Kim
Bảng
Trong bài “Điềm trời gì đây?” trên Người Dân số 268, tôi đã
đề cập đến vụ khủng bố tấn công lãnh sự quán Hoa Kỳ tại Benghazi, Libya ngày
11.9.2012 khiến đại sứ Christopher Stevens và 3 người Mỹ thiệt mạng. Tôi cũng
đã nêu lên việc các tns Cộng Hòa McCain và Graham tuyên bố sẽ phản đối nếu bà
Susan Rice, đại sứ Hoa Kỳ tại LHQ, được TT Obama bổ nhiệm làm ngoại trưởng vì
bà không nói đúng sự thật về vụ này tại diễn đàn LHQ và TT Obama đã hùng hổ
bênh vực bà.
Ngày 13.12, bà Susan Rice viết thư cho TT Obama, “Nếu được bổ nhiệm, bây giờ tôi xác tín rằng
thủ tục chấp nhận sẽ kéo dài, gây rối và tốn tiền – cho ngài và cho các ưu tiên
quốc gia và quốc tế đang khẩn cấp nhất… Do đó, tôi kính xin ngài đừng xét đến
việc bổ nhiệm tôi vào lúc này“. Dịp may ngàn năm một thưở cho tns John Kerry.
Ngày 28.12, ông được TT Obama bổ nhiệm làm ngoại trưởng, khiến liên tưởng đến
ngạn ngữ “không có chó bắt mèo ăn c…”. Ngày 29.1.2013, Ủy ban Ngoại giao
Thượng viện đã nhanh chóng và đồng thanh chấp thuận việc bổ nhiệm này.
John Kerry có liên hệ mật thiết với nhiều chế độ cộng sản, đặc
biệt nhất là CSVN. Bạn đồng viện trong tiểu ban Đông Nam Á thuộc Ủy Ban Ngoại
Giao Thượng Viện, Joshua Kurlantzick, bảo vai trò chủ yếu nhất của John Kerry ở
Á Châu là tại Đông Dương, nơi Kerry giúp lãnh đạo Mỹ sáp lại gần với Việt Nam
và duy trì mối quan tâm này. Vì thế việc bổ nhiệm John Kerry làm ngoại trưởng sẽ
ảnh hưởng lớn đến tình hình Việt Nam, nên cũng là điều đáng quan tâm.
ANH HÙNG PHẢN CHIẾN
Ai
theo dõi “chiến tranh Việt Nam” hẳn còn nhớ những “chiến tích” của John Kerry.
Ngày
18.2.1966, ông đầu quân vào Trừ Bị Hải Quân, sau khi theo học mấy lớp huấn
luyện Sĩ Quan, ngày 8.6.1967, nhận cấp bực thiếu úy Hải Quân, công tác trên khu
trục hạm USS Gridley. Ngày 9.2.1968, chiến hạm này được lệnh triển khai về vùng
Tây Thái Bình Dương. John Kerry xin thuyên chuyển sang Việt Nam, chọn ưu tiên
chức vụ chỉ huy một tàu Tuần Tra Cao Tốc (Fast Patrol Craft hay Swift boat),
nếu không được thì tàu tuần giang (river patrol boat). Ngày 17.11.1968, ông
trình diện tại Đệ nhất Hạm đội ở Vịnh Cam Ranh, tham gia chiến dịch Chúa Biển
của đô đốc Elmo Zumwalt. Ông chỉ huy tàu tuần tra cao tốc PCF-60 với thủy thủ
đoàn 5 người, đêm 2.12 rạng 3.12.1968, gặp toán VC đang dỡ hàng từ các thuyền ở
một ngã tư sông. Chúng bỏ chạy. Kerry và 2 quân nhân bắn chìm các thuyền này.
Kerry bị trúng mảnh đạn trái phá nhỏ ở cánh tay trái trên khủy tay, được bác sĩ
Louis Letson gắp mảnh đạn ra, tiêm trụ sinh bacitracin, băng bó rồi cho về, hôm
sau trình diện nhận công tác, thế mà cũng được thưởng huân chương Tim Đỏ
(Purple Heart). Ngày 20.2.1969, tàu cao tốc của Kerry tuần tra sông Bồ Đề, lúc
ra đến Cửa Lớn trên Vịnh Thái Lan thì bị phục kích, Kerry bị trúng mảnh lựu đạn
ở chân trái. Ông lại được thêm một Tim Đỏ nữa. Tám ngày sau, Kerry tuần giang
trên sông Bảy Hạp, lọt ổ phục kích. Tàu của ông phản kích, một VC trong bụi
nhẩy ra với khẩu B-40, bị bắn vào chân vẫn còn chạy được, Kerry nhẩy lên bờ,
đuổi theo, bồi thêm một phát chết tốt. Jerry được đô đốc Zumwalt bay thẳng đến
An Thới gắn cho Huân Chương Sao Bạc (Silver Star). Ngày 13.3, năm tàu
tuần tra cao tốc bỏ neo trên sông Bảy Hạp sau khi đi công tác về. Một quả mìn
nổ dưới chiếc PCF-3, lúc sau một quả nữa nổ gần chiếc PCF-94 của Kerry, cố vấn
Mũ Xanh James Rassmann đang ngồi ăn xô cô la trên boong tầu bị hất xuống sông
và là mục tiêu của địch quân từ hai bờ sông. Rassmann được Kerry cũng bị thương
kéo lên tàu cứu được. Kerry được thưởng Sao Đồng (Bronze Star) và thêm một Tim
Đỏ thứ ba. Theo nội quy Hải Quân, quân nhân bị thương 3 lần có quyền xin thuyên
chuyển đến một đơn vị nào tùy ý lựa chọn. Kerry xin về làm phụ tá cho đô đốc
Walter Schlech của Ban Chuyển Vận Hàng Hải Quân Sự Đại Tây Dương đồn trú tại
Brooklyn, ngày 1.1.1970 thăng trung úy, ngày 16.2.1970, được giải ngũ sớm để về
tranh cử vào Thượng Viện. Các sự kiện trên đây bị dị nghị rất nhiều.
Jonah Goldberg viết trong bài “Một nghi vấn Ái Quốc” (A
question of patriotism) đề ngày 21.4.2004: “Khẳng định của Kerry là một anh
hùng chiến tranh bị nhiều nhóm cựu chiến binh chất vấn về những hoàn cảnh của
ba huân chương Tim Đỏ của ông… Trong cả ba trường hợp, Kerry đích thân báo cáo
về những thương tích và không hề phải ở lại một trạm y tế nào để điều trị. Bây
giờ, Cliff Kincaid của America’s Survival (Sống sót của Mỹ) bảo rằng các tài
liệu FBI chứng minh là Kerry nói láo ngay cả về những hoạt động phản chiến của
ông” (http://headlines.agapepress.org/archive/4/132004h.asp).
The Washington Times viết: “Tuy ban vận động của Kerry phổ biến hơn 120 trang hồ sơ Hải Quân,
ông Kerry vẫn từ chối đưa ra các tài liệu y tế mô tả các thương tích đầy đủ
hơn. Trong số những tài liệu mà ban vận động không đưa ra là việc giải thích
những thương tích đã đưa đến huân chương Tim Đỏ đầu tiên của ông Kerry chỉ chưa
đầy một tháng sau khi ông tham chiến“.
Đưa ra để lòi sự thật hay sao? Nhưng dù có cố che đậy,
Louis Letson là bác sĩ đã điều trị “thương tích” của Kerry ngày 3.12.1968 cũng
lật tẩy: “Tôi chỉ gắp miếng kim loại ra
bằng cách dùng kẹp nâng da lên. Tôi nghi ngờ rằng nó vào sâu hơn 3 hay 4 ly.
Không cần phải mò để tìm nó, không cần thuốc tê để lấy nó ra, và không cần khâu
để khép vết thương. Chỉ lấy Band-Aid để phủ lên vết thương”.
Một
điều lý thú là John Kerry trong có bốn năm phục vụ tại “Chiến tranh Việt
Nam” được gắn đến 5 huân chương mà lại là tay phản chiến hạng nặng.
Về
Mỹ, ông tham gia tổ chức Cựu Chiến Binh Việt Nam Chống Chiến Tranh (VVAW:
Vietnam Veterans Against the War), lúc ấy đã có khoảng 20,000 thành viên.
Thomas Sowell có bài “Vets vs. Kerry on Vietnam: Part II”
trong đó viết: “Trong chính cuốn sách của John
Kerry viết năm 1971, nhan đề “The New Soldier” (Người lính mới), bây giờ đã hết
và tns Kerry sẽ không cho tái bản. Bìa cuốn sách cho thấy những người biểu tình
cầm cờ Mỹ lộn ngược và bên trong có hình của các thành viên của nhóm Kerry –
Cựu Chiến Binh Việt Nam Chống Chiến Tranh – giơ nắm tay chào và vài người hóa
trang như Che Guevara”(http://townhall.com/columnists/thomassowell/2004/08/25/vets_vs_kerry_on_vietnam_part_ii/page/full/).
Ngày 21.4.2004, John P bình luận về cuốn sách này trong bài
“Lieutenant Flip-Flop-The New Liar” (Trung úy Lá mặt Lá trái-Tên nói láo mới): “Lý do tại sao bạn không thấy bìa cuốn sách này có lẽ cũng là lý do
tại sao cuốn sách này không còn để bán. John Kerry không muốn công chúng Mỹ
thấy nó! John Kerry đã chủ động không cho nhà xuất bản tái bản cuốn sách này.
Tôi đoán rằng mặc dầu có nhiều sở đoản, ông có vẻ đủ khôn để biết rằng việc này
sẽ nêu lên quá nhiều câu hỏi về tính liêm chính của ông (nếu ông có tý nào) và
các hoạt động sau chiến tranh của ông. Để kết luận, tôi xin để Hiến Pháp Hoa Kỳ
cho ý kiến về việc này” <*> (trên
Amazon.com – http://www.amazon.com/review/R29BW8NB3ULBOL).
Tháng
5.1970, không được phép chính phủ, Kerry sang Paris gặp Nguyễn Thị Bình, trưởng
phái đoàn Việt Công tại Hội Nghị Paris. Sau đó, ông nhận rằng chuyến đi Paris
này nằm trên “ranh giới của sự hợp pháp” và hăng hái khuyến cáo Thượng Viện Mỹ
chấp nhận các đề nghị của bà Bình. Thực ra ông đã vi phạm luật liên bang mệnh
danh là “Bộ Quân Luật Đồng Nhất” (Uniform Code of Military Justice), quy định
hình phạt nặng kể cả, trong vài trường hợp, tử hình, đối với người nào “không
có thẩm quyền hợp lệ, biết mà chứa chấp hay che chở hay cho tin tức hay giao
lưu hay thư từ hay giao dịch với quân địch, trực tiếp hay gián tiếp”.
Ngày 22.4.1971, Kerry hãy còn là trung úy trừ bị của Hải
Quân, mặc quân phục chiến đấu mầu xanh điều trần gần 2 tiếng đồng hồ trước Ủy
ban Ngoại giao Thượng Viện về các đề nghị chấm dứt chiến tranh: “Nhiều quân nhân Hoa Kỳ tại Việt Nam đã đích thân hiếp, cắt tai,
chém đầu, quấn dây điện của máy điện thoại cầm tay vào sinh thực khí và cho
chạy điện, chặt tay chân, cho nổ tung các thân người, bắn bừa bãi vào thường
dân, san bằng làng mạc kiểu như Thành Cát Tư Hãn, bắn gia súc và chó để vui
đùa, bỏ thuốc độc vào lương thực, và nói chung hủy hoại thôn quê Nam Việt Nam
thêm vào sự tàn phá thông thường của chiến tranh. Chúng tôi đã học được ý nghĩa
của vùng tác xạ tự do. Bắn tất cả những gì di động, và chúng tôi nhìn Mỹ coi rẻ
mạng sống của người Đông phương. Những ‘tội ác chiến tranh’ của Mỹ ở Đông Nam Á
không phải là những sự cố biệt lập mà là những trọng tội hàng ngày được các sĩ
quan chỉ huy đủ mọi cấp bực hay biết đầy đủ”.
Hôm sau, ông tham gia cuộc biểu tình với vài ngàn cựu chiến
binh. Trong suốt 2 giờ, họ ném các huân chương, dây biểu chương, mũ, áo và các
giấy tờ quân sự cùng với tên, địa chỉ, ngành quân ngũ và một lời tuyên bố của
họ qua hàng rào, vào trước bực thềm trụ sở Quốc Hội, để phản đối chiến tranh.
Kerry tuyên bố, “Tôi không làm thế này vì bất kỳ
lý do bạo động nào nhưng vì hòa bình, công lý và để cố một lần cuối làm cho đất
nước này thức tỉnh”. Năm 1971, được chương trình Meet The Press của
đài NBC hỏi bản thân ông có bao giờ phạm phải những điều tàn bạo ở Việt Nam
không, ông trả lời, “Có nhiều thứ tàn bạo và tôi
phải nói là có, có, tôi đã phạm cũng những tàn bạo mà hàng ngàn người lính khác
đã phạm… Tôi dùng khẩu liên thanh nòng 50 chống dân chúng, tham gia những nhiệm
vụ tìm và tiêu diệt, đốt làng mạc… Tôi tin rằng những người đặt ra những việc
này, đặt ra các vùng bắn tự do, ra lệnh cho chúng tôi, ký những vùng oanh tạc,
những người này, theo luật, cũng cái luật đã xử trung úy Calley, đều là những
phạm nhân chiến tranh”. Trên tờ Washington Star ngày 6.6.1971, ông
thuật lại, ông và các đồng đội bị thất vọng vì khác biệt giữa những gì các lãnh
đạo nói và những gì họ mắt thấy tai nghe, “Từ đó tôi biết rằng không bao
giờ tôi có thể nín thinh về những thực trạng của chiến tranh tại Việt Nam”.
Ngày 30.6.1971, trên đài truyền hình ABC trong chương trình Dick Cavett, Kerry
tuyên bố những chính sách do các lãnh đạo quân sự Hoa Kỳ ở Việt Nam như các
vùng bắn tự do và đốt nhà các người không chiến đấu là trái luật chiến tranh.
Tướng hồi hưu George S. Patton III tố cáo các hành động của
Kerry “cho quân địch sự hỗ trợ và thoải mái” (aid or comfort
to the enemies). Ông nói thế là dựa vào Đoạn 3, tu chính 14 Hiến Pháp Hoa
Kỳ <*>. Tổ chức Cựu Chiến Binh Việt Nam Chống John Kerry khẳng định: “Là lãnh tụ toàn quốc của VVAW, Kerry vận động chống lại nỗ lực của
Hoa Kỳ ngăn chặn Cộng sản chủ nghĩa bành trướng. Ông dùng máu của binh lính hãy
còn ở ngoài chiến trường cho việc thăng tiến chính trị của chính ông bằng cách
tuyên bố rằng máu của họ đổ ra không cần thiết và vô ích… Dưới sự lãnh đạo của
Kerry, các thành viên VVAW nhạo báng đồng phục quân nhân Hoa Kỳ bằng cách mặc
đồ trận tả tơi in biểu ngữ thân cộng. Họ làm nhục Mỹ bằng cách biểu tình tuần
hành dưới cờ của kẻ địch Việt Cộng“. Về sau, Kerry bỏ VVAW vì bất
đồng ý kiến với những lãnh đạo cấp tiến hơn.
Trong
mục điểm sách ngày 19.1.2004 của The Boston Globe Review, ký giả Michael Uhl
phê bình cuốn “Tour of Duty: John Kerry and the Vietnam War” của Douglas
Brinkley do nxb William Morrow xuất bản ngày 6.1.2004:
Kelly giết một kẻ thù trong những trường hợp
không được hoàn toàn minh bạch nhưng có lẽ được các quy tắc chiến đấu mơ hồ của
chiến tranh chấp thuận. Sự cố này được phần nào đánh bóng một cách sống sượng
trong tường trình của Brinkley, nổi lên trong cuộc vận động tái tranh cử vào
Thượng Viện của Kerry năm 1996 khi ông bị chất vấn về việc đã bắn một du kích
quân bị thương đã ngã xuống. Kelly kéo bè kéo cánh nhiều cựu chiến binh tên
tuổi để biện hộ cho quyết định chớp nhoáng của ông bắn kẻ địch tuy đã bị hạ
nhưng vẫn còn vũ trang và có tiềm năng giết người. Theo người vợ trước của ông,
Kerry trở về đau khổ vì những cơn ác mộng và hồi tưởng… Việc ông quyết định gia
nhập VVAW là một cử chỉ đoàn kết với các cựu chiến binh mà ông gọi là “anh em”…
Brinkley thuật lại rằng Kerry ly khai với các
cựu chiến binh phản chiến chỉ vài tháng sau khi ông nổi tiếng, và trong nhiều
năm đã bị một số cựu đồng chí gọi là kẻ phản bội chính nghĩa. Nhưng Kerry luôn
luôn cố hết sức nhấn mạnh rằng ông “không hề ở ngoài hệ thống”. Cái khác là
những cựu chiến binh Việt Nam ấy đã trung thành với những luận cứ phản chiến
của Kerry trước Thượng Viện, vẫn tiếp tục biện hộ cho sự diễn dịch lịch sử ấy
của cuộc chiến tranh của họ, trong khi Kerry không bao giờ có thể đem mảng lý
tưởng ấy của ông đặt lên bàn để được thẩm tra nghiêm túc trong nội bộ hệ thống.
Thế mà, con ngáo ộp (boogeyman) Việt Nam vẫn lởn vởn trong các hành lang
quyền lực, nơi mà chính sách chiến tranh được nhào nặn, và các bài học của nó
dường như đã lỗi thời.
Vì
thế có những cựu chiến binh đồng đội với ông phản đối ông dữ dội. Tổ chức
“Swift Vets and POWs for Truth” (Cựu chiến binh và tù binh tàu cao tốc cho Sự
Thật) được Larry Bailey cùng với 527 thành viên Ủy Ban Hành Động Chính Tri
(PAC) thành lập ngày 24.5.2004. Ông làm chủ tịch, Jeff Epstein làm ủy viên giao
tế nhân sự và John Moore làm trang chủ Web.
Ngày
28.12.2012 tổ chức này tố cáo John Kerry nói láo:
Ngày 6.6.1971, John Kerry mô tả công tác của
các tàu Cao tốc (Swift boat) với tờ Washington Star như sau: “Chúng tôi thiết
lập sự hiện diện Mỹ trong nhiều trường hợp bằng cách giương cờ và bắn váo các
thuyền bè và làng mạc dọc bờ sông. Đó là những chỉ thị chúng tôi nhận được
nhưng chúng dường như trật đường rầy đến nỗi chúng tôi rồi cũng nhẩy lên bờ,
trái với lệnh chúng tôi nhận được, và điều tra các làng được coi là mục tiêu
của chúng tôi. Chúng tôi khám phá ra rằng chúng tôi làm thịt vô số dân vô tội
và trong số những sĩ quan trên những tàu cao tốc này tinh thần xuống đến
độ chúng tôi bị gọi về Sài Gòn để được tướng Abrams ra huấn thị đặc biệt. Ông
bảo chúng tôi đã làm đúng. Ông bảo những nỗ lực của chúng tôi sẽ giúp thắng
trận trong trường kỳ. Đó là lúc mà tôi ý thức được rằng tôi không có thể giữ im
lặng về những thực trạng của chiến tranh ở Việt Nam”. Điều mà John Kerry nói
với Washington Star là nói láo. Khác với khẳng định của Kerry, chính sách bất
di bất dịch của chúng tôi là hết sức thận trọng tránh gây tổn thất cho các
thường dân. Trong nhiều trường hợp, chúng tôi làm thế và chịu thêm tổn thất cho
chúng tôi. Chúng tôi đã phỏng vấn hàng trăm cựu chiến binh phục vụ trên các Tàu
Cao Tốc hay trợ chiến cho họ và chỉ giản dị là không có chứng minh nào cho
khẳng định của Kerry. Nhiều thành viên của tổ chức của chúng tôi trong cuộc họp
báo ngày 4.5 của Câu Lạc Bộ Báo Chí Quốc Gia ở Hoa Thịnh Đốn đã đính chính vấn
đề các việc tàn ác. John Kerry cũng diễn dịch hoàn toàn sai sự thật về buổi họp
với tướng Abrams và tướng Zumwalt. Khác hẳn hiệu triệu để khích động tinh thần
các sĩ quan bị giầy vò vì đã giết hại thường dân, mục đích của cuộc đàm luận
với hai sĩ quan Mỹ cao cấp nhất ở Việt Nam này là để loan báo một sứ mạng mới
cho Tàu Cao Tốc: đuổi Việt Cộng ra khỏi bán đảo Cà Mau. Mục tiêu của cuộc Hành
Quân Hải Vương (SeaLords) là thống trị các sông ngòi trong vùng này và lâm thời
thành lập sự hiện diện thường trực tại Sông Cửa Lớn, một nỗ lực về sau được
mệnh danh là Hành Quân Hải Đoàn (Operation SeaFloat). Việc này được làm công
khai với sự tham dự đầy đủ của Truyền Thông, để triệt tiêu khẳng định của Lê
Đức Thọ, nhà thương thuyết Bắc Việt rằng Henry Kissinger không thể hợp pháp đại
diện Nam Việt vì Hoa Kỳ không kiểm soát được vùng này. Chúng tôi thành công trong
sứ mạng. Chúng tôi quay về An Thới và đưổi Việt Cộng ra khỏi vùng và các đại
diện Bắc Việt và Việt Cộng ở Paris trở lại bàn hội nghị.
Sử gia Guenter Lewy viết trong cuốn “America
in Vietnam”, các điều nói láo của John Kerry về các hoạt động của các Tàu Cao
Tốc là một phần của mô hình lừa bịp rộng lớn hơn. Những tố cáo của Kerry [trước
Ủy ban Ngoại giao Thượng Viện ngày 22.4.1971 đã nói trên đây] dựa trên một hội
nghị của VVAW mệnh danh là “Điều tra Binh Sĩ Mùa Đông” (Winter Soldier
Investigation), một sự cố tuyên truyền được tài trợ chính bởi Jane Fonda. Không
một “chứng nhân” của Binh Sĩ Mùa Đông nào được Kerry liệt kê chịu ký các bản
đính hậu (affadavit). Ban Điều Tra Hải Quân khám phá ra rằng nhiều cựu chiến
binh được cho là đã tuyên bố trong Binh Sĩ Mùa Đông thực ra là những kẻ mạo
danh dùng tên của các cựu chiến binh thật… Bí thư điều hành [của VVAW] Al
Hubbard khai là Đại Úy Không Quân bị thương ở Việt Nam khi lái phi cơ vận tải.
Thực ra, Hubbard là một trung sĩ không phải là phi công và không bao giờ công
tác ở Việt Nam. John Kerry và VVAW cộng tác mật thiết vói các địch quân thời
chiến của Mỹ, đã tổ chức nhiều cuộc gặp gỡ với lãnh đạo Bắc Việt và Việt Cộng
và kiên trì ủng hộ các lập trường của họ. Kerry và các đồng chí cấp tiến cũng
đóng một vai trò then chốt trong việc định nghĩa hình ảnh xảo trá và tác hại
của các cựu chiến binh Việt Nam như là những người nghiện rượu và ma túy bị tật
nguyền về tâm lý, bị ám ảnh bởi các tội ác họ đã bị cưỡng bách vi phạm trong
một cuộc chiến “chủng tộc”. Tin tức chi tiết về các hoạt động phản chiến của
John Kerry và VVAW có thể tìm được tại WinterSoldier.com (”After the way John
Kerry treated Vietnam Veterans he doesn’t deserve to be Secretary of the Dog
Pound”).
Hoạt
động phản chiến và phản sự thật của John Kerry đem lại hậu quả thảm thương cho
các đồng đội của ông. Khi họ sống sót trở về từ chiến trường Việt Nam, đáng lẽ
phải được đồng bào họ vui mừng đón tiếp trọng thể như những anh hùng. Nhưng dân
Mỹ đã — được “anh hùng” mạo danh John Kerry nhồi sọ bằng những mặt trái thổi
phồng và xuyên tạc của chiến cuộc Việt Nam — có ác cảm và khinh miệt, đón họ
như những phạm nhân chiến tranh. Chính những quân nhân này, ngoài việc bị bạc
đãi oan uổng, còn bị mặc cảm tội lỗi dằn vặt đến nỗi từ 100 đến 150,000 người
tự tử (theo Andreï Smirnov. “La guerre du Vietnam: au pays des leçons mal
apprises” phát thanh trên đài La Voix de la Russie ngày 26.1.2013, hồi 17g21,
giờ Mạc Tư Khoa).
Robert Elder cùng phục vụ ở Việt Nam với John Kerry bảo, “Sự kiện là trong suốt Chiến tranh Việt Nam, chúng ta không thua
một trận chiến nào. Chúng ta thất trận ở nhà và ở nhà John Kerry là ‘field
general’ <**>. Về những phản kháng phản-dân chủ hồi đó của Kerry, tướng Võ Nguyên
Giáp, lãnh đạo quân sự Việt Nam lừng danh nhất, viết rằng nếu không có sự mất
đoàn kết do những người phản kháng như John Kerry và Jane Fonda tạo ra thì Hà
Nội đã sụp đổ và đầu hàng”.
ÂN NHÂN CỦA CỘNG SẢN VIỆT NAM
Công
ơn của John Kerry đối với CSVN to lớn đến thế, nên cũng chẳng có gì lạ khi
Jeffrey Epstein tiết lộ ảnh của John Kerry được CSVN trưng bày tại các viện bảo
tàng:
Ngày Cựu Chiến Binh 31.5.2004, Cựu Chiến Binh
Việt Nam cho Sự Thật tung ra một chuyện động trời về một tấm ảnh treo trong Bảo
Tàng Chứng Tích Chiến Tranh (War Remnants Museum), trước kia là Bảo Tàng Tội Ác
Chiến Tranh, của CSVN tại tp Hồ Chí Minh (Sài Gòn). Bức hình được trưng bày
trong một phòng dành cho các nhà hoạt động ngoại quốc đã đóng góp cho chiến
thắng của Cộng Sản trong Chiến tranh Việt Nam, cho thấy tns John Kerry được
đồng chí Đỗ Mười, tổng bí thư Đảng CSVN đón mừng… Tờ Far Eastern Economical
Review số ra ngày 11.2.1999 thu thập tài liệu về cuộc gặp gỡ của John Kerry với
Đỗ Mười khi ông thăm Hà Nội vào tháng 12.1998. Trong một diễn văn đọc trước
Thượng Viện ngày 29.4.1992, John Kerry trình bày chi tiết cuội hội kiến ông vừa
có với Đỗ Mười tại Việt Nam để thảo luận về số phận của các POW (tù binh) và
MIA (chiến binh mất tích trong chiến tranh) của Mỹ. Tấm hình chính thức được
luân chuyển rộng rãi trên Internet cho thấy John Kerry ngồi với Đỗ Mười với bức
tượng Hồ Chí Minh ở phía sau (”John Kerry being honored, by communists, for his
contribution to their victory over United States”).
Nhiếp ảnh gia William Lupetti cư ngụ tại Paramus, N.J. là
một lính quân y phục vụ cứu thương trên một chiếc Tàu Cao Tốc tại Việt Nam, đã
đến tận nơi, chụp quang cảnh Bảo Tàng Tội Ác Chiến Tranh Mỹ (đến giữa thập niên
1990 thì bỏ chữ Mỹ đi), nhất là phòng có hình John Kerry chụp với Đỗ Mười ngoài
cửa có biển đề “Thế giới ủng hộ Việt Nam kháng chiến”. Lupetti thuật lại, tuy
bây giờ đổi thành Bảo Tàng Chứng Tích Chiến Tranh, các đồ triển lãm đại khái
vẫn thế, gồm các chai đựng các thai nhi dị dạng cho là do hóa chất Da Cam và
hình ảnh các trẻ em đổ thừa là bị vũ khí Mỹ giết hại hay gây tàn phế. Ông bảo, “Họ chỉ kể chuyện một chiều“. Khi công tác tại Việt
Nam, ông thường tiêm cho trẻ em Việt Nam bị bệnh nhưng sau đó Việt Cộng về làng
chặt cụt tay đứa trẻ. Ông bảo, “Phải chi các bạn biết họ giết
bao nhiêu trẻ em“. Ông tham gia hai lần xuống đường của VVAW của
ông Kerry, 1 lần ở Brooklyn nhưng sớm bị vỡ mộng với các chính sách của
tổ chức, “Tôi rút lui thật nhanh. Những
người này không cố chấm dứt chiến tranh. Họ muốn cộng sản thắng“.
Một bảo tàng khác ở thủ đô Hà Nôi bày vài nút áo do tổ chức của ông Kerry sản
xuất ghi, “Tôi ủng hộ Cựu Chiến Binh Việt
Nam Chống Chiến Tranh“. Tờ nhãn cho biết các nút áo được tặng cho
người cộng sản vào thời ký Hòa Ước Paris năm 1973…
Một
trưng bày bóp méo thô thiển việc năm 2001, một cựu chiến binh Việt Nam, một
thời là đồng sự ở Thượng Viện với Kerry, nay là chủ tịch New School University
in Manhattan, ông Bob Kerrey, chấp nhận rằng đơn vị Người Nhái Hải Quân (Navy
Seal) của ông đã giết nhiều thường dân trong một cuộc chạm súng vào tháng
2.1969. Chứng vật của viện Bảo Tàng nói rằng Người Nhái cắt cổ một cặp người
già và đâm chết 3 trẻ em sau đó bắn chết 14 người nữa. Ông Kerrey được thưởng
huân chương Sao Đồng cho chiến dịch này. Ông thừa nhận có một số thường dân bị
vô tình hạ sát nhưng viện Bảo Tàng lại ngụ ý sai rằng ông Kerrey đã công nhận
giết thường dân trong một kịch bản không thể coi là ngẫu nhiên (theo Josh
Gerstein. “Kerry’s Photo Raises Eyebrows in Museum in Ho Chi Minh City”. The
New York Sun. 16.8.2004).
John Kerry đã có khuynh hướng thiên tả ngay từ khi còn là
sinh viên. Năm 1962, ông nhập học Đại Học Yale, môn chính là khoa học chính
trị, năm 1966 lấy bằng B.A. Tháng 3.1965, trong khi “chiến tranh Việt Nam” đang
leo thang, ông được giải Ten Eyck về tài hùng biện khi đọc bài diễn văn chỉ
trích chính sách ngoại giao Hoa Kỳ tại Đại Học Yale, trong đó ông bảo, “Chính cảnh tượng ma quái của đế quốc chủ nghĩa Tây phương gây ra
sợ hãi cho dân Phi Châu và Á Châu hơn là Cộng sản chủ nghĩa, và do đó, tự nó
đánh bại nó” (It is the specter of Western Imperialism that causes
more fear among Africans and Asians than communism, and thus it is
self-defeating).
Trên
tờ The Economist ngày 28.12.2012, tác giả M.S. giao công tác cho John Kerry:
Có một quốc gia nơi đó Mỹ có ảnh hưởng lớn,
nơi mà John Kerry đặc biệt có ảnh hưởng phi thường, và nơi mà sự can thiệp Mỹ
có thể có những tác dụng tích cực quan trọng về nhân quyền, ít nhất là cho một
số ít người. Đó là Việt Nam. Ông Kerry, cựu chiến binh Việt Nam được gắn huân
chương quay ra phản chiến, cực kỳ nổi tiếng ờ Việt Nam, được ca tụng khắp nơi
vì đã cùng John McCain đóng vai trò then chốt năm 1990 trong việc giàn xếp vấn
đề Tù binh và Chiến binh mất tích (POW-MIA), việc tái lập bang giao và mậu
dịch. Không những ông có những quan hệ trực tiếp tuyệt hảo với giới lãnh đạo
Cộng sản Việt Nam, cá nhân ông cũng nổi tiếng. Hình ảnh ông được dùng để tuyên
truyền trong cả chục viện bảo tàng Việt Nam, để tán tụng cái mà chính phủ biểu
dương như là sự hối cải của Mỹ về những chính sách sai lầm trong chiến tranh,
cùng với việc Việt Nam nổi lên như là một thành viên của cộng đồng quốc tế với
một tương quan thân hữu buồn nôn, nếu không phải là căng thẳng. Điều này đặt
ông Kerry vào vị trí tuyệt hảo để vận động cho những thay đổi nhỏ thôi nhưng có
ý nghĩa trong chính sách của Việt Nam, như việc trả tự do cho luật sư nhân
quyền Lê Quốc Quân mà Việt Nam mới bắt hôm Thứ Năm về tội trốn thuế. Hãy minh
bạch: Lê Quốc Quân không vào tù vì trốn thuế…Ông ở tù bây giờ vì Việt Nam đang
lên cơn hoạt động kỷ luật chống các người viết blog, rõ ràng liên hệ với thành
tích kinh tế lu mờ, các vụ tai tiếng tham nhũng và tranh chấp quyền lực trong
thế giới dây mơ rễ má của cổ cánh chủ nghĩa quốc doanh và sự bất mãn ngày càng
tăng của quần chúng. Việt Nam có vô số các nhà bất đồng chính kiến trong tù. Mỹ
sẽ không có thể bảo Việt Nam ngưng bắt bớ những nhà bất đồng chính kiến; Đảng
Cộng Sản không thích tự tử chính trị. Nhưng Việt Nam lệ thuộc vào các thị trường
xuất cảng Mỹ và vào hậu thuẫn quân sự và ngoại giao Mỹ trong cuộc tranh đấu
chống Tàu về chủ quyền biển đảo trên Biển Nam Hoa. Điều này cho phép Mỹ tỏ rõ
là Việt Nam sẽ trả một cái giá vừa phải, trong sự lúng túng và hỗ trợ suy giảm
nếu nó vượt quá những đường vạch không chính thức nào đó trong việc đàn áp các
nhà bất đồng chính kiến. John Kerry, vì những tư cách riêng, ở tư thế kẻ những
đường vạch ấy rộng hơn bất kỳ một ngoại trưởng nào khác, một vị ngoại trưởng
không được Việt Nam coi là một vai chính trong việc giảng hòa Việt-Mỹ. Ông nên
dùng tư thế ấy để cố kéo được Lê Quốc Quân và vài người bạn hoạt động dân chủ
ra khỏi nhà tù. Và tôi lạc quan là ông sẽ làm việc này (”The next secretary of
state Hey John Kerry, free Le Quoc Quan”).
John
Kerry thân thiện với CSVN không phải để cứu Lê Quốc Quân hay bất kỳ nhà tranh
đấu nhân quyền nào khác, mà vì mục đích chính trị. Có thể ông còn ghét những
người này vì họ “dám” chống đối CSVN mà ông có mối thân tình hỗ tương. Nay có
lẽ chính vì thân CSVN mà ông được TT Obama bổ nhiệm làm ngoại trưởng. Ông đã đi
đúng hành trình đã vạch ra.
NGOẠI TRƯỞNG LÝ TƯỞNG
Trong
bài “Tại sao Thượng Viện không nên thông qua việc bổ nhiệm John Kerry” (Why the
Senate Shouldn’t Give John Kerry a Pass) đăng ngày 14.1.2013 trên
Frontpagenag.com, Bruce Thornton phân tích ảnh hưởng của “hội chứng Việt Nam”
trên các quyết định chính trị của John Kerry:
Khi bổ nhiệm John Kerry làm ngoại trưởng và
Chuck Hagel làm bộ trưởng Quốc Phòng, Barack Obama đã nhấn mạnh việc phục vụ
chiến đấu tại Việt Nam của cả hai người. Làm thế Obama đã lập lại ngụy biện
thông thường rằng kinh nghiệm chiến đấu cần thiết cho một người để có đủ tư
cách quyết định khi nào, tại sao, và bằng cách nào chỉ đạo chiến tranh, những
quyết định mà hệ thống chính trị của chúng ta dành cho những công dân và các
đại diện của họ, bất kể họ là cựu chiến binh hay không. Thực ra, thường cũng
những kinh nghiệm ấy… có thể bóp méo sự thẩm định của một người về những mục
tiêu và mục đích rộng lớn hơn mà chiến tranh phục vụ, dẫn đến những chính sách
nguy hiểm… Một thí dụ tang thương có thể tìm thấy trong chính sách đối ngoại
tai hại của Anh Quốc sau Đệ Nhất Thế Chiến… làm cho Đức mạnh bạo dẫn đến Đệ Nhị
Thế Chiến. Việt Nam hay đóng vai trò tương tự trong chính sách đối ngoại Mỹ
suốt 40 năm qua, như trong việc Obama bổ nhiệm các bộ trưởng Quốc Phòng và
Ngoại Giao… Nhưng xét kỹ thành tích đối ngoại của Kerry sẽ thấy thị kiến bị
Việt Nam uốn nắm về quyền uy Mỹ bảo đảm rằng ông sẽ thi hành chương trình của
Obama thay đổi Mỹ từ vai trò lãnh đạo toàn cầu thành ra một “đồng tác ý thức
được các bất toàn của chính ông” như Obama khi là ứng viên đã viết trên Foreign
Affairs, một vai trò thoải mái hơn với “lãnh đạo từ đằng sau”.
Lịch sử Việt Nam bị chính trị hóa mà nhiều cựu
chiến binh đã hợp pháp hóa bằng những kinh nghiệm chiến trường bản thân thường
bóp méo chính sách ngoại giao Mỹ. Tường thuật rằng Mỹ đã “thua” trận vì nó là
sự can thiệp bất công, tân đế quốc vào một cuộc nội chiến trong đó chúng ta hậu
thuẫn phe tham nhũng, và một cuộc tranh chấp chỉ đạo sai được đánh dấu bởi sự
tàn ác và các đối xử hung bạo với thường dân, tạo ra một tâm lý “đừng bao giờ”
phảng phất trong nhiều chính trị gia Anh trong những thập niên 1920 và 1930.
“Bài học” Viêt Nam dạy rằng, vì hành xử chiến tranh bất công của chúng ta,
chúng ta nên tránh phiêu lưu chủ nghĩa như thế bằng cách nâng cây cản cao cho
việc can thiệp của Mỹ đến độ mà Hoa Kỳ sẽ không bao giờ đáp ứng bằng quân sự,
trừ khi quê hương bị tấn công trực tiếp. Thay vào đó, ngoại giao đa phương, các
trừng phạt không chết người, chú mục vào nhân quyền, và tin cậy vào LHQ và các
định chế đa quốc gia khác trở thành những phương tiện hợp pháp duy nhất để bảo
vệ an ninh quốc gia và theo đuổi các quyền lợi của chúng ta… Bài học Việt Nam
chân chính là một tranh chấp thắng trên chiến trường vẫn có thể bị giải-thắng
(un-win) bởi những chính trị gia vô dụng, bất tài (feckless). Điều này đưa
chúng ta về lại John Kerry. Ông đeo đuổi và công nhận những chính sách theo
“bài học” Việt Nam sai lầm ấy. Dĩ nhiên, Kerry khởi sự nổi tiếng trong sự
nghiệp chính trị bằng cách phỉ báng các bạn cựu chiến binh của ông trong cuộc
điều trần tháng 4.1971 trước Thượng Viện… Rồi Kerry tiếp tục tái chế “bài học”
Việt Nam thiên tả giả trá: “không có gì ở Nam Việt Nam, không có gì có thể xảy
ra thực tế đe dọa Hoa Kỳ. Và để cố tình thanh minh việc mất một mạng người Mỹ ở
Việt Nam, Cao Miên hay Lào bằng cách liên hệ sự mất mát ấy với việc bảo tồn tự
do — mà những người bất xứng ấy bị coi là đã lạm dụng — đối với chúng tôi là
giả đạo đức có tội cao độ”. Thay vì đẩy Cộng Sản xâm lăng ra để bảo vệ tự do,
việc tranh chấp là “nội chiến, một nỗ lực của dân chúng đã bao năm tìm giải
phóng khỏi bất cứ ảnh hưởng thực dân nào”. Rồi ông đặt Việt Nam vào một bối
cảnh rộng lớn hơn của quan điểm thiên tả của Chiến Tranh Lạnh đang được tái chế
trong loạt Showtime của Oliver Stones: “Hoa Kỳ vẫn phản ứng rất giống trạng
thái tinh thần 1945 và thời kỳ hậu-chiến tranh lạnh khi chúng ta phản ứng
những lực lượng hoạt động trong Đệ Nhị Thế Chiến và ra khỏi đó với hoang tưởng
về người Nga và các siêu cường chia nhau thế giới thế nào”. Do đó tại Việt Nam
“ngay bây giờ chúng ta đang phản ứng, với hoang tưởng, cái vấn đề về hòa bình
và dân chúng tiếp thu thế giới” và cái “gọi là nguyên khối Cộng Sản”.
Bị ảnh hưởng bởi tường thuật này, sự nghiệp
chính sách chính trị của Kerry tại Thượng viện sau đó phần lớn có đặc điểm là ở
phía trái của hầu hết các vấn đề… Cũng như tns Obama hồi đó, ông phản đối “sự
tăng vọt” năm 2007 ở Iraq, gọi nó là “một nhầm lẫn thảm khốc”… Cuối năm 2007,
ông bỏ phiếu cho một nghị quyết Thượng viện rút hết quân Hoa Kỳ nội 90 ngày. Ở
đây ông cũng đồng ý với tns Obama… Trong một bài trên báo Foreign Affairs cùng
năm ấy, ông gọi chiến tranh ở Iraq là “nội chiến” và là “bãi lầy” giống Việt
Nam. Về A Phú Hãn, tháng 6 vừa qua, Kerry gọi cuộc tranh chấp “không bền vững”
và thúc dục Obama rút quân nhanh, điều mà tổng thống vừa loan báo có ý định
làm. Kết quả là sự lập lại thất bại ở Việt Nam… Về các vấn đề khác, ác cảm dùng
quân lực và ưu tiên cho tiếp cận ngoại giao, các triệu chứng của “hội chứng
Việt Nam”, đã dẫn đến những lầm lỗi trong chính sách ngoại giao… Thành tích các
tuyên bố tiền hậu bất nhất (flip-flpping) của Kerry cho thấy có thể giải thích
phần lớn cách cư xử của ông bằng thời cơ chủ nghĩa chính trị. Nhưng thị kiến
chính sách chính trị của ông là một thị kiến phản ảnh cái gọi là “những bài
học” Viêt Nam được uốn nắn bởi cánh tả suốt 40 năm qua. Đó là một thị kiến nghi
ngờ tính nghiêm chỉnh của vị thế cường quốc trọng yếu toàn cầu của Mỹ, không
tin tưởng vào sức mạnh quân sự Mỹ, và dành ưu tiên cho ngoại giao đa quốc gia
và những liên minh đa quốc gia vô trách nhiệm trên ý chí của dân chúng Mỹ được
phát biểu qua những đại diện dân cử của họ. Tóm lại, với tư cách là chủ đạo
ngoại giao Mỹ, Kerry sẽ là một đầy tớ (servant) trung thành của chính sách
ngoại giao Mỹ rút lui và suy thoái của Obama.
Với
văn phong châm biếm, Matthew Vadum có những nhận định thiếu thiện cảm về John
Kerry:
Tns John F. Kerry (DC-Mass) hôm qua hứa sẽ
trung thực thi hành chính sách ngoại giao lộn xộn, phá hoại của TT Obama nếu
được chuẩn nhận làm ngoại trưởng Hoa Ký. Thuyết trình trước Quốc Hội, ông cam
kết sẽ hóa giải sự cường điệu (de-emphasize) vai trò quân sự mà cuộc tấn công
khủng bố 9/11 “chất đầy lên chúng ta”. Ông bảo “Chúng ta không thể có một nền
ngoại giao được quy định bởi quân đội hoặc máy bay không người lái hoặc đối
đầu”. Ông nói với các đồng viện rằng đã đến lúc làm nổi bật các chương trình
Hoa Kỳ ở ngoại quốc nhắm vào việc giúp người nghèo, tăng cường nhân quyền và
đánh bại bệnh tật, “Chúng ta không thể để cho việc thiện phi thường mà chúng ta
làm để cứu vớt và thay đổi các cuộc sống bị hoàn toàn che lấp”… Người trí thức
(Brahmin) Boston được yêu thích của Cánh Tả, cái con người trì độn, có vẻ không
có đam mê, nói nước đôi, chẳng có thành tích lập pháp quan trọng nào, bây giờ
hầu như chắc chắn sẽ thành người đứng đầu ngoại giao (The Left’s favorite
Boston Brahmin, this dull, seemingly passionless, double-talking man, bereft of
important legislative accomplishments, now appears virtually certain to become
the nation’s next top diplomat)… Kerry cam kết làm theo yêu cầu của hành pháp
về ngoại quốc tóm lại là nguyện ước sẽ xuất cảng cũng cái thứ lộn xộn và bất ổn
trên toàn cầu mà Obama đã gây ra trong nước – không phải là tổng thống cần sự
giúp đỡ sau khi biến Ai Cập, cho đến khác gần đây vốn là đồng minh Ả Rập chân
thành nhất của Mỹ, thành một kẻ thù Hồi giáo trong một thời gian tương đối
ngắn. Các người tả khuynh như Kerry thường ít quan tâm đến việc
bảo vệ nước Mỹ, họ thích chuyển ngân
sách quốc phòng của quốc gia cho các chương trình phúc lợi xã hội. Cánh tả muốn
gửi binh lính của chúng ta ra nước ngoài như là những cán bộ xã hội có võ trang
mang gói bảo dưỡng thay vì là những chiến sĩ bảo vệ quyền tự do và lợi ích của
Mỹ. Ai đã xem Kerry, cứng ngắc và như người máy trong vai trò ứng cử viên tổng
thống… biết rằng ông rất thích hợp để điều hành cái buồng vang vọng tự do-quốc
tế chủ nghĩa (liberal-internationalist echo chamber) chính là Bộ Ngoại Giao…
Rand Paul (CH-Ky.) chỉ trích TT Obama “đơn phuơng đem chúng ta vào chiến tranh
ở Libya mà không được phép của lập pháp”. Ông ghi nhận, Barack Obama lúc ấy là
ứng cử viên tổng thống bảo ông phản đối những tổng thống tham chiến không được
phép quốc hội, nói thêm rằng Kerry đã tố cáo việc Hoa Kỳ can thiệp vào Cao Miên
trong thập niên 1970 cũng vì nguyên nhân ấy. Paul bảo, “Hiến pháp không thực sự
cho ai cái thứ trọn quyền lúc tham chiến lúc không”. [Kerry đáp] “Tôi nghĩ rằng
Barack Obama rất minh bạch, đó thực sự là điều tôi thích nơi ông. Những ngươi,
ồ, Rand Paul, chắc chắn không ưa bất cứ cái gì về Barack Obama. Tôi thực thích
cách nói thẳng của ông khi ông tranh cử và bảo “không tổng thống nào được đơn
phương tham chiến, Hiến Pháp không cho phép làm thế”. Người Mỹ có thể được tha
thứ nếu họ quên rằng Kerry là ứng viên tổng thống thất bại của Đảng Dân Chủ với
hậu thuẫn tài chánh hùng hậu của những tỷ phú cấp tiến như George Soros và
Peter B. Lewis, suýt hất cẳng TT George W. Bush năm 2004. Kerry giầu kếch sù có
thể không đáng nhớ nhưng chắc chắn là ông kiên trì. Là tay tả phái căn bản mê
limousine (the ultimate pampered limousine leftist), suốt quãng đời trưởng
thành, Kerry đã ở phía sai trái mỗi lần có tranh luận về chính sách ngoại giao
quan trọng. Điều này khiến ông thích hợp cho nội các của TT Obama… Có lẽ không
có ai đủ tư cách hơn Kerry để phất cờ trắng trước các kẻ địch của Mỹ. Dù sao
thì vị thượng nghị sĩ lão thành từ Massachusetts, lâu đời hơn Obama đến hai
thập niên, cũng đã làm việc cực nhọc trong các chiến hào của phản-Mỹ chủ nghĩa nổi
loạn suốt sự nghiệp của ông (”Kerry as Obama’s Overseas Enforcer”.
Frontpagemag.com. January 25, 2013. – http://frontpagemag.com/2013/matthew-vadum/kerry-as-obamas-overseas-enforcer/).
John
Kerry có thể tâm đầu ý hợp với tổng thống hơn là Hillary Clinton để thi hành
một chính sách đối ngoại mới của Obama.
Miến
Điện cũng có thể coi là thành tích sáng giá nhất trong nhiệm kỳ đầu của TT
Obama. Nếu ngoại trưởng John Kerry cũng giúp Việt Nam “lột xác” như ngoại
trưởng Hillary Clinton đã giúp Miến Điện, do đó khép chặt vòng đai bao vây Tàu,
thì đấy có thể là một thành tích đáng kể hơn nữa cho nhiệm kỳ hai của TT Obama.
Không ai có thể thích hợp hơn John Kerry để làm việc này vì mối thâm tình của
ông với CSVN. Phải chăng đấy là một trong những lý do mà TT Obama đã chọn ông
làm ngoại trưởng và được Quốc Hội sẵn sàng chuẩn nhận?
Giả
thuyết này có vẻ đứng vững với việc bổ nhiệm một cựu chiến binh Việt Nam khác,
thượng sĩ Charles Timothy “Chuck” Hagel, làm bộ trưởng Quốc Phòng. Hai bộ quan
trọng nhất trong nội các đều trong tay các cựu chiến binh Việt Nam cũng là điều
đáng chú ý.
Chú
thích:
<*> Đoạn 3, tu chính 14 Hiến Pháp Hoa Kỳ, có hiệu lực
từ ngày 9.7.1868, quy định: “No person shall be a Senator or Representative in
Congress, or elector of President and Vice President, or hold any office, civil
or military, under the United States, or under any state, who, having
previously taken an oath, as a member of Congress, or as an officer of the
United States, or as a member of any state legislature, or as an executive or
judicial officer of any state, to support the Constitution of the United
States, shall have engaged in insurrection or rebellion against the same, or
given aid or comfort to the enemies thereof. But Congress may by a vote of
two-thirds of each House, remove such disability”.
<**>
Không có tiếng Việt nào để dịch từ ngữ Field General. Đó là một trò chơi tốc
chiến tốc thắng hên xui và có chiến thuật để quyết định người chơi là ông tướng
4 sao hay chỉ là lính tốt đen đeo đầy huy chương. Robert Elder dùng từ ngữ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét