"Sinh Viên" Nguyễn Hữu Thái, một đồng phạm ám sát Giáo Sư Nguyễn Văn Bông |
Tác giả bài viết là người giới thiệu lời đầu hàng của Đại
tướng Dương Văn Minh Tổng thống cuối cùng Việt Nam Cộng Hòa tại đài phát thanh
Sài Gòn vào trưa ngày 30/4/1975. Anh nguyên là Chủ tịch Tổng hội
Sinh viên Sài Gòn (1963-64) từng có nhiều dịp tiếp xúc với tướng Minh
và cũng là một nhân chứng trong ngày giải phóng miền Nam, thống nhất
đất nước.
Bản thân tôi đã từng gặp gỡ tướng Dương Văn Minh vào nhiều thời
điểm và tình huống lịch sử khác nhau trong những năm 50-70 của thế kỷ trước. Thời
học sinh năm 1955, lần đầu tôi nhìn thấy ông như người hùng diệt Bình Xuyên.
Năm 1963 làm Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Sài Gòn, tôi có dịp tiếp cận nhiều lần
với Trung tướng Dương Văn Minh, Chủ tịch “Hội đồng Quân nhân Cách mạng” lật đổ
chế độ Ngô Đình Diệm. Năm 1971 tôi ra tranh cử Quốc hội Việt Nam Cộng hòa
(VNCH) dưới chiêu bài hòa bình hòa giải dân tộc trong nhóm Dương Văn Minh. Vào
ngày lịch sử 30/4/1975, chính tôi là người giới thiệu lời đầu hàng của Đại
tướng Dương Văn Minh, Tổng thống cuối cùng của chế độ VNCH trên đài phát thanh
Sài Gòn.
Người "hùng" lật đổ chế độ độc tài Ngô Đình Diệm 1963
Lần đầu tiên nhìn thấy tướng Dương Văn Minh rất trẻ ở tuổi chưa
tới 40 là vào năm 1955 khi tôi còn là một học sinh trường Taberd Sài Gòn. Vị Đại
tá mới vinh thăng Thiếu tướng Dương Văn Minh oai phong dẫn đầu đoàn quân chiến
thắng quân Bình Xuyên của Bảy Viễn từ Rừng Sát quay về, trong cuộc duyệt binh lớn
trên đường Catinat (nay là Đồng Khởi) vào những ngày đầu chế độ Ngô Đình Diệm ở
miền Nam.
Bẳng đi một thời gian không nghe nhắc đến tên ông. Tên tuổi
Dương Văn Minh bỗng lại nổi lên như cồn vào năm 1963 khi ông lãnh đạo “Hội đồng
Quân nhân Cách mạng” lật đổ chế độ độc tài Ngô Đình Diệm. Báo chí phương Tây
thường gọi ông là “Big Minh” (Minh Lớn). Tuy vóc dáng dềnh dàng rất nhà binh,
ông là một Phật tử có tâm, ăn nói điềm đạm, ôn tồn và chất phát kiểu một “bon
papa” (người cha hiền lành dễ chịu).
Ông sinh năm 1916 tại Mỹ Tho, đang là sinh viên trường thuốc,
thì bị gọi thi hành nghĩa vụ quân sự vào hàng sĩ quan trừ bị quân đội Pháp khi
nổ ra Thế chiến II. Có lẽ ông không đồng chính kiến với người em đi theo Việt
Minh chống Pháp vì quan niệm rằng Việt Nam có thể được trao trả độc lập nằm
trong khối Liên hiệp Pháp. Vào năm 1954, Thủ tướng Ngô Đình Diệm sử dụng ông để
diệt các nhóm chống đối vũ trang Bình Xuyên và giáo phái ly khai ở miền Tây Nam
Bộ.
E ngại ảnh hưởng của ông quá lớn, Ngô Đình Diệm không dám giao
ông chức vụ gì quan trọng, chỉ cử ông sang Mỹ học một khóa tham mưu cao cấp rồi
phong quân hàm trung tướng, giữ một chức vụ hữu danh vô thực “Cố vấn quân sự của
Tổng thống”, ngồi chơi xơi nước!
Tướng Dương Văn Minh ngày lật đổ Tổng Thống Ngô Đình Diệm, 1963 |
Tôi được tập thể sinh viên Sài Gòn đề cử làm chủ tịch đầu tiên
ngay sau ngày chế độ Ngô Đình Diệm sụp đổ. Chính Hội đồng Quân nhân Cách mạng lúc
đó đã ký giấy giao tòa nhà số 4 đường Duy Tân (nay là Nhà Văn hóa Thanh niên đường
Phạm Ngọc Thạch), nguyên là trụ sở Thanh niên Cộng hòa của Ngô Đình Nhu cho
sinh viên làm nơi hoạt động và tôi là người đích thân đứng ra nhận lãnh.
Tuy vậy, trong nội bộ tướng lãnh lại sớm lục đục nhau. Chỉ ba
tháng sau ngày lật đổ Ngô Đình Diệm, vào đầu năm 1964, Trung tướng Nguyễn Khánh
từ Quân đoàn II ở Tây Nguyên bay về hợp cùng nhóm Đại Việt thân Mỹ làm cuộc “Chỉnh
lý” (đảo chính êm thắm) bắt giữ hầu hết những người chung quanh tướng Minh. Họ
tố cáo nhóm ông thân Pháp và âm mưu đưa miền Nam Việt Nam vào con đường trung lập
do Tổng thống De Gaulle chủ xướng, tuy họ vẫn phải giữ ông lại ngôi vị bù nhìn
Chủ tịch Hội đồng Quân nhân (tương đương vai trò Quốc trưởng) do uy tín ông còn
quá lớn trong nhân dân và quân đội
Tết năm đó, tôi đại diện sinh viên Sài Gòn dự buổi tiếp tân Tất
niên tại dinh Gia Long của Quốc trưởng. Trung tướng Minh chỉ làm vì, quyền hành
thực sự nằm trong tay tướng Nguyễn Khánh và nhóm tướng lãnh trẻ, người Mỹ gọi
là “Junta”.
Cuộc đảo chính của tướng Khánh mới xảy ra, nên cuộc vui cũng
không trọn. Các tướng lãnh, chính khách, đại diện các đoàn thể nhân dân, tôn giáo
đều có mặt. Lần đầu tiên tôi gặp mặt hầu hết các tướng lãnh VNCH. Tôi chỉ góp
chuyện xã giao với tướng Minh và các nhân vật đang lên vào lúc đó là các tướng
Nguyễn Văn Thiệu và Trần Thiện Khiêm.
Tôi còn nhớ Nguyễn Văn Thiệu mới được vinh thăng thiếu tướng và
đảm trách chức vụ tham mưu trưởng Quân lực VNCH, được tướng Minh nhắc nhở, nửa
đùa nửa thật: “Hãy coi chừng! Việt Cộng hoạt động dữ lắm trong mấy ngày Tết!” Cuộc
họp mặt cuối năm diễn ra khá hình thức và buồn tẻ. Tôi đứng chụp hình
chung với một số tướng lãnh và Tổng giám mục Công giáo Nguyễn Văn Bình rồi rời
dinh Gia Long, trong lòng không vui.
Do công tác, sinh viên chúng tôi lại có dịp hội kiến Quốc trưởng
Dương Văn Minh. Nhân phút nhàn đàm về viễn tượng chiến tranh và hòa bình, tướng
Minh tâm tình: “...Bộ các em không muốn nước Việt Nam mình trung lập như Thụy
Sĩ hay sao?” Có lẽ do những ý hướng hòa bình, trung lập kiểu đó mà tướng Minh từ
năm 1964 đã sớm bị nhóm tướng Nguyễn Khánh cùng người Mỹ chủ trương leo thang
chiến tranh đẩy ra khỏi chính trường miền Nam và bị lưu đày nhiều năm ở nước
ngoài.
Vào thời đó, tôi không biết đích xác sự việc bên trong ra sao,
chỉ nghe tin đồn là Dương Văn Nhựt, người em ruột tướng Minh theo Việt Minh tập
kết ra Bắc nay quay vào Nam bắt liên lạc và tác động tướng Minh ngả về chủ
trương trung lập hóa miền Nam để chấm dứt chiến tranh.
Con đường hòa giải dân tộc Phật giáo
Sau vụ chính biến Phật giáo Miền Trung đấu tranh chống “Nội các
chiến tranh” Nguyễn Cao Kỳ năm 1966, tôi bị bắt. Ra tù đầu năm 1968, tôi bị đưa
thẳng vào quân trường đi lính. Nhờ được công tác tại Sài Gòn, tôi quan hệ với
nhiều anh em tiến bộ tán thành lập trường hòa bình, hòa giải dân tộc trong số
dân biểu đối lập chính quyền Nguyễn Văn Thiệu và nhóm trí thức tiến bộ tập hợp
chung quanh tướng Minh vừa từ Bangkok quay về cuối năm 1968. Chúng tôi chủ yếu
hoạt động trong tờ báo Tin Sáng do dân biểu đối lập Ngô Công Đức chủ biên.
Năm 1971, VNCH tổ chức bầu cử Quốc hội và tiếp theo là bầu cử Tổng
thống. Người của Mặt trận Dân tộc Giải phóng đề nghị tôi ra tranh cử với lập
trường hòa bình đứng giữa, chuẩn bị cho “Thành phần thứ ba”. Hội nghị Paris về
vấn đề Việt Nam tuy chưa ngả ngũ nhưng người ta đang bàn luận đến việc lập
chính phủ ba thành phần, trong đó có thành phần đứng giữa làm trung gian hòa giải
trong chính phủ liên hiệp tương lai. Thật khó khăn nếu tự ra ứng cử đơn thương
độc mã một mình. Tên tuổi của tôi tuy cũng có một thời được nhiều người biết đến,
nhưng nay chắc không ai còn nhớ đến trong cái Sài Gòn rộng lớn và bận rộn làm
ăn này. Dẫu có tự do bỏ phiếu thì tranh cử kiểu không tiền bạc, không thế lực
nào hậu thuẩn như tôi chỉ là chuyện vô ích.
Phải tìm hậu thuẩn nơi khối đông đảo quần chúng đô thị, lúc này
không ai khác hơn là lực lượng Phật giáo, nhất là ở miền Trung. Tôi bàn bạc với
người Mặt trận Giải phóng sẽ về Đà Nẵng quê tôi để tranh cử. Bấy giờ tôi có thuận
lợi là vừa được sự ủng hộ của nhóm tướng Dương Văn Minh, người sẽ ra tranh cử Tổng
thống với chiêu bài hòa bình lẫn sự hỗ trợ của Thượng tọa Thích Trí Quang. Nhà
lãnh đạo Phật giáo uy tín nhất miền Nam lúc đó đang bị Thiệu-Kỳ cô lập ở Sài
Gòn đã đích thân gửi thư yêu cầu vị sư đại diện tỉnh hội Phật giáo Đà Nẵng là
Thích Minh Chiếu sắp tên tôi vào danh sách những người được Phật giáo ủng hộ công
khai. Nhưng việc đó không thành, do lủng củng bên trong nội bộ lãnh đạo giáo hội.
Phe chống Cộng như các Thương tọa Thiện Minh, Huyền Quang không chấp nhận tôi,
nghi ngờ là người của Giải phóng, nên tôi đã thất cử. Tướng Minh vào giờ chót
cũng rút lui ra khỏi cuộc tranh cử Tổng thống và chuẩn bị lực lượng cho một vận
hội mới vào một thời điểm thích hợp hơn.
Tôi ngày càng gắn bó hơn với nhóm trí thức trẻ hoạt động chung
quanh tướng Minh, đặc biệt với các dân biểu đối lập và tiến bộ như Ngô Công Đức,
Hồ Ngọc Nhuận, Dương Văn Ba, Lý Quí Chung, Phan Xuân Huy, Nguyễn Văn Binh… Tôi
trở thành một trong các cây bút chủ lực báo Điện Tín do nhóm Dương Văn Minh chủ
trương, sau khi tờ Tin Sáng quyết liệt chống Nguyễn Văn Thiệu bị đóng cửa và
nhiều dân biểu chủ trương hòa hợp hòa giải bị loại ra khỏi Quốc hội.
Thay người khác mà vác cờ trắng
Tôi lại bị chính quyền Sài Gòn bắt giam trước ngày ký kết Hiệp định
Paris về hòa bình Việt Nam vào cuối năm 1972 do bị tố cáo là thuộc Thành phần
thứ ba thân Cộng. Khi ra tù năm 1974, tình hình đã biến chuyển nhanh theo hướng
chấm dứt chiến tranh. Chính quyền Sài Gòn ráo riết đàn áp đối lập và những ai
kêu gọi hòa bình hòa giải dân tộc. Tôi phải trốn tránh, rút lui vào hoạt động
bí mật.
Về tình hình trong tháng tư năm 1975 liên quan đến việc tướng
Minh ra nhận chính quyền VNCH, sau này tôi đọc được trong tập hồi ức của Thượng
tọa Trí Quang ghi rằng: “...Ấy thế mọi việc diễn ra có lúc đến chóng mặt. Cho đến
mùa xuân 2519 (1975) thì một ngày mà có người ba lần đến vận động tôi đừng chống
việc ông Dương Văn Minh đứng ra, “vì chính quyền của ông ấy sẽ có bảy
phần mười là người tiến bộ ”. Tôi không nói lại gì cả, chỉ quan tâm lời thầy
Trí Thủ nói, rằng chim cá còn mua mà phóng sinh, lẽ nào đồng bào mà không hy
sinh cấp cứu. Rồi ông Dương Văn Minh gặp tôi, đưa ra hai mảnh giấy báo cáo mật
cho thấy ngân hàng trống rỗng và quân sự nguy ngập, và nói ông không vụ lợi vì
lợi không còn gì, không cầu danh vì danh đến quốc trưởng là cùng, ông chỉ không
nỡ ngồi nhìn chết chóc. Tôi nói, nếu lòng ông như thế là ông làm như lời thầy
Trí Thủ nói, và có nghĩa ông thay người khác mà vác cờ trắng !“
Tôi đang trốn tránh trong nhà dân biểu Lý Quí Chung do Thượng tọa
Trí Quang gửi gắm và biết anh là một trong những người thân cận nhất của tướng
Dương Văn Minh vào thời điểm đó. Tôi chú ý thấy tướng Minh thường ghé nhà anh
bàn bạc. Sau này, anh nói rằng sự thật thì từ giữa tháng 4/1975, nhóm Dương Văn
Minh đã quyết tâm ra nắm chính quyền với mục tiêu tìm mọi cách chấm dứt cuộc
chiến, nếu cần phải cầm cờ trắng đầu hàng. Anh cho rằng: “quyết định làm người
cầm cờ đầu hàng cũng là một sứ mạng lịch sử”! Cụ thể là đã có đến ba phần tư những
người trí thức hoạt động chính trị chung quanh tướng Minh đã quan hệ với Mặt trận
Giải phóng hoặc là cán bộ Cách mạng rồi. Đó là những người như thẩm phán Triệu
Quốc Mạnh, bộ trưởng Nguyễn Văn Diệp, chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, dân biểu Hồ
Ngọc Nhuận, giáo sư Lý Chánh Trung,... Tướng Dương Văn Minh dẫu sao cũng đại diện
cho một phần nhân dân miền Nam và là vị tướng lãnh có uy tín cuối cùng không bỏ
chạy khỏi miền Nam Việt Nam vào lúc đó.
Bản thân Lý Quí Chung không trực tiếp quan hệ với cách mạng,
nhưng anh có những bạn bè gần gũi như các nhà báo Huỳnh Bá Thành (họa sĩ Ớt,
sau này là Tổng biên tập báo Công An TP.HCM), Nguyễn Vạn Hồng (Cung Văn),
Trương Lộc… mà anh biết là người của Mặt trận Giải phóng.
Tuy vậy, sự việc cụ thể diển biến không mấy bình thường như Lý
Quí Chung suy nghĩ và viết ra trong hồi ký của mình. Đã thật sự xuất hiện không
ít âm mưu kéo dài tình trạng nhập nhằng với sức ép đàng sau của cả bạn lẫn thù
của phe cách mạng. Không ít người trong nhóm Dương Văn Minh đã tìm nhiều cách,
vận động nhiều hướng, nhiều phía để tìm kiếm sự ủng hộ nước ngoài. Cho đến giờ
chót, họ vẫn ấp ủ hy vọng chính quyền Dương Văn Minh tồn tại lâu dài và được
công nhận như một chính phủ hoặc một thành phần quan trọng trong “Chính phủ
Liên hiệp” mà họ tự nghĩ ra !
Tướng Dương Văn Minh và Lý Quí Chung |
Chúng tôi ở đây chờ gặp Chính phủ Cách mạng…
Sáng tinh mơ ngày 30/4, từ cơ sở chuẩn bị nổi dậy của sinh viên ở
Đại học Vạn Hạnh (gần chợ Trương Minh Giảng), tôi bàn với Nguyễn Trực người
thân cận với Thượng tọa Trí Quang rồi chạy vội lên chùa Ấn Quang (đường Sư Vạn
Hạnh) gặp vị sư lãnh đạo Phật giáo có ảnh hưởng lớn trên nhóm Dương Văn Minh
này. Lâu nay tôi vẫn giữ mối quan hệ tốt đẹp với ông, tuy ông biết rõ tôi đến từ
phía nào rồi. Tôi báo ngay: “Tình hình cấp bách quá rồi, xin Thầy làm sao tác động
gấp nhóm ông Minh chủ động tìm cách chấm dứt ngay cuộc chiến để tránh đổ máu và
tàn phá Sài Gòn. Các đường giây liên lạc với bên kia nay đã đứt hết rồi, không
còn thì giờ đưa giải pháp này nọ nữa đâu…”
Thượng tọa Trí Quang hiểu ngay và choàng áo sang phòng bên gọi
điện thoại. Tôi nghe vị Thượng tọa nói chuyện qua lại một hồi, rồi quay về cho
biết:
-Thái cứ yên tâm, Thầy không gặp được ông Minh (Tổng thống mới
nhậm chức), nhưng đã nói chuyện với ông Mẫu (Vũ Văn Mẫu, Thủ tướng nội các mới),
có lẽ họ cũng nhanh chóng hành động theo hướng đó…
Tôi quay về Đại học Vạn Hạnh và khoảng hơn 9 giờ (giờ Sài Gòn thời
đó, sớm hơn nay một giờ), thì nghe tướng Dương Văn Minh tuyên bố trên đài phát
thanh Sài Gòn: “Đường lối chủ trương của chúng tôi là hòa giải và hòa hợp
dân tộc để cứu sinh mạng đồng bào. Tôi tin tưởng sâu xa vào sự hòa giải của người
Việt Nam để khỏi thiệt hại xương máu của người Việt Nam. Vì lẽ đó, tôi yêu cầu
tất cả anh em chiến sĩ Việt Nam Cộng hòa hãy bình tĩnh, không nổ súng và ở đâu ở
đó. Chúng tôi cũng yêu cầu anh em chiến sĩ Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng
hòa Miền Nam Việt Nam ngưng nổ súng. Chúng tôi ở đây chờ gặp Chính phủ Cách mạng
Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam để cùng nhau thảo luận lễ bàn giao chính
quyền trong một trật tự, tránh đổ máu vô ích của đồng bào”.
(Theo băng ghi âm Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh nay còn cất giữ).
Sinh viên chúng tôi bèn chia làm 2 mũi lên đường hướng về các
đài phát thanh và truyền hình nhắm chiếm đài, phát đi tiếng nói Cách mạng. Một
nhóm anh em sinh viên có trang bị vũ khí nhẹ lên xe ca đến đại học Nông lâm
súc, áp sát chuẩn bị xâm nhập vào các đài. Tôi cùng nhà báo Nguyễn Vạn Hồng và
giáo sư Huỳnh Văn Tòng (tiến sĩ sử học tiến bộ ở Pháp về, giảng dạy báo chí ở
các đại học) vào dinh Độc Lập nhắm thuyết phục những người quen biết trong
chính quyền tướng Minh bàn giao chính quyền VNCH cho phía Mặt trận Dân tộc Giải
phóng một cách êm thắm nhất.
Khoảng 10 giờ, chúng tôi lên chiếc xe Renault 8 màu xanh của Hồng.
Nhà báo có giấy phép đặc biệt vào ra Phủ Tổng thống nên chắc không có gì trở ngại.
Nhưng khi xe chạy vào cửa hông đường Nguyễn Du, thấy vắng tanh nên tiến thẳng
luôn vào thềm dinh. Tôi vội vàng đi tìm Lý Quí Chung, lúc đó là Tổng trưởng
Thông tin duy nhất được chỉ định chính thức trong Nội các mới. Chung đồng ý ra
đài phát thanh ngay với chúng tôi trên một công xa, nhưng không một tài xế nào
chịu lái đi vì sợ bị bắn.
Chúng tôi đang loay hoay thì bỗng mọi người cùng hướng nhìn về đại
lộ Thống Nhất (Lê Duẩn ngày nay). Một cảnh tượng hùng tráng diễn ra: một đoàn
xe tăng rầm rộ tiến về hướng dinh. Bổng chốc cổng dinh bị húc đổ, đoàn tăng cày
lên thảm cỏ, tiến thẳng đến thềm dinh. Tôi và anh Huỳnh Văn Tòng giúp người bộ
đội xe tăng cầm cờ Giải phóng cắm lên nóc Dinh.
Phải ra ngay đài phát thanh, tôi tháp tùng xe của Chính ủy
Bùi Văn Tùng cùng các nhà báo Tây Đức Von Boric Gallasch và Hà Huy Đĩnh đưa Tổng
thống Dương Văn Minh, Thủ tướng Vũ Văn Mẫu và Tổng trưởng Thông tin Lý Quí
Chung ra đài phát thanh.
Xin giới thiệu lời kêu gọi của ông Dương Văn Minh về vấn đề
đầu hàng
Anh em sinh viên đã cùng bộ đội chiếm giữ đài rồi nhưng
không vận hành được cũng như không biết phát đi nội dung gì. Chúng tôi tìm được
anh Trần Văn Bảng kỹ thuật viên phát thanh vận hành lại đài, còn nhà báo Đức
thì cho mượn chiếc cát xết thu lời đầu hàng của tướng Minh và lời chấp nhận đầu
hàng của chính ủy Bùi văn Tùng, do chính ông Tùng soạn thảo.
Tướng Minh nhìn thấy tôi trong đám người này có vẻ cũng
yên lòng. Trông ông mệt mõi và không mấy vui. Thân hình ông vẫn to lớn nhưng mặt
ông hơi hốc hác. Dẫu sao ông cũng đã hy sinh danh dự của một tướng lãnh (dù là
một tướng bại trận) để thực sự cứu thành phố này khỏi cảnh tàn phá và đổ nát.
Sau này tôi mới biết là ông và bộ tham mưu từ mấy ngày qua đã quyết định đầu
hàng dẫu có bị đối xử không tương xứng của phía đối nghịch. Đó cũng là một hành
động can đảm và đáng ca ngợi của một Phật tử vào cuối đời. Có lẽ ông chưa bao
giờ thành công trong hoạt động chính trị. Ông chỉ là nhân vật cần thiết của
tình thế nhưng không nắm được quyền lâu dài. Vào năm 1963, không ai ngoài ông
trong số tướng lãnh đủ uy tín đứng ra lãnh đạo cuộc đảo chính lật đổ Tổng thống
Ngô Đình Diệm. Lần này, có lẽ chính quyền VNCH cũng không còn con bài nào khác
để chấm dứt cuộc chiến một cách êm thắm. Ít ra ông còn giữ được nguyên vẹn Sài
Gòn và phần còn lại của miền Nam tránh khỏi đổ nát và đổ máu thêm một cách vô
ích trong cuộc thư hùng cuối cùng giữa những người anh em ruột thịt.
Tôi nhìn sang Giáo sư Vũ Văn Mẫu, ông có vẻ bình thản trong bộ
complê màu xanh nhạt luôn chỉnh tề của một nhà giáo đại học. Khi còn học ở khoa
Luật, tôi rất thích lối giảng các bài pháp chế sử, mạch lạc, hùng biện và cả
hóm hỉnh của ông. Tuy xuất thân trong gia đình quan lại miền Bắc và di cư vào
Nam năm 1954, khi nổ ra vụ tranh đấu Phật giáo năm 1963, đang giữ chức vụ Bộ
trưởng Ngoại giao VNCH ông can đảm từ nhiệm và cạo trọc đầu phản kháng Ngô Đình
Diệm đàn áp Phật giáo. Nay ra lãnh chức vụ Thủ tướng tôi nghĩ ông không có ước
mong gì khác hơn là đem lại hòa bình, hòa hợp hòa giải thật sự cho dân tộc.
Về nội dung bản tuyên bố đầu hàng, tôi nhìn thấy giữa tướng Minh
và chính ủy Tùng có lời qua tiếng lại. Hình như tướng Minh không muốn nêu chữ
“Tổng thống” mà dùng tiếng “Đại tướng” quen thuộc hơn. Ông Tùng cương quyết
không chịu vì cho rằng dẫu sao thì tướng Minh cũng đã làm Tổng thống cuối cùng
của chính quyền Sài Gòn, nay phải tuyên bố với tư cách đó mới ra lệnh được cho
cả bên dân sự lẫn quân sự. Thu băng thử đi thử lại mấy lần mới xong. Lời phát
biểu của Thủ tướng Mẫu thì ông được nói trực tiếp.
Loay hoay đến gần hai giờ chiều (giờ Sài Gòn lúc đó, sớm hơn hiện
nay một giờ) chúng tôi mới phát đi được tiếng nói cách mạng đầu tiên trên đài
phát thanh Sài Gòn. Nguyên văn tiếng nói mở đầu của tôi:
“Chúng tôi là những người đại diện cho Ủy ban nhân dân cách mạng
Sài Gòn-Chợ Lớn-Gia Định. Chúng tôi là những người đầu tiên tới dinh Độc Lập
trước 12 giờ và đã cùng anh em quân đội giải phóng cắm cờ trên dinh Độc Lập.
Chúng tôi là giáo sư Huỳnh Văn Tòng và cựu chủ tịch Tổng hội sinh viên Sài Gòn
Nguyễn Hữu Thái… Đời sống bình thường đã trở lại Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí
Minh, thành phố mà Bác Hồ đã mong đợi, nay đã được giải phóng… Xin giới thiệu lời
kêu gọi của ông Dương Văn Minh và Vũ Văn Mẫu của chính quyền Sài Gòn về vấn đề
đầu hàng ở thành phố này…”
Tướng Dương Văn Minh chuẩn bị tuyên bố đầu hàng tại đài phát thanh Sài Gòn trưa ngày 30/4/1975,
tác giả thứ 2 (cầm tập giấy) kể từ phải
Đại tướng Dương Văn Minh đọc lời đầu hàng theo bản văn do Chính ủy
Bùi Văn Tùng soạn thảo:
“Tôi, Đại tướng Dương Văn Minh, Tổng thống chính quyền Sài Gòn,
kêu gọi Quân lực Việt Nam Cộng hòa hạ vũ khí đầu hàng không điều kiện quân Giải
phóng Miền Nam Việt Nam. Tôi tuyên bố chính quyền Sài Gòn từ trung ương đến địa
phương phải giải tán hoàn toàn. Từ trung ương đến địa phương trao lại cho Chính
phủ Cách mạng Lâm thời Miền Nam Việt Nam”
Giáo sư Vũ Văn Mẫu phát biểu trực tiếp:
“Trong tinh thần hòa giải và hòa hợp dân tộc, tôi, Giáo sư Vũ
Văn Mẫu, Thủ tướng, kêu gọi tất cả các tầng lớp đồng bào hãy vui vẻ chào mừng
ngày hòa bình của dân tộc, và trở lại sinh hoạt bình thường. Chuyên viên của
các cơ quan hành chính quay trở về vị trí cũ dưới sự hướng dẫn của chính quyền
cách mạng”.
Tiếp đó là lời Chính ủy Bùi Văn Tùng:
“Chúng tôi đại diện lực lượng quân Giải phóng miền Nam Việt Nam
long trọng tuyên bố Thành phố Sài Gòn đã được giải phóng hoàn toàn, chấp nhận sự
đầu hàng không điều kiện của ông Dương Văn Minh, Tổng thống chính quyền Sài
Gòn”
Và tôi tiếp tục dẫn chương trình: “…Quân Giải phóng đã tiến vào
dinh Độc Lập và đã làm chủ hoàn toàn các điểm chốt quân sự cũng như dân sự của
vùng Sài Gòn-Chợ Lớn-Gia Định…”
(Các lời tuyên bố trên đài phát thanh đều còn giữ lại được trong
một băng ghi âm do Tiến sĩ sử học Nguyễn Nhã thu trong chiều 30/4/75)
Sau đó, bộ đội đưa đoàn tướng Minh về lại Dinh Độc Lập. Tôi đích
thân đứng ra điều hành buổi phát thanh cho đến 4 giờ chiều thì giao lại cho
nhóm anh em sinh viên đại học Khoa học Sài Gòn, do tôi phải lên trường Petrus
Ký (nay là trường Lê Hồng Phong) nơi đóng quân của ban chỉ huy chiến dịch giải
phóng Sài Gòn gặp ông Mai Chí Thọ. Sinh viên chỉ giao lại đài phát thanh cho ban
phát thanh Giải phóng vào tối hôm đó.
Tôi đã góp phần tránh một cuộc đổ máu vô ích cuối cùng cho Sài
Gòn
Những người thân cận tướng Dương Văn Minh ở Dinh Độc Lập nhớ lại
mấy sự kiện này. Vào sáng sớm có một đơn vị thiết giáp đến vây quanh dinh, viên
chỉ huy đề nghị tướng Minh tử thủ. Ông từ chối và thuyết phục họ rút đi. Ông
cũng làm như vậy với nhóm biệt kích Lôi Hổ đằng đằng sát khí. Cuối cùng, một số
sĩ quan cao cấp hải quân đến mời tướng Minh xuống tàu chạy đi, ông cũng từ chối.
Lát sau viên tướng Pháp đội lốt ký giả Francois Vanuxem hối hả vào xin gặp tướng
Minh và nói với họ: “Hãy rút về Cần Thơ, cố thủ Vùng 4 chiến thuật, chỉ vài
ngày nữa thôi thì Trung Quốc sẽ áp đặt giải pháp trung lập hóa Miền Nam”. Tướng
Minh than: “Hết Tây đến Mỹ, chẳng lẽ bây giờ còn đi làm tay sai cho Tàu nữa
sao !”
Việc Tổng thống VNCH Dương Văn Minh đầu hàng ở cái “nút” ấy, một
người trong cương vị ông Minh có thể có nhiều quyết định. Nếu quyết định khác
đi, sẽ là máu đổ, sẽ là nồi da xáo thịt, cốt nhục tương tàn. Sài Gòn sẽ tan
tành... Lúc đó có nhiều người nói ông Dương Văn Minh yêu nước thương dân nhưng
cũng có người hoài nghi cho rằng ông Minh đã ngầm theo Cách mạng? Sau những Phạm
Ngọc Thảo, Vũ Ngọc Nhạ, Phạm Xuân Ẩn cùng nhiều nhà tình báo vĩ đại khác, suy
nghĩ trên không phải không có cơ sở.
Tướng Dương Văn Minh nguyên là một sinh viên miền Nam ra học trường
thuốc ở Hà Nội cùng thời với kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát, một trong các lãnh đạo
Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam. Khác chính kiến với người em trai tham
gia phong trào Việt Minh, ông đã trở thành sĩ quan trong quân đội Pháp và nghĩ
rằng Việt Nam có thể độc lập trong khối Liên hiệp Pháp. Phải chăng do sai lầm
đó mà nay tại Dinh Độc Lập ông đã quyết tâm quên mình chấp nhận sự đầu hàng vô
điều kiện để cứu người thôi đổ máu theo tinh thần của một Phật tử.
Trong buổi lễ, Chủ tịch Ủy ban Quân quản tướng Trần Văn Trà đã
phát biểu: “Trong cuộc chiến đấu lâu dài này không có ai là kẻ thắng ai là kẻ bại.
Toàn quân và toàn dân Việt Nam là người chiến thắng, chỉ có đế quốc Mỹ xâm lược
là kẻ chiến bại. Nhân dân Việt Nam là dân tộc duy nhất trong lịch sử nhân loại
đã đánh bại quân Mông Cổ. Vào năm 1954, chúng ta đã đánh bại Pháp ở Điện Biên
Phủ, và nay chúng ta đã đánh bại Hoa Kỳ, nước tự hào cho mình là hùng mạnh nhất
thế giới. Đây là niềm hãnh diện chung của tất cả nhân dân Việt Nam chúng
ta”.
Tướng Dương Văn Minh đã trả lời thật chân tình: “Ngày hôm
nay, đại diện cho các anh em có mặt tại đây, tôi nhiệt liệt hoan nghênh sự
thành công của Chính phủ cách mạng trong công cuộc vãn hồi hòa bình cho đất nước.
Với kỷ nguyên mới này, tôi mong rằng tất cả anh em có mặt tại đây, cũng như các
tầng lớp đồng bào, sẽ có dịp đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng đất nước...
Tôi nghĩ rằng với hành động của mình, tôi đã góp phần tránh một cuộc đổ máu vô
ích cuối cùng cho Sài Gòn. Đó là phần đóng góp cụ thể của tôi trong cuộc chiến
đấu này.Riêng cá nhân tôi, hôm nay tôi rất hân hoan khi được 60 tuổi, trở thành
một công dân của một nước Việt Nam độc lập”.
(Theo băng ghi âm buổi trả tự do cho nhóm Dương Văn Minh tối
ngày 2/5/1975 tại Dinh Độc Lập)
Ba mươi ba năm đã trôi qua sau sự kiện lịch sử giải phóng miền
Nam và thống nhất đất nước, tôi ghi lại những gì chính bản thân mình đã tai
nghe mắt thấy về nhân vật Dương Văn Minh, mong cung cấp một số tư liệu sống về
diễn biến các hoạt động của một vị tướng VNCH nổi tiếng và từng gây nhiều tranh
cải nhất liên quan đến ngày 30/4/1975.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét