu được giá trị của công luận  và chính sách của chính phủ Mỹ . Bọn chiến binh thánh chiến Hồi giáo và Bắc Kinh cộng sản hiểu rõ bài học của Việt Nam khi tấn công Hoa Kỳ. Bọn chiến binh Hồi giáo và bọn địch thủ Trung cộng của chúng ta  31 đang sử dụng lại nhiều chiến thuật và chiến lược mà đã giúp chúng chiến thắng dùm Hà Nội trong chiến tranh Việt Nam. Trong các tài liệu huấn luyện của al Qaeda bị tịch thu, bọn khủng bố được hướng dẫn phải phản đối là bị tra tấn. Trong các tài liệu này, Osama bin Laden lộ cho chúng ta biết là y học thuộc những bài học của Việt Nam. Osama theo dõi các thăm dò công luận Mỹ và tin rằng tinh thần quân đội và ý chí chính trị đang suy yếu dưới tác động của một cuộc chiến lâu dài chống lại khủng bố .32 Và Tổng thống Obama lại phản ứng với các quyền Miranda và cho mở các phiên tòa xét xử kẻ thù bị bắt trên chiến trường rồi đóng cửa nhà tù Guantanamo vì tuyên truyền ngụy tạo của đối phương.

Ngày nay có nhiều rủi ro hơn thời Việt Nam. Ngày 9 / 11 bọn thánh chiến Hồi giáo đã tấn công quê hương Mỹ. Bây giờ các điệp viên hoạt động nhằm gây ảnh hưởng, các điềm chỉ viên, và các gián điệp của Trung Cộng đông hơn nhiều các lực lượng mà Hà Nội đã tuyển dụng và dàn trải khắp nước Mỹ. 33 Thay vì loại truyền hìnhYesterday‘s television war từng được chuyển tiếp bằng Teletype và các phim ảnh đưa tay về từ Việt-Nam thì nay là một cuốc chiến toàn cầu gồm các thông tin vô tuyến  đột xuất qua nhửng bản tin, những con số và những hình ảnh mà thường không được phối kiểm về nguồn gốc hay là về tính cách trung thực của các biên tập viên. Như từng xẩy ra tại Việt Nam, tuyên truyền của địch đã không bị  kiểm soát và còn tệ hơn nữa, là không được đáp ứng lại. Ngày nay ngoài cây bút, hủ mực và các megawatts truyền thanh được phát sóng như từng được sử dụng trong chiến tranh Việt Nam, thì bây giờ phải thêm vào đó là hàng nghìn tỷ gigabytes của Internet, điện thoại di động, gởi chữ và hình qua máy, truyền tin bằng cáp phát quang, vệ tinh thông tin liên lạc và các phương tiện viễn thông cùng sản phẩm khác mà trong thời gian chiến tranh Việt Nam vẫn chưa hề được phát minh. Nếu thông tin là sức mạnh thì kỹ nghệ viễn thông mà đã được tự do hóa cùng cuộc cách mạng của nó đã cung cấp thêm quá nhiều phương tiện mới và quả là một nhân tố tăng phồng khã năng chính trị hơn nhiều so với những gì Hà Nội đã từng có xưa kia. Ngày nay, chế độ Cộng sản Trung Quốc đã thuê Yahoo, Google, Cisco, và Microsoft để đàn áp phong trào bất đồng chính kiến trong nước và sử dụng tiền mặt để mua chuộc các chính trị gia và các giám đốc thương mãi của Mỹ. 34  Chỉ vì quyền lợi buôn bán, các tập đoàn kinh doanh lại sử dụng lối biện minh giả dối của một loại đạo đức mơ hồ, một loại di sản của thời Việt Nam mà vẫn chưa được hiểu rõ. Chính sách khôn ngoan của kẻ thù của chúng ta (không đối xứng, trình độ kỷ thuật thấp, nhưng khái niệm cao) lại có thể đánh bại loại bom thông minh của chúng ta một lần nữa sao? Liệu những chiến thắng quân sự và dân sự trong các làng mạc củaIraq vàAfghanistan lại một lần nữa bị đánh mất đi trong quảng trường của các thị trấn Mỹ, trong các câu lạc bộ đại học, trong các cuộc họp của các đảng cấp tiến và do các phương tiện truyền thông? Nếu không thì làm sao chúng ta lại có thể đối phó với các cường quốc hạt nhân của thế giới thứ ba và chính sách bành trướng của Trung Quốc?

Việt Nam Redux: các tra tấn và hành vi tàn bạo bị cáo buộc tại Lebanon, Haditha, Guantanamo, Abu Ghraib

Các cáo buộc thái quá của thời bây giờ làm ta nhớ lại các tường trình rất thường xuyên nhưng lại hiếm khi được cải chính về các vụ tra tấn và các hành vi tàn bạo của Mỹ tại Việt Nam nơi mà vài sự việc rời rạc do vài hành vi xấu xa của Mỹ đã được mô tả một cách tuyệt khéo, như về mặt đạo đức là tương đương với các chính sách khủng bố có hệ thống của Việt Cộng . Giống Việt Cộng, ngày nay bọn chiến binh Jihadist dựa vào một giới truyền thông bị mặc cảm tội lổi  để phổ biến các cáo buộc thổi phồng về hành động tàn bạo của Mỹ. George Soros đã tài trợ cho một công trình nghiên cứu mà đã tuyên bố là có 650.000 vụ tử vong ở Iraq từ năm 2003 đến 2005, khoảng tám lần hơn con số thật. Tạp chí Y học New England (New England Journal of Medicine) đã cung cấp những nghiên cứu mà đã cho thấy có ít hơn nhiều con số tử vong ngay trong một thời gian dài hơn, là 151.000, từ 2003-2007. 35 Hezbullah, tổ chức từng dùng con người để làm lá chắn đở đạn với bằng chứng giả mạo (xác chết bị dùng lại, đồ chơi trẻ em còn mới tinh, những biểu tượng tôn giáo bị phá vỡ, đạn chưa được bắn, các hình chụp đầy màu sắc tình cờ chụp được mà đã bị dùng để cấy vào giữa đống đổ nát xám đen vì bôm) đã cung cấp các tài liệu về tội ác chiến tranh trong cuộc chiến Hezbullah với Do-thái ở miền nam Lebanon cho một giới truyền thông dể tính trong năm 2006. Các chuyện về tra tấn trong cuộc chiến tranh Iraq đều được giả tạo từ các phiên bản bị bóp méo với các sự việc tại Abu Ghraib và Guantanamo. 36 Từ một vụ đọ súng ở Haditha với quân nổi dậy đang trà trộn ẩn núp chung với  dân thường và … cũng được họ trợ giúp, Dân biểu John Murtha, Dân chủ-Johnstown, tuyên bố đó là một vụ thảm sát không thương tiếc mà sau đó các tòa án quân sự đã phần lớn tuyên bố là  không hề xẩy ra. 37 Sau ngày 11 tháng 9 năm 2001, khi Mỹ đi tìm một cách vô vọng nơi để chứa các tù binh bị bắt tại Afghanistan, thì bốn tháng sau Mỹ đã phải quay về dùng Trại X-ray, một nơi trước đây dùng để chứa người tị nạn Cuba và Haiti. Hình ảnh của dây thép gai, các chuồng và các tù nhân bị xích trong các bô đồ nhảy dù màu da cam được phổ biến khắp trái đất nhằm cáo buộc các điều kiện vô nhân đạo và sau đó là các vụ tra tấn. Thượng nghị sĩ Patrick Leahy, Barack Obama và những người khác tuyên bố rằng việc tuyên truyền này là một công cụ tuyển quân của Al Queda thay vì xem đó như là một bài học, đúng như câu chuyện thật sau đó được tiết lộ bởi FBI, Bộ Quốc phòng và các điều tra viên khác. Các tù binh đã được chăm sóc y tế một cách tuyệt hão, được cung cấp 5-6,000 ca-lô-ri mỗi ngày, có cơ hội giải trí, có truyền hình vệ tinh, thư viện, và tôn giáo của họ được tôn trọng . Các chuyện về xúc phạm kinh Koran ở nhà vệ sinh và với nước tiểu mặc dù đã được chứng minh là không có vẫn được đề cập tới 4.677 lần so với chỉ 90 lần tham chiếu đến trường hợp oai hùng của Trung Sĩ Paul Smith, người đã nhận Huân chương Danh Dự. 38 Việc dùng ống để đưa thức ăn qua mũi cho tù nhân đang tuyệt thực là tiêu chuẩn nhân đạo thường dùng tại bệnh viện -Không có hành vi bị cấm nào đã được tìm thấy và các điều kiện đều phù hợp với lòng nhân đạo, chiếu theo một phúc trình của Lầu Năm Góc. Các báo cáo về tra tấn ở Guantanamo đều là ngụy tạo: tất cả các cuộc thẩm vấn đều là tự nguyện với người liên hệ lại ngồi trong ghế LZ-Boy. Một nghiên cứu của FBI dựa trên các cuộc phỏng vấn của 450 nhân viên FBI cho thấy không có tù nhân nào bị đánh đập, đốt cháy,  giật điện hay bị đe dọa bằng côn trùng hoặc động vật đáng sợ. Đúng, có một số tù binh đã không được ngủ, với âm nhạc mở lớn, đèn thì sáng, bị cô lập, và một số đã bị còng trong những tư thế khã dỉ gây đau đớn. Có một trường hợp dùng nước đổ làm ngợp. 39 Cuộc sống ngày nay tại Guantanomo quả thật là tốt, tốt hơn nhiều khi so với hầu hết các nhà tù tiểu bang và nhà tù quận Mỹ.

 Các Tổng Thống bị phỉ báng : Johnson, Nixon, Bush và cả luôn Obama

 Ngày nay nhiều người vẫn còn ghét Mỹ dựa trên những câu chuyện đen tối thời Việt Namcùng các giai thoại kế tiếp. Như với LBJ và Nixon trong vụ Việt Nam, một thiểu số cuồng tín đã cả tin bất cứ điều gì đáng ghét về Tổng thống Bush và người kế nhiệm ông là Barak Obama. Chính Bush đã làm nổ tung Trung tâm Thương mại Thế giới. Chính Bush đã cố tình làm đổ máu dân để đổi dầu Iraq. Chính Bush là tên đại khủng bố trên thế giới. Chính Bush đang lén nghe điện thoại và e-mail của hàng triệu người Mỹ, (điều vô lý). -Bush Nói Láo làm Dân Chết . Quả thực là một sự trở về không tưởng tượng được của thời “ Hey, Hey, LBJ! Đã giết chết bao nhiêu trẻ em ngày hôm nay?”.  Họ ghét Bush nhất vì cuộc chiến thắng tại Iraq sau khi đã không chịu cái kiểu cắt bỏ, tháo chạy và phản bội theo mẫu của thời Việtam. 40

Mugabe, Chavez, Castro, tờ Daily Kos và tờ Huffington Post nay đổ xô chưởi bới Tổng Thống Barack Obama.

Phản Bội: Khái Niệm Mới Về Lòng Ái Quốc

Việt Nam trở thành một khuôn mẫu dùng để phá hoại, – ngược lại với xây dựng, tính hợp pháp của chủ nghĩa yêu nước bình thường – bằng cách chế giễu các hành vi đơn giản và các biểu tượng của lòng trung thành và tinh thần công dân, lời thề, lá cờ, và bôi nhọ tính cách thanh liêm của các nhà lãnh đạo quốc gia và cáo buộc họ chỉ là nhửng kẻ luôn luôn nói dối, những tên khùng và cũng là những tội phạm chiến tranh. – Sự thật trần truồng của phe chính trị cánh tả là … nếu sự bất đồng chính kiến tăng lên đến mức độ phản quốc thì … thành yêu nước, chiếu theo tay blogger sành điệu Socrates. Tuy nhiên, nếu bạn tin rằng quốc gia của bạn làm sai, bạn có quyền được trợ giúp các kẻ thù mà vẫn tuyên bố yêu cái nước mà bạn đang phản bội? Làm sao mà việc ngăn chặn các đoàn tàu chuyển quân – cản trở nỗ lực chiến tranh cùng giúp đỡ kẻ thù – lại là một hành động yêu nước?

Quả thật đầy tính Orwellian – một cuộc đu dây về ngôn ngữ mà đã biến đổi tội phản quốc thành lòng ái quốc. 41

Thái độ đổ lỗi cho Mỹ và thù ghét cử tri Mỹ, từng được nuôi bằng những câu chuyện của cuộc chiến Việt Nam mà chưa có ai trả lời lại, ngày nay đã lan rộng từ các phong trào phản chiến để đi vào các sách sử tại trường học và vào dòng tả phái chính. Cũng như thời Việt Nam một số của những kẻ ồn áo nhất lại tuyên bố là họ hành động cho tình yêu, hòa bình và công lý. Và như vậy thì sự thù hận Bush và người kế nhiệm của ông – không thể tách rời khỏi cuộc chiến ở Iraq và Afghanistan hoặc khỏi chiến lược quân sự thống nhất hiện đang được sử dụng ở khắp mọi nơi để chống lại sức mạnh quân sự và ngoại giao của Mỹ.

Ronald Reagan từng tuyên bố lý do tham chiến tại Việt Nam là chính đáng và cao quý. Rudyard Kipling thì lại nói một cách khiêm tốn hơn, – Nạn nhân đầu tiên của chiến tranh là sự thật. 42 Chiếu theo tiêu chuẩn của Kipling thì các tên nói dối giỏi nhất có vẻ đã không những giành được chiến thắng ở Việt Nam, mà cũng đã cướp đoạt luôn ký-ức của chúng ta về nó. Một câu tục ngữ Việt Nam đã cho rằng – Thắng làm vua, thua làm giặc.  43  Các câu chuyện kể của bọn nói dối thường là những chuyện được kể lại về Việt-Nam trong sách vở, truyền thông, và các lớp học. Chúng tôi cố gắng để trả lời loại chuyện này với những sự kiện không thể nào phủ nhận được.

Hành Vi Giúp Địch là Hành Vi Nhân Đạo

Vào cuối tháng 12 năm 2004, Medea Benjamin khi lên tiếng thay mặt cho Code Pink, Global Exchange, and Families for Peace, đã công bố ý định của y để đóng góp $ 600.000 mua dụng cụ y tế cùng tiền mặt cho – phe bên kia, gia đình của các phần tử khủng bố nổi dậy từng giết lính Mỹ ở Fallujah, Iraq. 44 Thượng nghị sĩ Barbara Boxer và các đại diện cho Henry Waxman, Dennis Kucinich và Pink Raul Grijalva đã giúp đở cho Code Pink. Ngày nay đã gần như không có đáp ứng gì đối với việc chặt đầu người thợ sửa ăng ten dân sự Nick Berg và phóng viên Danny Pearl nếu ta so sánh với đợt gào thét đang tiếp diễn về việc các chiến binh khủng bố bị sỉ nhục của tại Abu Ghraib, về việc giam cầm các binh sĩ địch trong thời chiến mà không áp dụng quyền Miranda tại Guantanamo và những tuyên bố gian dối về việc Mỹ cố tình sát hại thường dân vô tội ở Haditha. Bọn thánh chiến tôn vinh hành vi chặt đầu trong khi Hoa Kỳ thì lại đi điều tra các nhà tù Abu Ghraib,Guantanamo và Haditha và cố truy tố các kẻ sai trái.

Ngày nay, Quốc hội và toàn quốc lại cũng bị chia rẻ trong cuộc chiến chống Chủ nghĩa Phát xít Hồi. Một Tổng thống và một quân đội bị bó tay đã quả thực cho phép bọn thánh chiến có nơi ẩn náu ở miền Nam Lebanon, Syria, Yemen, Ả Rập Saudi, Iran, và Tây Bắc Pakistan. Cũng giống như Cam-pu-chia và Lào trong chiến tranh Việt Nam. Thật vậy, bọn khủng bố và các nông dân dễ dàng vượt qua biên giới giữa Mỹ với Mexico và Canada.

Tổng thống Johnson và Nixon, ứng cử viên tổng thống đảng Dân chủ Hubert Humphrey, Chưởng lý Katzenbach, Giám đốc FBI Hoover, Giám đốc CIA George Bush và nhiều người khác (từng nhiều lần) phàn nàn về việc kẻ thù đã ảnh hưởng đến phong trào phản chiến. Đô đốc Mỹ Grant Sharp, người đứng đầu Lực Lượng Thái Bình Dương Mỹ đã nói là ý chí quốc gia đã bị phá hủy bởi “một chiến dịch nổi loạn được tuyên truyền khéo léo,  hỗ trợ và tiếp tay bởi cơn phủ đầu do giới truyền thông nhằm loan tin giật gân, tin đồn nhãm, và tin “nữa vời” về cuộc chiến.

Tính cách đồng lõa của phong trào phản chiến trong việc sụp đổ của Việt Nam, Lào và Campuchia trước chính sách khủng bố và xâm lược của Cộng sản đã bị sai lầm đánh giá thấp trong hầu hết các tài liệu sử Mỹ của thời đại . Sử gia Mát-xít Eugene Genovese cuối cùng đã thừa nhận rằng nhiều người Mỹ cấp tiến, cũng như y, đã đồng lõa trong các vụ tàn sát tập thể 45 tại Đông Dương. Y thuộc số hiếm hoi từng thú nhận rằng mình sai lầm khi ủng hộ bọn cộng sản tại Việt-Nam.

Nếu không được điều chỉnh, lịch sử của cuộc chiến Việt Namsẽ trở thành chỉ là chuyện về buổi hoàng hôn của một nền văn minh lớn. Liệu rằng Hoa-kỳ, chế độ của tự do, sẽ bị phai mờ trong lịch sử vì đã không có khả năng đối phó với các kẻ thù trong tương lai (Phát xít Hồi, hay Độc tài Trung cộng) chỉ vì sợ làm sống lại bọn ma quỷ thời Việt Nam? Hà Nội, không nói tới Weatherman, đã không bao giờ đem lực lượng của mình vào nước Mỹ. Việt Nam, tuy là một cột mốc quan trọng trong Chiến tranh Lạnh, chưa bao giờ tượng trưng cho một thách thức toàn cầu như Trung Cộng hiện nay. Trung Cộng và bọn Phát xít Hồi có thể tấn công bằng vũ khí hạt nhân quê hương của chúng ta bằng cách vận chuyển chúng trong các “kiện hàng containers”. 46

Đây là lúc để nhận rỏ vai trò của các nhân vật và kể ra câu chuyện chưa từng kể.

Trong số cả ngàn diễn viên anh hùng thì chỉ có vài tên đã nổi tiếng … cho đến ngày hôm nay.

Roger Canfield

Lê Bá Hùng chuyển ngữ với sự chấp thuận của Tác giả


14  Bruce Kessler, điểm sách của James Robbins, This Time We Win: Revisiting the Tet Offensive.

Thư gởi Emir Al-Momineen, Sheik Mullah Omar; Peter Bergen, Tài-liệu về Al Queda mới công bố, – The Osama Ben Laden I Know, Simon and Schuster, 2006, 426. 

15 Tướng  Craighton Abrams, Philip Davidson, Lewis Sorley, John Lenczowski.

16 Douglas Pike, PAVN: Quân đội Nhân Dân Việt Nam. Presidio Press, Novato, California, 1986, 251, Douglas Pike, – Cái nhìn của Hanoi/Viet Công về chiến tranh Việt Nam,  US Air Force Academy, Colorado, 11 tới 19 tháng 10 năm 1990, 15 xem ở vwip.org /vc-view. php, Phillip B. Davidson, Việt Nam trong thời chiến: Lịch sử: 1946-1975, New York: Oxford University Press, 1991, 811.

17 J. Michael Waller, Ảnh hưởng về chiến lược  :  Ngoại giao Công Khai , Phản Tuyên Truyền, và Chiến tranh Chính trị, Washington: Học viện Chính trị Thế giới, 2009, 16-17.

18 Jan Sejna, We Will Bury You, London: Sidgwick & Jackson, 1982, 102-107.

19 Douglas Pike, PAVN: People’s Army of Vietnam. Presidio Press, Novato, California, 1986, 243.

20 Thứ bảy 19 tháng 3 Chống bộ Máy Chiến Tranh, Ngày Quốc Tế Hành Động, ANSWER địa chỉ trên web

http://www.answercoalition.org/national/news/march-19-day-of-action.html;

19 tháng 3 Liên Minh tổ chức kế hoặch cho một cuộc biểu tình vĩ đại chống chiến tranh

http://www.minjok.com/english/news.php?code=4431

21 David Corn, – Phía sau các ngăn kéo: các nguồn gốc kỳ quái và đáng nghi của phong trào phản chiến  ngày hôm nay, LA Weekly, 30 tháng 10 năm 2002; Vô Danh, Các cựu chiến binh cho Tòa Bạch Ốc Obama biết là chính sách chiến tranh của họ là một sự xấu hổ.

Điều này không thể xẩy ra (http://www.thiscantbehappening.net) 03/20/2011; AP,

22 Đoàn Kết cho Hòa Bình và Công Lý, tổ chức với 1.444 hội viên tại http://www.unitedforpeace.org/groups.php?country. 

23 http://progressivesforobama.blogspot.com/  và của Trevor Loudon tạihttp://newzeal.blogspot.com/

24 Cảm ơn nhiều John Del Vecchio, tác giả của hai quyển Thung Lũng số 13 và Vì Lợi Ích của Mọi Sinh Vật với các ý nghì sâu xa về tầm quan trọng của chuyện Cuộc Chiến Việt nam.

25 George Seldes, Các Trích Dẫn Giá Trị, New York: Pocket Books, 1967, 476.

 26 Zaroulis Who Spoke Up; Tom Wells, The War Within

27 Nhờ Scott Swett và Mike Benge toàn bộ các bài nói của Jane Fonda từng bị truyền thanh bởi Đài Hà-nội năm 1972 từ Sở Thông Tin Truyền Thanh Ngoại Quốc FBIS, nay có thể nghiên cứu tại http://www.wintersoldier.com/index.php?topic=FondaHanoi

28 David Halberstam, Best and the Brightest

29 Douglas Pike,  Viet Cong: The Strategies and Tactics of the National Liberation Front, MIT Press, 1966; Douglas Pike, PAVN: People’s Army of Vietnam. Presidio Press, Novato, California, 1986; cũng như với  Phillip B. Davidson, Vietnam At War: the History: 1946-1975, New York: Oxford University Press, 1991; Mackubin T. Owens, ―Senator Kennedy, Iraq is No Vietnam, National Review, tháng 4, 2004.

30 Bill Laurie nói với tác giả và nhiều người khác, 23 tháng 5 năm 2009

31 Michael Pillsbury, China Debates the Future Security Environment,Washington, DC: National Defense University Press, 2000; Eric Sayers, ―China‘s Asymmetrical Strategy,  Weekly Standard,  28 tháng chạp, 2007.

32 Osama bin Laden, ―Tài liệu viết -Bin Laden Tài liệy thi băng, BBC, 19 tháng giêng năm  2006 tại http://news.bbc.co.uk/2/hi/middle_east/4628932.stm,  viện dẫn và thảo luận trong  J. Michael Waller, Fighting the War of Ideas Like a Real War, Washington: The Institute for World Politics Press, 2007, 28-30; các tài liệu tịch thu được đã được nêu ra trong David E. Spencer, ―Red-Teaming Political Warfare, Second Conference on Public Diplomacy, Counterpropaganda and Political Warfare, The Institute for World Politics, tháng 5 năm 2005; cũng trong Waller, ed., Strategic Influence; John Miller phỏng vấn Bin Laden, tháng 5 năm 1998http://www.pbs.org/wgbh/pages/frontline/shows/binladen/who/interview.html#video. Cũng được viện dẫn trong David Horowitz, Unholy Alliance: Radical Islam and the American Left, Washington: Regnery, 2004.

33 Roger Canfield, China‘s Trojan Horses: Red Chinese Soldiers, Sailors, Students, Scientists and Spies Occupy America‘s Homeland, Sacramento: Military Magazine, 2002. 

34 Roger Canfield và Richard Delgaudio, China Doll; Roger Canfield, China Traders

35 Brendan Montague, ―Phản chiến  Soros đã tài trợ cho cuộc nghiên cứu vế  Iraq, Times (London), 13 tháng giêng năm 2008.

36 Lawrence R. Velvel, ―Introduction  to ―Are Our Highest Officials Guilty of Torture? The Long Term View, Volume 6 Number 4, Mùa Xuân  2006. Velvel với tư cách thành viên của  the Consultative Committee of Lawyers Committee on American Policy Towards Vietnam đã cũng cáo buộc y như vậy đối với cuộc chiến tại Iraq.

37 Bruce Kesler, Advance Screening: PBS‘ Frontline Haditha Earns a ―B-Democracy Project, 16 tháng 2 năm 2008 democracy-project.com.; Tim McKirk, ―Collateral Damage or Civilian Massacre in Haditha? Time, 19 tháng 3 năm 2006; để biết rỏ hơn về việc phân tích cặn kẻ đối với tường trình báo chí về Haditha, hãy xem ở http://www.sweetness-light.com/

38 American Enterprise tra cứu về  LexisNexis viện dẫn trong Trung Tá  Robert ‗Buzz Patterson, War Crimes New York: Crown Forum, 2007, 102.

39 Oversight and Review Division, Office of Inspector General, Phê duyệt về sự Liên Hệ và Xem Xét  Các Cuộc Hỏi Cung của FBI tại Guantanamo Bay, Afghanistan and Iraq, tháng 5 năm 2008, 171-201; Xem thêm  Thomas Joselyn, ―The Real Gitmo: What I saw at America‘s best detention facility for terrorists, Weekly Standard, Vol. 15, No. 15, 8 tháng chạp năm  2009; Rich Lowry, ―Soft Cell: The Reality of Guantanamo,‖ National Review; Gabe Ledeen, ―A Firsthand Look at the Real Guantanamo, Pajama Media, 15 tháng giêng 2009; Peter King, ―The Real Gitmo, The New York Post, 26 tháng 2 năm 2009.

40 William McGurn, ―Bush‘s Real Sin Was Winning in Iraq, Wall Street Journal,20 tháng giêng năm 2009.

41 Phản Quốc tại CIA, do  Socrates – Đoạn: Hồi Ký tháng 4 năm 2006.

http://socrates.redstate.com/story/2006/4/24/13265/2055

42 SGM Herbert A. Friedman (Về hưu), ―The Strange Case of the Vietnamese ‗Late Hero‘ Nguyễn Văn Bé, tại  psywarrior.com/BeNguyen

43 Một nhận xét của Mike Faber với tác giả vào năm 2007. Faber nói được tiếng Việt và là tác giả của  The Long Road to Freedom: Story of the Vietnamese Struggle for Freedom Following the Fall of Saigon, Sacramento, 1988.

 44  Thư của Dân biểu Henry Waxman gởi đại sứ Mỹ tại Amman, Jordan nhằm chuyển viện trợ nhanh chóng qua Quan Thuế, Inter Press Service, 30 tháng chạp năm 2004 tại uruknet.info?  viện dẫn tại  http://www.theodoresworld.net/archives/2006/01/hang_em_high.html?; Peace and Resistance, 1 tháng giêng năm 2005. Viện dẫn tại  http://www.theredhunter.com/2006/04/walter_reed_freep_154_march_28_2008_3_year_anniversary.php.

Tiết lộ: Vào năm 1987, tác giả đã cùng với sự trợ giúp công khai của Oliver North và Rush Limbaugh gây quỷ và gom góp dụng cụ cùng  thuốc men tại Sacramento cho gia đình các Contras chiếu theo Quỷ Cứu Trợ Nicaro (Nicaro Relief Fund).  

45 Robert Turner viện dẫn từ James M. Griffiths, Vietnam Insights: Logic of Involvement and Unconventional Perspectives (New York: Vantage, 2000) 225.

46 Roger Canfield, Stealth Invasion: Red Chinese Operations in North America, Fairfax: United States Intelligence Council, 2002.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét