Thứ Sáu, 20 tháng 12, 2013

NHỮNG HỘI CHỨNG SAU “CÁCH MẠNG 1-11-1963”

NHỮNG HỘI CHỨNG SAU “CÁCH MẠNG 1-11-1963” 

Nguyễn Văn Lục

Tính từ ngày 2-11-1963 sau cái chết của Tổng thống (TT) Ngô Đình Diệm, đã gần một nửa thế kỷ trôi qua. Những uẩn khúc về cái chết ấy và những sự việc liên quan đến chế độ Đệ nhất Cộng hòa miền Nam Việt Nam vẫn là đề tài “nóng”, gây ra tranh cãi trong cộng đồng người Việt hải ngoại.
Đó là một điều không bình thường.

Điều không bình thường ấy là do tất cả những người trong cuộc từ chính giới Mỹ, các tướng lãnh đều che dấu sự thật. Hay không dám nói (hết) sự thật.

Máu của TT Diệm đã chảy. Cũng như máu của bất cứ ai đã chảy thì cũng duy nhất có một mầu đỏ, không thể có mầu nào khác.

Nếu nó có mầu khác vì người trong cuộc cố tình che dấu và đổi mầu máu.

Vì thế, một số những người viết lại về biến cố 1-11-1963 từ trước tới nay đều đi lạc mục tiêu hoặc đặt sai vấn đề hoặc không đủ tư cách để viết. Thường họ đi tìm hiểu ai là kẻ trực tiếp giết ông Ngô Đình Diệm-Ngô Đình Nhu hay Đại tá Lê Quang Tung nhưng chỉ nghe kể lại, không có đủ chứng cớ, tài liệu, và điều kiện kiểm chứng.

Những bài viết gần đây chứng minh cho nhận xét vừa nêu trên. Đại tá Trần Doãn Thường vừa lên tiếng nói thay cho tướng Lê Văn Nghiêm. Ông cho rằng Đại tá Lê Văn Tung ra khỏi phòng họp là bị Nguyễn Văn Nhung đưa đi bắn liền.

Trung tá Lê Văn Trang, con trai tướng Nghiêm, cho rằng “‘ông cụ’ không có nói như thế bao giờ. Chỉ biết đại tá Tung bị đưa ra ngoài và bị giam thôi.” Sau đó, tướng Lê Văn Nghiêm không biết gì nữa.

Bởi vì có thể người ta quên rằng đây là một âm mưu (un complot) đảo chính, lật đổ một chính quyền hợp pháp do một số tướng lãnh. Đứng đầu là tướng Dương Văn Minh, Trần Văn Đôn và một số phụ tá thi hành lệnh trực tiếp như Mai Hữu Xuân, Dương Hiếu Nghĩa, v.v…

Nay kẻ cầm dao đâm trực tiếp giết người thì đã chết thảm. Nhưng kẻ chủ mưu, kẻ ra lệnh thì như thể kẻ ngoài cuộc.

Đó là một sai lầm cơ bản trong nhận định và tìm hiểu cuộc đảo chính 1-11-1963, một bất công đối với những người đã chết trong đó kể cả những người như Đại úy Nguyễn Văn Nhung.
Đồng ý là nay máu những người chết có thể bị người ta đổi mầu. Nhưng may thay xác chết bao giờ cũng là nhân chứng cuối cùng tố cáo tội phạm và đồng lõa.

Nhà thờ Cha Tam nơi Tổng thống Diệm và ông Ngô Đình Nhu bị bắt, giải về Tổng Tham Mưu (2/11/1963)

Xác chết ông Diệm và Nhu tố cáo cho thấy họ bị đánh đập dã man trước hoặc sau khi bị giết. Viên trung úy chỉ huy trưởng bệnh xá bộ Tổng tham mưu lúc bấy giờ là Trung úy y sĩ Huỳnh văn Hưỡn đã khám nghiệm hai tử thi và đã chứng nhận xác ông Diệm có nhiều vết bầm. Xác ông Nhu thì bị đâm nhiều nhát. Hai tay của họ thi bị trói quặp sau lưng.

(Trích Trần Nhã Nguyên, Lịch sử Việt Nam 1940- 2007, trang 335. Trích lại trong Những ngày cuối cùng của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, Hoàng Ngọc Thành & Thân Thị Nhân Đức, San Jose, CA, USA: Quang Vinh & Kim Loan & Quang Hiếu, (1994), trang 476.)

Kết luận là họ bị đánh đập tàn nhẫn trước khi bị bắn chết! Trước hay sau. Đây là điều quan trọng trong cái chết còn nhiều bí ẩn của hai ông Diệm-Nhu?

Phần đông người ta chỉ được nhìn thấy một bức hình ông Ngô Đình Diệm bị trói tay, kê đầu trên một cái chậu và mặt mũi bầm tím.

Nay có thể có thêm cơ hội có những bức hình khác.

Theo thiếu úy Nguyễn Văn Trinh, nhân viên phòng 6 bộ Tổng Tham Mưu,cho hay là ông xem được một bức hình đăng trên tờ báo quân đội của Mỹ, tờ Stars and Stripes hình chụp ông Diệm- Nhu bị đem ra khỏi xe và để nằm ở ngay tại cột cờ bộ Tổng Tham Mưu, sau đó được đem vào một nhà sét, chứa đồ, khu nhà của bộ chỉ huy quân cảnh. (Bức hình này có thể kiểm chứng được nếu một số sĩ quan hiện nay còn sống xác nhận hoặc có thể tìm lại được bức hình này trên tờ báo Mỹ). Riêng tướng Lê Minh Đảo, qua điện thoại ngày 25-11-2010, cho hay ông không ra nhìn hai xác chết khi được chở về nên không thể xác định các chi tiết vừa nêu trên.

Nay thì chỉ cần một nhân chứng như một trung sĩ quân cảnh có thấy xác hai anh em ông Diệm-Nhu được đem ra khỏi xe Thiết vận xa và để nằm trước cột cờ TTM không.

Nhưng tác giả Quốc Đại đã bổ túc thêm tài liệu của thiếu úy Nguyễn Văn Trinh ở trên trong Ai giết anh em Ngô Đình Diệm, nhà xuất bản Thanh niên. Người viết thắc mắc không biết bằng cách nào tác giả Quốc Đại có được bản sao bản tài liệu phúc trình mang tên Tài liệu sơ lược về hai ông Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu sau khi chết ngày 2-11-1963, lúc 11 giờ 15 đến ngày an táng 8-11-1963 lúc 21g. Rất tiếc tác giả Quốc Đại đã không chụp lại bản sao phúc trình.

Tài liệu sơ lược về hai ông Ngô Đình Diệm-Nhu sau.

“Xác của hai anh em Tổng thống Diệm được khiêng xuống đặt ngay trên nền đất của sân cờ. Hai anh em ông Diệm nằm chỏng trơ như vậy. Miệng ông Nhu há hốc, mắt nhắm, máu ở miệng trào ra dính hai bên mép và cổ, máu đã trở thành đen (…) Hai thi thể nằm chơ vơ như thế khá lâu vì Hội đồng quân nhân chưa có một quyết định nào. Từ cổng Bộ tham mưu đã được lệnh canh chừng nghiêm mật nhất là đề phòng các ký giả ngoại quốc.”

(Trích Quốc Đại, Ai giết anh em ông Ngô Đình Diệm, trang 561.)

Nếu được nhìn lại đầy đủ hình dạng hai xác chết, cách họ chết, cách họ bị đối xử thì sẽ là giải pháp hay nhất có tính cách thuyết phục.

Và lúc đó có thể nói rằng, hai ông Diệm-Nhu đã chết với tư cách là những người bị ám sát.
Tuy nhiên, có một bằng chứng xác thực không chối cãi được là những viên đạn súng lục được bắn đi ghim trên hai xác chết ông Diệm và Nhu đều là đạn được quân đội Mỹ cung cấp.

Hội chứng về một thủ đoạn âm mưu (Théorie du complot)

Nay nhìn lại cuộc đảo chính 1963 cho thấy nó vượt ra ngoài khuôn khổ pháp lý. Người Mỹ có thể chỉ thực thi dân chủ ở nước họ. Nhưng khi xuất cảng khái niệm dân chủ, tự do thì món hàng ấy trở thành món hàng giả. Họ đã đứng sau “đạo diễn” và “bảo kê” cho một âm mưu đảo chánh phi pháp luật, phi dân chủ. Nếu âm mưu đó thành đạt thì nó biến thành “cuộc cách mạng”. Nhưng giả dụ nó thất bại thì các tướng lãnh trên trở thành những kẻ phản loạn.

Vì thế, chính tướng lãnh không ai tin ai. Trong cuộc phỏng vấn ông Cao Xuân Vỹ trong cuốn Những huyền thoại & sự thật về chế độ Ngô Đình Diệm, Vĩnh Phúc viết lại lời ông Cao Xuân Vỹ Như sau:

Ngay từ lúc 4 giờ sáng ngày 2/11/63,Trần Thiện Khiêm đã biết hai ông Diệm Nhu không còn ở trong dinh Gia Long, nhưng không nói cho phe Dương Văn Minh biết. Tôn Thất Đính án binh bất động, hễ thắng nhận công, nếu thua trình cụ “Con không làm gì.”(…) Tướng Đôn nói với ông Cao Xuân Vỹ, “Kêu Đính phải tấn công dinh Gia Long; Đính nói chưa tập trung quân được. Kêu Thiệu, trả lời mới có một tiểu đoàn, phải chờ hai tiểu đoàn nữa mới tấn công được. Anh nào cũng “chờ” cả. Đôn than ở Tổng tham Mưu nóng ruột, nghĩ rằng ông Diệm sẽ đánh lên …”

Trích sách Những huyền thoại& sự thật về chế độ Ngô Đình Diệm, Vĩnh Phúc, trang 318.

Phần Conein nhận xét về tướng lãnh Việt Nam như sau: “Không một sĩ quan nổi dậy nào dám chỉ huy cuộc tấn công dinh Gia Long. Ngô Đình Diệm lúc đó vẫn còn là một khuôn mặt mà họ kính phục. Không ai muốn chấp nhận sự hổ thẹn để trực tiếp tấn công ông ta”.

Trích “Biến cố chính trị Việt Nam hiện đại”, trang 199. Phạm Văn Lưu. Trích lại trongWilliam J. Rust and the editors of U.S. News Books, Kennedy in Viet Nam, trang 170 New York, News Books Scribners, 1985.

Tiếc rằng ông Diệm đã không cho lệnh đánh, theo tác giả Nguyễn Hữu Duệ.
Người viết trong cuộc chuyện với tướng Tôn Thất Đính (trung tuần tháng 7-2010) thì tướng Đính cho rằng ông có nhiệm vụ ngăn chặn quân của Huỳnh Văn Cao có thể về cứu giá như lần trước. Ông bị đẩy vào tình huống phải hành động theo các tướng lãnh nếu không sợ Mai Hữu Xuân ám hại. Nhưng ông không trực tiếp tấn công Dinh Gia Long.

Vì là một âm mưu đảo chính mang tính cách phi pháp nên các chính quyền sau “cách mạng” chỉ ba tháng sau, một âm mưu đảo chánh khác hình thành và những tướng lãnh của cuộc “cách mạng” tháng 1-11 lại trở thành mục tiêu của cuộc “chỉnh lý”. Và cứ thế các biến động liên tiếp thiếu tính chính đáng tiếp tục xảy ra trong ba năm, được gọi là “ba năm xáo trộn”.

Thiếu một quyền lực chính đáng được nền tảng pháp luật nhìn nhận và tôn trọng, các chính phủ sau ông Diệm đều yếu kém quyền lực trong việc quản lý quốc gia cộng với tài năng giới hạn, không có kế hoạch, không có đường lối đã dẫn đưa đến sự sụp đổ liên tiếp các chính phủ. Sự rối loạn của các chính phủ nối tiếp nhau đã làm suy yếu tiềm lực miền Nam. Nó kết thúc bằng sự thua trận chung cục đến làm ngạc nhiên và sững sờ của mọi người.

Điều này thì chính quyền Mỹ thời Kennedy cũng đã chia rẽ và ngờ vực vì không hy vọng tìm ra kẻ thay thế ông Diệm.

Càng có nhiều xáo trộn thì ý nghĩa cuộc đảo chánh “1-11-1963” càng mất giá.

Nếu ông Diệm chấp nhận cho Lữ Đoàn Liên binh Phòng vệ Phủ Tổng thống đánh trả thì như lời tướng Đôn xác nhận với ông Cao Xuân Vỹ, “Thì tôi thua.”

Trung tá Nguyễn Cao Kỳ trách nhiệm phần vụ nếu thất bại sẽ dùng mấy chiếc Dakota của Liên Đoàn vận tải để đưa các các tướng tá qua Thái Lan.

Âm mưu này được tính toán, tổ chức, lôi kéo, mua chuộc, hứa hẹn nhiều người cùng tham dự thì việc đổ tội cho một mình Nguyễn Văn Nhung liệu có chấp nhận được không? Những xác chết đó chết do một âm mưu bất chính, phi pháp chẳng khác gì một vụ thủ tiêu hay ám sát nên ngay từ đầu họ đã bắt buộc phải che dấu, dàn dựng và sẵn sàng nói dối.

Các vị tướng tá đã im lặng trong nhiều năm cho đến tận ngày hôm nay và sự che dấu ấy biến cuộc “cách mạng 1-11-1963” thành một cuộc âm mưu theo đúng quy luật của Théorie du complot.

Vì thế, nói đến tính chất chính đáng hay không chính đáng của cuộc cách mạng 1-11-1963 có thể là thừa, vì việc che dấu tất cả sự thật cho đến bây giờ gây ra biết bao lời đồn trái ngược, thị phi và những hệ lụy từ đó.

Nhưng nếu việc che dấu không ai nhận mình ra lệnh giết hai ông Diệm-Nhu đặt ra vấn đề chính nghĩa của ngày 1-11-1963 thì đồng thời nó cũng đặt ngược lại “tính chính đáng” (Legitimate power) của chế độ Đệ nhất Cộng hòa đã bị xâm phạm.

Người ta có thể nào dùng những biện pháp bạo lực, không chính đáng để phá đổ một chính quyền hợp pháp trong mưu cầu tái lập một trật tự mới chính đáng hơn không?

Âm mưu ấy ngay từ đầu đã cho thấy sự bất cập, xét về mặt pháp lý hiến định.

Người viết xin mượn lại ý tưởng của bà Ngô Đình Nhu về Khái niệm quyền lực chính đáng mà bà Nhu đã dùng để bênh vực cho chế độ đệ nhất cộng hòa trong một bài phỏng vấn ngày 11/02/1982 (Interview with Madame Ngo Đinh Nhu, February 11, 1982, Legitimacy of the Diem governement. (Trích lại Nguyen Van Hoa, trong giaodiemus/us-2009/11.16.09-nvh.baNDN.htm).

Tiếp theo, tạp chí Raggio (Ánh Sáng) 1983 ở Ý có một số bài viết của bà Ngô Đình Nhu như “Promessa a Lalogica del destino”, trang 4-7, tiếp theo “La Logica del Destino”, trang 8-23. Nhưng quan trọng hơn cả là bài viết: “La logica del Destino”.

Xin giới thiệu với độc giả đó cũng là tựa đề bài viết cho tập Hồi ký của bà Ngô Đình Nhu chưa xuất bản, dày khoảng 500 trang. La logica del Destino lô-gic và định mệnh – định mệnh con người – định mệnh đất nước – định mệnh dòng họ Ngô Đình từ Quảng Bình vào Huế tới Sài Gòn. (Tác giả Nguyên Hương N.C. đã cung cấp tài liệu.)

Sau khi Nhà Trắng nhận được tin hai ông Diệm Nhu đã chết, bộ ngoại giao Hoa Kỳ chỉ thị cho Cabot Lodge. Cabot Lodge đã chỉ thị cho Conein gặp tướng Minh mà mục đích là mắng cho Minh một trận (chữ dùng trong tài liệu là “to scold Minh”, theo nghĩa từ nguyên mắng, la rầy như mắng một đứa trẻ con phạm lỗi). Trung tá mắng Trung tướng thì nhân cách, vị thế trung tướng là gì?

- Ông Minh: Họ đã tự tử
- Conein: Ở đâu?
- Ông Minh: Thì ở trong một nhà thờ.
- Conein: Này, ông nghe tôi đây, đó là công việc của các ông, nhưng tôi phải nói cho ông biết rằng với tư cách một người Thiên Chúa giáo. Giả dụ đêm nay, một linh mục làm lễ cầu hồn cho ông (Diệm), mọi người sẽ hiểu ông Diệm đã không tự tử. Câu chuyện ông kể khó ai tin được.
- Ông Minh: Thế ông có muốn nhìn xác ông ấy không?
- Không, một người trên một triệu người có thể tin câu chuyện của ông. Và nếu câu chuyện đổ bể, tôi không muốn bị coi là đã tiết lộ tin này.

(Trích Viet Nam, A History, Stanley Karnow, trang 311).

Lần đầu tiên trong lịch sử, hai xác chết tự tử mà tay bị trói quặt ra sau lưng. Điều này cho thấy Hội đồng Tướng lãnh không có kế hoạch sau đảo chánh, không trù liệu một biện pháp cụ thể nào về số phận hai ông Ngô Đình Diệm. Vì thế, các vị tướng lãnh quýnh quáng, hoảng hốt tuyên bố bừa bãi trước sự đã rồi.

Sự đồng lõa trong trong âm mưu đi đến chỗ phải hạ sát ông Diệm đã đẩy mọi người trong cuộc vào tình thế phải dối trá hoặc im lặng đôi khi ngoài ý muốn.

Cả cái đám người “đi rước” ông Diệm tại nhà thờ Cha Tam đều đồng lõa trong âm mưu này. (Théorie du complot). Tướng Mai Hữu Xuân, đại tá Dương Ngọc Lắm, Thiếu tá Dương Hiếu Nghĩa, Đại úy Phan Hòa Hiệp, Đại úy Nguyễn Văn Nhung, v.v…

Họ không thể nói không biết gì cả. Tại sao họ phải im lặng?

Họ phải im lặng vì họ sợ sự thật; họ sợ những người sống và sợ cả những người đã chết.
Như tướng Kỳ nhận xét:

“I was shocked and angry, however, the next day when I learned that Diem and Nhu had been shot to death. (…) It was too late to go back, but with these killings, I lost what little respect I once had for the generals. It showed how fearful they were of maintaining power.”

(Trích Nguyen Cao Ky, Buddha’s Child, trang 97).

Ông Kỳ viết, “The generals must have feared that as long as Diem was alive, he remained a threat to their own power.”

(Trích Nguyễn Cao Kỳ như trên, trang 97.)

Và đây là âm mưu mua chuộc, hứa hẹn giàu sang, chức tước.

“Duệ đấy hả? Qua là Đại tá Quan đây.
‒ Dạ thưa Đại tá, Duệ đây.
‒ Ông Minh hứa là nếu toa theo nữa thì mọi việc sẽ êm xuôi, và tránh được đổ máu. Ông Minh sẽ cho Duệ lên Đại tá và muốn bao nhiêu tiền cũng cho (…) Toa nghĩ kỹ đi Duệ.”

(Tôi không chắc là đúng 100%, vì lâu quá rồi, nhưng đại ý là như vậy.)

(Trích Nguyễn Hữu Duệ, Hồi ký “Nhớ lại những ngày ở cạnh Tổng Thống Ngô Đình Diệm”, trang 65-66).

Và đây là chứng từ của nhà báo Stanley Karnow:

“What occurred after that has been related in various versions, but most details concur. The convoy headed toward Saigon and stopped at a railroad crossing. There, by every account, the assassinations took place. General Don’s later investigation determined that Nghia shot the brothers point-blank from the gun turret with an automatic weapon while Nhung sprayed them with bullets, then stabbed their bodies repeatedly with a knife. Awash with blood, the armored car went on, preceded by the jeeps, whose passengers had not looked back.
Don and the others officers were stunned when the corpses arrived at headquaters. Barging into Mính’s office, he demanded an explanation; Minh parried him, and Don began to insist. At that moment the door opened and Xuan entered. Unware of Don’s presence, he snapped to attention and said, “Mission accomplie”.

(Trích Stanley Karnow, Viet Nam, a History, trang 310)

Tài liệu của Stanley Karnow xuất hiện sớm nhất, vào năm 1983, dựa theo nội dung cuộc trả lời phỏng vấn của Tướng Trần Văn Đôn cũng xác nhận có hai người trực tiếp giết ông Diệm Nhu là Dương Hiếu Nghĩa và Nguyễn Văn Nhung.

(Còn tiếp)
NHỮNG HỘI CHỨNG SAU “CÁCH MẠNG 1-11-1963” (II)
 

Nguyễn Văn Lục

Qua chứng từ sau đây của các nhà báo đã lập lại luận điểm của Stanley Karnow và họ đưa ra bằng chứng cụ thể và đầy đủ của một âm mưu thanh toán người một cách chuyên nghiệp, lạnh lùng và đầy thú tính như sau:

“Minh proved right. The Ngo brothers gave up at a Catholic Church in Cholon. Bundled into an M-113 armored personnel carrier, their hands tied behind them, the Ngos did not even make it to Joint General Staff headquarters. At a crossroads along the way the vehicle halted. The brothers were cut down by a hail of bullets. The perpetrators were major Duong Hua (Hieu) Nghĩa, an armor officer; and captain Nguyen Van Nhung, General Minh‘s body-guard. Minh lied about the circumstances of these events, and the Vietnamese put out several versions of what happened.”

(Trích John Prados, Lost Crusader, trang 127.)

Trích dẫn trên đây của John Prados cho thấy tướng Dương Văn Minh đã nói sai sự thật và hai sĩ quan có trực tiếp giết anh em ông Diệm-Nhu là Thiếu tá Dương Hiếu Nghĩa và Đại úy Nguyễn Văn Nhung.

Đại tá Nguyễn Hữu Duệ cũng nghe và kể lại đại tá Dương Hiếu Nghĩa có nhúng tay vào vụ thảm sát này:

“Còn thiếu tá Nghĩa, dù ông cố cải chính, nhưng căn cứ vào hành động của ông, cũng như một số nhân chứng, chỉ có những người ngây thơ tới mức ngu xuẩn mới tin là ông đã không nhúng tay vào vụ thảm sát. Ông có nhiệm vụ gì mà vào gặp Tổng thống? Thiếu tá Vũ Quang (sau lên đại tá) là bạn cũng khóa với tôi, và cũng đã phục vụ ở lữ đoàn một thời gian, kể với tôi là anh thiếu tá Nghĩa vừa đi vừa lau bàn tay đẫm máu, vào bá cáo với trung tướng Minh (Anh Quang bây giờ cũng ở Hoa Kỳ). Một sĩ quan quân cảnh (rất tiếc không nhớ tên anh) kể với tôi là anh cũng thấy ông Nghĩa lau tay vấy máu.Trung tá Nghĩa cũng là một trong những phụ thẩm của tòa án cách mạng đã kết án tử hình ông Ngô Đình Cẩn. Như vậy, cái chết của ba anh em tổng thống Diệm cũng đều do trung tá Nghĩa nhúng tay vào.”

(Trích Nguyễn Hữu Duệ, Nhớ lại những ngày ở cạnh Tổng thống Ngô Đình Diệm, trang 170-171.)

Và sau khi hoàn tất việc lật đổ chế độ ông Ngô Đình Diệm vào đầu tháng 11-1963, ông Đại sứ Cabot Lodge đã mời các vị tướng tham gia cuộc đảo chính đến tư dinh để khen ngợi các vị như một vinh danh – chẳng những thế họ đều không một chút hối hận (unrepentant) – cái vinh dự của các vị tướng VN cũng đồng thời là hãnh diện riêng của ông đại sứ – Vài ngày sau, ông Cabot Lodge đã điện về cho TT Kennedy bằng một công điện vắn tắt đầy lạc qua như sau:

“The prospect now are for a shorter war.”

(Trích Stanley Karnow, Viet Nam, a History, trang 311.)

Hoa Kỳ hoan hỉ công nhận chính quyền mới như một hình thức hợp thức hóa một âm mưu đảo chánh bất hợp pháp!

Và nhận xét đáng giá nhất trong lúc ấy là họ Unrepentant. Không hối hận gì cả. Họ hãnh diện, họ tự hào. Họ tháo cũi xổ lồng, họ cho nhảy đầm bên cạnh xác chết vừa mới được chôn vội vàng.

Tất cả những ai nhận tiền trong vụ giết hai anh em ông Ngô Đình Diệm đều là đồng lõa (Théorie du complot). Dấu diếm, chạy tội có thể bị coi là hèn nhát, nhưng nhận tiền để thủ tiêu một chính quyền hợp pháp, để ám sát Tổng tư lệnh Quân đội là điều bất xứng đối với hàng tướng lãnh!

Trong dịp phỏng vấn cựu tướng Tôn Thất Đính vào trung tuần tháng 7 vừa qua, tại quận Cam, ông đã không ngần ngại nói các tướng lãnh đều hèn nhát, ham danh và ham lợi. Trong số đó, may ra, ông còn đôi chút kính nể Trần Văn Đôn.

Đây là câu nhận xét của người trong cuộc trong đó ông tự xỉ vả chính mình.

Vinh danh ấy đi kèm theo một phần thưởng bằng hiện kim nói ra mà hổ thẹn. Số tiền nhiều nhò gì cho cam?

Theo Arthur J. Dommen trong The Indochinese Experience of the French and the American,

Conein đã nhét đầy cặp da của ông ta một số tiền để giúp cho các tướng lãnh đảo chánh. Vào năm 1971, tướng Trần Văn Đôn đã ra lệnh cho trung tá Phạm Bá Hoa làm một danh sách số tiền mà các vị trên đã nhận được. Tướng Tôn Thất Đính nhận 600.000 ngàn đồng, Lê Nguyên Khang 100.000, Trần Ngọc Huyến 100.000, Phan Hòa Hiệp 100.000, Đào Ngọc Diệp 100.000, Nguyễn Văn Thiệu 50.000. Còn 1,450.000 giao cho Dương Văn Minh, Lê Văn Kim, Tôn Thất Đính, Nguyễn Hữu Có, Trần Ngọc Tám, Nguyễn Khánh, Đỗ Cao Trí. Riêng tướng Dương Văn Minh nhận thêm 6000 đôla lấy từ trong cặp da của ông Diệm.

(Trích Arthur J. Dommen, The Indochinese of the French and the Americans, trang 545)

Trong số những người nhận tiền đó, không ai hỏi xem Đại úy Phan Hòa Hiệp làm gì mà nhận được số tiền hơn cả Đại tá Nguyễn Văn Thiệu.

Trong khi đó thì tướng Đỗ Mậu đã viết như sau về số tiền của Conein:

“Cũng cần phải nói rõ rằng số tiền ba triệu đồng Việt Nam do Conein mang đến đã không một tướng lãnh nào hay biết, trừ tướng Đôn. Tướng Đôn không bao giờ trình bày cho Hội đồng tướng lãnh biết có nhận số tiền đó của Conein hay không và nếu có thì đã xử dụng vào việc gì (…) Ước mong tướng Đôn giải tỏa nghi vấn nhỏ này để quân đội dưới quyền quyền ông lúc bấy giờ khỏi mang tiếng và để sự trong sáng của cách mạng khỏi mang một tì vết nào. (Tướng Đôn đã không đề cập đến số tiền này trong Hồi ký của ông.)”

Trích Hồi Ký Hoành Linh Đỗ Mậu, Tâm sự tướng Lưu vong, trang 619.)

Và chắn hẳn khó có ai có có bàn tay sạch sau khi đã ngửa tay nhận tiền của Mỹ và được thăng thêm một cấp!

Hội chứng về mặc cảm tội phạm và tìm cách chối tội

Tất cả những người tham dự vào âm mưu đảo chính và giết ông Diệm thì đều tìm cách chối tội. Các Hồi ký của các tướng lãnh như Việt Nam nhân chứng của tướng Trần Văn Đôn, Tôn Thất Đính với 20 năm binh nghiệp, Nguyễn Cao Kỳ với Bhuddha’s child và Twenty years and twenty days, Nguyễn Chánh Thi với Việt Nam một trời tâm sự và nhất là của tướng Đỗ Mậu với Việt Nam máu lửa quê hương tôi cho thấy không ông nào viết giống ông nào, nói trước quên sau, tiền hậu bất nhất, viết thiếu chuẩn mực và thiếu trung thực. Việc viết hồi ký của họ chỉ nhằm hai mục đích:

Viết để chạy tội. Không một hồi ký nào nhận trách nhiệm trực tiếp giết ông Diệm-Nhu.

Hoặc viết để tự đề cao mình như Đỗ Mậu, Nguyễn Chánh Thi.

Tướng Dương Văn Minh

Nhiều tướng lãnh như Trần Văn Đôn, Tôn Thất Đính hay Đỗ Mậu đều cho rằng ông Minh là người trực tiếp ra lệnh giết ông Diệm. Nhưng vào năm 1971, nhân kỷ niệm 7 năm “cách mạng tháng 1-11-1963”, có cả Nguyễn Văn Thiệu đến tư dinh của đại tướng Dương Văn Minh. Trả lời câu hỏi của báo chí là ai ra lệnh giết hai anh em ông Diệm-Nhu, ông Minh trả lời, Tôi không ra lệnh giết anh em tổng thống Diệm, nhưng tôi là người chịu trách nhiệm.Năm 1983, từ Việt Nam qua sống ở Paris (Pháp), ông Minh cũng lặp lại câu trả lời này khi báo chí hỏi.

(Trích Trần Nhã Nguyên, Lịch sử Việt Nam 1940-2007. Trang 341. Trích lại trong Hãy trả lại sự thật cho lịch sử, trang 34.)

Mới đây , 19-11-2010, người viết có điện thoại cho ông Tôn Thất Thiện người đã cùng với Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ và các dân biểu đối lập như Lý Quý Chung, Ngô Công Đức ủng hộ việc ra tranh cử tổng thống của Dương Văn Minh. Theo ông Thiện, ông Minh từng tâm sự ông chỉ là người bị lôi kéo vào cuộc đảo chánh mà thôi.

(Ông Tôn Thất Thiện sau khi tốt nghiệp tiến sĩ Khoa học Chính tri tại Geneva, đã về làm việc thân cận với Tổng thống Ngô Đình Diệm và giữ chức Tổng Giám Đốc Việt Nam Thông Tấn Xã từ giữa tháng 7, 1963 đến 1964. Ông Thiện cũng có mặt trong buổi họp sau cùng của TT Diệm và Đô Đốc Harry Felt cùng ĐS Lodge ngày sáng ngày 1/11/1963 từ 10g đến 12g30. Tiếng súng đảo chánh bắt đầu từ 13g45 cùng ngày – DCVOnline.)

Nếu ông Dương Văn Minh còn chối không nhận trách nhiện giết ông Diệm thì tất cả tướng lãnh khác đều “vô tội” cả chăng? Và ai là người “lôi kéo” Tướng Minh đi đảo chánh?

Tướng Trần Văn Đôn

Và sau đây là ý kiến của tướng Trần Văn Đôn trong Việt Nam nhân chứng, từ trang 249, năm 1989. Những điều tướng Trần Văn Đôn viết dưới đây khác với nội dung ông trả lời phỏng vấn của Stanley Karnow.

“Nhiều khi nghe lời kết tội của người này người kia về trách nhiệm về cái chết của hai ông Diệm Nhu, cố gắng nhớ lại. Những diễn biến đêm 1-11-1963, tôi quả quyết rằng:‒ Không có lời phát biểu công khai nào của tướng tá lúc đó đòi phải xử tử hai anh em ông Diệm Nhu.
‒ Người có đủ quyền để ra lệnh lúc ấy là trung tướng Dương Văn Minh, nhưng không ai thấy ông ta ta ra lệnh bằng lời hay bằng cử chỉ.
‒ Các nhân vật đi rước ông Diệm và Nhu lúc đó đã lần lượt qua đời. Người còn lại không còn bao nhiêu và chưa chắc đã chứng kiến đầy đủ các sự kiện.
‒ Bởi vậỵ, người chịu trách nhiệnm trực tiếp về cái chết của hai ông Diệm – Nhu cho tới bây giờ vẫn còn trong vòng bí mật

Trước 8 giờ 30 ngày 2-11-1963: Trung tướng Dương Văn Minh chỉ định Thiếu tướng Mai Hữu Xuân, Đại tá Nguyễn Văn Quan, Đại tá Dương Ngọc Lắm, Thiếu tá Dương Hiếu Nghĩa đi bắt hai ông Diệm–Nhu.

Tôi gặp Đại úy Nhung trong phòng trung tướng Dương Văn Minh, hai mắt đỏ ngầu.

Gặp trung tướng Minh, tôi hỏi vì quá xúc động:

Tại sao hai ông ấy chết. Tôi thấy ông Minh có vẻ khó chịu nói bằng tiếng Pháp, Ils sont morts, ils sont morts.

Tôi nhìn gần thấy đại tá Nguyễn Văn Quan đang nằm dài, mặt tái xanh, y tá đang chích thuốc.

Lúc đó ông Mai Hữu Xuân vừa đến, đứng ngoài cửa chưa vào văn phòng, chào tay và nói: Mission accomplie”.

Không thể có lời bào chữa nào vô lý và trơ trẽn hơn nữa!Tướng Đỗ Mậu

Điển hình nhất là tướng Hoành Linh, Đỗ Mậu mà theo cái nhìn đánh giá của Pierre Darcourt là: Đại tá Đỗ Mậu, Giám đốc nha an ninh quân đội, cựu trung sĩ vệ binh thời Pháp, một mưu sĩ đầy mánh khóe, không biết ngại ngùng là gì. Kể từ ngày định mệnh đó đến nay, đã có biết bao nhiêu lời phân trần kiểu tướng Đỗ Mậu để chứng tỏ không dính dáng vào quyết định giết hai anh em ông Diệm Nhu?

Trong Hồi ký Tâm sự tướng lưu vong, tướng Đỗ Mậu ghi:


Thấy không khí có vẻ nghiêm trọng, tôi vội hỏi ngay, “Các anh làm gì đứng đây có vẻ bí mật thế?” Tướng Trần Văn Minh (Minh nhỏ) đứng gần đó trả lời rất nhỏ, “ Anh em đang bàn định cách đối xử với ông Diệm, nên giết hay nên cho ông ta xuất ngoại.” Tôi vội nói to cho mọi người cùng nghe, “ Tôi không đồng ý việc giết ông Diệm, lúc còn trong vòng bí mật, tôi đã nói với trung tướng Đôn là phải để cho ông Diệm ra đi, Trung tướng Đôn đã đồng ý rồi.” Tôi vừa nói xong thì tướng Nguyễn Ngọc Lễ, một vị tướng nổi tiếng khoan hòa, đạo đức nhất trong hàng tướng lãnh quay về phía tôi và cũng nói to lên: “Xin anh em đừng nghe lời anh Mậu, đã nhổ cỏ thì phải nhổ tận rễ.” Tôi chợt nhớ trong đêm trước đó đã có người kể cho tôi nghe rằng tướng Phạm Xuân Chiểu cũng đã nói câu như vậy. Thấy không ai phản đối tướng Lễ mà có vẻ im lặng đồng ý, tôi bực mình bèn nói thêm: “Việc tha hay giết ông Diệm là hành động lịch sử, vậy muốn tha hay giết ông ta, tôi đề nghị phải lấy quyết định tối hậu qua một cuộc bỏ phiếu kín, phải ghi vào biên bản đàng hoàng.” (…) Dương Văn Minh thì nhún vai tỏ thái độ bất mãn với tôi. Tôi bực mình giơ tay cao lên và nói, “Nếu không ai đồng ý với tôi thì tôi tuyên bố không dính líu đến việc này, các anh phải chịu trách nhiệm trước lịch sử.” Rồi kéo trung tá Nguyễn Văn Thiện (chỉ huy trưởng thiết giáp) và trung tá Lê Nguyên Khang (hiện ở Los Angeles) ra khỏi nơi tụ họp để đi quan sát tình hình tại trung tâm Sài Gòn.

Trích Hồi ký Hoành Linh Đỗ Mậu, Tâm sự tướng lưu vong, trang 612.(Ghi chú: giữaHồi ký: Việt Nam Máu Lửa Quê Hương tôi, sách dày 1247 trang và Hồi ký Tâm sự tướng Lưu Vong cũng của tác giả Đỗ Mậu, dày 751 trang, giọng điệu có thay đổi, có sự khác biệt giữa hai cuốn hồi ký.)

Tướng Trần Thiện Khiêm

Tướng Trần Thiện Khiêm

Đại tá Nguyễn Hữu Duệ ghi lại bằng những lời lẽ xúc động sau đây của Trung tướng Trần Thiện Khiêm (được thăng trung tướng ngay sau khi xác ông Diệm còn để ở bệnh viện Saint Paul) như sau:

Chắc các anh cũng biết cụ và ông cố vấn đã chết rồi chứ. Xác hai ông để ở nhà thương Saint Paul bây giờ. Nói rồi, ông bỏ kiếng xuống bàn, chùi nước mắt. (…) Khi chào ra về, chúng tôi được ông bắt tay từ biệt, thấy ông buồn rầu ra mặt. (…) Ông có tâm sự với tôi là ông không biết việc giết ông cụ và ông cố vấn (…) Nhưng tôi vẫn buồn về việc ông đã phản lại tổng thống Diệm, và có thể nói, nếu không có ông, cuộc đảo chánh khó có thể thành công được.

(Trích Nguyễn Hữu Duệ, Nhớ lại những ngày ở cạnh tổng thống Ngô Đình Diệm, trang 173-176)Cho nên bao lâu các người có trách nhiệm trực tiếp vẫn giữ sự im lặng thì những suy đoán gán ghép cho người này, người kia đều thiếu cơ sở thuyết phục.

Chúng ta không thể dùng xác của những người đã chết cho những mưu cầu riêng của mình.

Cũng đã hai ba lần gặp tướng Hồ Văn Kỳ Thoại, người viết đã yêu cầu ông liên lạc với đại tướng Trần Thiện Khiêm chấp nhận cho một cuộc phỏng vấn. Xem ra khó có thể thực hiện. Một lần nữa, mong mỏi tướng Nguyễn Khắc Bình và tướng Hồ Văn Kỳ Thoại thực hiện được điều này với trách nhiệm trước lịch sử!

Đại tá Dương Hiếu Nghĩa

Quốc khánh 1963, từ trái: Tướng Dương Văn Minh, Lê Văn Kim, Đại tá Nguyễn Hữu Có, Tướng Trần Văn Đôn (26/10/1963)
Cho đến lúc này, vấn đề trách nhiệm của Đại tá Dương Hiếu Nghĩa trong việc giết ông Diệm- Nhu và Đại tá Lê Quang Tung là gay go nhất. Ngày 31 tháng 8, 2007, người viết bài này có giới thiệu bản dịch Viet Nam, Qu’as –tu fais de tes fils, bản dịch của Đại tá Dương Hiếu Nghĩa với nhan đề: Việt Nam, Quê mẹ oan khiên. Người viết đã giới thiệu ân cần cuốn sách dịch và được trích đăng trên trên báo Sài Gòn nhỏ, số 4, 31 tháng 8, 2007. Trong bài viết, người viết đặt ra một câu hỏi duy nhất chưa có câu trả lời là, Việt Nam tôi có tội tình gì? Người viết đã tìm cách liên lạc với đại tá Dương Hiếu Nghĩa qua điện thoại để bày tỏ sự quý mến qua cuốn sách dịch. (Lúc này Đại tá Nghĩa đã xuống tóc đi tu). Đại tá đã không trả lời điện thoại. Lúc đó, người viết chỉ nghĩ rằng, ông đã muốn quên mọi sự ở đời và lo cho phần đời sau của mình.

Đại tá Dương Hiếu Nghĩa nay đã đi tu với pháp danh là Không Như. Và ông đã từ chối mọi trả lời liên quan đến cái chết của hai ông Diệm Nhu như trong một lá thư trả lời cho một người bạn tên Lộc, đăng lại trên diễn đàn giaodiemonline như sau:

KHông Như Dương Hiếu Nghĩa

“Dương Hiếu Nghĩa đã gác kiếm từ cuối năm 2004, coi như đã rũ bụi hồng trần và không còn trên cõi tạm này nữa. Kể từ ngày ấy, DHN đã xuống tóc vô chùa, quyết tâm yên lặng đi vào con đường tâm linh và vĩnh viễn im hơi lặng tiếng không còn có ý muốn luận kiếm hay tranh chấp với bất cứ ai nữa. Mọi chuyện có liên quan đến Dương Hiếu Nghĩa, xin trả lại cho lịch sử và hãy để lịch sử phê phán. Nếu anh Lộc hay bất cứ người nào khác có trách mắng hoặc nêu lên những lỗi lầm nào đó về hành vi trong quá khứ của DHN, thì Không Như tôi xin ghi nhận hết, và xin tâm thành tạ lỗi với mọi người mà tuyệt đối không có một lời bào chữa hay phiền trách nào hết.”

Thôi thì xin tôn trọng những ước nguyện của ông. Dù ông muốn quên tất cả nhưng có thể lịch sử sẽ còn có dịp nhắc đến tên ông!Cũng được biết, đại tá Dương Hiếu Nghĩa có viết một cuốn hồi ký: Hồi ký dang dở mà nội dung có liên quan nhiều đến tướng Dương Văn Minh và kho tàng của Bảy Viễn trong chiến dịch Rừng Sát.

Nhưng nay tìm lại bản dịch của đại tá Dương Hiếu Nghĩa, người Viết bài này tự hỏi và đặt nghi vấn nhằm mục đích gì khi ông dịch cuốn Việt Nam quê mẹ oan khiên, một cuốn sách lên án rất nặng nề nhóm đảo chánh ông Diệm, đặt biệt là tướng Dương Văn Minh.

Đại tá Dương Hiếu Nghĩa có thể nào đồng thuận với Pierre Darcourt để lên án nặng nề cuộc đảo chính 1-11-1963 chăng với tư cách người trong cuộc? Phải chăng cuốn sách của Pierre Darcourt đã nói thay và biện hộ cho “sự vô tội” của Đại tá Dương Hiếu Nghĩa chỉ vì mấy dòng sau đây:

“Cả hai ông Diệm và Nhu đều bị đại úy Nhung thanh toán bằng mấy phát súng lục 12 ly và đâm thêm nhiều nhát dao găm. Đại úy Nhung, sĩ quan cận vệ của tướng Minh, là người thi hành tất cả lệnh của tướng Minh một cách mù quáng?”

Trích Dương Hiếu Nghĩa chuyển dịch, Việt Nam quê mẹ oan khiên, Pierre Darcourt, trang 268).Tôi chỉ hỏi mà không thể trả lời thay cho đại tá Dương Hiếu Nghĩa được.

© DCVOnline

-Những hội chứng sau “Cách mạng 1-11-1963” (III) (DCVOnline)-Tướng Tôn Thất Đính

Tướng Tôn Thất Đính, qua lời tường thuật của đại tá Nguyễn Hữu Duệ, viết như sau:

“Duệ, chắc anh em tụi mày hận tao lắm phải không? Tình thế buộc tao phải làm như vậy Chúng toa phải biết, nếu Ba Đính này không theo cách mạng, thì thằng Mai Hữu Xuân nó sẽ mượn thế giết hết tụi bay rồi.”
Rồi ông làm nặt cảm động, chùi nước mắt nói tiếp:

“Tụi nó giết cụ, tao có biết gì đâu. Đặt Ba Đính này vào sự việc đã rồi. Nếu cụ nghe tao thì đâu đến nỗi nào”(…) Ông nói huyên thuyên, lúc mày tao, vẻ thân mật, lúc toa moa, (…) Mày gặp anh em, nói cho tụi nó rõ. Ba Đính này đâu có biết thằng Mai Hữu Xuân nó giết ông cụ như vậy. Tao phải theo tụi nó để bảo vệ anh em tụi mày.”

(Trích Nguyễn Hữu Duệ, như trên, trang 179.)

Người viết cũng có dịp trao đổi với Tướng Đính vào trung tuần tháng 7-2010 và xin được tóm tắt ghi lại.

Đúng ra, đây không chính thức là một buổi phỏng vấn. Vì thế cách xưng hô không theo một thể thức trịnh trọng như thông thường mà là Bác với em. Mặc dù không chính thức phỏng vấn, nhưng tôi vẫn cẩn thận mở máy thâu băng như thông lệ. Căn nhà tướng Đính xem ra có phần nhếch nhác, thiếu một bàn tay phụ nữ, mặc dầu bác hiện đang sống với một bà vợ Bắc Kỳ thứ “dữ”.
Giang sơn của bác thu gọn vào một góc với rất nhiều tấm hình trong quân phục oai vệ cầm ba toong của ông tướng một thời. Sau 1963, bác thường nhét một con dao găm vào đôi giầy bốt nhà binh cho thêm oai vệ, Và đi đâu cũng có tiền hô hậu ủng, súng ống hà rầm.

Đó cũng là cung cách Tôn Thất Đính.

Cạnh đó có nhiều bằng khen, tưởng lục, huân chương, v.v… Bác không thể không hãnh diện về điều đó. Nhưng những tấm hình trông beau trai, oai vệ so với vóc dáng hiện nay nhìn mà không khỏi buồn cho bác.

Nay bác như một con người già cô đơn, be bét rượu, say lướt khướt. Mặc dầu bác đã hứa chừa rượu với hai cô cháu gái của bác.

Tôi nhìn bác và khó có thể tin được: cái người ngồi trước mặt tôi, trông thế kia mà đã có thời hét ra lửa và đã gián tiếp giết hại tổng thống Ngô Đình Diệm.

Một ý tưởng lóe lên trong đầu tôi, ông Diệm đáng thương hay cái người ngồi trước mặt tôi đáng thương.
Rượu đã làm nhân cách bác thay đổi so với một vị tướng khác phong cách chững chạc, từ tốn, dè dặt (tướng Nguyễn Bảo Trị). Bác Đính mời tôi uống la de, như vậy trong tủ lạnh còn hai chai. Bác tu hết cả hai chai còn lại rồi sai tôi vào tủ lạnh lấy chai khác. Hết hai chai làm gì còn chai khác; bác gắt nói còn một chai nữa mà tôi cố tình dấu không cho bác uống.
Cắt nghĩa cho bác hiểu là bác quên đã mời tôi một chai.
Tôi gợi ý bác nói về cái ngày 2-11-1963 và hỏi bác có phải chính bác đã gọi cho đại tá Lê Quang Tung – một người bạn thân thiết với tình đồng chí của bác (Cả hai là đảng viên đảng Cần Lao – DCVOnline). Bác nhận có gọi. Nhưng theo anh Lê Quang Phúc, con trai đại tá Tung, lúc đó 15 tuổi thì buổi sáng đó bố anh quyết định không đi.

Định mệnh cách nào đó đã giết đại tá Lê Quang Tung. Vì khi thiếu tướng Trần Thiện Khiêm gọi thì đại tá Lê QuangTung quá tin người và nể Trần Thiện Khiêm nên đã mặc quân phục và lái xe jeep vào bộ Tổng tham mưu.

Ông bị thảm sát vì lời mời này. Trần Thiện Khiêm là người gián tiếp giết Lê Quang Tung chăng?
Phần tướng Đính kể cho hay là khi vào đến bộ Tổng tham mưu thì đã thấy, “‘thằng’ Conein ngồi chủ tọa giữa đám tướng lãnh. Nó ngồi ghếch hai chân lên bàn. Và chỉ thị cho người này, người kia.” Sau đó, bác Đính bắt đầu chửi bọn tướng lãnh chỉ là một lũ hèn, hám danh, hám lợi. Bác tuôn ra một tràng dài…

Tôi hỏi bác có biết ai giết ông Ngô Đình Diệm – Ngô Đình Nhu và nhất lại đại tá Lê Quang Tung? Bác cho biết, lúc đó bác đã đi ra ngoài, chỉ huy cuộc hành quân. Như thế bác không có mặt kể từ lúc 1 giờ 30.

Xem ra thì những kế hoạch giết các ông Diệm-Nhu trên hầu như bác Đính không dính dáng và không biết gì.

Nhưng câu hỏi then chốt mà gần như tôi buộc bác phải trả lời là bác có điều gì hối tiếc trong cuộc đời binh nghiệp của bác không?

Dùng sức mạnh lý luận, ép một ông già không còn năng lực lý luận phải nhìn nhận xem ra có điều bất nhẫn. Cuối cùng bác đã thú nhận hối tiếc đã nhúng tay vào cái chết của hai ông Diệm- Nhu. Đồng thời cũng cố gượng gạo nói là tôi đã cảnh báo hai ông mà họ coi thường không nghe tôi.
Tôi thấy đã đủ những điều mà tôi muốn bác một lần phải nói ra. Và bác đã nói tất cả sự thật- cả tâm tư và sự trăn trở của bác. Sau đó bác rủ tôi ra ngoài đi dạo nói chuyện. Bác than về người vợ Bắc kỳ này. Chuyện riêng của bác xin khép lại ở đây. Tối hôm ấy, tôi được cô cháu gái của bác cho biết ông đi ra ngoài đường quen múa gậy ba toong, dọa nạt kẻ đi đường và bị cảnh sát làm biên bản.

Có lẽ đây là một buổi nói chuyện làm tôi buồn cho thế sự và con người hơn cả. Tôi tội nghiệp bác Đính hơn là ghét ông. Ngoài phần nói chuyện trực tiếp với tướng Đính, tôi còn được biết thêm nhiều chi tiết liên quan đến gia đình, dòng họ, cuộc đời tướng Đính. Trong đó, ông có người anh rể là cấp tướng phía bên cộng sản. Chị tướng Đính đã chết một cách thảm khốc khi chờ đợi lên đường tập kết ra Bắc với chồng năm 1954 tại rừng Phan Thiết. Bà đã bị cọp vồ, chết đi để lại một người con gái còn ẵm ngửa cho gia đình tướng Đính nuôi. Tôi đã được nghe người con gái bất hạnh này kể lại cả quãng đời bất hạnh của bà trước 1975 và sau 1975 và bây giờ.

Chứng từ của một nhân viên ngoại giao đoàn thuộc tòa đại sứ Anh về cái chết của anh em ông Diệm-Nhu

Trong Những huyền thoại & và sự thật về chế độ Ngô Đình Diệm, tác giả Vĩnh Phúc có dành một chương nói về việc đi nhận xác hai ông Diệm Nhu do ông Nguyễn Văn Thành, 20 tuổi, cháu họ ông Diệm và Nhu, kể lại. Tôi cũng có dịp điện thoại nói chuyện với tác giả Vĩnh Phúc (ngày 25-11-2010) để ông nói rõ thêm về những điều đã ghi trong sách. Theo ông Nguyễn Văn Thành kể lại trong sách một cách khá trung thực là ngày 2-11-1963, Tổng tham mưu có điện thoại cho ông bà Trần Trung Dung đến nhận xác ông Diệm-Nhu tại nhà thương St Paul, góc đường Tú Xương và bà Huyện Thanh Quan.

“Cũng theo ông Nguyễn Văn Thành có 5 người đi nhận diện xác là: ông bà Trần Trung Dung, Nguyễn Văn Thành và một người em gái của đức cha Nguyễn Văn Thuận (sau là Hồng y Nguyễn Văn Thuận) và chồng bà này. Theo ông Nguyễn Văn Thành còn nhớ lại thì mặt tổng thống Diệm bị bầm, không hiểu có bị đánh hay không. Về sau, Thành nhớ rằng ông Nhu bị bắn từ phía sau ra phía trước, vì có vết phá ra đằng trước trán. Thành lục tìm trong túi hai ông thì thấy có hai chuỗi hạt có thánh giá, một khăn mùi xoa. Thành lấy chiếc khăn trong túi ông Nhu, thấm máu với chủ ý giữ lại làm kỷ vật để trao cho bà Nhu. Rồi Thành đưa khăn đó cho bà em đức cha Thuận. Khi mọi người bước vào nhà xác thì thấy xác ông Nhu được đặt trên chiếc băng ca quân đội để dưới đất. Còn xác ông Diệm để nằm trên cái bệ xi măng, trên bệ có một tảng đá và bức tượng.”

(Trích tóm lược Vĩnh Phúc, Những huyền thoại & sự thật về chế độ Ngô Đình Diệm, trang 324-326).

Nhân đây, người viết xin nói rõ tên người em gái LM Nguyễn Văn Thuận và người đàn ông đi theo. Em gái LM Thuận là bà Nguyễn Thị Niềm (đã quá vãng) và người chồng bà Niềm là một nhân viên ngoại giao trong tòa đại sứ Anh ở thời điểm 1963. Tên ông là Brian Smith. Hai nhân vật ở Huế xác nhận với người viết có biết ông Brian Smith, có đi dự lễ đám cưới của ông Brian Smith với bà Ngô Kim Yến. Bà Ngô Kim Yến không có quan hệ họ hàng với gia đình ông Ngô Đình Diệm.

Qua trung gian một người cháu của bà Ngô Kim Yến, người viết được biết ông Brian Smith qua cuộc điện đàm ngày 19-11-2010. Người viết đã được nghe ông Brian Smith nhắc lại một vài sự việc về hai cái chết của ông Diệm Nhu. Ông Smith rất thông thạo tiếng Pháp mà còn tỏ ra biết nhiều chuyện. Ông dù lớn tuổi, nhưng còn đủ minh mẫn và sáng suốt, nhưng ông vẫn nói một cách chừng mực.
Ông cho biết ông lúc ấy ông có vợ Việt Nam tên Nguyễn Thị Niềm, cháu gái của TT Ngô Đình Diệm, em gái LM Nguyễn Văn Thuận (đều là con bà Ngô Đình Thị Hiệp – DCVOnline). Vào đúng thời điểm 1963, ông bà vừa mới sinh được cháu gái tên là Chi Lan.

Chi Lan đã trưởng thành, lập gia đình từ mấy năm nay rồi. Phần bà Ngô Kim Yến nói tiếng Huế rất là Huế. Không biết mặt, nhưng nghe giọng nói thanh thoát nhẹ nhàng, thoải mái thì như nhắc nhở cả một thời xứ Huế với biết bao kỷ niệm. Hai ông bà qua câu chuyện có vẻ rất hạnh phúc.
Có lẽ đây là một buổi hạnh ngộ kỳ lạ trong đời may mắn gặp được ông một lần. Ông Brian Smith, đưa người viết từ ngạc nhiên này sang ngạc nhiên khác, qua việc kể lại các sự việc một cách tự nhiên. Ông lấy vợ Việt Nam đã là một chuyện, lại có cơ duyên lấy cháu Tổng thống Diệm, chia sẻ gánh nặng oan nghiệt về hai cái chết của hai người bác và sau này một lần nữa lại lấy bạn gái của bà Niềm.

Một cách định mệnh, một nhà ngoại giao ngoại quốc lại dính dáng vào những giai đoạn lịch sử bi kịch của VN với vai trò một người trong cuộc.

Rồi bất ngờ nghe ông kể về việc đi thăm nhận dạng hai xác chết của TT Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình Nhu như thế nào. Trên đời sao lại có những hạnh ngộ như thế và hôm nay, tôi được nghe ông nói chuyện qua điện thoại.

Sau khi nghe tin anh em ông Ngô Đình Diệm bị thảm sát, với tư cách người của Ngoại giao đoàn đồng thời là bà con gần nhất của gia đình TT Ngô Đình Diệm. Ông đã cùng với ông Trần Trung Dung đến nhận dạng hai xác chết ngay khi còn để trong thiết vận xa.
Theo ông Brian Smith thì tình trạng các tướng lãnh lúc bấy giờ là hốt hoảng, sợ hãi. Quả thực họ quá sợ hãi, xấu hổ và tìm cách che đậy. Ông Brian Smith nhấn mạnh trường hợp tướng Tôn Thất Đinh không dám đến nhận diện xác chết hai ông Diệm- Nhu vì xấu hổ.

Ông Brian Smith nói tiếp, “tôi có chụp nhiều bức hình hai cái xác ông Diệm và ông Nhu cho thấy họ đã chết như thế nào.Thật không vui vẻ gì khi phải nhìn hai xác chết của hai ông. Họ không đáng phải nhận một cái chết ghê tởm như thế.

Thật là man rợ. Tôi không bao giờ có thể quên được những hình ảnh đó.

Tôi chỉ muốn xác nhận ở đây rằng, họ đã bị đánh đập, bị đâm nhiều nhát dao với các thương tích trên mặt và trên cơ thể và sau đó bị kết liễu bằng những phát đạn. ”

Cũng theo ông Brian Smith, lúc đó ít có ai dám tới gần xác chết của hai anh em ông Diệm-Nhu. “Nhưng tôi là một nhà ngoại giao thì khác. Vả lại, tôi còn đến thăm xác chết hai ông với tư cách người thân cận nhất trong gia đình ông Diệm. Question de famille.”

Ông nhắc lại đôi lần là ông còn giữ nhiều bức hình do chính ông đã chụp hai ông ở trong thiết vận xa. Nhưng hiện nay ông để tất cả ở bên Luân Đôn. Khi nào về lại Luân Đôn sẽ gửi sau.
Xin dừng câu chuyện về ông Brian Smith ở đây đến khi có các bức hình đó. Thật rất mong muốn và hy vọng sẽ nhận được những bức ảnh đó.

Nếu nhận được những bức hình đó thì thì đây là những bức ảnh (lịch sử) quý giá nhất về sự kiện và của giai đoạn đó mà chúng ta đã đọc/xem được từ trước đến nay. Những tấm hình đó đồng thời giúp soi sáng thêm về hai cái chết bí ẩn của họ.

Trao đổi qua điện thoại với tướng Lê Minh Đảo

Gần đây, tài liệu sách vở trích dẫn lại (đặc biệt tác giả Lệ Tuyền trong bài “Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm: Người Anh Hùng Vị Quốc Vong Thân” đã trích dẫn lại cuốnNam Việt Nam, 1954-1975 Những sự thật chưa hề nhắc tới, của Hoàng Lạc và Hà Mai Việt, Texas, 1990 trong đó ám chỉ rằng tướng Lê Minh Đảo là người đã giết đại tá Lê Quang Tung. Thêm đó có bài viết của ông Tú Gàn chứng minh tướng Lê Minh Đảo không thể là người giết ông Lê Quang Tung. Mới đây nữa có thêm bài viết của đại tá Trần Doãn Thường viết lại theo lời kể của tướng Lê Văn Nghiêm.

Bài viết của bà Lệ Tuyền trích dẫn lại trong sách của tướng Hoàng Lạc như sau:

Trần Văn Đôn đã gọi điện thoại cho ông nói là mời đến họp. Và trong phiên họp của cái gọi là “Hội Đồng quân nhân Cách mạng”. Đại tá Lê Quang Tung đã lớn tiếng, “Chúng bay đeo lon, mặc áo, thụ hưởng phú quý, lạy lục để được tổng thống ban ơn, mà nay lại dở trò bất nhân, bất nghĩa.”

Đại tá Lê Quang Tung chỉ kịp nói đến đó thì liền bị cựu tướng Lê Minh Đảo lúc đó là đại úy, tùy viên của tướng Lê Văn Kim, lôi lên chòi canh trên sân thượng của tòa nhà chánh Bộ Tổng Tham Mưu bắn chết ngay.

Em ruột của đại tá Lê Quang Tung là Thiếu tá Lê Quang Triệu, Tham mưu trưởng lực lượng đặc biệt được tin cũng liền chạy sang Bộ Tham mưu để xem hư thực, thì cũng bị đại úy Lê Minh Đảo dùng súng bắn chết.”

Tướng Hoàng Lạc (t) và Đại tá Hà Mai Việt (p)
Nguồn: © hon-viet.co.uk


Tất cả những sự kiện nêu trên đều rất khó kiểm chứng thật hư vì

• Ai có thể cho biết đại tá Lê Quang Tung có thực sự nói những lời mắng nhiếc tướng lãnh như thế?
• Tướng Kim bị thất sủng, không có quân, chỉ có một tùy viên quân sự (sĩ quan Lê Minh Đảo) khó có thể đảm nhiệm công việc đó dễ dàng.
• Trong ngày đảo chánh tướng Cao Văn Viên cũng bị nhốt chung một chỗ với đại tá Lê Quang Tung khi được thả có kể lại sự việc cho bà Lê Quang Tung. Theo tướng Cao Văn Viên cho biết vào khoảng hai giờ sáng ngày 2-11-1963 thì quân cảnh vào dẫn đại tá Lê Quang Tung ra ngoài và từ đó, ông không hề biết số phận đại tá Lê Quang Tung ra sao nữa. Tướng Cao Văn Viên là nhân chứng cuối cùng những giây phút chót của đại tá Lê Quang Tung. Các tướng Hoàng Lạc và Đại tá Hà Mai Việt, không có mặt tại chỗ và không nêu ra nguồn của thông tin “Lê Minh Đảo bắn Lê Quang Tung và Lê Quang Triệu”.
• Về phía Mỹ – của CIA hay của các tác giả sử gia, báo chí – không có tài liệu nào đề cập tới trường hợp Đại úy Lê Minh Đảo có liên quan đến việc Đại tá Tung bị giết.

Đến đây, xin dành cho tướng Lê Minh Đảo đôi lời giải thích.

Theo tướng Lê Minh Đảo, sau 1-11-1963, ông được điều động về làm tỉnh trưởng Long An và vào khoảng tháng 12, Thiếu tá Nguyễn Văn Nhung (1919 hay 1920; chết 31 January 1964) có xuống thăm ông. Trong dịp này, Thiếu tá Nhung có tiết lộ về việc giết đại tá Lê Quang Tung đồng thới xác nhận việc chôn cất ở đâu. Thiếu tá có cho biết ông ta đang đeo cái đồng hồ của đại tá Tung. Nhung đã đâm nhiều nhát mà ông Tung không chết ngay; xác đã chôn cùng cả thẻ bài quân đội tại nghĩa trang người Hoa.

Để kết thúc phần này, xin đưa ra lời kể lại của tướng Lê Minh Đảo như phần kết luận của l người đã được nghe Nguyễn Văn Nhung kể lại về vụ giết hai anh em ông Diệm-Nhu và giết hai anh em đại tá Tung như thế nào.

Vụ giết hai anh em ông Diệm-Nhu

Không Như Dương Hiếu Nghĩa
Nguồn: OntheNet

________________________________

Có hai xe thiết giáp và hai sĩ quan có trách nhiệm “thanh toán” ông Nhu và có thể ông Diệm. Đó là các sĩ quan Dương Hiếu Nghĩa và Nguyễn Văn Nhung. Định mệnh an bài cả hai anh em lại được lên ngồi cùng một xe. Chỉ có Đại úy Nhung ngồi trên tháp một xe M113. Thiếu tá Dương Hiếu Nghĩa thì ngồi trên xe jeep. Trong thâm tâm thì thiếu tá Nghĩa có thể cũng muốn tránh công việc bội bạc đó nên đã đùn cho Nguyễn Văn Nhung “chuyên môn” hơn. Đại úy Nhung kể là lúc xe dừng ở cổng xe lửa, ông đã mở nắp xe và dùng súng bắn ông Nhu trước, sau đó bắn đến ông Diệm. Bắn xong, Nhung còn chui vào xe và dùng dao đâm cả hai anh em. Cứ theo những chi tiết kể lại ở đây thì bắn trước, đâm sau và klhông có vụ tra khảo gì cả!

Việc thanh toán hai anh em ông Diệm-Nhu là có quyết sẵn và từ trước rồi.

Về vụ giết đại tá Lê Quang Tung và thiếu tá Triệu

Đại uý Lê Minh Đảo xác nhận lời Đại tá Cao Văn Viên kể lại, ông bị giam chung với đại tá Lê Quang Tung và mãi đến hai giờ là đúng; Nhung mới dùng dao găm đâm đại tá Lê Quang Tung. Buổi tối cùng ngày, Thiếu tá Triệu mới vào và cũng bị trói tay, sau đó bị thanh toán bằng dao găm đến chết. Thiếu tá Triệu có phần khỏe nên công việc có phần vất vả hơn. Sau đó Nhung dùng xe chở họ đi ra cổng số 4, sau bộ TTM trên một con đương đất đỏ dẫn ra một nghĩa trang người Hoa. Đến nơi, Nhung đã vội vã vùi thây họ mà tay vẫn còn bị còng và vùi thây hai anh em ở đó.

Như thế, cứ theo lời kể của tướng Lê Minh Đảo trên thì cả 4 người đều do một bàn tay Nhung thanh toán.

Do được Thiếu tá Nguyễn Văn Nhung kể về địa điểm chôn xác đại tá Lê Quang Tung nên sau này có dịp xuống Marseille vào năm 2003 cùng với Trung tá Lê Văn Trang, Tướng Lê Minh Đảo có gặp ông Cầu (nguyên chuẩn úy. Sĩ quan tiếp liệu của lực lượng đặc biệt) là con rể của ông Lê Quang Tung, Tướng Đảo có nhắc tới địa điểm chôn cất mà Thiếu tá Nhung đã kể cho ông.

Người viết còn được biết chính đại tá Hà Mai Việt nay cũng phủ nhận những gì đã cùng viết với Tướng Hoàng Văn Lạc, trong cuốn Nam Việt Nam,1954-1975 Những sự thật chưa hề nhắc tới.

Những tâm tình của Lê Quang Phúc, con trai đại tá Lê Quang Tung

Đại tá Lê Quang Tung (TL LLĐB) và Đại tá Hồ Tấn Quyền (Tư lệnh Hải Quân) bị phe đảo chánh giết ngày 1/11/1963
Nguồn: © vietlyhuong.blogspot.com

________________________________

Đây có thể là lần đầu tiên ông Lê Quang Phúc trao đổi những gì liên quan đến cái chết của thân phụ ông, Đại tá Lê Quang Tung, mà ông giữ kín trong lòng từ bao nhiêu năm nay. Ít lắm cũng gần nửa thế kỷ im lặng, ẩn nhận và chịu đựng.

Những tâm tình này cũng giúp soi sáng một phần không ít vào cái chết oan nghiệt và bí ẩn của thân phụ ông mà cho đến nay, chết thế nào, ai giết và chôn cất ở đâu cũng không rõ.

Buổi nói chuyện điện thoại giữa chúng tôi diễn ra đầu tháng sáu, 2010, sau đó người viết bài có gặp ông Lê Quang Phúc trọn một ngày để nói chuyện và bổ túc những chi tiết chưa rõ. Và những ngày gần đây thường liên lạc để so sánh, phân tích những dư luận khác nhau liên quan đến cái chết của đại tá Lê Quang Tung.

Theo ông Lê Quang Phúc, lúc đó ông 15 tuổi nên cũng hiểu biết được một số sự việc liên quan đến cái chết của thân phụ ông. Buổi sáng 1-11-1963, (ngày lễ chư thánh nên đại tá Lê Quang Tung được nghỉ ở nhà, không đi làm) thân phụ ông có nhận được một cú điện thoại từ tướng Tôn Thất Đính, một đồng chí và người bạn thân thiết của gia đình mời đại tá Lê Quang Tung lên Tổng Tham mưu họp. Đại tá Tung đã từ chối sau khi lớn tiếng với tướng Tôn Thất Đính và vẫn mặc bộ đồ Pyjama ở nhà, ông đã quyết định không đi họp. Nhưng sau đó, tướng Trần Thiện Khiêm lại gọi điện thoại đến nhà mời đi họp. Không biết tướng Khiêm nói những gì và lần này đại tá Tung đã đổi ý và lên xe jeep đi họp.

Quyết định đi họp lần này đưa đến cái chết oan nghiệt sau đó vì lời mời của tướng Trần Thiện Khiêm.

Buổi chiều cùng ngày, vào khoảng 3 giờ chiều, thì Tổng thống Diệm gọi đến nhà (trong nhà có đường giây điện thoại của phủ tổng thống) và chính Lê Quang Phúc trả lời điện thoại. Ông Phúc sau đó đã trao điện thoại cho mẹ ông nói chuyện với tổng thống. Sau khi mẹ ông trình với Tổng thống là Đại tá Tung đã đi họp ở TTM được biết những lời nói cuối cùng của tổng thống là, “Vậy là không xong rồi.” Và Tổng thống cúp điện thoại.

Câu nói cuối cùng của tổng thống Diệm: Vậy là không xong rồi có thể bao hàm hai nghĩa: Hoặc ông Lê Quang Tung có thể bị mua chuộc và theo nhóm đảo chánh, hoặc đúng hơn là ông đại tá Tung đã bị rơi vào bẫy của đám tướng đảo chánh và ông Diệm cảm thấy mất hết mọi nguồn hy vọng.

Cũng kể từ đó, gia đình hoàn toàn không nhận được tin tức gì của Đại tá Tung. Ngày hôm sau, một số sĩ quan thân tín của Đại tá Tung đem xe bọc sắt đến nhà và yêu cầu cả gia đình phải đi tạm lánh nơi nhà bà con.

Theo ông Lê Quang Phúc, không biết bằng cách nào, LM Nguyễn Văn Thuận lúc đó là bề trên chủng viện ngoài Huế, chắc là có sắp đặt trước, đã gửi LM Etcharren vào Sài Gòn tìm được gia đình đại tá Tung và đưa ba người con trai đi ra Huế nhập tu.

Phần các người con gái thì được gửi lên Thủ Đức tại dòng nữ tu Đức Bà truyền giáo (Notre Dame Des Missions).

Sau cái chết của Đại tá Tung, gia đình ông kể như tan nát, mỗi người mỗi nơi. Phần căn nhà của họ thì sau đó đã bị quân đội trưng dụng. Theo lời kể lại của các hạ sĩ quan phục dịch tại nhà Đại tá Tung thì họ đã đến chở cả tủ thờ bằng gỗ cẩm lai mang đi mất.

Kể từ đó, Lê Quang Phúc và hai người em trai sống tại chủng viện Huế và suốt đời không quên ơn những người đã cưu mang gia đình ông trong lúc hoạn nạn. Sau khi đỗ tú tài hai thì Lê Quang Phúc được gửi lên học tại Giáo Hoàng Học viện Piô 10 cho đến 1975.

Trong suốt thời gian sống ẩn tích, Lê Quang Phúc bị gậm nhấm về nỗi hận oán muốn ra khỏi chủng viện để đăng lính bởi vì trong lòng ông vẫn mang những nỗi oán hận khôn nguôi những kẻ ám hại cha mình.

Nhưng LM Nguyễn Văn Thuận, hơn ai hết hiểu tâm trạng của Lê Quang Phúc, đã khuyên ông không nên đi lính và xóa bỏ hận thù.

Một cơ hội nữa là chính vị trung tá Mỹ từng là cố vấn cho đại tá Lê Quang Tung đã thay mặt tổ chức đến nhà và yêu cầu đưa cả gia đình sang Mỹ để cho các con đại tá Tung có cơ hội ăn học. Một lần nữa, LM Nguyễn Văn Thuận cản không cho đi Mỹ nói, “Chúng tôi không để các con chị đói đâu mà.”

Sự ngăn cản này nó có lý do nội tại của nó mà người trong cuộc hiểu được. Xem ra ông Lê Quang Phúc cũng không tiếc nuối gì việc bỏ lỡ một cơ hội sang Mỹ học hành cho riêng mình.

Nhìn lại quãng đời bị ám ảnh bởi quá khứ đen tối về một cái chết đầy oan nghiệt của thân phụ, nếu không có được sự giúp đỡ nuôi ăn học trong nhiều năm, số phận con cái đại tá Lê Quang Tung đã hẳn không được như ngày hôm nay.

Trách nhiệm những người đã giết đại tá Lê Quang Tung vì thế càng trở nên nặng nề về một hậu quả kéo dài sau đó nhiều năm liên quan đến số phận không may cho cả một gia đình với một bày con nhỏ, đứa lớn nhất mới 15 tuổi.

Họ đã sống âm thầm, ẩn kín ròng rã mấy chục năm nay. Họ không có một lời than phiền, không một lời tố cáo, lên án ai.

Và đến nay mới có dịp được trình bày.

Theo ông Lê Quang Phúc, không phải là ông không có dịp để nói. Có người muốn được tiếp cận để ông bày tỏ. Nhưng cách này cách khác ông đã từ chối. Qua nhiều lần tiếp xúc với ông, người viết phải nhìn nhận ông đã đủ trưởng thành, suy nghĩ đã chín chắn, chừng mực và nhất là trong một thái độ khoan hòa, rộng lượng và nhân bản.

Tôi cũng sơ sót và chưa kịp hỏi được nỗi lòng của bà Lê Quang Tung như thế nào? Bởi vì tôi đã có lần được nghe bà đại tá Hồ Tấn Quyền nói về cái chết của chồng bà và những kẻ chịu ơn Đại tá Hồ Tấn Quyền đã phản bội ra sao? Cuộc sống gia đình một Đại tá đông con nói về số lương bổng để thấy những người sĩ quan thanh liêm sống thanh đạm đến làm tôi ngạc nhiên và mủi lòng. (Theo bà Hồ Tấn Quyền lương của Đại tá Tư lệnh Hải Quân [8/1959-1/11/1963] lúc đó khoảng trên 8 ngàn đồng – DCVOnline).

Tướng Nguyễn Khánh
Nguồn: OntheNet

________________________________

Phần bà Tung theo lời kể của Lê Quang Phúc thì bà đã đi gõ cửa từng tướng lãnh một để năn nỉ họ chỉ chỗ chôn xác chồng bà. Nhưng, từ Tướng Tôn Thất Đính, Trần Thiện Khiêm đến Nguyễn Khánh, tất cả đều tìm cách thối thác. Nghĩa là không biết ai giết mà cũng không biết chỗ chôn cất ở đâu.

Đó cách đối xử của hàng tướng lãnh đảo chánh với gia đình một sĩ quan mới ngày hôm trước còn là “huynh đệ chi binh” chỉ vì không cùng chính kiến nên bị giết chết và mất xác?

Việc trốn tránh trách nhiệm này là một điều khó chấp nhận được.

Phần Lê Quang Phúc, cái chết của cha hẳn đã ám ảnh suốt cuộc đời trai trẻ của ông. Ông tâm sự, nhiều lúc như hoang tưởng, ông vẫn tin rằng cha ông còn sống và có thể được người Mỹ cứu thoát và gửi đi công tác ở một chỗ nào đó mà không ai được biết. Ngay các sĩ quan thân cận đại tá Tung hay ông Lê Thành Ý, nhiều người vẫn còn nuôi mối hy vọng và mong một ngày trở về của vị Đại tá.

Nhưng cho đến hôm nay thì phải đành chấp nhận một sự thật phũ phàng là Đại tá Lê Quang Tung đã bị ám hại và đã bị chôn vùi ở một chỗ nào đó mà nay không có hy vọng tìm ra chỗ chôn xác chết.

Qua tâm tình bày tỏ thì hiện nay ông Lê Quang Phúc không còn mang tâm trạng oán hận các vị tướng lãnh trên nữa. Nhưng ông đồng thời cho rằng sau mấy chục năm bây giờ mới được tướng Lê Minh Đảo chỉ địa điểm chỗ chôn cất thì xem ra quá muộn.

Trên thực tế, có thể nay nhà cửa đã được xây cất kín và không có cách chi đào mộ đi tìm dấu tích hai xác anh em ông Lê Quang Tung.

Vả lại đối với ông Lê Quang Phúc thì việc chỉ địa điểm chôn thân phụ ông không còn là điều quan trọng nữa.

Cha ông đã chết một cách oan uổng và nói cho cùng chôn cất ở đâu cũng thế thôi.
Điều chính yếu, ông Lê Quang Phúc cho rằng các vị tướng lãnh trong vụ đảo chánh năm 1963 nợ gia đình ông một lời giải thích.

Lời giải thích là nên cho biết ai là người ra lệnh giết chết thân phụ ông và ai là người trực tiếp đã hạ sát đại tá Lê Quang Tung và chỉ chỗ chôn cất xác hai anh em họ.
Nhưng món nợ đối với gia đình Lê Quang Tung cũng là một món nợ chung cho toàn thể quân đội VNCH và nhân dân miền Nam.

Không thể nào những người có trách nhiệm trực tiếp cứ tránh né, giữ im lặng mãi được. Với vài vị hiện còn sống như Đại tướng Trần Thiện Khiêm, Đại tá Dương Hiếu Nghĩa, đã quá muộn, sự thật cần được nói ra.

Riêng trường hợp tướng Lê Minh Đảo thì ông Lê Quang Phúc cho rằng không có đủ yếu tố để buộc bất cứ trách nhiệm nào cho vị đại úy tùy viên của tướng Lê Văn Kim.

Tâm tư của ông Lê Quang Phúc cho đến lúc này là trong sáng, minh bạch và công bằng của một người con đối với cha mình và đối với những ai đã sát hại cha ông.

Phần người viết chỉ có một ý kiến nhỏ sau đây.

Cuộc đảo chính 1-11-1963 tự nó mất tính chính nghĩa vì có âm mưu, bảo kê và tiền của người Mỹ.

Và cũng kể từ đó không có bất cứ tướng lãnh nào có đủ tư cách người thừa kế có quyền uy có tầm vóc để cho dân chúng và quốc tế kính nể và tôn trọng nữa.

Không ai thay thế được ông Ngô Đình Diệm trong vai trò Tổng thống miền Nam Việt Nam.

Đó là một điều sau nhiều năm xáo trộn người ta mới dần nhận ra được điều đó.

© DCVOnline

-

-Những hội chứng sau “Cách mạng 1-11-1963” (Epilogue)

Trong phụ đính theo sau là vài hàng về Cựu Thiếu tướng Lê Minh Đảo cùng lá thư của Cựu Đại tá Nguyễn Ngọc Khôi gởi ông Lê Quang Phúc – con trai Đại tá Lê Quang Tung; Ông Khôi là Trung tá LĐ Trưởng Lữ đoàn Phòng vệ phủ TT năm 1963, một trong số các sĩ quan có mặt tại Bộ Tổng Tham Mưu không theo phe đảo chánh và bị bắt giam ngày 1/11/1963 cùng lúc với Đại tá Tung.

Cái chết của hai anh em ông Lê Quang Tung và Lê Quang Triệu vẫn còn nhiều uẩn khúc. Thủ phạm và nơi chôn dấu cha và chú của ông Lê Quang Phúc vẫn chưa xác định được. Lá thư của ông Khôi chỉ là 1 chứng từ của người có mặt trong biến cố chính trị lịch sử đó; la thư được hiệu đính để giữ kín thông riêng của người viết và gia đình ông Lê Quang Phúc.

Phụ đính

Về Tướng Lê Minh Đảo ‒ Tướng Lê Minh Đảo sinh ngày 5 tháng 3, 1933 tại Bình Hoà, Gia Định. Ông Đảo là học trò Petrus Ký và tốt nghiệp Thủ khoa khoá 10 (Trần Bình Trọng, 10/1953 – 6/1954) trường VBQG Đà Lạt.
1954: Phục vụ tại trường VBQG Đà Lạt
1955-56: Tu nghiệp về Huấn Luyện Viên tại Fort Benning, Columbus, Georgia, Hoa Kỳ
1959: HLV các khoá Võ Bị 13-15
1960: Người ta thường nghe ông là tuỳ viên của tướng Lê Văn Kim trong cuộc đảo chánh 1/11/1963. Trung uý Lê Minh Đảo làm tuỳ viên cho Trung Tá Lê Văn Kim 1 năm, năm 1960 (?)
1962-1963: Thăng Đại úy, đi học tác chiến tại Mã Lai (Malaysia,1963). Về làm việc tại Khối Nghiên cứu Tư lệnh hành quân.
2-11-63: Thăng Thiếu tá tạm thời. Cuối năm làm tỉnh trưởng Long An.
1965: Tiểu đoàn trưởng, thuộc sư đoàn 21 bộ binh, thăng Thiếu tá.
1966: Chiến đoàn trưởng Chiến đoàn 31, Giám đốc trung tâm hành quân, Quân đoàn IV.
1967: Tỉnh trưởng Chương Thiện
1968: Trung tá nhiệm chức
1969 – 3/1969: Tỉnh trưởng Định Tường
1970: Đại tá nhiệm chức
1972: Tư lệnh sư đoàn 18
1974: Chuẩn tướng thực thụ
1975: Thiếu tướng nhiệm chức đặc cách tại chiến trường Xuân Lộc.
1975-1992: Tù cải tạo
1994: Định cư tại Hoa Kỳ theo chương trình HO.

Bộ Tổng Tham mưu (Hình cũ)
Nguồn: Panoramio

________________________________

Thư của ông Nguyễn Ngọc Khôi gởi ông Lê Quang Phúc

Thư gởi ngày 3/10/2005
Nguồn: LQP

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét