(Nén hương cho sĩ khí Trần Văn Bá)
Nhiều năm đã trôi qua nhưng một số câu hỏi vẫn chưa được trả lời về hai vụ ám
sát dân biểu Trần Văn Văn (1966) và giáo sư Nguyễn Văn Bông (1971) cũng như án
tử hình của nguyên chủ tịch Tổng Hội Sinh Viên Việt Nam tại Pháp Trần Văn Bá
(1985). Cả ba nạn nhân đều gốc Miền Nam Việt Nam. Vì những vụ này liên hệ
đến lịch sử, đánh dấu ba giai đoạïn nhiễu nhương khác nhau của đất nước,
nên người viết đã thu thập một số tài liệu, mong có thể giúp soi sáng phần
nào một hồ sơ chứa đựng nhiều giả thuyết.
Trần Văn Văn là một tiêu biểu điển hình cho giới trí thức Miền Nam thời Pháp
thuộc và trong giai đoạn đấu tranh dành thống nhứt và độc lập cho xứ sở. Ra đời
tại Long Xuyên năm 1907, ông tốt nghiệp trường Cao đẳng thương mãi Paris (HEC)
và sau khi trở về nước, hùn với kỹ sư Kha Vạng Cân lập ra hảng đúc kim khí Cân
& Văn trước 1945. Kha Vạng Cân bỏ theo kháng chiến, được bổ nhiệm Bộ trưởng
kỹ nghệ trong Chính phủ Hồ Chí Minh và về sau, thất sủng. Trần Văn Văn có lúc
giữ chức Tổng trưởng Kinh tế và Kế hoạch trong chánh phủ Bảo Đại và là một
nhân vật cốt cán của đảng Phục Hưng do Trần Văn Hương thành lập.
Ngày 26.6.1954, theo lời mời của Bảo
Đại, chí sĩ Ngô Đình Diệm về nước với chức Thủ tướng có toàn quyền
chính trị và quân sự. Sau khi dẹp Bình Xuyên và giáo phái, truất phế Bảo Đại
trong cuộc trưng cầu dân ý ngày 23.10.1955, bác bỏ ngày 20.7.1956 việc
tổng tuyển cử hai miền quy định bởi Hiệp ước Genève, ông tuyên bố thành lập
nền Cộng Hòa ngày 26. 10.1956. Từ 1956 cho đến nửa năm 1959, tình hình an ninh
trong xứ được vãn hồi tương đối nhờ những cải cách xã hội, tảo thanh
của Quân đội quốc gia và vì một phần quân đội Bắc Việt rút về trên vĩ tuyến
17. Tuy nhiên một thời gian sau, Việt cộng xây dựng lại được cơ sở hạ
tầng tại nông thôn với các cán bộ không tập kết. Ngày 26.1.1960, cách tỉnh lỵ
Tây ninh lối 12 cây số, chúng chiếm đồn Trảng Sập, gây thiệt hại nặng về nhân mạng
và võ khí cho sư đoàn 21. Mặt khác, sự lộng quyền của một số đảng viên Cần lao
và chính sách đàn áp của Chính phủ bắt đầu gây bất mãn trong quần chúng. Nhóm Tự
do Tiến bộ xuất hiện - gồm nhiều nhà trí thức đối lập - trong đó Trần Văn Văn
là một người đầu đàn vì giao thiệp rộng, có uy tín và mưu trí. Sau nhiều
tuần thảo luận và tiếp xúc trong vòng bí mật, sáng ngày 26.4.1960, hai ông Phan
Khắc Sửu và Trần Văn Văn, âu phục chỉnh tề, bất thần đến trước cổng Dinh Độc Lập,
đại lộ Thống Nhứt Sài Gòn, nhờ quân phòng vệ chuyển đến Tổng thống Ngô
Đình Diệm một bản tuyên ngôn mang chữ ký của 18 nhân sĩ thưộc nhiều khuynh
hướng chính trị, xong họ đi thẳng đến khách sạn Caravelle, ở trung tâm Saigon,
họp báo. Báo giới ngoại quốc và các Tòa Đại sứ được mời tham dự nhưng không cho
biết trước địa điểm, hẹn sẽ được hướng dẫn khi đến giờ. Caravelle được chọn
vì an toàn. Để đánh lạc hướng cảnh sát, báo chí Việt được mời nhóm riêng tại
một khách sạn Chợ lớn.
Theo bác sĩ Nguyễn Lưu Viên,
hiện ở Virginia, tiết lộ, ông được giao phó thảo ra bản tuyên cáo (dựa vào
các ý kiến thu thập trong nhóm Tự do Tiến bộ) với sự giúp đỡ của giáo sư
Trần Văn Hương và ông Trần Văn Văn. Trần Văn Tòng, trưởng nam của cố dân
biểu Trần Văn Văn, hiện giữ trong tay bản chính được (cố) ký giả
Bernard Fall dịch ra ngoại ngữ để phổ biến. Nội dung văn kiện này chỉ trích quyết
liệt các sai lầm của chính quyền Diệm về chính trị, hành chính, xã hội và quân
sự, gây ra tình trạng bất mãn trong dân chúng, suy thoái của chế độ và làm giãm
tiềm lực đấu tranh chống cộng. Tuy nhiên, ngoài việc đòi hỏi thực thi dân chủ
và chấm dứt gia đình trị, những đề nghị cải cách tương đối khiêm tốn. 18
nhân vật ký tên bản tuyên ngôn gồm có : Trần Văn Văn, Phan Khắc Sửu, Trần
Văn Hương, Nguyễn Lưu Viên, Lê Ngọc Chấn, Huỳnh Kim Hữu, Phan Huy Quát, Trần
Văn Đổ, Trần Văn Tuyên, Trần Văn Lý, Nguyễn Tăng Nguyên, Nguyễn Tiến Hỷ, Lê
Quang Luật, Phạm Hữu Chương, Tạ Chương Phùng, Trần Lê Chất, Lương Trọng
Tường và linh mục Hồ Văn Vui. Mười trong số đó là cựu ân nhân, đồng chí, bạn
thân và Bộ trưởng từng hợp tác với ông Diệm. Cố vấn Ngô Đình Nhu mỉa mai gọi họ
là « chính khách xa-lông, chính khách phòng trà ». Lời kêu gọi của các trí thức
đối lập này, tiếc thay,không được chính phủ xét đến.
Tuy nhiên, bản tuyên cáo báo động
Caravelle có tiếng vang ở quốc ngoại và trong quân đội. Một chuỗi biến cố
liên tiếp xảy ra sau đó: Cuối tháng 10.1960, Tổng thống Diệm cải tổ nội các vì
có bất đồng nội bộ, bốn bộ trưởng ra đi: Nội vụ (Lâm Lễ Trinh), Quốc phòng (Trần
Trung Dung), Thông tin (Trần Chánh Thành) và Tư pháp (Nguyễn Văn Sĩ) sau một
thủ tục điều tra do các bộ này khởi xướng về những lạm quyền của đảng Cần lao.
(đọc Hoàng Lạc & Hoàng Mai Việt trong tác phẩm Blind Design, Why America
lost the VN War?, chương The Lottery scandal, trang 131, và trong hồi ức Đỗ
Mậu « VN máu lửa, quê hương tôi », trang 259}. Lối hai tuần sau, ngày
11.11.1960. nhóm Vương Văn Đông, Nguyễn Triệu Hồng, Nguyễn Chánh Thi, Hoàng Cơ
Thụy và Phan Quang Đán đảo chính nhưng thất bại. Bác sĩ Nguyễn Lưu
Viên xác nhận : nhóm Caravelle không có liên hệ gì đến vụ mưu loạn nhưng cơ
quan an ninh Nhà nước thừa cơ hội để câu lưu nhiều thành viên của tổ chức này tại
trại Ô Ma (Aux Mares). Ngày 20.12.1960, Mặt trận Giải phóng Miền Nam được thành
lập. Tháng 2.1961, lực lượng võ trang Giải phóng Miền Nam chính thức hoạt động.
Ngày 27.2.1962, hai phi công Phạm Phú Quốc và Nguyễn Văn Cử dội bom Dinh Độc lập
và cuối cùng, ngày 1.11.1963, Quân đội lật đổ chính phủ Ngô Đình Diệm,
đưa Miền Nam Việt Nam vào một cuộc phiêu lưu hỗn loạn.
Khi nhóm sĩ quan trẻ, mệnh danh « Jeunes Turcs
», lên nắm quyền, vào năm 1966, Trần Văn Văn đắc cử dân biểu Quận 3 Saigon
trong Quốc hội Lập hiến. Không thuộc đảng phái nào, cố vấn của Hội
Liên Trường mà đa số đoàn viên là dân Miền Nam, Văn thường chỉ trích
tại diễn đàn Nguyển Cao Kỳ, Chủ tịch ủy ban hành pháp trung ương, và các
hành vi lạm quyền của cảnh sát - công an do Đại tá Nguyễn Ngọc Loan chỉ
huy. Sau vụ Loan cho câu lưu bác sĩ Nguyễn Tấn Lộc vì lý do ông Lộc (gốc
Nam) kỳ thị địa phương sa thải một số nhân viên người Bắc trong Bộ Y tế, cuộc
tranh chấp Nam-Bắc nổ lớn. Tổng trưởng Kinh tế-Tài chánh Âu Trường Thanh cầm
đầu năm tổng trưởng khác (gốc Nam) từ chức để phản đối: Nguyễn Văn
Trường (Giáo dục), Trương Văn Thuấn (Vận tải), Trần Ngọc Liểng (Xã hội) Võ Long
Triều (Thanh niên) và Nguyễn Hữu Hùng (Lao động). Phó thủ tướng Nguyễn Lưu Viên
không đồng ý về quyết định này. Dư luận cho rằng Trần Văn Văn giật giây, để đòi
thay thế Nguyễn Ngọc Loan.
Ngày 7.12.1996, vào buổi sáng, ông Văn bị hai kẻ
lạ mặt đèo nhau trên chiếc Honda bắn chết khi xe hơi của ông trờ tới góc đường
Phan Đình Phùng và Mạc Đỉnh Chi. Đài phát thanh Saigon tố cáo Việt Cộng chủ mưu
vì bắt được Võ Văn Én. Trong một cuộc họp báo, với dáng người tật nguyền, mắt gần
mù lòa, mặt rỗ chằng chịt, Én chịu nhận bản án tử hình và khai rằng MTGP sai y
và một đồng chí về thành để thi hành nhiệm vụ: y lái xe (mới tập), còn tòng phạm
ngồi phía sau thì cầm súng bắn.
Trong nguyệt san Quê Mẹ, Paris, đầu năm 1986, chủ
bút Võ Văn Ái ghi lại rằng hành vi và ngôn ngữ của Én làm cho dư luận nghi rằng
đây là một sự dàn cảnh của cơ quan điều tra. Ba ngày liên tiếp 7, 8 và
9.12. 1966, Đài Hànội tố cáo « Dù khác chính kiến, dù không đồng quan điểm
chính trị với ông Trần Văn Văn, chúng ta không bao giờ can dự vào việc ám sát
ông Văn, đây là hành động dơ bẩn của bọn tướng lãnh khát máu ở Sàigon ». Bà quả
phụ Trần Văn Văn (hiện sống ở Paris) vẫn ấm ức tin rằng Võ Văn Én chỉ là con chốt
thí, con cò mồi, cho nên ngày 10.1.1967, bà đã gởi thơ xin Tổng thống Thiệu ân
xá cho Én. Đây là cách gián tiếp tố cáo Kỳ-Loan mưu sát chồng bà.
Trong bài « Nhớ lại cái chết bi thảm đầy nghi vấn của
ông Trần Văn Văn » đăng năm 1978, trong số 58 nguyệt san Vì Nước, Paris, ký giả
Hoàng Ngọc Giao ghi lại lời khai của C. trưởng ban Bài trừ Du đảng (một tổ
chức của « Chính phủ ngưởi nghèo » của Nguyễn Cao Kỳ) thú nhận y được cấp
trên chỉ thị giết Trần Văn Văn. Theo Giao, về sau , để phi tang, C. bị thủ tiêu
trong một tai nạn xe hơi được sắp đặt (đọc Tuyển tập Trần Văn Bá).
Đâu là sự thật ? Trần Văn Văn có phải là một nạn nhân của phe quân phiệt gốc
Bắc? hay Côïng sản đã giết Văn để gây ly tán và nghi kỵ trong chính trường Miền
Nam? hay vì CS Bắc Việt sợ Trần Văn Văn quy tụ được một lực lương
quốc gia đa số gốc miền Nam có khả năng lôi cuốn quần chúng hơn tổ chức bù
nhìn của chúng là Mặt trận Giải phóng miền Nam?
Đầu tháng chạp 2004, tại Hoa Thịnh Đốn, Bác sĩ Nguyễn Lưu Viên xác nhận với
tác giả bài này rằng nhóm Caravelle không liên hệ, trực tiếp hay gián tiếp, đến
vụ đảo chính Tổng thống Diệm và cũng không hợp tác với chính phủ quân
nhân trong giai đoạn đầu của « cách mạng ». Tháng 9.1965, Bác sĩ Viên là nhân vật
đầu tiên và duy nhứt của cánh Tự do Tiến bộ nhận tham chánh trong chức
Phó Thủ tướng của nội các Nguyễn Cao Kỳ, sau khi lấy ý kiến của các đồng chí
trong nhóm Caravelle. Ông kể lại với người viết: Ngày 1.11.1963, khi hay
tin đảo chính thành công, Trần Văn Văn liền điện thoại cho ông, « vừa nói
vừa cười hô hố » : « Viên ơi, « thằng Minh Cồ», nó giết lão Diệm rồi, bây
giờ nó không biết phải làm gì !! »
II - Bí ẩn
quanh vụ mưu sát Gs Nguyễn Văn Bông.
Khác với Trần Văn Văn thuộc một gia đình khá giả,
Nguyễn Văn Bông có một thời niên thiếu cơ cực. Cha của Bông làm nghề thợ
bạc, ly dị với mẹ Bông là một thợ may, cả hai đều tái giá sau đó và có con
riêng. Bông sống với ông, bà nội, khi mới lên ba, tại làng Kiến Phước, tỉnh Gò
công, nơi Bông ra đời năm 1931. Lúc 14 tuổi, để có tiền vào trung học, Bông lên
Saigon xin một chân quét dọn và đánh máy trong trường Huỳnh Cẩm Chương,
lao công ban ngày, tối đi học, để dành tiền mua một vé tàu hạng ba qua
Pháp.
Tại Paris, Bông phải làm bồi bàn (cùng với Nguyễn Ngọc
Huy) tại tiêm ăn La Table du Madarins của « anh Mười » để sinh sống. Chàng học
trò khó Nguyễn Văn Bông xuất sắc, lấy xong bằng Tú tài thì vào Đại học
Sorbonne, theo ngành Luật và Chính trị học. Có một lúc, Bông làm phu khuân vác
đêm tại Nhà Lồng Paris hay Les Halles, và bị bệnh lao, phải nằm nhà
thương. Với tinh thần tự tin, tự lập, Bông thành công vẻ vang, Năm 1963,
thay vì nhận chức phụ tá giáo sư tại Pháp, Thạc sĩ luật khoa
Nguyễn Văn Bông quyết định trở về Việt Nam để đấu tranh và phục vụ. Trước
khi hồi hương, Bông đã hứa hôn với nữ sinh viên Thu Vân tức là bà Nguyễn Văn
Bông sau này, tác giả Mây Mùa Thu (MMT), vừa xuất bản tại Hoa Thịnh Đốn. Đây là
dịch bản tiếng Việt của hồi ký tiếng Anh Autumn Cloud (Capitol Books, VA,
2001).
Tại trường Luật và Quốc gia hành chánh
Saigon, Gs Bông dạy môn luật Hiến pháp và Khoa học chính trị. Sau ngày đảo
chính 1.11.1963, Bông được bổ nhiệm Viện trưởng Học viện Quốc gia hành chánh và
lao mình vào chính trường với sự hổ trợ của Nguyễn Ngọc Huy, tiến sĩ chính trị
học, một đồng chí từ ngày ở Paris. Huy lãnh đạo đảng Tân Đại Việt (TĐV),
Bông sáng lập Phong trào Quốc gia cấp tiến (PTQGCT) vào mùa xuân 1969,
hai tổ chức hoạt động chặt chẽ với nhau và mang nhãn hiệu đối lập với chính phủ
đương nhiệm. Trong hai năm 1970 và 1971, PTQGCT phát triển mạnh. Phần đông
đảng viên và cảm tình viên là cựu sinh viên Quốc gia hành chánh nắm giữ những
chức vụ cốt cán tại Miền Nam Việt Nam.
Cương lĩnh PTQGCT cổ võ cho một nước
VN thống nhứt dưới một chế độ dân chủ, với quyền bình đẳng giữa các công dân,
tôn trọng nhân quyền, triệt tiêu nạn tham nhũng và cải tổ hành chánh. Về kinh tế,
Phong trào chủ trương đẩy mạnh phát triển, cải cách điền địa, canh tân thuế
vụ và khuyến khích đầu tư. Về an sinh xã hội, Phong trào đòi hỏi một chế
độ quân dịch công bằng, giáo dục miễn phí và cưởng bách và sự phục hồi uy tín của
giáo giới.
Tháng 9.1971, PTQGCT và TDC đưa được
vào Hạ viện 21 dân biểu, một lực lượng đáng kể. Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cử Gs
Huy tham gia, với tư cách cố vấn, vào phái đoàn đàm phán với Bắc việt tại
Paris. Uy tín của Nguyễn Văn Bông lên như diều. Bất thần, vào cuối 1969,
xảy ra một vụ mưu sát: một trái bom nổ cạnh bên phòng làm việc của Gs Bông tại
tầng hai Học viện quốc gia hành chánh. Ông Bông không bị thương tích nặng nhờ
được che chở bởi một cái bàn viết khi ngã xuống.
Nhưng lối một năm sau, ngày 10.11. 1971, Gs
Bông không thoát khỏi lưỡi hái của tử thần trong vụ mưu sát thứ hai, mặc
dù ông được toán an ninh bảo vệ khá chặt chẽ. Vào giờ ăn trưa ngày vừa nói, kẻ
ám sát thảy một trái bom dưới sườn xe hơi của Gs Bông, trên đường
Cao Thắng, Saigon, nơi có đèn đỏ, làm xe nổ tung và gây thiệt mạng cho ông
Bông, người tài xế và ba vệ sĩ.
Trong hồi ký MMT, trang 148 và tiếp theo,
bà Nguyễn Văn Bông ghi: Ngày hôm trước, 9.11, Tổng thống Thiệu gởi người anh là
ông Nguyễn Văn Kiểu, đại sứ tại Đài loan, đên tận nhà để thảo luận. Khi ông Kiểu
ra về, Bông cho (vợ) biết ông đã « chấp thuận làm Thủ tướng cho TT Thiệu »,
thay thế tướng Trần Thiện Khiêm. Chỉ 15 phút sau, báo chí điện thoại xin
xác nhận tin này, ký giả Pháp Francois Nivolon của France Soir cũng gọi
phôn để chia vui. Bà Bông ghi nơi trang 148 và 152: « Đến mùa thu 1071, ông Thiệu
thấy rằng để nâng cao sự ủng hộ bên trong và chống trả hữu hiệu CS Bắc Việt,
ông phải liên minh với một chính phủ liên hiệp mạnh. Anh Bông cũng có ý
kiến như vậy, sự thật anh đã đúc kết một chương trình đối lập rộng lớn cho
PTQGCT mà anh hy vọng các lực lượng chống Cộng sẽ quy tụ xung quanh...Vài tháng
sau, hai thanh niên Việt Cộng bị bắt. Một trong hai người, có tên Nguyễn Hữu
Thái, là lãnh tụ nhóm sinh viên trường Kiến trúc Đại học Saigon. »
Sự việc đáng lưu ý là trong chương cuối
cùng của hồi ký MMT, nhan đề « Những suy tư về cuôc chiến VN và thời kỳ hậu chiến
», trang 270-276, bà Bông viết: "tháng 7.1971, Kissinger (K) qua Saigon
vào lúc TT Thiệu lo tái tranh cử và trước khi K chuẩn bị viếng thăm Bắc
kinh. Kissinger gặp vợ chồng Bông « lần đầu tiên » trong một buổi tiệc tại dinh
của Đs Elsworth Bunker, sau khi K vừa viếng Thiệu và Khiêm trong ngày. Bữa sau,
K gặp riêng Bông. Sau đó, - bà Bông viết - « báo chí Saigon suy đoán rằng
anh Bông sẽ là vị Thủ tướng kế tiếp được Kissinger và chính phủ Mỹ hổ trợ. Mọi
người VN lúc đó đồn rằng bất cứ vị lãnh tụ miền Nam nào mà không được Mỹ ủng hộ
sẽ không thể tồn tại lâu được; ký ức về những gì đã xảy ra cho TT Diệm và người
em vẫn chưa phai mờ. Cả hai ông đã bị giết chết trong một cuộc đảo chánh của
các tướng lãnh miền Nam năm 1963 với sự chấp thuận của Mỹ. Vài tuần sau khi gặp
ông Kissinger, vào khoảng 9 giờ tối, ngay lúc anh Bông đi dự tiệc, một người lạ
điện thoại cho tôi biết tánh mạng anh Bông sẽ lâm nguy. Y nói anh Bông phải lập
tức trở về nhà, xong y cúp điện thoại làm tôi quá run sợ. Đêm đó, ông Khương Hữu
Điểu, giám đốc Ngân hàng Phát triển Kỹ nghệ, mời anh Bông để gặp tại nhà một
nhóm ngưới quan trọng, tất cả đang nắm những địa vị then chốt và được xem như
những người trẻ chủ trương cải cách.»
Như thế, tin đồn K và Hoa kỳ áp lực Thiệu thay
thế Khiêm bằng Bông đã xảy ra lối hai tháng trước vụ hạ sát Bông ngày
10.11.1971. Trong hồi ký chót Ending the VN War, (Simon & Schuster. NY,
2001), chính K cũng đã xác nhận: Ngày 21.10.1972, tức là trước khi tiếp
K qua hôm sau tại Dinh Độc lập Saigon để chấp nhận bản dự thảo Hiệp ước
Paris, TT Thiệu đã điện thoại tố cáo - với một giọng hằng học - K và
phụ tá Alexander Haig tổ chứùc, theo tin tình báo, đảo chánh Thiệu.
Trước đó, ngày 6.2.1972, trong một bức thơ riêng cho TT Thiệu, Nixon cũng đã viết
không úp mở như sau: “Chúng tôi không muốn thấy tái diễn tại VN biến cố ghê tởm
năm 1963” (ám chỉ vụ thảm sát TT Diệm).
Điểm chót nên ghi: Như mọi người đều biết, Đảng Đại Việt
đóng vai trò quan yếu chẳng những trong vụ biến loạn 1.11.1963 mà còn trong các
vụ chỉnh lý và đảo chính liên hồi về sau. PTQGCT của Bông và đảng Tân Đại Việt
của Huy cũng xuất phát từ đó và có nhiều đảng viên và cảm tình viên chẳng những
trong chính giới, Quân đội mà còn trong Quốc hội năm 1971.
Bs Nguyễn Lưu Viên kể với người viết: "Đầu năm
1975, quân đội rút vô trật tự khỏi miền Trung. Thiệu chấp nhận cho Trần Thiện
Khiêm từ chức thủ tướng mà tướng Khiêm giữ từ ngày1.9.1969. Thiệu yêu cầu Khiêm
đề nghị người thay thế. Trong danh sách nạp trình, Thiệu phê bình từng nhân vật.
Đến tên Nguyễn Ngọc Huy, Thiệu gạch bỏ và cuối cùng, chọn...Nguyễn Bá Cẩn,
không nguy hiểm."
Năm 1997, trong môt buổi gặp gỡ tại
Houston, tác giả bài này có hỏi TT Thiệu: "Trong chính giới, phía dân sự,
tổ chức nào xem như đã “phản bội” ông?" Một phút suy nghĩ, Thiệu trả lời:
“Nhóm Huy – Bông”. Vì họ không giữ lời giao kết sẽ giúp xây dựng đảng Dân
chủ (của Thiệu) nếu Thiệu giao cho họ nắm Học viện quốc gia hành chánh (là
lò đào tạo các cán bộ trong guồng máy cai trị). Về sau, Bông và Huy hoạt động
chống Thiệu. Mộng của cả hai chắc chắn không ngưng nơi cái ghế Thủ tướng
mà còn nhắm cao hơn nữa. Thiệu và anh là Nguyễn Văn Kiểu đều gia nhập Đại Việt
nhưng Đại Việt có nhiều phe phái. Ngoài ra, Thiệu cũng là một đảng viên Cần
lao.
Sau 1980, tác giả bài này có dịp hỏi
cựu Quốc trưởng Nguyễn Khánh tại Californie về tin Gs Bông là một trong số luật
gia đã từng giúp thảo ra Hiến chương Vũng Tàu cho ông Khánh (văn kiện này, về
sau, bị chính ông Khánh hô “đả đảo” khi sinh viên chống đối dữ dội). Tướng
Khánh (cười) trả lời (vòng quanh): “ Ông Trần Chánh Thành không phải là người
duy nhứt đã giúp tôi.”
Gs Bông qua đời khi vừa 41 tuổi, để
lại hai trai và một gái. Sau 1975, bà quả phụ Nguyễn Văn Bông nhủ danh Thu
Vân (30 tuổi khi chồng bị ám sát) tái giá với Lacy Wright, một nhà ngoại
giao Mỹ, nay đã về hưu tại Virginia. Bà lấy tên mới Jackie Bông Wright và hiện
hoạt động hăng hái về xã hội, nhân quyền. Trong một buổi phỏng vấn có thu
hình ngày 11.12.2004 tại Hoa Thịnh Đốn, bà Bông cho người viết biết thêm:
"Tháng 9.1995, K, chủ tịch công ty tư vấn Kissinger & Associates
và một phái đoàn viễn thông Mỹ viếng Ba Tây. Trong một buổi tiếp tân do đại sứ
Lacy Wright tổ chức, khi biết bà đại sứ gốc Việt Nam, Kissinger nói: “Tôi lấy
làm buồn khi gặp người Việt. Nước Mỹ đã bỏ rơi VN.”
Để tưởng nhớ thầy cũ, sau
1975, Chi hội cựu sinh viên Quốc gia Hành chánh định cư tại Ontario, Gia
Nã Đại, đã chung tiền đúc tượng của Gs Nguyễn Văn Bông. Với sự đồng ý của
“Bà Năm”, thân mẫu Gs Bông hiện sống ở miền Nam Californie, tượng này được an vị
tại Trung tâm Cư sĩ Phật giáo thành phố Westminster.
Ai giết Gs Nguyễn Văn Bông? Và vì sao? Jackie
Bông Wright đưa ra một số giả thuyết và cho biết nhận định như sau:
1) Nhiều người nghi Quân đội là thủ phạm, vì Bông thường tố cáo Quân đội “tham
nhũng và bất tài.” Phe quân nhân tại chức sợ bị thanh lọc và không dễ dàng rút
lui.
2) Có dư luận cho rằng Trung ương tình báo Mỹ chủ mưu, vì Nixon lo ngại Bông sẽ
cản trở kế hoạch Việt Nam hóa chiến tranh bằng cách kéo dài cuộc chiến.
3) Hồi ký MMT, trang 153 ghi: “Tôi còn nói với đại sứ Martin Herz
(một bạn thân gặp ở Hoa Thịnh Đốn mùa hè 1972) rằng nhiều người khác nghi
giáo sư Huy, người cộng sự chính trị với anh Bông vì Huy muốn anh Bông dang ra
xa, bởi vì đảng của ảnh giờ đây rất mạnh và sẵn sàng đứng lên nắm quyền
trong một dịp nào đó. Ông Huy không còn cần anh Bông nữa nên muốn thay thế ảnh.
Ông (Huy) muốn thành lập một liên minh với quân đội, hoặc với các nhóm khác mà
anh Bông chống, thành lập sau lưng ảnh. Một vài chính trị gia còn nói ông Huy
có chương trình hành động được dấu kín: nắm lấy chính quyền bằng mọi giá. Ông
Martin hỏi tôi có nghi ông Huy có dính líu gì trong cái chết của anh Bông
không? Tôi trả lời: “Không. Tôi không tin rằng ông Huy có thể làm một việc khủng
khiếp như thế.”
4) Sau hết, bà góa phụ Nguyễn Văn Bông nêu ra một số dữ kiện về chuyện Việt Cộng
sắp xếp vụ ám sát ngày 10.11.1971: a) Năm 1976, báo Giải Phóng có đăng một
bài của ký giả thiên tả Ý Tiziano Terziani phỏng vấn Nguyễn Hữu
Thái và đồng bọn, chúng xác nhận chính chúng đã giết gs Bông. b) Một người
chị ruột của bà Bông tên “chị Năm Lý”, theo kháng chiến từ lâu, cho biết CS giết
Bông vì Bông được CIA ủng hộ. c) Một chị khác của bà Bông là bà bác sĩ
Nguyễn Văn Tạo - hiện ở Paris - được anh chồng là tướng VC Nguyễn
Văn Tây cho hay năm 1985 rằng các thủ phạm giết ông Bông đã được chính phủ
Hà Nội tặng huân chương sau 1975. Đại sứ Bunker cũng xác nhận gíáo sư
Bông là nạn nhân của Cộng sản.
Cái chết của Trần Văn Văn và Nguyễn Văn Bông chứng
minh thêm một lần nữa kỳ thị Nam-Bắc là một yếu tố không thể coi thường
trong chính trường VN, không chỉ riêng trong Nam mà còn bên kia vĩ tuyến
17. “Hội chứng” này khi ẩn, khi hiện, có lúc nổ tung như trong giai đoạn Nam kỳ
quốc của Nguyễn Văn Tâm, Trần Văn Hữu, Măt trận giải phòng miền Nam (trước và
sau 1975) và ngay cả trong cách dùng người của Hồ Chí Minh, Ngô Đình Diệm,
Dương Văn Minh... Các đảng phái chính trị có tiếng tại VN (Đại Việt, VN Quốc
Dân đảng, Cần lao, Cộng sản..v..v..) cũng không tránh được tệ nạn đáng tiếc
này. Thời hậu CS sắp đến, đây là một vấn đề thực tế, cần nghiên cứu để tìm giải
pháp.
III – Cộng
sản xử tử hình Trần Văn Bá.
Sinh ngày 14.5.1945 tại Sa đéc, Trần
Văn Bá là thứ nam của cố dân biểu Trần Văn Văn và vừa tròn 17 tuổi khi thân phụ
bị thảm sát ngày 7.12.1966. Ngày 2.1.1967, Bá qua Paris, đoàn tụ với anh là kỹ
sư Trần Văn Tòng, ghi tên vào trường trung học Carnot và sau đó, Michelet để
chuẩn bị lấy bằng Tú tài. Vì rớt hạch miệng tại trường Cao đẳng thương mãi HEC,
Bá đổi qua môn kinh tế và thi đậu bằng cử nhân tại Đại học Assas
(thiên hữu) năm 1971. Bá được tuyển dụng làm phụ tá giáo sư tại trường Đại học
Nanterre, nổi tiếng thiên tả, mặc dù Bá hoạt động hăng hái trong phong trào
sinh viên Việt chống cộng.
Bá không bô trai, hom hem gầy yếu, độc thân, ít
nói. Sau cái vó “con cóc chết”, Bá cởi mở, chân tình, lạc quan, luôn luôn xung
phong lãnh việc khó, giúp mọi người, bởi thế, thu hút cảm tình mọi giới. Vì
mang một vết son lớn trên tráng, Bá được bạn bè tặng cho biệt danh Bá Đầu Đỏ.
Ăn bận xuềnh xòang, không thích cua gái, sống khắc khổ trong một căn gác
nghèo tại Bourg-la-Reine, Bá thường la cà nơi tiệm cà-phê Châlet du Parc, tại
Parc Montsouris để tán gẩu với bạn học cũ tại Lycée Yersin Đà Lạt. Bá mê Adam
Smith, thích xem phim xưa loại Le Pont de la Rivière Kwai, La Grande Illusion,
Pour qui sonne le glas…
Ngoài việc giảng huấn, Bá xông xáo hoạt động
thanh niên, tổ chức trại hè Nối Vòng tay lớn 1973, và cổ động trí thức thành
tài về nước phục vụ. Năm 1972, Bá đắc cử chủ tịch Tổng hội sinh viên VN, giữ chức
này bốn khóa, cổ võ xây dựng công đồng, chống tuyên truyền của cộng sản Hànội...Tháng
4.1975, Sàigòn thất thủ. Mất tòa Đại sứ, mất Câu lạc bộ, mất trụ sở, Ban chấp
hành Tổng hội sinh viên rút về ngoại ô Paris, trên lầu 6 của một chung cư, đường
Maréchal Joffre. Giới người Việt ở Pháp hoang mang tột độ.
Ngày 30 tháng tư, trong cảnh hỗn loạn, Bá (30 tuổi)
giữ bình tĩnh, chạy đến Phòng lãnh sự VNCH, đại lộ de Villiers Paris. Ông
Đại sứ tự ý giải nhiệm. Tòa Đai sứ tuyên bố đóng cửa chính thức ngày thứ sáu.
Nhưng Tổng hội sinh viên vẫn tồn tại, đưa lưng gánh vác một gia tài tủi nhục. Với
một số bạn, Bá phụ đốt các hồ sơ, cấp phát chứng thơ cần thiết cho kiều bào,
chuyển sách vở, phim ảnh vể những điểm mật của Tổng hội sinh viên. Bá
tuyên bố: “Sinh viên tiếp tục đấu tranh. Hãy giúp chúng tôi!” Tới phút chót, lúc
6 giờ chiều, Đại sứ Nguyễn Duy Quang trao cho Bá một ngân phiếu khiêm nhượng,
tiền dư bạc thừa, quỹ đen, quỹ đỏ. Sáng thứ hai, khi đại diện của Tổng hội ra
băng để lãnh thì trương mục của Sứ quán đã đóng từ tuần trước!
Bá không nản chí, luôn luôn đứng đầu mũi dùi. Dù
thiếu phương tiện, dù bị hăm dọa từ mọi phía. Tổng hội sinh viên cắn răng hoạt
động. Tết 1976, Bá và các bạn tổ chức biểu tình đả đảo Hà Nội tại
Salle de la Mutualité với khẩu hiệu “Ta Còn Sống Đây!” Tổng hội xoay qua đón tiếp,
giúp đỡ và ủy lạo – với tiền ít nhưng lòng nhiều! – các đợt sóng thuyền nhân đầu
tiên. Bá chỉ huy, tổ chức (đôi khi...”xà ngầu”), và phát ngôn không hùng hồn
nhưng chinh phục mọi người vì tân tụy hết mình, làm việc bất kể giờ giấc, cắt
liên lạc với mẹ, anh và chị sống tại Paris.
Năm 1977, khi Phạm Văn Đồng viếng
Paris, Bá và các bạn xuống đường, đánh lộn bằng gậy, gộc, cây, búa với
phe Việt kiều cộng sản, Tây cộng và sinh viên ngoại quốc thiên cộng, đông
hơn. Kết quả: cuộc triển lãm và hội thảo CS tại cư xá sinh viên quốc tế
đường Jourdan phải hủy bỏ. Vì lý do an ninh.
Bá nói: “Người ta nói chúng tôi nhận tiền
của CIA, bị Bắc Kinh giựt giây. Không ai biết tôi đang khám phá con người thật
của tôi.” . Rồi mẹ của Bá vượt đến Pháp trong số thuyền nhân. Bá mất việc
làm, phải nhờ anh là kỹ sư Tòng phụ cấp. Tòng hỏi Bá: “ Đây có phải là
lúc chống cự như vậy hay không? Cậu sẽ phải lội qua đại dương!”. Bá cười: “Đó
là con đường ít bị kẹt nhứt. Khi Hồ, Giáp và Đồng bắt tay vào business của họ,
họ chỉ là 4 hay 5 người. Lúc đó, đảng CS yếu xìu, dân nghèo đã khuyến khích họ
” Đúng thế, Bá nghĩ rằng vấn đề dân chủ và thuyền nhân phải được giải quyết tại
Việt Nam, bằng sự tranh đấu bên trong. Nếu người Việt không tự giúp, ai sẽ giúp
họ?
Nói là làm. Lối 1979, Bá biệt tích tại
Pháp. Tin đồn Bá bí mật bay qua Bangkok, vào Thái lan, Cam bốt, Việt Nam. Bá về
bưng. Ngày 6.6.1982, Bá viết thơ từ nước Thái: “Tôi vẫn mạnh khoẻ. Rất
khó, khó thật. Nhưng tôi thấy tôi mạch lạc với chính tôi và đoàn kết với đất nước
tôi, nghèo nàn, khốn khổ, đói rách. Tương lai Việt Nam tùy thuộc nơi thành phần
đối kháng bên trong, không phải nơi các chính trị gia lưu vong.” Trong môt bức
thơ khác, Bá than: “Điều khủng khiếp nhứt là sự cô đơn. Tìm đâu ra những giá trị
nhân bản, tôn giáo, trí tuệ? Đừng nói những gì chúng tôi đang làm là vô bổ.”
Chiều 11.9.1984, có tin Trần Văn Bá bị bắt với
(cựu phi công) Mai Văn Hạnh tại Minh Hải trong lúc công tác, trên chiếc xe hơi
của một cán bộ cao cấp CS. Vì bất cẩn hay vì bị gài bẫy? Ngày 8.1.1985, tại
Nhà Hát lớn Saigon, trụ sở của Hạ viện cũ thời quốc gia, Tòa án Nhân dân
Tối cao - sắp xếp như một trò hề công lý, một vở tuồng cải lương -
tuyên xử Bá và 20 can phạm khác thuộc Mặt trận Thống nhất các
Lực lượng Yêu nước Giải Phóng Việt Nam về tội “phản bội tổ quốc, chống phá cách
mạng”. Các “chiến lợi phẩm tịch thu được từ các kháng chiến quân” được
triển lãm ở nơi đây. Nhà chức trách còn đặt nhiều máy phóng thanh tại công trường
Lam Sơn để dân chúng – trên 1000 - theo dõi diễn tiến của vụ án từ bên
ngoài.
Trong bản cáo trạng, công tố viện Trần Tế cho biết: ngay từ đầu tháng giêng
1981 cho đến tháng 9.1984, cơ quan an ninh Nhà nước đã phát hiện được
“mười toán gián điệp” xâm nhập vào VN với sự hổ trợ của Trung quốc, Thái lan và
Hoa kỳ. Tổng cọng 119 người, bị bắt giam hoặc giết chết.
Cá nhân Bá bị truy tố về tội đã chỉ huy, từ 1981 cho đến tháng 9.1984, nhiều
nhóm kháng chiến xâm nhập VN, một chuyến đường bộ từ Thái lan về An giang
với sự giúp đở của phe Pol Pốt và chín chuyến đường biển từ Thái đến
mật cứ ở Minh Hải và Phú Khánh, đưa lậu vào VN hàng trăm tấn vũ khí, đạn dược.
Báo Quân đội Nhân Dân số 8456 ghi: “Bá, người thấp, gầy, ra trước Tòa lúc 15 giờ
ngày 14.12.1984, thường chỉ nói rất ngắn, rất nhanh”
Ông Lê Quốc Túy đáng lẽ cũng đi cùng toán thứ mười nhưng vì phải vào nhà thương
ở Pháp vào giờ chót nên thoát nạn. Ngày 27.12.1984, ông họp báo tại khách sạn
sang trọng Lutétia, Paris với tư cách ủy viên đối ngoại của Mặt trận nói trên.
Trước báo chí ngoại quốc đông đảo, Túy – trên ngũ tuần - xác nhận lãnh tụ
Mặt trận còn ở trong xứ và một số chiến sĩ của tổ chức đã bị bắt từ 1980. Một
trận đánh lớn đã xảy ra tại Hà Tiên gây thiệt hại cho khoảng 120 cán binh Việt
cộng. Theo ông Túy, không có nước nào giúp. Súng đạn do chính cán bộ hồi chính
CS cung cấp hay binh lính CS bán lại. Trong số 21 người bị xử, có hai cựu cán bộ
cao cấp CS.
Đồng minh của Mặt trận là kháng chiến
Khờ-me. Mặt trận không có liên lạc với nhóm Hoàng Cơ Minh nhưng nếu cần, sẵn
sàng giúp đỡ. Trả lời một câu hỏi, Túy cho biết Mặt trận, trong giai đoạn
hiện tại, chưa chủ trương thiết lập những vùng giải phóng mà chỉ chú trọng xây
dựng những cơ cấu nhỏ để từ đó, xâm nhập vào guồng máy và hàng ngũ bộ đội CS.
Đáp một câu hỏi khác, Túy xác nhận số võ khí do CS trưng bày tại Tòa án là thực
nhưng “chúng tôi còn nhiều hơn thế nữa.”
Điểm đáng lưu ý: Bản cáo trạng có
ghi Mặt trận của Lê Quốc Túy được sự hậu thuẩn của cố Thủ tướng Trần Văn Hữu,
nhóm Lai Hữu Tài, Lai Hữu Sang và nguyên nghị sĩ Hòa Hão Lê Phước Sang (đọc bài
Vụ án Yên Báy 84 của Trần Phổ Minh, trong Tuyển tập Trần Văn Bá).
Triệu Quốc Mạnh, một trong các luật sư (quốc
doanh) được chỉ định để biện hộ thí cho nhóm bị can, làm cho các khán giả nực
cười khi y tuyên bố: “Các can phạm đã vi phạm luật. Không ai bào chữa cho họ được
vì họ là những người tội đồ phản quốc”. Nơi đây, xin mở dấu ngoặc: thời Quốc
gia, Mạnh là phó Biện lý Toà án Gia Định, cán bộ nằm vùng CS, được Trần Ngọc Liễng
gởi gấm với Dương Văn Minh. Minh, trong 48 giờ đồng hồ phù du cầm quyền, trao
cho Mạnh chỉ huy cảnh sát tại Thủ đô, Mạnh lẹ tay thả hết tù chính trị để lập
công với Hà Nội nhưng sau đó, vẫn bị thất sủng, về sanh sống trong giới thầy
cãi.
Tại phiên Tòa, Hồ Thái Bạch bị đàn áp bằng
dùi cui khi lớn tiếng phản đối. Huỳnh Vĩnh Sanh bị bịt miệng khi hô to “VN Cộng
hòa muôn năm!” Sau bốn ngày diễn trò bịp bợm, Tòa tuyên án 1) Tử hình: Trần
Văn Bá, Mai Văn Hạnh, Huỳnh Vĩnh Sanh, Lê Quốc Quân và Hồ Thái Bạch 2)
Chung thân: Trần Nguyên Hùng, Tô Văn Hườn, Hoàng Đình Mỹ. 3) từ 8 đến 20 năm
tù: 13 kháng chiến quân còn lại.
Nhiều cuộc biểu tình xảy ra ở ngoại quốc để phản
đối nhà cầm quyền cộng sản, Đức Giáo hoàng và Tổng thống và Thủ tướng Pháp cùng
nhiều nhân vật chính trị và tôn giáo trên thế giới can thiệp. Ngày 4.1.1986.
lúc 19 giờ 35, bà goá phụ Trần Văn Văn, 71 tuổi, mang biểu ngữ “Sauvez mon
fils, Hãy cứu con tôi!” đến Toà Đại sứ CSVN, đường Boileau, Paris 16, xin
gặp Nguyễn Cơ Thạch nhưng tên đại sứ này lánh mặt. Mười bốn hội đoàn thanh niên
tại Đan Mạch, Đức, Thụy sĩ, Bỉ và Pháp xuống đường tố cáo Hà Nội. Trần Văn
Tòng, anh của Bá, phối hợp một Ủy ban quốc tế để tranh đấu cho các tội nhân. Lễ
cầu an được tổ chức khắp nơi.
Dưới áp lực quốc tế, nhà cầm quyền Việt
nam đổi án tử hình của hai can phạm có Pháp tịch là Mai Văn Hạnh và Huỳnh Vĩnh
Sanh thành khổ sai chung thân. Trần văn Bá (mặc dù mang sổ thông hành
Pháp), Lê Quốc Quân và Hồ Thái Bạch bị hành quyết tại khám đường Thủ Đức ngày
8.1.1985. Một thông cáo vắn tắt của Nhà nước cho biết tin này. Xác của
các tử tội không được trả lại cho gia đình, theo Trần Văn Tòng nói với
người viết bài.
Trên 3.000 đồng bào VN biểu tình tuần hành
tại Paris ngày 10.1.1985 từ Maison de la Radio, quận 16, đến trước sứ
quán Việt cộng để tỏ sự căm phẫn với bạo quyền Hànội. Hiện nay Lê
Quốc Túy ở đâu ? hoạt động ra sao? Không ai được biết.
Vụ án Trần văn Bá và chiến hữu làm sống lại khí phách của vụ Yên Bái năm
30. Đây là vụ Yên Bái 84. Vụ đầu, kháng thực dân Pháp. Vụ sau, chống độc
tài cộng sản, ghê tởm hơn nhiều. Liệt sĩ thời đại mới Trần Văn Bá đã gieo
hạt giống tốt. Bá không hy sinh vô bổ. Gương của Bá đáng ghi vào sử xanh.
Chống Pháp và Mỹ, Cộng sản đã thắng,
vì đã bịp được dân.
Chống dân tộc Việt, ngày nay nhận thấy
mặt trái Xã hội Chủ nghĩa, Cộng sản chắc chắn sẽ thảm bại phen này. Thảm bại
chua cay!
LÂM LỄ
TRINH
Xuân Ất Dậu, Thủy Hoa Trang, California)
THƯ TỊCH:
1-Tiểu luận “Vấn đề địa phương trong chính trường Việt Nam” của Lâm Lễ Trinh,
trong tạp chí Thế Giới, Houston ngày 18.5.2001 và Nhân Văn Hải Ngoại, 6.2001
2-Ký ức “Mây Mùa Thu” của Jackie Bông Wright, Virginia, 7.12.2004
3-« Tuyển tập Trần Văn Bá » 14 mai 1945 – 8 janvier 1885, Paris. (gồm nhiều bài
báo)
4-« Trần Văn Bá Tương hội » Paris, 2.8.1999
5-« Việt Nam máu lửa, Quê hương tôi », hồi ký của Hoành Linh Đổ Mậu, CA 1986
6-« Blind Design, Why America lost the VN War?» by Hoàng Lạc & Hà Mai Việt,
1996
7-"Bí mật Hậu trường chính trị Miền Nam, 1954- 1975” của Đặng Văn Nhâm
1999
Trần Văn Văn
1908 - 1966
Cụ Trần Văn Văn chào đời ngày 2 tháng giêng năm 1908 tại làng Tân Lộc Đông ( gọi là cù lao Cát) quận Thốt Nốt, tỉnh Longxuyên, con của cụ Trần Võ Duy, tri huyện và bà Lý Thị Hóa, trong một gia đình 5 con.
Học tiểu học ở Collège Mỹ Tho và trung học ở Lycée Chasseloup Laubat, Sàigòn. Năm 1926 vì tham gia bãi khóa nhân đám tang cụ Phan Châu Trinh ở Sàigòn nên bị đuổi học. Cụ thân sinh gởi qua Pháp để tiếp tục thi xong tú tài. Sau đó tốt nghiệp trường Cao Đẳng Thương Mãi (HEC) Paris và đại học Oxford (Anh quốc).
Trở về nước năm 1936, làm việc cho hãng Alcan. Đến năm 1938 cùng với kỹ sư Kha Vạng Cân, thành lập hãng đúc thép đầu tiên ở Việt Nam gọi là Fonderie Cân&Văn tọa lạc tại 165 đường Pétrus Ký, Chợ Quán-Sàigòn, một cơ sở lớn bật nhất ở Đông Dương. Kha Vạng Cân làm đô trưởng Sàigòn-Chợ Lớn thời chánh phủ Trần Trọng Kim, sau tập kết ra Bắc làm Bộ trưởng Bộ công nghiệp nhẹ cho Hồ Chí Minh.
Năm 1940 thành hôn với cô Bùi Thị Diệm, cựu nữ sinh trường trung học Marie Curie Sàigòn, con của ông bà Bùi Quang Sửu ở Longxuyên; cụ Sửu là em của cụ Bùi Quang Chiêu, người sáng lập ra đảng Lập Hiến năm 1919 và bị cộng sản sát hại năm 1945 cùng với 4 người con, ở Chợ Lớn.
Cụ Văn và cụ bà có 3 con.
Kháng chiến dành độc lập
Cụ bước vào chánh trị vì tham gia kháng chiến chống Pháp để dành độc lập cho nước nhà (bản thảo viết tay trả lời phỏng vấn đài tiếng nói Hoa Kỳ, VOA, tháng 9,1966.) Tháng 5 năm 1945 cụ ra Huế làm Đổng Lý Văn Phòng cho bác sĩ Hố Tá Khanh, Bộ trưởng Kinh Tế trong chánh phủ Trần Trọng Kim (Trần Trọng Kim, Một cơn gió bụi). Sau khi chánh phủ Trần Trọng Kim giải tán, cụ trở về Nam tham gia kháng chiến chống Pháp dành độc lập với tư cách ủy viên kinh tế(Ngô Quang Huy, Nhớ bạn xưa.)
Chánh Phủ độc lập đầu tiên của Việt Nam
Từ trái sang phải : Trần Văn Văn, Tướng Nguyễn Văn Thành, 2 quan chức Pháp, Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc, Tô Văn Hoa, Tướng Trần Quang Vinh, Tướng Bảy Viễn.Cụ hồi cư về Sàigòn tháng 7 năm 1946. Lúc bấy giờ người Pháp đã trở lại Đông Dương, và hứa trao trả độc lập lại cho Việt Nam. Tháng 7 năm 1949 cụ nhận chức Tổng Trưởng Kinh Tế và Kế Hoạch trong chánh phủ độc lập đầu tiên của Việt Nam do Quốc Trưởng Bảo Đại điều khiển. Lúc đó cụ Trần Văn Tuyên, Bộ Trưởng Thông Tin và Tuyên Truyền mang gia đình từ Hà Nội vào cùng ở chung nhà với gia đình cụ ở Sàigòn, số 198 đường Chasseloup Laubat (sau nầy là Hồng Thập Tự.) Một thời gian sau, cụ cùng với cụ Phan Khắc Sửu lúc bấy giờ là Bộ Trưởng Canh Nông, từ chức để phản đối chánh sách thực dân trá hình của người Pháp không thực tâm trao trả độc lập cho Việt Nam.
Cụ tiếp tục cùng một nhóm thân hữu trong đó có các cụ Trần Văn Hương, Phan Khắc Sửu, Hồ Văn Nhựt, Huỳnh Kim Hữu, Ngô Ngọc Đối, Nguyễn Lưu Viên, Nguyễn Ngọc An tranh đấu cho độc lập, tự do và tiến bộ của nước nhà. Cụ liên lạc chặt chẽ với tất cả các nhân vật, đoàn thể, giáo phái,v.v., nhưng không gia nhập một đảng phái hay một tổ chức nào.
Chánh quyền Ngô Đình Diệm
Trần Văn Văn -Genève 1954Năm 1954 cụ Ngô Đình Diệm về nước thụ chức Thủ Tướng, có mời cụ tham chính nhưng cụ từ chối. Tuy nhiên, vào tháng 7/1954 Cụ tham dự Hội nghị Genève về Việt Nam mà ngoại trưởng Trần Văn Đỗ là đại diện của chánh phủ Ngô Đình Diệm. (hồi ký cụ bà Trần Văn Văn.)
Lúc chánh quyền Ngô Đình Diệm mở chiến dịch tiêu diệt các giáo phái và Bình Xuyên, vì biết cụ là người được tướng Lê Văn Viễn, thường gọi Bãy Viễn, thủ lãnh Bình Xuyên, đặc biệt nể trọng, nên ông cố vấn Ngô Đình Nhu yêu cầu cụ cùng ngồi xe qua tổng hành dinh của Bình Xuyên, thuyết phục Bảy Viễn dẹp bỏ ý định pháo kích phá hủy Sàigòn.
Cuối 1959, nhận thấy tình thế ngày càng nguy ngập của Miền Nam trước hiểm họa xâm lăng ngày càng rõ rệt của Cộng Sản Bắc Việt, cụ thiết kế hành động để thúc đẩy chánh quyền Ngô Đình Diệm cải tồ.
Cụ ra ý kiến, rồi cùng cụ Trần Văn Hương và bác sĩ Nguyễn Lưu Viên, ba người thảo ra bản điều trần kêu gọi chánh quyền Ngô Đình Diệm cải tổ.
Cụ phối hợp với ông Phan Thông của Việt Nam Quốc Dân Đảng để tổ chức một cuộc biểu tình lớn ở Sàigòn, và đi thuyết phục 15 nhân sĩ khác, thuộc mọi khuynh hướng và tiêu biểu cho 3 miền đất nước, từng người một, ký tên vào bản điều trần (xem tuyên ngôn tự do tiến bộ.)
Ngày 26 tháng 4 năm 1960 cụ Phan Khắc Sửu và cụ, mang bản điều trần đưa vào dinh Độc Lập rồi đến khách sạn Caravelle hợp báo. Cụ đề nghị gọi nhóm 18 nhân sĩ ký vào bản điều trần là nhóm Tự Do Tiến Bộ, gọi tắt là Cấp Tiến, để thành tựu đối lập hợp hiến với chánh quyền ( về sau có một phong trào do 2 Gs Nguyễn Văn Bông và Nguyễn Ngọc Huy sáng lập cũng lấy tên là Cấp Tiến).
Ông cố vấn Ngô Đình Nhu gọi mỉa mai nhóm nầy là nhóm Caravelle, để rêu rao đây là thành phần trưởng giả rất xa lạ với nguyện vọng của quần chúng (Từ đó bản điều trần được biết đến như là bản tuyên ngôn Caravelle. Bản dịch tiếng Anh có đăng trong Vietnam Reader của Bernard Fall, và trong The Pentagon Papers. Về sau có một số người mạo nhận đã sáng lập ra nhóm Caravelle, hay đã ra ý kiến hoặc đã đóng góp vào việc soạn thảo bản điều trần. (Xem Nguyễn Ngọc An, chung quanh vụ Caravelle.)
Thừa cơ hội nhóm Nguyễn Chánh Thi, Vưong Văn Đông, Phan Quang Đán, Hoàng Cơ Thuỵ, đảo chánh thất bại ngày 11/11/1960, chánh quyền Ngô Đình Diệm ra lệnh bắt giam một số nhân sĩ trong nhóm Tự Do Tiến Bộ gồm các cụ Trần Văn Văn, Phan Khắc Sửu, Trần Văn Hương, Nguyễn Lưu Viên, Huỳnh Kim Hữu, Tạ Chương Phùng, Trần Văn Đổ, Lê Ngọc Chấn, Nguyễn Tăng Nguyên,Trần Văn Tuyên mặc dù họ hoàn toàn không can dự vào cuộc đảo chánh.
Cụ bị giam giữ từ 12/11/1960 đến 07/04/1961, được thả ra cùng lúc với cụ Trần Văn Hương (Trần Văn Hương, Lao Trung Lãnh Vận).
Tháng 7 năm 1963 một tòa án quân sự đặc biệt do đại tá hải quân Phạm Gia Hẹ chủ tọa chánh án đem 18 nhân sĩ của nhóm Tự Do Tiến Bộ ra xét xử. Trong phiên tòa, công tố viện trưng bằng chứng cụ thể để cho thấy chính ông cố vấn Ngô Đình Nhu đã đích thân tổ chức giám thị và lũng đoạn nội bộ nhóm "Tự Do Tiến Bộ" (hay Caravelle) như thế nào. Báo chí Việt Nam đều có đại diện tham dự phiên tòa cùng một số ký giả ngoại quốc trong đó có 2 ký giả Pháp, François Nivolon của nhật báo Le Figaro và Jean Lacouture của tuần báo Le Nouvel Observateur.
Tòa tuyên án tha bổng tất cả các bị can (Đại tá Hẹ sau tháng 4/75 di tản sang Mỹ và mất ở tiểu bang Florida.)
Chế độ quân nhân
Mai Thọ Truyền, Trần Văn Văn, Nguyễn Khánh, Phan Khắc Sữu - Dinh Gia Long 1965Ngày 1/11/1963 một nhóm quân nhân do tướng Dương Văn Minh cầm đầu, đảo chánh. Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Cố vấn Ngô Đình Nhu bị sát hại. Trong thời kỳ vô cùng hổn độn kế tiếp, Cụ tận lực xây dựng các cơ cấu và thể chế dân chủ cơ bản để ổn định đời sống chánh trị ở miền Nam, và tái lập một chánh quyền dân sự, trong các cương vị sau đây :
- Chủ tịch Hội đồng Nhân sĩ từ 1/1964 đến 4/1964. Hội đồng nầy bị Tướng Nguyễn Khánh giải tán sau một trò gọi là "chỉnh lý".
- Tổng thư ký Thượng Hội Đồng Quốc Gia từ 23/9/1964 đến 19/12/1964, cơ quan có nhiệm vụ soạn thảo một hiến chương và chỉ định một Quốc Trưởng trong khi chờ đợi tổ chức bầu cử. Tướng Nguyễn Khánh giải tán Thượng Hội Đồng và cô lập cụ lên Kontum 3 tuần.
- Chủ tịch Hội đồng Dân Quân từ 5/7/1966 đến 26/9/1966.
Cụ ứng cử vào Quốc Hội Lập Hiến, chủ trương một chánh quyền dân sự mạnh, chống cộng dứt khoát, phi tôn giáo, dựa trên một nhà nước dân chủ, công minh, tôn trọng dân quyền và mọi tín ngưỡng, chấm dứt nạn quân nhân và giáo hội thao túng chánh trường, để có thể đối phó lại một cách hữu hiệu với hiểm họa cộng sản Bắc Việt xâm lăng.(xem hồi ký cụ bà Trần Văn Văn). Cụ đắc cử dân biểu vào cuối tháng 9/1966.
Trả lời các ký giả ngoại quốc, cụ xác nhận sẽ ra ứng cử Tổng Thống vào năm 1967.
Cộng sản Hà Nội
Ngày 7 tháng 12 năm 1966 trên đường đi vào Quốc Hội, lúc 9g05 sáng, cụ bị ám sát tại góc đường Phan Kế Bính – Phan Đình Phùng.
Có nhiều giã thuyết và tin đồn về âm mưu ám sát nầy. Đài phát thanh Hà Nội lúc đó cực lực phủ nhận mọi trách nhiệm và tuyên bố « mặc dù khác chính kiến, mặc dù không đồng quan điểm chính trị với ông Trần Văn Văn nhưng chúng ta không bao giờ can dự vào việc ám sát ông Văn »
Báo Công An thành phố Hồ Chí Minh số đề ngày 30 tháng 4, 1988, và Báo Lao Động số đề ngày 26 tháng 4, 2006 đăng bài xác nhận ám sát cụ là « chiến công của đội Biệt động Sàigòn » của Cộng sản, với lý do là "nếu để cụ đắc cử Tổng Thống, vì Cụ đã được Mỹ quyết định ủng hộ, thì sẽ rất tai hại cho cách mạng" nghĩa là cho công cuộc xâm chiếm miền Nam của Cộng sản Hà Nội. Tuy nhiên cả 2 bài báo gồm nhiều sai lầm rất thô thiển về một số sự kiện, chứng tỏ đưọc lấy nguồn, không từ hồ sơ của nhà nước cộng sản, nhưng từ những tin tức hành lang và được viết theo lối sách động tâm lý chiến. (xem báo cộng sản về vụ ám sát dân biểu Trần Văn Văn)
Cho những người dốc lòng tạo dựng lại Việt Nam
Cụ được mai táng ở nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi, Sàigòn (đám tang cụ Trần Văn Văn) và sau được cải táng ở cù lao Cát, Thốt Nốt, Longxuyên năm 1983. Trên phần mộ của cụ ở nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi có khắc 2 câu điếu của cụ Đỗ Phong Thuần :
"Lo việc cho dân Hiến Pháp sắp thành trên đất Việt,
Bỏ mình vì Nước tinh thần còn sống giữa trời Nam."
Trong mọi hoạt động - trên đường thực nghiệp cũng như trong chánh trường - cụ luôn luôn được thúc đẩy bởi một ý nguyện : làm công dân của một nước Việt Nam độc lập, tự do, tân tiến, phú cường.
Để thực hiện ý nguyện đó, cụ hành động rất thẳng thắng và thiết thực, minh bạch và khẳng khái (thơ tay của cụ Nguyễn Thành Vinh, lãnh tụ Việt Nam Quốc Dân Đảng):
- tham gia kháng chiến dành độc lập;
- nhất trí đối kháng lại mọi chế độ áp bức, độc tài, độc đoán;
- xây dựng các thể chế và cơ chế nền tảng cho một nhà nước dân chủ, hiện đại, công minh;
- kiến thiết một nền kinh tế thị trường vững mạnh, hiệu dụng, tân tiến;
Trần Văn Bá, Trần Văn Văn, Trần Văn Nghiêm - Cù lao Cát 1966
Trần Văn Văn - Paris 1929- phát huy một tinh thần tiến bộ, cởi mở, tự tin, để đón nhận và quán triết cái hay, cái đẹp của các nền văn minh lớn, nhưng đồng thời bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc và luôn luôn gìn giữ cái tâm hồn Việt Nam, đúng theo lời nhắn nhủ của cụ Phan Bội Châu :
"Người Nam quyết giữ hồn Nam Việt,
bóp dẹp mà ta vẫn lại tròn."
Trần Văn Tòng
Paris ngày 7 tháng 12 năm 2006
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét