Ngô Đình Nhu
Rất ít trí thức Việt Nam có tầm nhìn như thế
này, và trong số những người lãnh đạo Việt Nam lại càng hiếm hơn. Cho đến nay
có bao nhiêu người Việt đọc tác phẩm này của ông Ngô Đình Nhu?
Xem lại lịch sử của các công cuộc chinh phục
của Tây phương, chúng ta nhận thấy rằng khi bị tấn công, các dân tộc đều ý thức
ngay tình thế nghiêm trọng và sự cần thiết phải vận dụng lực lượng quốc gia để
đương đầu với một thử thách quyết định sự sống còn của tập thể. Bản năng sinh
tồn đã đánh thức ngay khả năng tự vệ đối với một vật ngoại lai toan xâm nhập
vào nội bộ cơ thể.
Nhiều loại phản ứng
Nhưng nếu ý thức nguy cơ và sự phản ứng tự vệ
đều có như nhau, thì trái lại, tính chất của sự phản ứng, cường độ của sự phản
ứng, và hậu quả của sự phản ứng khác nhau, tùy theo hoàn cảnh lịch sử, tùy theo
khả năng của người lãnh đạo trong các lúc quyết liệt ấy, tùy theo tinh thần của
dân chúng lúc bị tấn công, tùy theo phương tiện vận dụng được và tùy theo trình
độ dân trí của dân tộc lúc bị tấn công.
Cố nhiên là sự nghiệp và hành động của một dân
tộc, mặc dầu do một số người quyết định trong một thời gian nhất định, nhưng
cũng do nhiều hoàn cảnh và yếu tố chi phối.
Nhưng xét theo kết quả của sự phản ứng của
từng dân tộc, chúng ta có thể chia các nước đã phải đón chịu sự tấn công ghê
gớm của Tây phương ra làm bốn loại.
Trước hết có những dân tộc như dân tộc Nhật
Bổn, phản ứng có hiệu quả, chặn đứng được sự tấn công, bảo vệ được nền độc lập,
và nắm được cơ hội để tự cường lên đến mức ngang hàng với các cường quốc Âu Mỹ.
Kế đó những dân tộc như dân tộc Trung Hoa,
phản ứng không có hiệu quả, chiến bại trước sự tấn công, nhưng vì hoàn cảnh
chính trị lúc bấy giờ trong trường hợp của Trung Hoa và Thái Lan thì đúng là sự
mâu thuẫn giữa các cường quốc chinh phục nền độc lập tuy bị sứt mẻ, nhưng chủ
quyền vẫn được bảo tồn.
Tuy nhiên, nước nhà cũng bị đặt vào tình trạng
bán thuộc địa, do đó không tự cường nổi mà phải kéo dài tình trạng thấp kém để
chờ cơ hội mới.
Sau đó có những dân tộc như dân tộc Việt Nam
và Nam Dương phản ứng không hiệu quả, chiến bại trước sự tấn công, độc lập bị
mất, chủ quyền bị sụp đổ, nước nhà bị biến thành thuộc địa, thống trị bởi ngoại
quốc. Việc lỡ cơ hội đối với chúng ta chẳng những có nghĩa là kéo dài tình
trạng thấp kém lại còn mang ách nô lệ vào thân. Muốn nắm bắt cơ hội mới, trước
tiên chúng ta cần phải tranh giành độc lập.
Sau hết có những dân tộc như các bộ lạc Bắc
Mỹ, Trung Mỹ và Nam Mỹ, phản ứng không hiệu quả, chiến bại trước sự tấn công,
độc lập bị mất, chủ quyền bị sụp đổ, nước nhà bị thôn tính và dân tộc bị đồng
hóa.
Đối với các dân tộc sau này, vấn đề không còn
nữa và trong lịch sử họ chỉ còn để lại cái vết mỏng manh của một sự đi qua, đôi
khi đánh dấu bằng những phế tích của vài đền đài. Nếu ngày nay, chúng ta lấy
làm may mắn mà thấy rằng số phận ác nghiệt trên không phải là số phận của chúng
ta, thì chúng ta không nên quên rằng, nhân loại ngày nay còn xa lắm mới tiến
được đến mức để cho, đương nhiên, số phận ác nghiệt trên không phải là số phận
của những dân tộc nhỏ bé như dân tộc của chúng ta. Trong trình độ tiến hóa của
nhân loại ngày nay, sự một dân tộc nhỏ như chúng ta tránh được hay không số
phận khốn khổ ấy tùy thuộc ở sự nỗ lực tranh đấu của chúng ta. Và chính điểm
này sẽ đè nặng lên sự lựa chọn đường lối của chúng ta sau này.
Phản ứng của Nhật Bản
Nước Nhật đã phản ứng như thế nào để đạt những
kết quả mà chúng ta mục kích ngày nay?
Trước hết dân tộc Nhật có được cái vận may là
trong thời kỳ mà vận mạng của quốc gia Nhật, như của các quốc gia khác trong xã
hội Đông Á, như chỉ mành treo chuông việc mất còn chỉ trong ly tấc, được có một
lớp người lãnh đạo cực kỳ sáng suốt. Họ nhận thấy ngay con đường sáng của dân
tộc Những người này, trong một giai đoạn quyết liệt đã cởi bỏ được cho quốc gia
tính tự phụ cổ truyền, và có đủ can đảm nhìn các biến cố với con mắt thiết
thực. Nhờ vậy nên, trái với các quốc gia đồng thuyền khác, khư khư quấn cả mình
và đầu một cách mù quáng trong lớp áo kiêu căng, quốc gia Nhật ý thức được ba
điều tối quan trọng:
1.- Lực lượng xâm lăng hơn hẳn lực lượng kháng
chiến quốc gia về kỹ thuật tổ chức và kỹ thuật võ trang.
2.- Muốn chống lại nổi lực lượng xâm lăng và
lâm thời thắng họ, chỉ có cách duy nhất là chế ngự được kỹ thuật tinh xảo của
địch thủ.
3.- Mâu thuẫn nội bộ giữa các cường quốc trong
mặt trận xâm lăng của Tây phương là cơ hội duy nhất để bảo vệ nền độc lập và
phát triển dân tộc.
Óc sáng suốt và phi thường của những nhà lãnh
đạo Nhật Bản lúc ấy đã cấp thời tìm ra, ngay khi dân tộc gặp phải nguy cơ trên
lần đầu tiên, những biện pháp ứng phó duy nhất có hiệu quả mà như chúng ta đã
thấy ở trên, các nhà lãnh đạo Nga đã tìm ra và áp dụng sau nhiều thế kỷ chiến
đấu với các cường quốc Tây Âu.
Học kỹ thuật của địch thủ để thắng địch thủ,
chế ngự kỹ thuật của địch thủ để thắng địch thủ.
Các sự kiện trên đây là nguồn gốc của cuộc
cách mạng duy tân của Nhật thời Minh Trị. Những kỹ thuật của Tây phương trong
mọi lĩnh vực được phân tích học hỏi và áp dụng triệt để. Nhu cầu cấp thời đã
đặt ưu tiên cho lĩnh vực quân sự và chính trị. Lề lối lãnh đạo cổ truyền theo
chế độ quân chủ chuyên chế của xã hội Đông Á đã nhường chỗ cho lý thuyết chính
trị của Tây phương. Quân đội tập hợp và võ trang theo thời xưa đã biến thành
một quân lực hùng hậu tổ chức võ trang theo Tây phương.
Sau đó các phương pháp sản xuất kinh tế được
duy tân. Chuyên viên Tây phương tấp nập, vì quyền lợi cá nhân quyến rũ và nhất
là vì mâu thuẫn chính trị giữa các cường quốc chinh phục.
Nhờ sáng suốt các nhà lãnh đạo Nhật Bản đã nắm
ngay được cơ hội. Một trăm năm sau một cơ hội tương tự mới trở lại lần thứ nhì
cho các dân tộc bị chinh phục như dân tộc Việt Nam. Và nhờ nắm được cơ hội ngay
lần đó nên họ đã thành công trong công việc đưa dân tộc Nhật lên hàng tiến bộ
như chúng ta thấy ngày nay.
Và cố nhiên là những dân tộc nào lỡ cơ hội thứ
nhắt, như trên đã trình bày, đều còn nằm vào tình trạng như chúng ta ngày nay.
Và cơ hội thứ nhì sau Thế Giới Đại Chiến lần thứ hai, một trăm năm sau như
chúng ta sẽ thấy dưới đây. Và vấn đề hiện tại cho chúng ta là liệu lần này có nắm
lấy được cơ hội không?
Nước Nhật đã thành công trong công cuộc Tây
phương hóa để chống lại người Tây phương. Độc lập vẫn còn, chủ quyền vẫn
nguyên, người Nhật cũng như người Nga đã hoàn toàn chủ động công cuộc Tây
phương hóa của họ. Vì vậy cho nên, không lúc nào có sự gián đoạn trong việc
diễn tiến của lịch sử của họ. Điều này tối quan trọng như chúng ta sẽ thấy dưới
đây.
Nói một cách đại khái, một nền văn minh là một
toàn bộ gồm những giá trị làm tiêu chuẩn trong các lĩnh vực của đời sống: kỹ
thuật, chính trị, văn hóa, xã hội và nghệ thuật.
Trong cái toàn bộ đó, các giá trị quân bình
lẫn nhau gây nên một trạng thái điều hòa. Nếu trạng thái điều hòa động tiến thì
nền văn minh đang hồi phát triển. Nếu trạng thái điều hòa tỉnh chỉ, nền văn
minh đến lúc suy đồi. Mất một yếu tố quân bình, hay bị một phần tử ngoại lai
xâm nhập, trạng thái điều hòa sẽ mất và nền văn minh liên hệ sẽ bị đặt vào một
tình trạng báo động nguy hiểm. Nếu những phần tử của xã hội liên hệ không ý
thức và phản ứng kịp thời, và mất chủ động con thuyền chung thì nền văn minh sẽ
sụp đổ và tan rã, các giá trị tiêu chuẩn đều bị phá sản. Trái lại nếu những
phần tử của xã hội liên hệ ý thức kịp thời nguy cơ đưa đến và phản ứng hiệu
quả, vẫn nắm được chủ động con thuyền, thì sẽ chế ngự được các cuộc xáo động và
đưa nền văn minh đến một trạng thái điều hòa mới.
Tất cả các dân tộc như dân tộc Nhật, khi bị sự
tấn công của Tây phương, phản ứng hiệu quả bằng cách chế ngự kỹ thuật Tây
phương để làm khí giới chống lại Tây phương, đã thành công trong công cuộc bảo
vệ độc lập và phát triển dân tộc Nhưng kỹ thuật Tây phương là một vật ngoại lai
được nhập cảng vào trạng thái điều hòa của nền văn minh Nhật. Và vì vậy cho nên
sự thâu nhận kỹ thuật Tây phương làm mất trạng thái điều hòa nói trên và gây
cho xã hội Nhật nhiều chấn động đe dọa các giá trị tiêu chuẩn cổ truyền. Nhưng
giữa hai thái độ: một là bảo vệ sự tồn tại của dân tộc với cái giá phải trả là
chịu đựng những chấn động do một vật ngoại lai gây nên, hai là bảo vệ sự thuần
túy của trạng thái điều hòa của nền văn minh cũ, việc lựa chọn không thành vấn
đề. Bởi vì những người muốn bảo vệ sự thuần túy của trạng thái điều hòa cũ chắc
chắn là sẽ không có phương tiện để làm việc đó, và như vậy chỉ dẫn dắt dân tộc
đến chỗ nô lệ và cùng khốn như dân tộc Việt Nam.
Trí sáng suốt của các nhà lãnh đạo Nhật Bản đã
dạy họ phải chọn thái độ thứ nhất. Tuy nhiên mặc dù họ thành công trên một
phương diện, phương diện phát triển, nhưng họ phải đương đầu với các chấn động
do một vật ngoại lai là kỹ thuật Tây phương đã mang đến cho xã hội Nhật. Chúng
ta càng quan niệm rõ rệt hơn sự phá hoại của các chấn động trên nếu chúng ta ý
thức rằng kỹ thuật Tây phương không thể tách rời ra khỏi toàn bộ nền văn minh
Tây phương. Kỹ thuật Tây phương là một bộ phận của toàn bộ trên. Nếu thâu nhận
kỹ thuật Tây phương rồi, thì sớm muộn gì cũng phải thâu nhận lối suy luận của
Tây phương để chế ngự và phát triển kỹ thuật kia. Thâu nhận lối suy luận của
Tây phương thì lại lần hồi thâu nhận lối sống của Tây phương, vân vân… Nghĩa
là, tưởng rằng thâu nhận xong kỹ thuật Tây phương để chống Tây Phương là rồi
việc là một lỗi lầm lớn. Bởi vì kỹ thuật Tây Phương mở cửa, nhưng sau kỹ thuật
lần hồi các phần tử của toàn bộ văn minh Tây phương sẽ lần lần do cửa đã mở xâm
nhập. Và sự thật thì chính là tất cả văn minh Tây phương chớ không riêng gì kỹ
thuật Tây phương đã gây cuộc chấn động trong trạng thái điều hòa của các xã hội
đã mở cửa đón kỹ thuật Tây phương để tìm đường sống.
Như vậy dù chúng ta có mở cửa hay không mở cửa
để đón kỹ thuật Tây phương vào, thì sớm muộn gì văn minh Tây phương cũng sẽ vào
nội bộ ta mà gây cuộc chấn động. Chỉ có khác một điều là, nếu chúng ta không mở
cửa thì chúng ta sẽ chết ngay dưới sự tấn công khốc liệt của các lực lượng Tây
phương, và chúng ta không còn chủ động được con thuyền của chúng ta nữa, như
trường hợp Việt Nam.
Nếu chúng ta mở cửa thì ít ra, mặc dầu tất cả
sóng gió nhưng chúng ta vẫn chủ động con thuyền của chúng ta để có thể đưa nó
được đến một trạng thái điều hòa mới. Đó là trường hợp của Nhật Bản, trong khi
và sau khi duy tân xã hội Nhật trải qua nhiều cuộc chấn động dữ dội mà ảnh
hưởng ngày nay vẫn còn.
Nếp sống mới nằm chồng lên nếp sống cũ, văn
minh cũ đã hết tiến, nhưng trạng thái điều hòa của văn minh mới vẫn chưa ổn
định. Nhưng mặc dấu tất cả khuyết điểm đó, mặc dầu tất cả các cuộc chấn động
phát sinh từ cuộc chiến đấu giữa hai nền văn minh, xã hội Nhật không bao giờ bị
gián đoạn trong sự lãnh đạo và lúc nào dân tộc Nhật cũng chủ động con thuyền
của họ. Chỉ một điều kiện này cũng đủ để bảo đảm cho tương lai.
Phản ứng Trung Hoa và
Thái Lan
Nay nếu chúng ta so sánh trường hợp của Trung
Hoa và Thái Lan với trường hợp Nhật Bản, các ý tưởng trên đây càng được xác
nhận.
Trung Hoa và Thái Lan cũng bị sự tấn công của
Tây phương như Nhật Bản. Nhưng các nhà lãnh đạo lại lựa chọn thái độ thứ hai,
như đã nói trên kia, nghĩa là bảo vệ trạng thái điều hòa của nền văn minh cũ.
Chỉ nhờ mâu thuẫn chính trị giữa các cường quốc nên hai quốc gia trên, sau khi
chiến bại, không bị chinh phục, và biến làm thuộc địa như Việt Nam.
Tuy nhiên, chủ quyền đã sút mẻ, họ không còn hoàn
toàn chủ động con thuyền, không chủ động được công cuộc phát triển. Chính vì ý
thức dùng kỹ thuật Tây phương để chống Tây phương và lâm thời thắng Tây phương
chưa chín mùi trong não người lãnh đạo, nên cơ hội phát triển đã bỏ lỡ.
Các mâu thuẫn chính trị giữa các cường quốc
Tây phương một khi đã ngăn cản được sự chinh phục thật sự lãnh thổ của họ,
không được lợi dụng để phát triển dân tộc như ở Nhật.
Vì vậy mà dân tộc Trung Hoa và dân tộc Thái
Lan vẫn nằm trong tình trạng chậm tiến, cho đến ngày cơ hội thứ hai đưa đến,
như ta đã thấy trên kia. Ngày nay Trung Hoa đã nắm được cơ hội thứ hai và đang
mạnh bạo phát triển, Tây phương hóa theo kiểu Cộng Sản. Nhưng cho đến ngày giờ
này chưa có triệu chứng gì cho chúng ta thấy rằng Thái Lan đã nắm được cơ hội.
Trở lại thời gian một trăm năm giữa hai cơ hội
dân tộc Trung Hoa và Thái Lan vẫn ở trong tình trạng bi đát của những nước bị
biến thành bán thuộc địa. Công cuộc Tây phương hóa, trong thời kỳ đó, hai quốc
gia trên không được tự ý mình đặt thành một công cuộc quốc gia, nhưng họ vẫn
không tránh được, vì không làm sao kháng cự nổi trước sự tấn công mãnh liệt của
kỹ thuật Tây phương.
Chỉ khác với trường hợp Nhật Bản ở chỗ là công
cuộc Tây phương hóa không được hướng dẫn và không được chủ động. Những cuộc duy
tân hỗn loạn càng mang đến những chấn động kinh khủng trong xã hội, mà lại
không có một cố gắng nào để chủ động con thuyền hầu đưa nó đến một trạng thái
điều hòa mới. Tất cả những xáo trộn trong xã hội Trung Hoa và Thái Lan trong
thời kỳ trên đều phát sinh từ các sự kiện trên đây. Duy chỉ có một sự kiện còn
ít nhiều khả năng thuyên giảm tính cách trầm trọng của tình trạng trên, là chủ
quyền trong hai quốc gia trên không hoàn toàn mất nên xã hội của họ không bị
tan rã và không hề bị gián đoạn trong sự lãnh đạo. Vấn đề lãnh đạo quốc gia vẫn
được chuyền tay nhau từ thế hệ trước sang thế hệ sau.
Phản ứng của Việt Nam
Đối với Việt Nam sự kiện chót này lại cũng
không có nữa. Vì vậy mà tình trạng của Việt Nam trong thời kỳ qua và ngay bây
giờ còn trầm trọng hơn tình trạng của Trung Hoa và của Thái Lan nhiều.
Sau cuộc chiến bại, nước Việt Nam bị chiếm làm
thuộc địa. Chủ quyền bị mất hẳn, việc lèo lái con thuyền của chúng ta không còn
ở trong tay của chúng ta nữa. Và sự kiện ấy đã xảy ra, vì, trong một giai đoạn
quyết liệt của lịch sử dân tộc, chúng ta đã gặp phải một lớp người lãnh đạo
thiếu sáng suốt và thiếu thiết thực, kiêu căng và không thức thời, không chịu
phóng tầm mắt mà nhìn vào vấn đề thiết thực của dân tộc, tự giam hãm trí óc
trong những quan niệm chật hẹp về quyền bính và triều đại.
Những khuyết điểm đó đã dẫn dắt đến sự lỡ cơ
hội phát triển cho dân tộc lần thứ nhất. Hơn thế nữa, việc lỡ cơ hội đối với
chúng ta khốc hại bội phần hơn là đối với Trung Hoa và Thái Lan. Trong một trăm
năm lệ thuộc, xã hội của chúng ta tan rã và công cuộc lãnh đạo quốc gia đã bị
đứt đoạn. Dầu nhà Nguyễn có công khai thác đất đai rộng lớn gấp mấy lần phần
đất mà Nguyễn Triều lúc nào cũng lấy làm tự hào đã góp phần vào di sản quốc
gia, thì họ cũng không bù đắp được lỗi lầm về lãnh đạo trong một giai đoạn
quyết liệt của dân tộc như chúng ta đã thấy trên đây.
Sau này các sử gia của chúng ta làm việc theo
kỹ thuật khoa học, tất nhiên sẽ tìm thấy những chi tiết và nhận thấy rõ hơn
trường hợp không tha thứ được của nhà Nguyễn khi phạm vào những lỗi lầm to tát
lưu lại hậu quả tàn khốc cho dân tộc.
Việc tai hại thứ nhất cho chúng ta ở chỗ là
chính lúc nền văn minh của chúng ta phải đương đầu với những cuộc chấn động do
những phần tử ngoại lai gây nên trong xã hội chúng ta, lại là lúc mà chúng ta
không còn chủ động vận mạng của chúng ta được nữa.
Xã hội Nhật Bản khi gặp phải hoàn cảnh đó, đã
may mắn được đặt dưới sự lãnh đạo của một lớp người vừa cực kỳ sáng suốt, vừa
đủ chủ quyền và thừa phương tiện để nắm vững con thuyền quốc gia. Thế mà, xã
hội Nhật vân bị xáo trộn đến tận nền tảng và phải bỏ trạng thái điêu hòa của
văn minh để tìm một trạng thái điều hòa mới, như chúng ta đã biết.
Trái lại, dân tộc chúng ta, trong cơn bão tố
lại không người lèo lái. Lớp người lãnh đạo trước đã biến mất trong cơn chiến
bại. Các lớp người kế tiếp bị kẻ chinh phục tiêu diệt. Trong khi đó, theo chân
người chiến thắng, văn minh mới ồ ạt đưa đến gây ra một cuộc duy tân hỗn độn,
không lề lối không mục đích. Những giá trị tiêu chuẩn cổ truyền cùng với sự
chiến bại của dân tộc, bị phá sản và khinh miệt. Trong khi đó những giá trị
tiêu chuẩn mới chưa có, xã hội không giá trị tiêu chuẩn như con thuyền trôi
dạt, không phương hướng và không sinh lực.
Tình trạng này là nguyên nhân duy nhất cho tất
cả các quái tượng đã hiện ra trong suốt thời gian gần một trăm năm mà chúng ta,
khi nhìn thấy, phải vừa đau đớn vừa tủi nhục. Xã hội chia làm hai khối: một bên
cố gắng bảo vệ lây các giá trị cổ truyền đã chết thành thây ma, một bên duy tân
nhưng không biết duy tân để làm gì, và cũng không biết duy tân theo hướng nào,
chỉ bắt chước cử chỉ như khỉ và lời nói như sáo. Hai bên tân, cựu khinh miệt
nhau, thật là một hiện tượng rõ rệt của một xã hội đang tan rã.
Tình trạng càng trở nên bi thảm khi chính phủ
“mới” với sự ủng hộ của kẻ xâm lăng đã thắng phái “cũ”. Các giá trị cũ, tuy đã
chết như cây khô vì không người vun tưới, nhưng đó là những tiêu chuẩn giá trị
thật, có thời đã đào tạo được những thế hệ người gồm nhiều đức tính cao cả. Với
sự sụp đổ của những giá trị đó, tiết tháo và tính khí của người xưa cũng mất
luôn. Lớp người “mới”, lại không biết duy tân để làm gì ngoài sự hưởng thụ vật
chất, không có sáng tạo, không có những biểu lộ chứng minh cho sinh lực của một
xã hội. Có lẽ không bao giờ dân tộc chúng ta đã xuống đến thấp như vậy và chưa
bao giờ chúng ta đã đến gần chỗ diệt vong như vậy. Ngược lại, chính vì đã vượt
qua được những bước tuyệt vọng như vậy, mà chúng ta lại càng tin tưởng vào sinh
khí của dân tộc.
Hậu quả tai hại nhất mà thời kỳ Tây thuộc đã
để lại cho chúng ta là sự tan rã của xã hội Việt Nam và sự gián đoạn trong việc
lãnh đạo quốc gia. Cũng như chủ nghĩa đế quốc kiểu Pháp đã để lại cho chúng ta
một hậu quả tai hại không kém: lớp người tai mắt trong xã hội thời Pháp không
thể dùng vào các nhiệm vụ lãnh đạo được.
So sánh như trên đây, trường hợp của Nhật và
Trung Hoa với trường hợp của chúng ta, chúng ta mới ý thức sung mãn tính cách
vô cùng trầm trọng của tình trạng nguy ngập mà xã hội chúng ta đang lâm vào.
Tất cả ba dân tộc đều ở trong xã hội Đông Á, cùng một văn minh, cùng một giá
trị truyền thống, đã cùng, trong một lúc, gặp phải một nguy cơ chung.
Nhưng dân tộc Nhật đã phản ứng. kịp thời,
chiến thắng, bảo tồn độc lập, giữ nguyên chủ quyền, nắm được ngay cơ hội thứ
nhất để phát triển dân tộc. Sự lãnh đạo quốc gia không bị gián đoạn, công cuộc
duy tân được hướng dẫn và các giá trị tiêu chuẩn truyền thống không bị phá sản.
Nhờ vậy nên xã hội Nhật vẫn tiến liên tục, chế ngự được các cuộc chấn động do
những giá trị ngoại lai gây nên sau khi xâm nhập vào trạng thái điều hòa của
nền văn minh cũ. Xã hội Nhật chỉ có bị bắt buộc phải bỏ trạng thái điều hòa cũ để
tìm một trạng thái điều hòa mới.
Dân tộc Trung Hoa không phản ứng kịp thời,
chiến bại độc lập được bảo tồn không phải nhờ ở nỗ lực chủ động mà nhờ ở ngoại
cảnh. Chủ quyền bị sứt mẻ, nên mặc dầu sự lãnh đạo quốc gia không bị gián đoạn,
công cuộc duy tân không được hướng dẫn, các giá trị truyền thống bị phá sản,
nắm không được cơ hội thứ nhất để phát triển dân tộc. Vì vậy cho nên, không chế
ngự được các cuộc chấn động do những giá trị ngoại lai gây nên sau khi xâm nhập
vào trạng thái điều hòa của nền văn minh cũ. Xã hội Trung Hoa tuy không tiến
triển liên tục, nhưng nhờ chủ quyền không mất nên không bị tan rã. Ngày nay,
Trung Hoa đã nắm được cơ hội thứ hai và đang dốc hết nỗ lực của dân tộc để thực
hiện công cuộc phát triển và duy tân mà nước Nhật đã làm xong.
Và cố nhiên Trung Hoa cũng sẽ bỏ trạng thái điều hòa cũ để tìm
một trạng thái điều hòa mới. Nhưng công cuộc ấy sẽ thực hiện từ một xã hội
không bị tan rã và với một sự lãnh đạo không hề bị gián đoạn.
Dân tộc Việt Nam không phản ứng kịp thời, chiến bại, độc lập bị mất, nước nhà biến thành thuộc địa, chủ quyền hoàn toàn mất, chẳng những không nắm được cơ hội thứ nhất để phát triển dân tộc, lại hoàn toàn bất lực đối với một công cuộc duy tân bắt buộc, không hướng dẫn và hỗn độn.
Dân tộc Việt Nam không phản ứng kịp thời, chiến bại, độc lập bị mất, nước nhà biến thành thuộc địa, chủ quyền hoàn toàn mất, chẳng những không nắm được cơ hội thứ nhất để phát triển dân tộc, lại hoàn toàn bất lực đối với một công cuộc duy tân bắt buộc, không hướng dẫn và hỗn độn.
Các giá trị truyền thống bị phá sản. Hoàn toàn
bất lực trước các cuộc chấn động do những giá trị ngoại lai gây nên sau khi xâm
nhập vào trạng thái điều hòa của nền văn minh cũ. Vì không gặp trở lực nên các
cuộc chấn động mặc tình hoành hành phá hoại xã hội đến tan rã. Sự hoàn toàn mất
chủ quyền lại gây sự gián đoạn trong việc lãnh đạo quốc gia. Ngày nay chưa có
gì bảo đảm là chúng ta đã nắm được cơ hội thứ hai để thực hiện công cuộc phát
triển dân tộc. Giả sử chúng ta có nắm được thì công cuộc phát triển và duy tân
sẽ thực hiện từ một xã hội đã tan rã và với một sự lãnh đạo quốc gia đã bị gián
đoạn.
Hai hoàn cảnh này là hai điều kiện vô cùng
nghiêm khắc đối với chúng ta, nếu chúng ta nắm được cơ hội thứ hai. Và thế nào
là nắm bắt được và thế nào là không nắm được cơ hội, chúng ta sẽ trả lời rõ
ràng các câu hỏi đó sau này.
Giờ đây chúng ta tìm hiểu vì sao mà hai hoàn
cảnh trên là hai điều kiện vô cùng nghiêm khắc đối với chúng ta khi chúng ta
bắt tay vào công cuộc phát triển dân tộc và công cuộc Tây phương hóa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét