BÀI
II, Liên Thành
Liên Thành trả lởi một số thắc mắc trong bài về TCS
Đã có một số đọc giả góp ý cũng như thắc mắc sau loạt bài về
TCS, vì thế tôi xin chính thức phúc đáp như sau:
Bài giải trình của tôi, với tư cách là một cựu trưởng ty CSQG Thừa
Thiên Huế, nói về một ổ CS nằm vùng lớn nhất, nguy hiểm nhất, gây tác hại
nhất cho Miền Nam, trong đó có đề cập nhiều về Trịnh Công Sơn và những hoạt động
nằm vùng của mạng lưới này, được viết theo lối vừa kể chuyện, vừa mang
tính “phúc trình của cảnh sát”, thật tình không ngờ lại gây ra nhiều câu hỏi
tùm lum như thế!
Tôi không phải là cây viết chuyên nghiệp, một gã “vừa cò vừa
lính” kể chuyện, nghĩ sao viết vậy, chỉ muốn kể lại một sự thật. Cho
nên, thiếu sót và không rõ ràng là chuyện tất nhiên. Đã có vài câu hỏi hoặc ý
kiến mang tính mĩa mai xách mé, cố phủ nhận vấn đề. Nhưng cũng có rất nhiều
câu hỏi đứng đắn rất đáng trân trọng. Quả tình khi viết, tôi đã không nghĩ ra
được điều là tôi đang viết lại một câu chuyện tình báo cho công luận, chứ không
phải là đang làm phúc trình cho một cơ quan tình báo của chính phủ. Vì bài viết
khá ngắn gọn cho một câu chuyện dài dòng, nên đã gây ra những thắc mắc chính đáng,
và cũng tạo cơ hội cho những ai thích bắt bẽ kiếm cớ. Điều chính yếu là,
đây là những dữ kiện thật, có liên quan đến một giai đoạn lịch sử đầy biến động,
mà tôi lại là người nằm sâu trong cuộc, ngay trong cái nôi đã đẻ ra nó, nên bổn
phận của tôi là phải mở nó ra, để những người viết sử có thêm dữ kiện và rút ra
bài học cho hậu thế. Để làm vấn đề được hiểu một cách đơn giản và dễ dàng,
trong bài này, chúng tôi sẽ cố gắng đề cập sơ về một vài nguyên tắc sơ đẳng
trong tình báo của mọi phía, cộng sản cũng như quốc gia dân chủ, nhằm hy vọng
là những bài viết sau, tôi sẽ không bị lập lại những chất vấn cũ, hoặc giả những
ý kiến hay câu hỏi mang tính xách mé chợ búa, làm tốn thì giờ người đọc. Và điều
quan trọng nhất là, những nguyên tắc này có thể hữu ích cho những ai đang và sẽ
tham gia các công việc nhằm dân chủ hóa đất nước, rút ra những nguyên tắc cơ bản
trong hoạt động, tránh bớt những sơ xẩy vô vàn đáng tiếc. Bên cạnh đó là nội
gián nội thù, một vấn đề muôn thuở của tình báo, mà đã làm hủy hoại đi những
tài năng của đất nước, như chuyện vừa mới xãy ra cho Luật sư trẻ Lê Công Định.
Đáng lý việc TCS phải đưa ra ánh sáng sớm hơn, thời điểm nầy đưa
ra là quá chậm.
Tự cổ chí kim cái gì thuộc về Tình báo, tức thuộc về bí mật,
thuộc về im lặng. Những ngừoi làm nghề nầy họ thường sống để bụng, chết mang
theo không bao giờ hở môi tiết lộ một điều gì cả. Tại sao? An ninh quốc gia. An
ninh cho bản thân. An ninh cho đồng đội. An ninh cho những kẻ cộng tác với
mình. Luật pháp quốc gia đã quy định, và có rất nhiều trường hợp đến ba hoặc bốn
nưoi năm sau chính phủ mới giải mật một số hồ sơ hoặc cá nhân nào đó.
Sau 1975 Việt nam Cộng Hòa không còn nữa, tuy nhiên
vì an toàn cho đồng đội và những tình báo viên, mật báo viên còn kẹt
lại trong vùng địch kiễm sóat nên không thể tiết lộ. Đó là đạo đức tối thiểu phải
có của một ngừời rất bình thường như tôi.
Tại sao không dám viết khi TCS còn sống? Liên Thành muốn nỗi tiếng?
Cá nhân tôi khi viết về những gì tôi biết về TCS vì những lý do
sau đây:
Tôi không muốn mang tiếng “tiếng bất nghĩa, hoặc vì lười, hoặc
vì sợ mà không nói ra sự thật. Và cũng không muốn để những ai đã thương, ghét,
TCS ở trong tình trạng mù mờ về mọi phương diện của cuộc đời TCS, trong khoảng
thời gian mà quốc gia, và đặc biệt là xứ Huế, trãi qua nhiều khổ nạn, xuất
phát từ Đảng Cộng Sản VN, từ những kẻ buôn thần bán thánh, đội lốt tu hành như
Trí Quang, Đôn Hậu.
Viết về TCS để mọi người cùng nhìn thật rõ TCS là ai? quốc gia?
Cộng Sản, nhân cách thật, con người thật, và cũng để làm rõ hơn những nhận xét
của bằng hữu đối với TCS, nhất là nhận xét của Trịnh Cung, Đặng văn Âu, và vài
người bạn của TCS nữa, rôi quý vị tự chọn cho mình một thái độ.
Có người cho là tôi muốn bôi nhọTCS để nỗi tiếng.
Có cần bôi nhọ thêm TCS nữa hay không? Vì tỵ hiềm, vì ganh nghét
TCS? Thành thật mà nói, quan hệ cá nhân giữa tôi và TCS, nếu không đề cập tới
lý tưởng và quan điểm chính trị, tôi và TCS không hề có oán thù cá nhân. Tôi
cũng đã từng giúp TCS và gia đình TCS bằng cách lờ đi một số việc mà khó nói ra
để gia đình TCS sinh sống. Ngoài ra, tôi còn là bạn của Trịnh Công Hà, chúng
tôi là bạn võ sinh, thường xuyên tập Judo chung với nhau.
Tôi cũng không có thói quen ganh ghét, tỵ hiềm bất cứ ai, nhất
là thuộc cấp của mình.
Còn nói bám vào TCS để nỗi tiếng.
Xin hỏi, bám vào TCS để nỗi cái “tiếng”gì? Tôi xuất thân là cháu
đích tôn đời thứ 7 của Gia Long Hoàng Đế, dòng Đông Cung Thái Tử Cảnh, cháu nội
Kỳ Ngoại Hầu Cường Để. Bà nội tôi là cháu ngoại vua Thiệu Trị, chị của Đệ Nhất
Tăng Thống Thích Tịnh Khiết. Nhân cách và lòng yêu nước của tiền nhân tôi không
đủ cho tôi “nhờ vả” hay sao, mà phải nhờ vào nhạc sĩ nằm vùng TCS để nỗi tiếng?
Tôi nói vậy thì thế nào cũng có điều tiếng rằng tôi là gã khoe
khoang. Không sao cả, còn hơn là bị sĩ nhục ăn theo tên nhạc sĩ mất tư
cách Trịnh Công Sơn. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc sĩ nhục truyền thống gia
đình tôi. TCS là thiên tài của ai cũng mặc kệ, nhưng nhất định không phải là
thiên tài của tôi. Vả lại, nếu không biết thì thôi, còn đã biết rõ TCS như
thế, liệu ai có can đảm để đứng gần TCS không? nói chi đến “nỗi tiếng”? Ngoài
ra, có một kiểu nỗi tiếng nữa, mà tôi cùng rất nhiều bạn đồng ngũ đã nỗi tiếng,
đó là “nỗi tiếng bỏ chạy” trước đồng đội. Cái nỗi tiếng này đã quá đủ để suy ngẩm
đến cuối đời rồi, có cái nỗi tiếng nào mà có thể xóa được cái nỗi tiếng này
không? cần thêm nữa không?
Những bắt bẻ sao đợi đến bây giờ mới nói ra? Dám nói ra
khi TCS còn sống không? Đợi TCS chết, rồi muốn nói sao thì nói? Rõ ràng
là muốn ăn theo, muốn nỗi tiếng qua bài viết có tính cách nhục mạ một “thần
tuợng, thiên tài”!
Thật tình mà nói, cho dù là không có kiến thức tình báo, nhưng
những điều trong cuộc sống hàng ngày cũng đủ cho mọi người hiểu một cách sơ đẳng
là, giả sử tôi công bố điều này lúc TCS còn sống, thì hậu quả gì sẽ xãy ra cho
đương sự và những người có liên quan đã cung cấp những tin tức về TCS cho tôi
mà vẫn còn ở lại VN? Quý vị không tin tôi, nhưng Công An CSVN sẽ tin, và cơ
quan tình báo nước ngoài tin tôi. Lý do chất vấn thì chỉ là một tiểu tiết nông
cạn, rồi cho là toàn bộ dữ kiện tôi đưa ra là không đúng, thì quả là chỉ muốn
kiếm cớ phủ lấp mà thôi. Và cũng kiểu lý luận sờ voi như thế, thì lịch sử kiểu
này chỉ là lịch sử của người sống? Người chết kể như xù?
Lý do mà tôi không thể công bố vấn đề TCS hoạt động 3 mang, khi
đương sự còn sống, thì tôi đã nói ở trên, xin được nhắc lại một lần nữa. Thật
ra, bất cứ ai là dân tình báo như tôi, đều hiểu ngay là tại sao như thế, mà
không cần một lời giải thích nào. Tình báo có luật của tình báo. Nó căn cứ trên
lương tâm, đạo đức và trách nhiệm đối với những người khác có liên quan, đã
cung cấp thông tin cho CSQG vẫn còn ở lại VN. Ai có thể bảo đảm rằng TCS ko bị
bắt nếu như tôi công bố rằng TCS đã từng hoạt động 2 mang cho tôi và tình báo
ngoại quốc? mà hậu quả kéo theo những người khác nữa? Không gì có thể đặt trên
tính mạng và an nguy của họ được. Câu chuyện mà chánh văn phòng cựu phó TT Mỹ
Dick Cheney, Lewis “Scooter” Libby tiết lộ danh tính một điệp viên CIA, bà
Valerie Plame, mặc dù đã được cho là” “degrade” đã gây rất nhiều sóng gió, hẳn
quý vị còn nhớ? Tiện đây, Liên Thành tôi có đôi lời “tâm sự lòng thòng” dưới
đây, để trả lời cho những kẽ cho là TCS quá nỗi tiếng, quá thiên tài, nên tôi
muốn ăn theo
Tôi rời đất nước ngày 30/4/75, bước vào tuổi 33. Với cái tuổi
này, biết bao nhiêu thanh niên trong nước, bao nhiêu quân nhân còn ở lại, lặng
lẽ đi vào “chiến khu” với một tương lai đầy nguy hiểm và vô định : không
lương tháng, không vũ khí quân trang quân dụng? không lương thực, đói khát!
Không còn chính phủ, không còn tổ chức, nhưng họ vẫn liều mạng với một tương
lai vô định. Vì sao vậy? Họ mơ uớc điều gì? Hoài vọng điều gì? Họ chiến đấu cho
ai? Kết quả là những cái chết âm thầm nơi rừng thiêng nước độc, hay những bản
án tử hình, những năm tháng tù đày suốt cả đời người! Vì sao những anh
hùng vô danh này làm như vậy? Phải chăng là vì họ không thể nào chấp nhận được
một thực tế là Miền Nam đã rơi vào tay CS? Đó là một niềm đau, một niềm
uất nghẹn không thể chịu đựng được?
Chúng tôi, mỗi người chọn một con đường, con đường tôi đi là con
đường hèn, nhưng niềm đau thì giống như nhau như đúc. Đau không thể chịu đựng
được, đau vô bờ!
Tôi sang Mỹ, chôn chặt tất cả trong lòng, khóa kín nó lại, không
dám nghĩ tới chuyện 30/4. Vẫn mơ mơ tỉnh tỉnh. Thật hay mộng đây? Những đêm mơ
cố quận, đến khi tỉnh giấc, thật hãi hùng! Tôi lao vào mưu sinh, và cố gắng cho
xong 4 năm đại học, để vừa như là một liều thuốc lãng quên ,vừa là có cái nghề
nuôi bầy trẻ. Vừa làm 2, 3 job, vừa đi học. Nhọc nhằn tất bật để không có thời
gian cho quá khứ hành hạ. Chuyện cũ vẫn cố đào cho sâu mà chôn nó đi theo ngày
tháng. Nhưng nặng nề quá! khó quá! Qua tuổi lục tuần, về hưu, la cà bè bạn. Ngồi
kể chuyện cũ với dăm ba thằng bạn lính, tụi nó há hốc mồm. Không ngờ chuyện tồi
tệ đến vậy. Có thằng hỏi tôi, mày dám viết không? Dĩ nhiên là viết, chuyện thật
có gì không dám? Chuyện láo mới không dám ! Vả lại ,nhân chứng sống vẫn còn
đây. Trên 5000 nhân viên Ty CSQG cùng chia bùi xẽ ngọt với tôi,một số còn kẹt lại
VN, một số lưu lạc khắp nơi, nhưng ít ra cũng còn khoảng 3000 rãi rác đầy thế
giới.
Lý do cuốn sách Biến Động Miền Trung ra đời là như thế. Càng viết,
tôi càng thấy nhẹ người. Cuốn sách với tôi thật sự là một giải thoát!
Vấn đề Mậu Thân 1968
Tháng 5 năm 1967, HCM chủ tọa phiên họp của Bộ
CT trung ương đảng CS Việt Nam để duyệt xét tình hình và kế hoạch
cho chiến dịch đông xuân 1967-1968. Kế tiếp, từ ngày 20 đến ngày 24/10/1967, tại
phiên họp của bộ chính trị, thay mặt Quân ủy trung ương, Tướng Văn Tiến Dũng
trình bày dự thảo chiến dịch Đông-Xuân -Hè 1967-1968. Bộ CT quyết định
mở cuộc tổng CK, tổng nỗi dậy vào đúng Tết Mậu Thân 1968.
Như vậy cuộc TCKT nỗi dậy đã được bọn chúng quyết định vào tháng
10/1967, để đánh lừa và tạo bất ngờ, HCM tráo trở đề nghị hưu chiến 7 ngày
trong dip tết Mậu Thân, nhưng chính phủ VNCH chỉ đồng ý 3 ngày mà thôi.
Những hoat động của VC được cơ quan tình báo CSQG Thừa
Thiên Huế ghi nhận trước cuộc Tởng Công Kích, Tổng nỗi dậy tai Thừa Thiên Huế:
1- Tình báo Kỷ thuật.
Khoảng từ ngày 10 tháng 12 /1967, gần 20 ngày trước cuộc tấn
công, cơ quan tình báo dân sự đồng minh đã có một lọat không ảnh chụp được
tại những vùng núi phía tây thành phố Huế: Như thượng nguồn sông Bồ, Khe Trái,
động Chuối, sông Hữu Trạch, phát giác một số lượng đông đảo các lực lượng quân
sự của VC đang tập trung tại các vùng trên. Tin tức tình báo kỹ thuật cũng nghi
nhận một số điện đài quân sự địch đang họat động liên tục tại vùng nầy.
Tôi đã được cơ quan tình báo dân sự đồng minh thông báo đầy đủ.
Đồng thời họ cũng đã yêu cẩu tôi xử dụng lực lượng tình báo cơ Hữu CSĐB để phốii
kiễm và xác nhận thêm các tin tức trên.
2- Mười toán tình báo của 10 quận thuộc tỉnh Thừa thiên từ
phía bắc là quận Phong Điền, xuống tận phía nam là quận Phú Lộc, đều báo cáo về
BCH tỉnh những tin tức tương tự giống nhau: Dân chúng trong những
vùng C,D,F ( lượng giá tình hình an ninh) đều được cơ sở VC địa
phương thông báo: Mọi gia đình trong vùng đều phải mua trữ lương thực, dự
trử thuốc men, chuẩn bị cho một cuộc đánh lớn sắp xãy ra.
3- Một số cán bộ cộng sản từ cấp huyện trở lên cũng đã được
lệnh rời khỏi địa bàn hoạt động lên mật khu hội họp.
Tại thành phố Huế có 8 chi bộ đảng cộng sản và 80 cơ sở đảng bí
mật có những họat động khác thường, bon chúng tiếp xúc với nhau thường xuyên
hơn. Tại các trạm giao liên nội thành có rất nhiều kẻ lạ xuất hiện.
4- Nhiều cơ sở quan trọng nội thành được điều lên mật khu hội
họp do Khu Ủy Trị Thiên tổ chức. Bọn họ rời thành phố lên Mật khu họp vào đầu
tháng 12/1967 và trở về lại thành phố Huế vào khoảng 20 tháng 12/1967.
Đương nhiên, trong số những cơ sở lên họp tại mật khu có cơ
sở nội tuyến của chúng tôi. Vì vậy, khi họ trở về chúng tôi nhận được báo
cáo của họ như sau:
Khóa học tập này có khoảng 300 cán bộ và 130 cơ sở nồng cốt nội
thành. Nội dung học tập là phương thức phát động quần chúng nỗi dậy tại nông
thôn và đô thị. Nhiệm vụ của họ là sau khi trở về địa bàn họat động là thành lập
các đội công tác làm nòng cốt phát động quần chúng tổng nỗi dậy khởi nghĩa.
Cũng cần nói rõ thêm trong số những cơ sở nội thành được điều
lên mật khu có cả Giáo sư Lê văn Hảo, và một số sinh viên đại học Huế, bọn
chúng là cơ sở nội thành VC.
Điểm chính và rất quan trọng là chúng tôi phát hiện hầu hết
các thành phần thân cận tranh đấu của Thích Trí Quang vào năm 1966 đào thoát
lên mật khu, nay trong những ngày cận Tết đã đột nhập trở lại, trú ngụ tại các
căn cứ lõm của bọn chúng trong thành phố Huế. Căn cứ vào những sự việc vừa nêu
trên, cộng thêm một số dữ kiện khác, chúng tôi, cơ quan tình báo CSQG của
BCH/CSQG Thừa Thiên-Huế và cơ quan tình báo dân sự Hoa kỳ sau khị nhận định
lượng giá đều đi đến một kết luận chung là.
Việt Cộng sẽ tấn công Huế trong những ngày Tết Mậu Thân 1968.
Câu hỏi được đặt ra, tại sao tin tức tình báo của các cơ
quan tình báo VNCH và đồng minh đầy đủ như vậy mà thảm họa vẫn xãy ra cho
Huế. VC tấn công và chiếm giữ Huế 26 ngày kể từ 2 giờ 33 phút sáng, rạng ngày 2
Tết Mậu Thân 1968, tàn sát 5327 thuờng dân vô tội và bắt dẫn đi mất tích 1200
ngừời?
Có những điều sau đây để có thể lý giải một phần nào:
- Bản chất người quốc gia quá thiệt thà lương thiện, bị HCM
và đảng Cộng Sản phỉnh gạt, hưu chiến 3 ngày. Chính quyền Miền Nam cũng
như đồng bào Miền Nam đã không thể tưởng tượng nỗi rằng, cộng sản lại
chọn ngày tết để chém giết đồng bào, vì dù sao chúng cũng là con người. Ai có
thể ngờ những giờ phút thiêng liêng đầu năm của toàn dân tộc, dành để cúng giỗ
ông bà, nhớ ơn tiền nhân, mà chúng lại nỡ đang tâm làm chuyện sát hại sinh linh
vô tội. Chính quyền Miền Nam lúc ấy vẫn còn nghĩ là bọn CS không đến
độ man rợ mất hết lương tri như thế. Cho nên, Miền Nam đã bỏ ngỏ tết
Mậu Thân. Lợi dụng sự lương thiện của Miền Nam, chúng đã phát động chiến
tranh và tàn sát đồng bào cùng màu da tiếng nói. Chúng dùng mọi thủ đoạn, nhất
là khủng bố bằng máu để thắng hôm nay, nhưng muôn vạn đời sau, mỗi độ tết
về, lịch sử lại nhắc rằng, bọn Cộng Sản Việt Nam đã lường gạt để cuồng sát đồng
bào ngày tết Mậu Thân .
- Các cấp chỉ huy Quân sự vô trách nhiệm, hoàn toàn không
có kế hoạch phòng thủ cho Huế.
- Quân số và lực luợng không đủ để phòng thủ khi bị địch tấn
công, vì đã cho quân nhân, cảnh sát xã trại năm mưoi phần trăm nghỉ Tết
Và quan trọng nhất là tin tức tình báo từ lực lượng
CSĐB/BCH/CSQG Thừa Thiên-Huế, một phúc trình rất đầy đủ, đích thân tôi đưa lên
cho trưởng ty, đã bị ém nhẹm. Lý do: trưởng ty CSQG Đoàn công Lập lại là nội
tuyến nằm vùng, hoạt động cho Hoàng Kim Loan. ĐCL lập luận là loan tin đi chỉ sẽ
làm kinh động dân chúng, chắc gì có thật. Trong thời gian làm phó ty, cá nhân
tôi thấy Đoàn Công Lập có những hành tung và cách xử sự rất đáng ngờ. Sau đó cơ
quan Tình Báo Dân Sự Hoa Kỳ có cho tôi hay là họ đang theo dõi Đoàn Công Lập,
đương sự có những hoạt động nội tuyến. Từ đó tôi theo dõi hắn rất sát. Và hình
như hắn cũng biết là tôi đang nghi ngờ hắn. Chúng tôi và cơ quan tình báo dân sự
Hoa Kỳ đang phối hợp theo dõi để lấy thêm bằng cớ phúc trình lên trung
ương, thì lại xãy ra biến cố Mậu Thân. Đêm 30 tết chính Đoàn Công Lập đã
mưu sát tôi bằng cách ra lệnh cho tôi vào dẫn một đơn vị CSDC đến quận Nam Hòa
vì ĐCL cho có một toán du kích sẽ đến đó. Bụng đã nghi ngờ Đoàn Công Lập, cho
nên tôi rất cẩn thận. Khi tôi và 6 anh em nữa đến đó, thì không phải là một tiểu
đội mà là một tiểu đoàn địch đang di chuyển. Nếu chúng tôi không nín thở nằm
im, thì giờ này tôi và 6 anh em CSQG đã xương tàn cốt rục. Khi tôi trở về báo
cho ông ta biết là không phải một toán mà là một tiểu đoàn, ông ta không
phản ứng gì, chỉ hỏi “Sao anh không nổ súng?” Tôi trả lời “ Nếu hồi đêm tôi nổ
súng thì giờ này đâu gặp ông trưởng ty được nữa”.
Vì tình hình quá sức khẩn cấp nghiêm trọng, tôi, theo nguyên tắc
không được vượt quyền Đoàn Công Lập, đã vượt rào gặp Tỉnh Trưởng Thừa Thiên lúc
đó là Trung Tá Phan Văn Khoa…để cố thuyết phục ông ta nên có kế hoạch chống
đỡ tối thiểu, còn nước còn tát. Nhưng ông ta, không chú ý gì đến bản phúc trình
của thằng trung úy quèn tôi cả, chỉ ừ hử qua chuyện. Kết quả:
Rạng sáng ngày mùng hai tết Mậu Thân, lúc 2 giờ 33 phút sáng là
giờ khởi đầu của 624 giờ địa ngục. Năm giờ 30 sáng, lờ mờ bóng quân đội nhân
dân giải phóng trong thành phố. Sáu giờ sáng, quốc kỳ VNCH không còn trên kỳ
đài Phú Văn Lâu, thay vào đó là cờ của lực lượng Liên minh Dân tộc, Dân chủ,
Hòa Bình do ông Lê văn Hảo làm chủ tịch, ông Thích Đôn Hậu làm phó chủ tịch, gồm
2 mảnh màu xanh nhạt, ở giữa là màu đỏ sao vàng, không phải là cờ của MTGPMN. Bảy
giờ sáng, Việt Cộng bắn xối xả vào đoàn dân chúng hốt hoảng chạy nạn. Thây người
ngã gục, máu đào tuôn rơi. Dân chúng chạy trốn vào nhà thờ Phủ Cam, nhà thờ
Dòng Chúa Cứu Thế, trường trung học Gia Hội ,trường tiểu học Kiểu Mẫu, trường
trung học, Thiên Hựu, chùa Diệu Đế, chùa Vàng, số còn lại trốn tại nhà. Dân quận
I thì chạy về Cầu Kho , Mang Cá, nơi có BTL sư đoàn I để tìm sự bảo vệ. Suốt 2
tuần từ mùng hai tết, trời u ám , mây xám đặc phủ cả thành phố. Huế trong cơn
mưa lạnh giá buốt và trong nỗi sợ hãi rúng động kinh hoàng. Trong khi lực lượng
quân sự cộng sản tấn công những vị trí quan trọng trong thành phố, thì bộ phận
an ninh chính trị của quân khu Trị thiên và tỉnh ủy, thị ủy Thừa Thiên Huế bắt
đầu cuộc tắm máu tàn sát dân lành.
Mùng 3 tết, Lê Chưởng, chính ủy mặt trận Huế, bắt đầu thi hành
nghị quyết ngày 21/1/1968 của trung ương đảng, chỉ thị cho Trung Uơng cục Miền
Nam, khu ủy khu 5, khu ủy Trị Thiên, Phạm Hùng, Võ Chí Công, và thiếu tướng Trần
văn Quang, tư lệnh mặt trận Trị Thiên. Nghị quyết gồm 3 điểm;
1/ Kêu gọi tổng nội dậy, thành lập chính quyền cách mạng
2/Thành lập mặt trận Liên Minh Dân Tộc, Dân Chủ, Hòa Bình
3/ Lùng diệt truy quét thành phần ác ôn, tàn binh ngụy, công an
cảnh sát ngụy, thành phần làm tay sai cho Mỹ, CIA
Hầu hết đám nằm vùng theo Thích Trí Quang bao gồm giáo sư, sinh
viên thanh niên tranh đấu đã thoát lên mật khu sau biến động 1966, nay trở về,
đảm nhiệm phần nòng cốt cho các vai trò trên, đặc biệt là vai trò truy quét diệt
thành phần Mỹ Ngụy ác ôn.
Chính quyền cách mạng được thành lập như sau: Lê văn Hảo: chủ tịch
ủy ban nhân dân thành phố. Lêvăn Hảo là thành phần tranh đấu Phật Giáo năm 1966
bị bắt, được Đoàn Công Lập trả tự do, cán bộ trí vận. Cán bộ điều khiển y là
Hoàng Kim Loan. Phó chủ tịch UBNDCM là Đào thị Yến tức Tuần Chi, hiệu trưởng
trường Đồng Khánh, tình nhân của Thích Đôn Hậu, cán bộ trí vận, HKL điều khiển
thị. Đồng phó chủ tịch là thường vụ thành ủy Hoàng Phương Thảo. Chủ tịch UBNDCM
quận I là Nguyễn Hữu Vấn, GS trường quốc gia âm nhạc và kịch nghệ. Chủ tịch
UBNDCM quận II là Nguyễn Thiết. Y vượt tuyến vào Nam 1957, là cơ sở nằm
vùng rất lâu ở Huế, SV luật khoa, thành viên BCH tổng hội SV đại học Huế.
Quận III chưa tổ chức kịp nên Bảy Lanh, trưởng ban an ninh thành ủy đảm trách.
Liên Minh Dân Tộc Dân Chủ Hòa Bình: Vẫn Lê văn Hảo làm chủ tịch.
Phó chủ tịch là Thích Đôn Hậu, tình nhân của Tuần Chi. Tổng thư ký: Hoàng P N
Tường. Nguyễn Đắc Xuân, phụ trách thanh niên SVHS.
Trách nhiệm truy quét ác ôn Mỹ Ngụy được thực hiện như sau:
Nhiệm vụ thi hành bạo lực cách mạng được thực hiện bởi các “đội
tự vệ khu phố”, do Nguyễn Đắc Xuân chỉ huy, dưới sự điều khiển chỉ dạo của lực
lượng an ninh quân khu và tỉnh. Gồm các cơ sở nằm vùng rất bí mật trong nội
thành, các thành phần trong phong trào Phật Giáo đấu tranh thoát ly lên mật khu
sau biến động miền trung 1966, lực luợng HSSV giải phóngthành phố Huế. Các đội
tử thần này rãi đều khắp 3 quận, là lực lượng sát máu và tàn bạo nhất, hơn hẳn
Hồng Vệ Binh. Ngoài NĐX, Chủ tịch quận I Nguyễn Hữu Vấn, quận II Nguyễn Thiết,
tổng thư ký HPNT và HPNP, Hoàng văn Giàu, Nguyễn thị Đoan Trinh là những thành
phần chủ chốt sát máu nhất của các đội này. Các đội tử thần này rãi đều trên
các quận, chúng đi từng nhà, vừa đe dọa, vừa lục soát, vừa bắt những ai có
trong sổ đen. Chúng chia làm 3 đợt. Chúng dụ địch, những ai tự ý trình diện
giao nộp vũ khí trong đợt 1 và 2 đều được chúng cấp giấy khoan hồng cho về. Thấy
vậy, nhiều người trốn tránh trong 2 đợt kia liền ra trình diện. Sau đợt 3,
chúng tóm gọn cả 3 đợt, yêu cầu đi họp tập tại các địa điểm mà chúng quy định.
Tin tưởng như các lần trước, đi rồi lại về, mọi người kéo nhau đi. Và họ đã đi
mãi không trở lại. Tất cả đã chết, tất cả đã bị bọn nằm vùng và cộng sản dùng vật
cứng đập đầu rồi chôn sống, lấp xuống hầm sâu hố cạn, vài nơi thì trong thành
phố, hầu hết là ở các quận vành đai.
Tổng cộng có cả thảy 26 hố chôn tập thể. Hố ít nhất 3 người,
trung bình là 400 người, đông nhất là 800 người. Tôi cố gắng tóm tắt để trả lời
quý vị. Muốn hiểu rõ danh sách đầy đủ hơn của bọn nằm vùng, chúng hoạt động chi
tiết ra sao, những viên chức chính quyền, những quân nhân bị giết, giết như thế
nào v.v xin xem trong cuốn Biến Động Miền Trung tôi ghi khá đủ, như phúc
trình của cảnh sát vậy
Kết quả là Huế điêu tàn đổ nát, 5327 đồng bào vô tôi bị giết,
1200 người bị dẫn đi mất tích, khăn tang trắng ngập cả Cố Đô. Ngoài lực luợng
chính quy CS Bắc Việt, những tay đại đồ tể nỗi cộm nằm vùng người Huế đã trực
tiếp bắn, giết, đập đầu, chôn sống đồng bào gồm có: Hoàng Phủ Ngọc Phan, Hoàng
Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng văn Giàu, Nguyễn Thiết. Riêng nữ sinh
Nguyễn thị Đoan trinh, con gái Nguyễn Đóa, y thị vô cùng tàn bạo sát máu. Y thị
cỡi Honda, mang AK, chận hỏi mọi người, bất kỳ ai trả lời là lính, cảnh sát,
nhân viên chính quyền là y thị nổ súng bắn chết ngay. Nhưng trời cao đôi khi
không có mắt, y thi hiện nay vẫn sống chễm chệ trên tội ác, trở thành nữ thương
gia giàu có tại Sài Gòn…
Tóm lại, chịu trách nhiệm không bảo vệ được đồng bào trong cuộc
thảm sát Tết Mậu Thân là chính quyền VNCH các cấp, trong đó có cả tôi.
Còn thủ phạm tàn sát là đảng CSVN, tất cả các nhóm tranh đấu nằm
vùng. Và trách nhiệm cũng thuộc về nhóm Phật Giáo Ấn Quang như các ông Đôn
Hậu, Trí Quang, Thiện Siêu đã gây dựng cơ sở cho cộng sản, tạo mọi điều kiện
cho chúng tràn vào Huế. Tuy các ông không tự tay tàn sát đồng bào như bọn cộng
sản và đám Hoàng phủ, Hoàng văn Giàu, Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn thị Đoan Trinh,
Nguyễn Thiết, nhưng các ông đã ủng hộ và đồng lõa, giúp tạo nên biến cố lịch sử
thê thảm này….
Sau Mậu Thân, tỉnh trưởng Phan văn Khoa bị cách chức trả về quân
đội. Đoàn Công Lập bị bắt. Trung Úy Trương Công Ân là người thụ lý hồ sơ ĐCL,
hiện đang ở Orange County
Trả lời câu hỏi: Sau 1975 Đoàn Công Lập cựu Trưởng Ty CSQG/Thừa
Thiên-Huế trốn tránh VC tại Sàigon cho đến ngày bị bệnh qua đời. Như vậy Ông
Đòan Công Lập có phải nội tuyến hay không?
Đây là câu hỏi của một vị thầy giáo(?) đã dạy kèm cho con ông Lập
tại Huế. Sau 1975 đã được Đoàn Công Lập che chỡ trốn tránh tại Sài gòn, như vậy
Đoàn Công Lập khó có thể là CS
Trong lịch sử tình báo, thật tình có nhiều chuyên không ngờ. Việc
xãy ra vậy mà thực chất bên trong không phải vậy.
Xin đưa ra một vài vụ điển hình:
- Trong thời đệ I Cộng hòa, Ông Phạm Ngọc Thảo về hồi chánh đã
cung cấp cho CP/VNCH nơi trú đóng của trung đoàn Quyết Thắng VC, Quân lực VNCH
liền mở cuộc hành quân tiêu giệt gần trọn Trung đoàn nầy. Sau vụ nầy Ông Thảo
đã tạo được lòng tin của chính phủ VNCH ông ta đã duợc nâng đỡ lan đến chức
Tỉnh Truởng và cấp bậc cuối cùng là Trung Tá QLVNCH. Sau 1975 sự việc
trung đoàn Quyết thắng mới một phần nào lộ ra ánh sáng:
Hầu hết cán binh của trung đoàn này là thương phế binh, bọn VC
thí đám tàn binh này, để Phạm Ngọc thảo dùng làm món quà đầu thú, tạo niềm tin
với chính phủ VNCH. Một công hai việc, vừa tẩy trừ gánh nặng thương binh, vừa
cài được điệp viên trong lòng địch. Sau 1975 Phạm Ngọc Thảo được phong là liệt
sĩ. Đây có thể được gọi là “khổ nhục kế” mà tình báo từ ngàn xưa đã áp dụng
- BTL/ CSQG tại Sàigòn cũng đã bị VC đặt chất nổ. Báo chí Sài
Gòn hồi đó đã chê bai lực luợng CSQG là bất lực. Nhung họ đâu ngờ rằng để bảo vệ
Tình báo viên nội tuyến của mình , BTLCSQG buộc lòng cho nổ theo lệnh của VC
- Cá nhân tôi sau khi trình bày đầu mối xâm nhập và được phép Đại
Tá Tỉnh Trưởng Tỉnh Thừa Thiên chấp thuận, tôi đã vẽ sơ đồ xã Thủy An cho Đặc
Công VC tấn công.
Với 3 ví dụ trên cho thấy việc Ông Đoàn Công Lập bảo vệ người
thầy giáo chạy trốn cộng sản tại Saigòn thấy vậy, mà không phải vậy. Rất nhiều anh
em bị bắt tại Sài Gòn là do ông lập chỉ điểm. Vụ kêu gọi anh em tham gia
kháng chiến hẹn gặp tại xa lộ Đài Hàn để lên mật khu là do ông Lập dàn dựng. Tất
cả đã bị Công An đợi sẵn và bắt trọn gói.
Liên hệ với tình hình hiện tại, đó là việc tất cả hình ảnh thu
thập được khi Ls Lê Công Định sang Thái Lan tiếp xúc với Nguyễn Sỹ Bình và “đại
diện” Đảng Việt Tân để học tập về phương pháp đấu tranh bất bạo động do một
chuyên viên từ khối Đông Âu sang giảng dạy. Theo nghề tình báo, chúng tôi phải
đặt nghi vấn thủ phạm gài bẩy trước tiên phải là những người có mặt trong các
cuộn phim tang chứng, rồi mới đến những nghi can khác. Chuyện chuyên viên Đông
Âu, nghe qua, rõ ràng là một “brand name”, dĩ nhiên tạo được niềm tin cho những
người đang mong mỏi dân chủ cho đất nước ngay tức thì, vì đó là cái nôi của việc
lật đổ Cộng Sản. CS đã sử dụng nó để quyến rũ những trái tim nhiệt huyết nhưng
hơi nhẹ dạ như LCĐ. Chuyện “đại diện” Việt Tân thì quá dễ dàng nhanh chóng kiểm
chứng được là Việt Tân giả hay thật. Vấn đề Nguyễn Sỹ Bình bằng xương bằng
thịt thì không thể gọi là Nguyễn Sỹ Bình giả được. Chuyện soạn thảo Hiến Pháp
cũng là do chính y mớm lời và gài cho LCĐ sửa chửa, và còn nhiều rất nhiều chuyện
nữa. Khi những thước phim đầy đủ việc gặp gỡ, trao đổi được đưa ra, làm sao LCĐ
có thể phủ nhận?
Việc dàn dựng Việt Tân giả nhằm hai mục đích: dụ dỗ những người
nhẹ dạ có tâm huyết trong nước, ……….
Riêng việc chọn lựa Nguyễn Sỹ Bình làm con mồi dụ địch thì
nguyên tắc bắt buộc mà Cục Tình Báo Hải Ngoại của CS phải chọn, ứng viên phải
là người có thành tích chống cộng ở tù cộng sản v.v.Càng chống cộng có bản án ở
tù nhiều chừng nào, tốt chừng ấy. Đó là phương pháp “khổ nhục kế” mà tình báo tự
cổ chí kim ai ai cũng đều áp dụng. Chúng tôi và cộng sản đều áp dụng rất nhiều.
Chiêu nầy nó rất cũ rích, nhưng vẫn rất hiệu nghiệm trong quá khứ, bây giờ, và
mãi mãi . Mong mọi người phải vô cùng cảnh giác. Việc dàn dựng lên các đảng
phái chống cộng để bắt người mưu đồ chống cộng là điều đương nhiên cục tình báo
CS quốc nội và hải ngoại bắt buộc phải làm. Chúng tôi, những người làm nghề
tình báo, rất thuần thục trong vấn đề cài người và sử dụng khổ nhục kế, dễ dàng
nhận thấy hiện nay có ít nhất 3 đảng chống cộng trong và và ngoài nước là do
Công An Cộng Sản cò mồi dựng nên. Cha Lý, Công Nhân và Nguyễn văn Đài đã rớt
vào cái rọ. Trong phạm vi bài viết này, tôi không thể phân tích đầy đủ tại sao
tôi kết luận như thế. Xin hẹn dịp khác
- Bửu Chỉ là ai?
Đó cũng là một chuyện thấy vậy mà không phải vậy. Vì là bà con
trong Hoàng Tộc nên tôi có thể nói rất nhiều về Bửu Chỉ, và Bửu Chỉ cũng đã mất
vào ngày 14 tháng 12 năm 2002, nên xem như mọi việc làm của Bửu Chỉ phải được bạch
hóa để trả lại danh dự, công bằng và những đóng góp của ông đối với quốc gia
Đầu tiên xin nói về cá nhân Bửu Chỉ:
Bửu chỉ thuộc dòng Tuy Lý Vuơng. Phụ thân của Bửu chỉ là Cụ Ưng
Thuyên, cháu nội ngài Tuy Lý Vưong, chú ruột là thầy Ưng Quả, một người bạn rất
thân với phụ thân của tôi. Cậu ruột là Nguyễn Dương Đôn, Bộ Trưởng Quốc Gia
Giáo Dục thời Đệ I Cộng Hòa.
Nói về cá tính và thói quen của Bửu Chỉ, cán bộ điều khiển
NPLH hiện đang trú ngụ tại Cali, U.S.A. đã cho tôi biết như sau:
Sau 1975, Bửu Chỉ hút thuốc, uống rượu nặng, ham mê nữ sắc,
nhưng lại thích sống cô độc. Mệ vì vậy mà sau 1975 đã ăn ở với vợ của Hoàng Phủ
Ngọc Tường là Lâm thị Mỹ Dạ. Bửu Chỉ rất ghét xu nịnh
Bửu Chỉ học hội họa. Tranh Bửu chỉ đẹp, bán rất đắt. Đã từng triễn
lãm tại Pháp vào 1989. Vốn dòng dõi có truyền thống quốc gia yêu nước, Bửu chỉ
ý thức được tai họa của chủ nghĩa cộng sản, chúng tôi lại là họ hàng rất thân
nhau, nên chuyện cộng tác vì lý tưởng chung là chuyện tự nguyện . Điều thuận tiện
của Bửu Chỉ là bạn thân TCS, Đinh Cường và rất nhiều thành phần tranh đấu
và đám SV cộng sản nằm vùng, lại tài giỏi, nên Bửu Chỉ đã dễ dàng thành công
trong nhiệm vụ của một điệp viên quốc gia cài đặt trong mạng lưới nằm vùng. TCS
và Đinh Cường cũng như những thành phần hoạt động nằm vùng cho đến nay đều nghĩ
100% Bửu Chỉ là đồng bọn của họ. Thân với TCS và đám nằm vùng chỉ là nhiệm vụ,
Bửu Chỉ là người quốc gia chân chính, đã đóng góp rất nhiều cho ty CSQG Thừa
Thiên Huế trong việc phát hiện và theo dấu rất nhiều cơ sở nằm vùng, kể cả những
hoạt động CS của TCS. Chính Bửu Chỉ là một trong nhiều nhân chứng đã khai và
xác nhận là Hoàng Phủ Ngọc Tường đã ngôì ghế ông tòa, chủ trì cái gọi là “ tòa
án nhân dân” tại trường Gia Hội. Ông Tòa Tường đã ban lệnh xử tử 204 đồng bào
vô tôi bằng cách đập đầu bằng vật cứng sau đó chôn sống tại một hầm tập thể
cũng ngay tại trường Gia Hội. Sáng ngày 26/2/1968 chúng tôi phát hiện ra hố
chôn tập thể này. Tất cả điều mà Bửu Chỉ khai đều phù hợp với rất nhiều nhân chứng,
trong đó có những thân nhân vợ con của ngụy quân ngụy quyền, ngụy cảnh sát bị hắn
tuyên bố có nợ máu với nhân dân đã có mặt tại phiên tòa hôm đó, và cũng hoàn
toàn phù hợp với báo cáo của thiếu úy Trọng, trưởng toán tình báo khu vực quận
2, và lời khai của trung tá tình báo CS Hoàng Kim Loan mà chúng tôi bắt sau đó
vào mùa hè 1972.
Không như TCS, trái tim của Bửu Chỉ hoàn toàn dâng hiến cho quốc
gia và lý tưởng tự do chân chính. Bửu Chỉ chết đi, không thẹn với tổ phụ, với
non sông
Tại sao không bắt đám nằm vùng và Trịnh công Sơn?
Điều mà tôi bị chất vấn, hay đúng hơn là bị kết án nhiều nhất
là: tại sao TCS và nguyên một danh sách dài đám trí thức nằm vùng không bị bắt!
Tôi có thể khẳng định một cách đơn giản như thế này: “Nếu cha tôi làm CS thì
tôi cũng bắt!”
Và cũng để trả lời câu hỏi trên, tôi xin được hỏi ngược lại một
câu: Chúng ta cần trốc cho tận gốc, hay chỉ cắt đi lớp cỏ bên ngoài? Để cho đám
nằm vùng sinh sôi nẫy nỡ đến cỡ nào? lúc nào, và khi nào thì cần tóm gọn. Nên
tóm những tên nào? Tên nào thì phải để lại cho nó thu hút những con ong chúa mới? Đó
mới là việc mà giới tình báo chúng tôi phải suy tư tính toán.
Bài viết “TCS và những hoạt động nằm vùng” chỉ một bài viết ngắn,
nói đến những hoạt động nằm vùng của đương sự và đồng bọn mà thôi. Cho nên
chúng tôi không tiện trình bày diễn tiến sự việc, kết cục ra sao, như trong cuốn
sách BĐMT. Ngắn gọn là, qua theo dõi nhóm nằm vùng này, chúng tôi đã tóm gọn
trên 1500 cơ sở quan trọng nội thành nguy hiểm, đưa đi Côn Đảo, trong một
chiến dịch thần tốc có tên là “Chiến dịch Bình Minh”. Chiến dịch thật sự bắt đầu
vào lúc 6 giờ sáng ngày 6 tháng 5 1972, nhưng trước đó 2 tiếng, để bảo đảm
thành công trọn vẹn, chúng tôi đã quyết định bắt tên điệp viên chủ chốt
nguy hiểm nhất, hắn là kiến trúc sư trưởng của toàn mạng lưới nằm vùng tại Huế
và Miền Trung: Trung tá điệp viên CS Hoàng Kim Loan. Loan rất thông minh, hành
tung xuất quỷ nhập thần. Chúng tôi không thể để mất tên này. Hắn là cán bộ tực
tiếp điều khiển Đôn Hậu, Trí Quang, thiết kế nên một mạng lưới nằm vùng tinh vi
và chặt chẽ, dưới vỏ bọc rất tôn giáo: Phật tử tiểu thương chợ Đông ba, Học
sinh sinh viên Phật tử. Rất nhiều lần Hoàng Kim Loan đã bí mật đến chùa Linh Mụ,
Từ Đàm, gặp gỡ Đôn Hậu, Trí Quang. Chúng tôi theo dõi hắn và một số đồng bọn từ
lâu. Và dĩ nhiên, chúng tôi muốn bắt hắn lúc nào mà chả được! Nhưng nếu làm như
thế thì chỉ một vốn một lời. Chúng tôi muốn một vốn mười lời. Chúng tôi cần bắt
trọn ổ, chứ không phải là vài ba tên tép riêu, đụng đâu bắt đó. Muốn đạt được
điều này, chúng tôi theo dõi cặn kẽ, dài ngày và một kế hoạch cài người tinh vi
mà phải tốn rất nhiều thời gian để có thể tạo được sự tin tưởng của bọn CS. Điều
này đòi hỏi kiên nhẫn, công sức, nguy hiểm, và sự hy sinh rất lớn lao, ngay cả
tính mạng, nhưng rất âm thầm đơn độc của biết bao nhiêu nhân viên CSĐB cài vào
những cơ sỡ nằm vùng Huế.
Tại sao chúng tôi chọn thời điểm ngày 6/5/1972? Sở dĩ như vậy là
vì tình hình Huế lúc đó đang hết sức nguy ngập. Chúng tôi đánh giá là kể từ
ngày 6/5/72 trở đi, Việt Cộng có thể khởi động một cuộc tổng nổi dậy như tết Mậu
Thân một lần nữa, bất cứ lúc nào, để tạo sức mạnh cho Hiệp Định Paris. Nên
điều tối cần thiết là phải ra tay tóm ngay những thành phần nguy hiểm này, trước
khi chúng dấy loạn. Để khỏi bị lộ, chiến dịch Bình Minh đã được tính toán chi
li, cố không bỏ sót tên nào. Tôi đã ký sẵn trên 2000 lệnh bắt. Chiến dịch
được thực hiện khẩn cấp và ráo riết trong vòng 12 ngày, trên toàn lãnh thổ Thừa
Thiên, Huế. Nhóm không quan trọng như đám Trịnh Công Sơn, chúng tôi tiếp tục để
chúng sinh sôi nẫy nỡ chờ các “ vụ mùa” mới tiếp. Xin kể một vài cái tên
mà khá quen thuộc tại miền nam mà chúng tôi bắt được trong chiến dịch Bình
minh:….
Chúng tôi đã thảo ra một phương án theo dõi tinh vi bí mật mà bọn
này đến chết cũng không thể ngờ. TCS đến giờ này, ở suối vàng cũng ko thể ngờ
nhân viên tình báo chịu trách nhiệm theo sát y lại là X, một trong những người
bạn thân ra vào gần gủi với y. Cũng như vậy, đó là trường hợp Lê Khắc Cầm,
cán bộ điều khiển TCS. Chúng tôi giả lơ như không bao giờ để ý LKC, không bao
giờ biết y là CS, và y đã tự do tung hoành. Cầm cứ tưởng những thông tin mà y
chuyển qua những chuyến bay quân sự là an toàn số một. Ai dám đụng tới máy bay
các ông tướng, ông tá? Thật ra các thư từ tin tức đó đều bị chúng tôi đọc và phối
kiểm trước khi đến tay người nhận. Cho nên, tôi, Liên Thành, khẳng định lời của
Lê Khắc Cầm nói rằng, tác giả của “ Thư gởi Ngô Kha” là TCS, là sự thật 100%.
Người nhận cuối cùng của lá thư này là LKC. Khi cái “ thư gởi Ngô Kha” của TCS
được đưa ra công luận của CS gần đây, thì liền bị tranh cãi kịch liệt. Gậy ông
đập lưng ông. CS nói dối quá nhiều, cho nên kỳ này nói thật thì thiên hạ nghĩ
ngược lại. Khi đọc qua bút tích này, những người hâm mộ nhạc TCS đều không tin
nỗi. Lẽ nào một người siêu thực như TCS mà lại ham muốn quyền lực như vậy? Điều
này là thực hay hư? Chính quyền CS muốn nỗi tiếng, nên ăn có theo TCS? Con người
đầy tính “triết và thiền” của TCS không thể là chủ nhân của lá thư đầy ham muốn
quyền lực trần trụi như thế!Nhiều tranh cãi đã xãy ra giữa nhóm bạn văn nghệ mới,
cũ , trên chính báo chí của CS, đến nỗi,“nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân” phải cất
công đi “nghiên cứu” với Lê Khắc Cầm, để xác nhận xem TCS có thật là chủ của nó
không.Cái bề ngoài đeo kính rất trí thức, đượm chút bất cần đời, lời nhạc thi
khó hiểu như triết học, đã giúp TCS rất nhiều trong việc dư luận dễ
dàng phủ nhận lá thư này là của đương sự. Hoàng Tá Thích, chồng Trịnh Vĩnh
Tâm, em rễ TCS, em ruột của đại tá cộng sản Hoàng Xuân Tùy , cũng nhảy vào ăn
có. Ông em rễ Hoàng Tá Thích cam đoan là TCS không màng danh vọng chính trị gì
sất!
Tội nghiệp Lê Khắc Cầm. Ai không tin anh ta, nhưng tôi thì có thể
làm nhân chứng cho anh ta, vì đó là sự thật. TCS là tác giả chính hiệu con nai
vàng của cái ” Thư gởi Ngô Kha”, mà cơ quan CSĐB chúng tôi đã đọc qua
Cơ quan CSĐB của chúng tôi đã giảo nghiệm nét chữ, và sau đó có
nhờ cơ quan tình báo bạn phối kiểm. Kết quả đều khẳng định là của chính hắn.
Trong bức thư này, TCS đã nguyền rủa đời sống tại Miền Nam thậm tệ,
và ao ước có ngày được nối vòng tử sinh với Hà Nội. Anh ta cũng khẳng định mình
là một nhân vật của “đám đông” được đám đông thần tượng, nên anh ta phải có bổn
phận với đám đông này. Đám đông đó là ai? Một đám thanh niên bạc nhược, chống
chiến tranh trốn lính? Một đám thanh niên học sinh của thời thượng? chuyên nghe
nhạc Trịnh, đọc sách Phạm công Thiện? Bổn phận của TCS đối với đám đông của
đương sự là gì? Nối vòng tay lớn của chế độ tàn bạo và man rợ với vụ “Cãi
Cách Ruộng Đất”?, vụ Quỳnh Lưu, vụ Nhân Văn Giai Phẩm cho Miền Nam ?
Lá thư này đuợc viết vào mùa thu 1974 Xin quý vị tìm đọc là thư này ở www.damau.org để
hiểu rõ thêm về TCS. Xin cho tôi miễn lời bình về nhân cách của TCS qua những lời
mà y đã thóa mạ Miền Nam
Một giai thoại giữa tôi với TT Nguyễn văn Thiệu, xin kể ra để
quý vị có thể tự trả lời câu hỏi tại sao chúng tôi không bắt TCS và nhóm nằm
vùng Huế. Chúng tôi nhận được tin bọn CS sẽ đặt chất nỗ ở quán cơm Âm Phủ, khi
Tổng Thống và các yếu nhân đến ăn ở đó. Tôi vào trình tổng thống chuyện này,
lòng vô cùng băn khoăn lo lắng. Sau khi nghe tôi thuyết trình xong, ông cười
tinmhr bơ và nói chỉ hai chữ: “Cho nỗ!”. Tôi tròn mắt ngó ông. Cái mà tôi chờ đợi
không phải là 2 chữ đó, tôi chờ đợi 2 chữ khác, đó là “cho bắt”. Hiểu vẻ mặt sững
sốt và hai con mắt đang trố ra của tên trưởng ty trẻ người non dạ, ngó thẳng
vào tôi, ông điềm nhiên nói “Không biết mới sợ, biết thì còn sợ gì? Cho nỗ!” “
tổng thống cho lệnh em đó!” Và chúng tôi đã cho nỗ tại quán cơm Âm phủ. Tiếng nỗ
long trời lỡ đất kèm theo sự mừng rỡ của nhóm MTGPMN , bọn nằm vùng, và CS Bắc
Việt dĩ nhiên. Nhưng có điều, phía chính phủ VNCH không có ai bị giết như
ý chúng mong muốn. Một thời gian sau, nhóm hoạt động khủng bố này đã bị chúng
tôi tóm gọn. Riêng nhóm họat động chung với TCS, gần 5 năm sau, thời điểm tháng
6 năm 1972, khi chúng chuẩn bị tiếp một cuộc tắm máu thứ 2 như tết Mậu Thân, vẫn
cái tên là cuộc “tổng nỗi dậy” vào ngày…chúng tôi bắt gọn 1500 sơ sở quan trọng
của VC đưa đi côn đảo. Trong số đó có cả các viên chức VNCH, sĩ quan, quân nhân
VNCH như nghị viên hội đồng tỉnh Lê Quang Nguyên là nằm vùng… Trong khuôn
khổ một bài viết ngắn, tôi không thể trình bày chi tiết như trong cuốn BĐMT.
Xin quý vị thông cảm. Riêng TCS , chúng tôi chưa bắt vội, hơn nữa khả năng
y đang làm việc cho cơ quan tình báo ngoại quốc rất cao, chuyện bắt chưa
chắc là hay, tốt nhất là cứ để tình trạng như vậy mà khai thác cả hai phía.
Thêm vào câu hỏi này là ý kiến cho là nhạc TCS gây nguy hại cho đất nước, lại
hoạt động nằm vùng, tại sao chính quyền không dẹp? tôi xin nhắc lại câu chuyện
của tên nhà báo nằm vùng CS Vũ Hạnh. Sau khi chính quyền bắt tên CS Vũ Hạnh, liền
bị một số rất đông các nhà văn nhà báo tên tuổi trong hàng ngủ quốc gia đã làm
yêu sách chống đối này nọ, họ đã gây không ít sóng gió cho chính quyền, kết án
chính quyền bịt miệng báo chí. Cuối cùng, chính phủ đành nhượng bộ, thả Vũ Hạnh.
Sau 1975, Vũ Hạnh hiện nguyên hình là tên cộng sản, hắn thản nhiên giáng tội Mỹ
Ngụy phản động cho rất nhiều “nhà” báo nhà văn đã nằng nặc đòi thả hắn ra. Và
tôi cũng tự hỏi, nếu như giới hữu trách lúc ấy cho lệnh bắt TCS, liệu nhóm nhà
văn nhà báo “quốc gia thứ thiệt” này có tha cho chính phủ không nữa? Tóm lại,
âu đó cũng là điều đáng cho chúng ta suy gẫm, nhất là những ai đã ký tên yêu
sách thả tên VC này. Các nhà văn nhà báo đó, có bao giờ họ tự nhận phần nào
trách nhiệm với lịch sử ?
Sự vụ lệnh của Trịnh công Sơn
Có trách cứ rằng tại sao tôi cấp Sự Vụ Lệnh cho TCS trốn
lính trong khi đó lại chẳng nhận được gì đáng kể từ đương sự, cho nên, tôi cũng
đáng chết theo TCS lắm lắm. Tôi hiểu lý do của sự bực tức này. Nghề của tôi là
tình báo, nói trắng ra, tôi là một gã buôn tin tức. Những gì tôi cho TCS là
một, thì tôi phải lấy lại ít nhất cũng là sáu bảy. Việc chúng tôi nói TCS chỉ
cung cấp cho chúng tôi 1/10 tin tức mà đương sự biết, có nghĩa là chúng tôi đã
biết tỏng 10/10 rồi. Không biết hết thì làm sao chúng tôi xác định là 1/10 được?
Nói ra đây, chỉ là để công luận đánh giá tấm lòng của TCS có biết quay lại với
lương tri con người hay không mà thôi, nhất là sau khi chính đương sự đã biết
rõ cảnh đồng bào Huế của hắn bị trói lại từng xâu dài, bằng dây kẽm, dây điện
thoại, dây thừng, từng xâu người, lần lượt bị đập đầu, kẻ sống người chết, đều
bị chôn vùi trong những hầm tập thể. Đau cho Miền Nam là hắn vẫn chọn
phía tội ác. Dù hắn chỉ cung cấp cho chúng tôi 1/10 những gì hắn biết, thì 1/10
đó cũng đủ cho chúng tôi phát hiện rất nhiều các tay CS nằm vùng liên hệ quanh
hắn, chúng tôi cũng “lời bộn” rồi! Có người lại cho rằng Sự Vụ Lệnh mà tôi cấp
cho TCS chỉ có giá trị tại Huế mà thôi, trong khi đó, đa phần là TCS lại ở Sài
Gòn, thì tại sao TCS không bị bắt lính tại Sài Gòn? và như thế, toàn bộ chuyện
mà tôi nói chỉ là “ láo”. Thưa, hãy bình tĩnh, chuyện có gì mà phải nóng nãy kết
luận hồ đồ như thế? Muốn vạch lá tìm sâu nhưng lại không có một tí kiến thức
gì về luật pháp cũng như giá trị của cái SVL rất ngon lành này. Nếu Cảnh Sát hoặc
Quân Cảnh Sài Gòn hay của bất cứ tỉnh nào bắt TCS chẳng hạn, thì chỉ cần TCS xuất
trình cái SVL này ra, cơ quan bạn phải gọi ngay cho Ty Cảnh Sát Thừa Thiên Huế.
Chỉ cần chúng tôi xác nhận đó là người của chúng tôi, thì cơ quan bạn phải lập
tức thả TCS ra vô điều kiện, mà không có quyền tra vấn gì thêm cả. Đó là luật của
VNCH và cũng là luật của nhiều nước khác. Ở Mỹ cũng thế thôi! Như vậy, nó mới
làm cho gã trốn lính TCS này thèm muốn mà phải cộng tác với chúng tôi chứ!?
Riêng vấn đề TCS có hoạt động cho tình báo ngoại quốc hay không,
và là ngoại quốc nào, tôi biết rõ 100%. Nhưng điều này tôi không thể viết rõ
Chúng tôi đã theo dõi, đã mở hồ sơ thì con rồi bay qua chúng tôi cũng biết.
Cũng như rất nhiều chuyện đời thường của đương sự mà nói ra thì quả thật khó tưởng
tượng nỗi. Bởi vì sẽ ảnh hưởng đến an nguy của những người còn ở lại, và ngay cả
chính cá nhân tôi. Và như tôi cũng đã nói, việc công bố những hoạt động tình
báo 3 mang của TCS khi đương sự còn sống thì chẳng khác nào đưa một bản án tử
hình cho đương sự và cho những người khác, đã âm thầm theo dõi những hoat động
nằm vùng của TCS trước kia, mà nay còn bị kẹt lại ở quê nhà. Tôi lập lại, tình
báo có luật của tình báo, đó là lương tâm, là đạo đức dành cho các cộng sự viên
của mình. Tôi chỉ có thể viết đến thế là cùng. Điều này nó cũng gián tiếp trả lời
cho câu hỏi ‘Tại sao tôi lại đưa tên nằm vùng TCS đi Mỹ?!” Tất nhiên, chuyện
này đã gây nhiều phẫn nộ, và nó có vẽ rất mâu thuẫn, thậm chí gây ngờ vực đối với
tôi. Tại sao một kẻ “ diệt cộng” như tôi lại rủ một tên nằm vùng đi Mỹ?
Thưa đâu có gì mà khó hiểu? Trước đây, tôi là “cán bộ” điều khiển
TCS. Tôi cũng là chỉ huy trưởng trung tâm Phụng Hoàng Huế.“Ai đó”, họ biết chứ!
Và vì vậy, họ đã yêu cầu tôi làm việc này. Tôi chỉ là một kẻ trung gian cho “ai
đó”( xin quý vị tự hiểu),“ mời” TCS đi Mỹ mà thôi, cũng như ông Đỗ Ngọc Yến vậy,ông
ta cũng đã phải “rủ” TCS đi Mỹ ! Chuyện đơn giản có thế!
Tôi cũng xin minh định một điều, tôi, lúc TT Ngô Đình Diệm bị thảm
sát, chỉ mới 20 tuổi, còn là sinh viên, chưa hề giữ một chức vụ gì trong chính
quyền Đệ Nhất Cộng Hòa. Tôi sinh vào tháng cuối cùng của năm 1942. Từ đó đến
nay, tôi chưa hề tham gia bất kỳ một đảng phái chính trị nào.Tôi quý trọng nhân
cách và tài năng của TT Ngô Đình Diệm, nhưng tôi cũng ủng hộ tinh thần chống cộng
và đánh giá cao khả năng của TT Nguyễn văn Thiệu, trong số những người có tiềm
năng lãnh đạo còn lại của Miền Nam. Điều này nghe ra, sẽ có một số người cho là
nghịch lý, là ba phải. Vì “pro”TT Diệm mà sao lại còn ủng hộ cả Nguyễn văn Thiệu?
kẽ đã bị kết án là một trong những thành viên tham gia đảo chánh, nhận 100 ngàn
của Conine, có chứng từ chũ ký hẳn hoi!
Thưa, quan điểm của tôi rất rõ: tôi không bao giờ mù quáng yêu
thương hay đập đổ một chính quyền nào cả. Tôi chỉ hết lòng bảo vệ Thể Chế Việt
Nam Cộng Hòa, mà qua thể chế đó, quyền làm người được luật pháp minh định và thực
thi, thông qua một chính quyền do dân bầu hợp pháp. Đó là nguyên tắc bất di bất
dịch của tôi. Tôi không thể đang tâm đập phá một thể chế, một chính phủ đang điều
hành đất nước, khi mà chưa có một chính phủ khác tốt hơn để thay thế. Tổng Thống
Nguyễn văn Thiệu đã có tham gia đảo chánh phá đổ nền đệ nhất cộng hòa, nhưng
sau đó, nếu chúng ta không chọn ông thì chúng ta chọn ai? Dương văn Minh? Trần
Thiện Khiêm? Vũ văn Mẫu, Nguyễn cao Kỳ? …Dù sao đi nữa, thì ông cũng là “ cái tốt
nhất” còn lại mà chúng ta có. Nhất là ông đã được dân bầu và nhất là khi quốc
gia với nền dân chủ còn non trẻ, lại phải đương đầu với cuộc chiến tranh ghê
khiếp nhất trong lịch sử loài người, đó là cuộc chiến tranh chống lại Chế Độ Cộng
Sản. Kết quả thì người Việt Nam từ Nam chí Bắc đều thấy rồi đó! Cái mà lịch sử
đã thế vào, sau khi một thiểu số ngông cuồng say sưa đập đổ chính phủ VNCH, là
cái thể chế Cộng Sản!
Tôi sẽ không bao giờ là người đập đổ bất cứ chính phủ VNCH nào
do dân bầu lên, cho dù vị Tổng Thống đó tôi có ghét cay ghét đắng, nhất là lúc
quốc gia đang trong giai đoạn dầu sôi lửa bỏng. Tôi chỉ muốn góp phần gìn giữ
và làm cho nó tốt đẹp hơn, qua lá phiếu, theo sự suy nghĩ, theo cách của tôi.
Vì nếu không làm như thế, thì tôi đã mặc nhiên giúp sức cho CS thanh toán chính
quyền non trẻ VNCH, mà lại còn hợm hĩnh ngu xuẫn cho mình là có công với quốc
gia dân tộc!
Tôi không có ý định viết sử. Tôi chỉ muốn cung cấp cho lịch sử
những vấn đề mà tôi biết, chuyện gì tôi đã làm, đã thấy. Để lịch sử phải đúng
là lịch sử: Đó là, lịch sử phải là sự thật.
Điều gì biết rất rõ thì tôi mới viết. Những gì còn mù mờ thì
không bao giờ tôi đề cập đến. Đó là bản chất của tôi, để ngày nào gặp lại tổ
tiên tôi, ông tôi, cha tôi, tôi không thẹn với các ngài là tôi đã không dám nói
lên sự thật.
Nhân tiện đây, với tư cách là thành viên Hội Đồng Hoàng Tộc Nguyễn
Phúc, tôi có lời chia xẽ với bất cứ ai mang dòng máu Nguyễn Phúc là, dòng họ, tổ
tiên chúng ta đã có công lớn trong việc mỡ mang, khai hoang lập ấp, giữ gìn
phát triễn bờ cõi quốc gia. Ngày hôm nay, quê hương chúng ta không còn như khi
các ngài còn tại thế. Lãnh thổ và lãnh hải đã mất, Cao Nguyên Trung phần Việt Nam cũng
đang mất. Đến khi nào thì quốc gia mà đức Cao thế tổ Hoàng Đế Gia Long đã
đặt tên là Việt Nam hoàn toàn rơi vào tay Bắc Kinh? Ai làm chuyện bán
nước này? Nếu không phải là Cộng Sản Hà Nội? Và ai trong hoàng tộc đã và đang
tiếp tay, cộng tác, phò tá cho bọn bán nước cộng sản tàn bạo này? Xin thưa, quý
vị đã bán lương tâm, bán linh hồn, bán đi danh dự, làm đau lòng các bậc tiên đế
dòng họ Nguyễn phúc! Phủ phục bọn bán nước CSVN, quý vị đã làm nhục các
ngài!
Tôn Nữ Thị Ninh là một trong những điển hình cho việc làm nhục
anh linh tiên đế. Đề nghị Hoàng Tộc khai trừ tất cả các thành viên đã
ít nhiều bắt tay giúp sức cho bọn CS bán nước.
Bài viết này, tôi chỉ dành cho những ai yêu chuộng sự thật, và
muốn thẳng thắn nhìn vào sự thật. Tôi không viết cho những kẻ muốn vạch lá tìm
sâu, những kẻ chạy tội, những kẻ mù quáng phạm thượng đánh đồng tôn giáo với những
người “lãnh đạo tôn giáo”, những kẽ cố tình đánh đồng những bậc chân tu với những
tên cộng sản mượn áo tu hành của mọi tôn giáo.
Tôi xin chia xẽ vài suy nghĩ về vấn nạn thần quyền lũng đoạn thế
quyền mà trong đó cá nhân tôi đã là một nạn nhân. Cuối tháng 12/1969, chúng tôi
nhận được tin tức từ cơ quan tình báo quân sự Hoa Kỳ CID tại Phú Bài cho biết
có điên đài đang phát sóng tại địa điểm X, mà sau đóm, chúng tôi xác định đó là
chùa Trà Am. Hai tháng sau, 4 tấm không ảnh chụp về đêm được nhận diện rất rõ
có 3 tên VC vũ trang xuất hiện tại hậu trai của chùa. Tôi và đại úy Trương Công
Ân trưởng phòng CSĐB liền thiết lập một trạm bí mật theo dõi. Chưa đầy 6 tuần lễ
sau, chúng tôi phát giác một số đối tượng CS mà chúng tôi vẫn đang theo dõi lên
chùa hội họp vào những ngày thứ bảy chủ nhật, khi mà có đông thiện nam tín nữ đến
lễ chùa. Và trung tuần tháng 5/1970 sẽ có phiên họp của cơ sở nội thành diễn ra
tại đây. Lúc 6giờ 30 sáng ngày 19/5 chúng tôi đổ 2 trung đội CSDC và 20
CSĐB đến vây chùa, bắt được một phụ nữ dưới 30 tuổi tên là Lê Thị Út, cán bộ an
ninh thành ủy Huế,năm thanh niên, cùng thầy Thích Như ý. Tang vật gồm có một số
tài liệu của CS gồm một nghị quyết mới nhất của trung ương đảng CS. Sau đó, qua
khai thác 7 người này, chúng tôi biết được buổi họp tối hôm đó là để bố trí
công tác cho 5 cơ sở nội thành, thực hiện một số mục tiêu phá hoại, đặt chất
nổ tại các cơ quan quan trọng của chính quyền và hai rạp Ciné Tân Tân và Châu
Tinh. Khi chúng tôi rời chùa Trà Am 9 giờ sáng ngày 19/5/1970 thì 3 giờ chiều
cùng ngày, Phật Giáo bắt đầu biểu tình. Đoàn biểu tình rầm rộ kéo xuống tòa
Hành Chánh Tỉnh phản đối chính quyền đàn áp Phật Giáo, yêu cầu thả người! Nghĩ
mà cay đắng. Tất nhiên, chúng tôi không thể thả CS mà trong đó bao gồm ông
Thích Như Ý. Ngày 20/5 lực lượng phật Giáo tiếp tục biểu tình rầm rộ hơn, phản
đối chính quyền đàn áp Phật Giáo, yêu cầu thả người. Tình hình ngày lúc càng trầm
trọng. Cùng ngày, chúng tôi nhận được 2 công điện khẩn, một từ văn phòng tư lệnh
CSQG thiếu tướng Nguyễn Thanh Phong và một của đại tá trưởng khối CSĐB yêu cầu
giải thích nội vụ chuyện bắt Thích Như Ý. Chung quy cũng vì cái chữ “Thích” của
ông ta mà ra, nếu ông ta không mang họ “Thích” như mấy tên VC kia thì chính quyền
địa phương, trung ương, và anh em chúng tôi đâu có phải căng thẳng khổ sở đến vậy.
Và chuyện dĩ nhiên không dừng tại đó. Chúng tôi tiên liệu chuyện sẽ nổ lớn, vì
Thích Như Ý có liên hệ gia đình với Tượng Tọa Thích Trí Thủ, Tổng Thư Ký
viện Hóa Đạo Sài Gòn. Khả năng một biến động về phật Giáo lại xãy ra chỉ là
chuyện thời gian. Ban tham mưu chúng tôi không còn giải pháp nào hơn là nhanh
chóng lập hồ sơ đưa ra hội đồng an ninh tỉnh hoặc giải tòa, cùng lúc thương lượng
với phía Phật Giáo. Tối 21/5, tôi đích thân đến chùa Linh Quang, gặp thượng tọa
Mật Nguyên. Là một người cao tăng đức độ, phật tử hay bất cứ ai gặp ông đều nể
trọng, ông giữ chức chánh đại diện GHPGVNTN miền Vạn Hạnh sau khi Đôn Hậu thoát
ly ra bắc. Mặc dù phải đương đầu với những áp lực nặng nề từ những tín đồ quá
khích và đám cơ sở VC đội lốt tăng ni, ông luôn luôn chủ trương tìm cách hòa giải
với chính quyền bằng tấm lòng ngay thẳng từ bi. Ông tiếp tôi tại nhà hậu trai.
Sau khi tình cho ông những bằng chứng, bốn tấm không ảnh, lời khai của Thích
Như Ý và đồng bọn. Tôi cho Thượng Tọa biết là chúng tôi sẽ đưa ra hội đồng anh
ninh tỉnh hoặc ra tòa, có thể mở họp báo để công luận suy xét.
Và tôi cũng đã hỏi ông: “ Bạch thầy, cứ mỗi lần lực lượng CSQG
phá vỡ và bắt giữ một số cơ sở nội thành, thì giáo hội tại Huế lại tổ chức biểu
tình, cho là chính quyền đàn áp Phật Giáo, bắt bớ tăng ni phật tử. Vậy những
người biểu tình đó là ai? Họ ở bắc hay nam vĩ tuyến 17?” Trầm ngâm một lúc, cuối
cùng, ông nói với tôi:
“Con biết trong giáo hội Huế, người của bên kia cũng nhiều, khó
mà kiểm soát được họ. Nhưng thôi, thầy không muốn đề cập dến chuyện này. Các cuộc
biểu tình vừa rồi không phải là giáo hội hành động, mà là do một nhóm Phật giáo
đồ. Khi nghe tin chùa Trà Am bị lục soát và thầy Như Ý bị bắt, họ hấp tấp biểu
tình phản đối. Họ chẳng cần xin lệnh của giáo hội, chẳng có lệnh của Thầy. Mọi
chuyện có thể trầm trọng hơn, thôi thì mỗi bên nhường nhịn nhau một tí. Thầy sẽ
cho họ biết rõ nội vụ, yêu cầu họ chấm dứt biểu tình. Phần con cũng nên tha cho
thầy Như Ý và mấy người đó đi, mọi chuyện hóa giải tất cả”. Tôi không đồng ý
“Bạch thầy, thật khó cho con. Thầy Thích Như Ý và mấy người kia
là cơ sở và cán bộ an ninh nội thành Việt Cộng. Họ đang mưu toan và đã có kế hoạch
đặt chất nổ phá hoại, giết hại dân lành. Họ phải bị truy tố ra tòa” Thượng tọa
ngắt ngang lời tôi:
“Thôi được, mấy người kia là chuyện ngoài đời, thế tục, thầy
không muốn nhúng tay vào. Riêng thầy Như Ý, con tha cho ông ta. Con có muốn thầy
đứng ra bảo lãnh cho thầy Như Ý không?” tôi trả lời ông:
“Dạ, không dám. Con chỉ có thể hứa với thầy là con sẽ đưa ra Ủy
Ban An Ninh tỉnh, với đề nghị thật nhẹ. Nhưng với 6 người kia thì con vẫn lập
thủ tục giải tòa. Và lời hứa thứ 2 là sẽ không họp báo công bố nội vụ, nhưng với
điều kiện sẽ không có cuộc biểu tình nào nữa vào ngày mai”
“ Con yên tâm đi. Thôi con về. Xe để ở đâu? Con ra cửa sau, cẩn
thận đừng để ai thấy, kẻo thiên hạ lại tung tin thầy có quan hệ với ông Liên
Thành, với Mỹ. Ngoại trừ có chuyện khẩn cấp, bình thường con cứ nói thằng Bích
lên đây gặp thầy là được rồi”
Ngày 22/5 hồ sơ Thích Như Ý và đồng bọn được chuyển qua hội đồng
an ninh tỉnh truy tố với đề nghị: Thích Như Ý: 3 tháng. Sáu đồng bọn: 2 năm tái
xét. Và cuộc biểu tình chấm dứt lúc 10 giờ sáng ngày 22/5/1970
Mọi chuyển tưởng đã ổn, nhưng không. Ba ngày sau, 26/5, viên cố
vấn CSĐBN gặp tôi:
“Đại Úy Thành, ông gặp rắc rối rồi”. Ông ta cho biết, nội trong
ngày, khoảng 2 hay 3 giờ chiều, thiếu tướng Nguyễn Thanh Phong, tư lệnh CSQG và
một phái đoàn cao cấp của chính phủ gồm đại tá Nguyễn Khắc Bình, giám đốc phủ Đặc
Ủy Trung Uơng tình báo, một đại tá thuộc cục an ninh quân đội, nếu tôi nhớ
không lầm là đại tá Nhuận và 4 sĩ quan cao cấp thuộc khối CSĐB/BTL sẽ gặp tôi
điều tra việc bắt Thích Như Ý và lục soát chùa Trà Am. Từ phi trường Phú Bài
đích thân tướng Phong gọi cho tôi yêu cầu tôi trình diện ông ta tại phòng
khách danh dự của phi trường. Biết là chuyện lớn, tôi cố gắng thu gom tất cả
tài liệu, tang chứng, kể cả khối chất nỗ gồm 6kg chất nỗ TNT và 8 ngòi nỗ chậm,
mà Lê thị Út đã chuyển từ mật khu về chùa Trà Am, sau đó đem cất giấu ở vùng
nghĩa trang gần núi Ngự Bình, tôi để ở ngoài xe, cùng hình chụp tang vật.
Sau gần 30 phút thuyết trình diễn tiến và kết cục của sự việc,
tôi kết thúc bằng câu nói “Trình Thiếu Tướng và quý vị trong phái đoàn, khối chất
nỗ và 8 ngòi nỗ chậm hiện đang để ngoài xe, quý vị muốn xem tôi mang vào?”
“Không cần đâu Liên Thành. Thiếu Tướng muốn hỏi em một câu nữa,
Tại sao Phật Giáo ngưng biểu tình?”
Tôi thuật lại cuộc gặp gỡ và những thỏa thuận giữa Thượng Tọa Mật
Nguyên và tôi cho ông nghe. Tôi hiểu phần trình bày của tôi đến đây là quá đủ.
Tôi xin phép ra ngoài, để cho phái đoàn thảo luận và quyết định số phận của
mình.
Rời phòng khách danh dự, tôi đứng ở cửa dành cho hành khách ra
phi cơ, ngước nhìn trời xanh mây trắng, lòng thanh thản vì đã chấm dứt được sự
căng thẳng hơn tuần nay. Lúc đầu, đối đầu với chùa Trà Am, nay thì phải đối đầu
với BTL/Cảnh Sát, Phủ Đặc Ủy tình Báo trung Uơng, Cục An Ninh quân đội.Tôi
phó mặc cho định mạng, tự hỏi, không ngờ vụ này đụng chạm quá lớn?
Một lúc sau, một thiếu tá đến mời tôi vào gặp lại Thiêú tướng
Nguyễn Thanh Phong. Không khí phòng khách lúc này có vẽ bớt căng. Ông nói:
“ Liên Thành, thiếu tướng và phái đoàn phải trở lại SàiGòn bây
giờ. Vụ trà Am, Thiếu tướng và phái đoàn đã rõ.
Tôi đưa Thiếu tướng và phái đoàn ra phi cơ. Trước khi bước lên
phi cơ, ông nói với tôi;
“ Huế khó lắm. Em chu toàn công việc như vậy là tốt rồi. Gắng
lên! Về ông Như Ý, cũng nên nhẹ tay cho ông ta phần nào.”
Mọi người lần lượt bắt tay tôi rồi bước lên máy bay. Đại Tá Nguyễn
Khắc Bình siết chặt tay tôi. Tôi hiểu ông muốn biểu lộ sự thấu hiểu và chia sẽ
nào đó. Tôi nói nhỏ, vừa đủ ông nghe: “Cảm ơn Đại Tá”
Phi cơ cất cánh, để lại làn khói trắng phía sau giữa bầu trời
trong xanh, và cũng để lại lòng tôi một nỗi cay đắng, mãi cho đến tận bây giờ.
Thêm một chuyện nữa xãy ra cho tôi sau chiến dịch Bình Minh mà
trên 1500 cơ sở nội thành, luôn cả những cơ sở kinh tài trọng yếu đã bị cơ
quan chúng tôi bắt giữ. Đó là tôi bị “Phái đoàn Quốc hội VNCH” hỏi thăm sức khỏe,
vì chuyện này.
Nói là phái đoàn, nhưng thật ra chỉ có 4 dân biểu đối lập thuộc
khối Ấn Quang, trong đó có Bà Kiều Mộng Thu Hai trong bốn người đó là gà nhà của
Thích Thiện Siêu, chùa Từ Đàm. Họ đắc cữ là do quý thầy lo cho. Chuyện là họ là
thường trú nhân tại Sài Gòn nhưng lại ứng cữ và đắc cữ đơn vị thừa Thiên Huế,
thế mới là hay! Họ đến Huế trên danh nghĩa là thăm chiến trường Trị Thiên,
nhưng lại không ra chiến trường hoặc vào bệnh viện thăm viếng thương bệnh binh,
mà lại đòi vào tù thăm VC nằm vùng mà chúng tôi vừa mới bắt, theo lệnh của “thầy”
Thiện Siêu. Mục đích nhằm tạo niềm tin cho các cơ sở VC rằng, đừng lo, đừng lo
khai báo gì, có ô dù bảo lãnh ra thôi. Sau khi gặp đại tá tỉnh trưởng Tôn Thất
Khiên, họ được đại tá chuyển lệnh cho tôi, đề nghị hướng dẫn phái đoàn viếng
thăm tù nhân. Theo lẽ thông thường, tôi thuyết trình tình hình địch, tình hình
bạn cho khách v.v..Nhưng vì đã biết rõ mục đích của họ, tôi đã không phí thời
giờ làm việc này. Sau khi an vị, bà dân biểu vào đề ngay:
“chúng tôi đã gặp đại tá tỉnh trưởng sáng nay, và được đại tá chấp
thuận. Mong rằng thiếu tá trưởng ty cho chúng tôi được thăm viếng một số đồng
bào đã bị thiếu tá bắt giữ trong mấy ngày vừa qua. Đây là danh sách những người
mà chúng tôi muốn gặp và muốn trực tiếp nói chuyện với họ” Vừa nói vừa đưa cho
tôi một danh sách dài những tên nằm vùng
Tôi nhìn vào một danh sách có khoảng 20 người, gồm: Bửu Chỉ,
Nguyễn Hữu Đính kỹ sư canh nông, Hoàng thị Thọ học sinh, Nguyễn khoa Phẩm chủ tịch
hội đồng thừa Thiên, Lê phước Á, giáo sư, Lê quang Nguyên, nghị viên hội đồng tỉnh
v.v. Tôi cười, trả lại bản danh sách cho bà dân biểu
“Thưa bà và quý vị dân biểu, tôi không thể thỏa mãn yêu cầu của
quý vị được. Bởi lẽ, những người này là cơ sở nội thành của trung tá CS Hoàng
Kim Loan. Hơn nữa, họ đang trong thời gian thẩm vấn, không thể gặp gỡ thăm viếng
được. Sau khi thẩm vấn quý vị sẽ được quyền gặp”
Bốn dân biểu này đổi sắc mặt, giận dữ. Một ông người Huế nói,
xin tạm dấu tên:
“Ông trưởng ty nói chi? Chúng tôi là dân biểu, những người đại
diện cho dân, chúng tôi có quyền thăm viếng những người dân lành vô tội bị ông
bắt bớ bừa bãi”. Tôi yêu cầu ông ta đưa bằng chứng chúng tôi bắt bớ dân lành vô
tội, nếu không ông ta vu khống nhân viên công lực. Ông ta yêu cầu cho xem hồ
sơ. Chúng tôi từ chối vì ông ta tuy có nhiều quyền, nhất là quyền bất khả xâm
phạm. Nhưng ông ta không có quyền xem hồ sơ đó. Ông ta đe dọa đưa ra quốc hội
chuyện tôi bắt trên một ngàn “dân lành vô tội” và sẽ cắt ngân sách của bộ TL Cảnh
Sát. Ông còn chữi tôi là một tên trưởng ty cảnh sát du đảng, không xem luật
pháp ra gì. Tình hình mỗi lúc một gây cấn, bà Kiều mộng Thu xuống nước, chỉ
xin thăm “dân lành”một tí thôi là xong ngay. Nhưng tôi vẫn giữ nguyên quyết định
ban đầu. Ra lệnh cho tôi không xong, các ông bà con trời này đòi xông thẳng vào
trung tâm thẩm vấn. Tôi nói với giọng rất từ tốn, nhưng chắc nịch:
“ Tôi nhắc lại với ông dân biểu, Huế đang trong tình trạng chiến
tranh, kẻ nào có mưu toan hoặc hành động xâm phạm cơ quan công quyền, nhất là
trung tâm thẩm vấn, nơi đang giam giữ tù nhân Việt Cộng, tôi sẽ cho lệnh lính
gác bắn hạ ngay, ông dân biểu nghe rõ chưa?”
Hai ngày sau, ông dân biểu họp báo tại Sài Gòn, báo chí thân ông
đăng tải những loạt bài bêu riếu, bôi nhọ tôi tàn tệ, nói rằng tôi vi phạm luật
pháp, bắt bớ dân lành bừa bãi, đề nghị cách chức trưởng ty Liên Thành, truy tố
ra tòa, đòi cắt ngân khoản cho CSQG, Chỉ có một điều duy nhất mà ông không tố
tôi được, đó là tham nhũng. Tôi biết, ông đã cố moi móc ghê gớm, nhưng ông bó
tay. Tôi chờ đợi bàn giao cho vị tân trưởng ty, lòng buồn nhưng không hề hối tiếc.
Nhưng xui cho ông dân biểu, lần này Đại Tá Nguyễn khắc Bình đã nắm rõ vấn đề,
nên tôi bình yên vô sự. Ông dân biểu nay cũng đã già, và cũng là người tỵ nạn
CS đang ở Cali, tôi không nỡ nhắc tên ông. Nhưng không biết có bao giờ ông
nghĩ rằng, một trong những nguyên nhân làm ông phải mang thân xứ người, là hậu
quả của những hành động như ông đã từng làm?
Qua vài mẫu chuyện mà chính tôi đã là nạn nhân, tôi muốn gióng
lên một tiếng chuông, kêu gọi chúng ta hãy suy nghĩ về tương lai lâu dài của
dân tộc. Giai đoạn từ 1963 đến 1966 là giai đoạn mà thần quyền đã lũng đoạn thế quyền.
Cá nhân tôi cũng đã từng là một nạn nhân sống của vấn nạn này.
Vấn nạn này đã làm sụp đổ một thể chế và kéo theo những hệ lụy
khủng khiếp của nó. Vĩnh viễn chúng ta phải tránh vết xe đổ này. Lúc nào, thời
đại nào cũng có những kẽ bất lương đội áo mũ tu hành để mưu đồ quyền lực tiền bạc.
Cần có luật pháp minh bạch và một sự suy nghĩ độc lập sáng suốt để tránh những
di hại cho quốc gia. Một số lớn các nước trong hệ thống Hồi Giáo vùng trung
đông là một ví dụ rõ ràng nhất trong việc thần quyền điều khiển thế quyền. Các
giáo sĩ đã lợi dụng quyền lực và lòng tín ngưỡng mù quáng của tín đồ để điều
khiển chính quyền, nhào nặn ra các chính trị gia rồi giật dây họ để phục vụ cho
các mưu đồ riêng của mình, gây rối loạn xã hội và chính trị, bất chấp tương lai
và sự phát triễn lâu dài của đất nước, mà trong đó, dân chủ là một điều kiện tối
cần để một xứ sở, một dân tộc có thể đi lên.
Tại các nước phương tây, thần quyền không còn và không thể lũng
đoạn thế quyền được nữa. Nhưng tại rất nhiều quốc gia khác, thần quyền đen vẫn
là một uy lực khủng khiếp. Khi thần quyền lũng đoạn thế quyền, chuyện tất yếu
là quốc gia sẽ trở thành miếng mồi ngon cho độc tài hoành hành, nhất là độc tài
cộng sản. Và quốc gia sẽ phá sản.
“Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách”, câu nói rất quen cửa
miệng, nhưng bao giờ thì mỗi người chúng ta thực hiện được?
Liên Thành
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét