Muà hè năm nay, Bs Nguyễn Lưu Viên từ Virginia về
thăm gia đình ở California và lần đầu tiên sau trên bốn thập niên xa cách,
chúng tôi mới có dịp tái ngộ để nhắc lại nhiều kỷ niệm chung thời xa xưa Hànội,
khi anh là một sinh viên Y khoa, ngụ tại 135 đường Charon, sau Nhà Diêm, với Lê
Quang Thuận, Khổng Toán, Ngô Thiện Khai... còn tôi thì học Luật, trú tại Ðông
dương Học xá, phố Huế, với Trần Công Dung, Xuân Diệu, Cù Huy Cận, Dương Ðức
Hiền, Lâm Trọng Thức.. Sẵn dịp, anh đồng ý để tôi ghi âm cuộc nói chuyện thân
mật về những năm dài anh họat động chính trị, đặc biệt với tư cách Trưởng đoàn
tại Hội nghị Hiệp thương La Celle Saint- Cloud và trong chức vụ Phó Thủ tướng
của ba nội các Trần Văn Hương (năm 1964, kiêm Tổng trưởng Nội vụ), Nguyễn Cao
Kỳ (năm 1965. kiêm Tổng ủy phụ trách khối Văn hóa - Giáo dục và Xã-Lao) và Trần
Thiện Khiêm (năm 1968, kiêm bộ Văn hóa- Giáo dục cho tới 1972A¾. Từ 1973, hành
nghề bác sĩ tại Viện Pasteur Saigon cho đến khi miền Nam thất thủ vào tháng tư
1975.
Bs Nguyễn Lưu Viên (NLV), sanh năm 1919, tại Trà Vinh, sức khoẻ
còn tốt và trí nhớ vẫn sắc bén. Anh vui tính như xưa, nói năng cười đùa lớn
tiếng. Thoát ra khỏi Sàigòn ngày 29.4.1975 trên một tàu Hải quân Việt Nam, (gia
đình cho xuất ngoại trước), anh qua Guam, rồi Pendleton, tu nghiệp ở Oklahoma
và hành nghề bác sĩ 11 năm tại Baptist Hospital, Union City, tiểu bang
Tennessee. Về hưu ở Virginia năm 1988, anh sống ẩn dật, ít tiếp xúc bên ngoài
nhưng không ngớt ưu tư về đất nước.
Cuộc mạn đàm gồm có ba phần: Giai đọan tập kết theo Kháng chiến,
dự Hội nghị La Celle Saint Cloud và nhận xét về những ngày tháng cuối cùng của
Việt Nam Cọng hoà.
Giai đoạn theo Kháng chiến ra Bắc (1946- 1951)
Nhật lật đổ chính quyền Pháp của Decoux đêm 9.3.1945, trong khi
NLV đang gác tại Nhà thương Phủ Doãn. Tiếp theo là nạn đói khủng khiếp Bắc
Việt. Lúc đó, NLV học chưa xong năm thứ năm trường thuốc Hànội. Tổng hội Sinh
viên Việt Nam hăng hái phát động phong trào cứu đói và lăn xả vào công cuộc
chống Nhật, chống Pháp theo lời kêu gọi của Hồ Chí Minh được xem như lãnh tụ có
uy thế nhất. Tân Dân Chủ Ðảng ra đời, thu hút sinh viên các trường Ðại học
Hànội. Một số như Dương Ðức Hiền (Tổng trưởng Thanh niên trong Chính phủ Liên
hiệp đầu tiên) Ðinh Gia Trinh, Phan Anh, Phan Mỹ, Ðổ Xuân Soạn, Trần Bửu Kiếm,
Mai Văn Bộ, Phạm Thành Vinh, Lưu Hữu Phước Nguyễn Việt Nam, Trần Văn Khê,
Nguyễn Tấn Gi Trọng...lần hồi trở thành những con mồi ngon của Mặt trận Việt
Minh. Một số khác, vài tháng sau, tổ chức về Nam bằng xe đạp vì con đuờng hoả
xa xuyên Việt bị bom của Lực lượng Ðồng Minh tiêu hủy nhiều đọan. Vừa hồi
hương, tất cả - trong đó có NLV, Nguyễn Tôn Hoàn, Nguyễn Tú Vinh, Lê Văn
Tài.... - bị cuốn vào cơn lốc kháng chiến. Ba sinh viên từ Bắc về: Ðặng Ngọc
Tốt, Huỳnh Bá Nhung và Ngô Tấn Nhơn thành lập chi nhánh Tân Dân Chủ Miền Nam và
tuyển nạp Huỳnh Tấn Phát, Nguyễn Văn Hiếu, Mã Thị Chu và Nguyễn Thị Bình vào
hàng ngũ. Theo NLV, sách gối đầu của nhóm này là quyển Tân Dân chủ nghiã Luận
của Mao Trạch Ðông viết vào lối năm 1938, chỉ đề cập đến việc quốc hữu hoá các
kỹ nghệ quốc phòng và chưa đá động đến quyền tư hữu. Chính vì vậy mà Ngọai
trưởng Marshall của Tổng thống Roosevelt mới bị lầm và đã thúc Tưởng Giới Thạch
liên minh với Mao chống Nhật.
Tháng 9.1945, NLV, đang phụ tá cho y sĩ trưởng Trà Vinh là Bs
Nguyễn An Trạch, rể của đốc phủ sứ Nguyễn Văn Tâm, con hùm xám Cai lậy, (sau
này Thủ tướng thời Bảo Ðại) được lệnh của Ủy ban kháng chiến đưa dưỡng đường
vào bưng, sau đó di tản theo hai phiá, Bs Trạch về Cà mau để tập kết ra Bắc,
còn NLV thì qua Mỏ Cày, Bến tre, tìm cách vào Khu 7 của tướng Nguyễn Bình đóng
trong vùng Lộc Ninh. Tại đây, NLV gặp Bs Nguyễn Thị Lợi (sau này là vợ của Bs
Lương Phán, cả hai bị kẹt ở Phước Hải mấy tháng vì quân Pháp chiếm Bà rịa. Cuối
cùng họ dùng ghe bầu vượt đến Tam Quan, Trung Việt, từ đó lấy tàu hoả ra Bắc
vào tháng 6.1946. trước ngày Hồ Chí Minh dự hội nghị Fontainebleau. NLV tập sự
tại nhà thương Bạch Mai cùng với vợ chồng Trần Vỹ - Nguyễn Thị Vinh,, cả ba
chưa kịp trình luận án bác sĩ thì vào tháng chạp 1946, toàn quốc kháng chiến chống
Pháp. NLV làm phó cho Bs Phạm Văn Hải, quân y trưởng, tại trung đoàn 48 Thăng
Long. Bs Nghiêm Xuân Thọ (em của Nghiêm Xuân Thiện) thay thế khi Bs Hải lên
Việt Bắc. Sau ngày Bs Thọ dinh tê về Hànội, NLV đôn lên làm quân y trưởng.
Năm 1948, Bảo Ðại ký hiệp ước Hạ Long và thành lập chính phủ. Sự
kiện này thúc đẩy NLV và một số đồng nghiệp tìm cách rời bưng. Lối năm 1949,
Trung cộng chiếm lục địa. Chính phủ quốc gia Việt Nam được công nhận. Sư đoàn
320, do Văn Tiến Dũng làm ủy viên chính trị và quân sự, được thành lập với sự
kết hợp của ba trung đoàn 48 (dặt dưới quyền chỉ huy của Phùng Thế Tài), 32 và
64. NLV trở thành quân y trưởng của sư đoàn.
NLV kể lại một câu chuyện khá lý thú: Có lần, Văn Tiến Dũng nói
cợt với NLV: Bố vợ anh - tức Tuần vũ Bắc Ninh Nguyễn Khánh Ðắc - thời Pháp, đã
từng xử tử tôi về tội phá rối trị an! (nhưng Dũng, may thay, vượt ngục được).
Một kỷ niệm khác, còn nhớ mãi: Cuối 1947, trước Ðiện Biên Phủ,
Võ Nguyên Giáp đến trung đoàn 48 thanh tra và ủy lạo thương binh. Lúc đó, người
chết như rạ vì kiết lỵ và thương hàn, thuốc men không có. Ðể tinh thần quân đội
không suy sụp, các y sĩ mỗi ngày pha chất teinture d'opium và 5 viên quinacrine
vàng trong một lít nước, phát cho mỗi con bịnh một ly để uống cầm hơi. Một cách
trị bịnh... tâm lý! Quân y trưởng trình bày tình trạng thê thảm đó và xin giúp
đỡ. Giáp khen các cấp có cố gắng và - thay vì hứa cấp thuốc - Giáp hỏi tại sao
không gắp tổ chức... trường y tá (!). Các y sĩ ngó nhau ngẩn ngơ. Giáp tiếp: -
Hãy nhớ cán bộ giải quyết tất cả mọi vấn đề: Tổ chức, tổ chức, và tổ chức!. Vì
có lệnh, trung đoàn không dám cãi, ráng quơ quào tổ chức lớp đào tạo y tá. Ba
tháng sau, NLV gởi người lên Trung ương, quả nhận được thuốc đủ dùng, do kế
hoạch CS nhập thành mua hay xin các dược phòng và tư nhân tiếp tế thuốc. CS còn
dùng mỹ nhân kế dụ lính Lê dương trộm nhiều lọai dụng cụ y tế và dược phẩm hiếm
trong binh đội Pháp. Trở thành Quân y trưởng Sư đoàn 320, NLV thực hành kinh
nghiệm cán bộ nói trên khi cho tải thương binh từ mặt trận về các bệnh xá hậu phương
bằng những toán người khiêng võng luân phiên.
Vấn: Vì sao anh trở về thành? năm nào? bằng con đường nào? Có
gặp khó khăn gì không?
Ðáp: Năm 1951, Sư đoàn 320 chịu trách nhiệm bên hữu ngạn Hồng
Hà, gồm có vùng Hoà bình, Sơn Tây, Phủ lý, Nam Ðịnh và Ninh bình. Tôi về Hànội
để học xong y khoa và vào Sàigòn trình luận án. Tôi thoát khỏi Chiến khu Ba,
đến Phát Diệm, viện cớ đi kinh lý vùng sát bên tề nghiã là giáp ranh phần đất
Pháp cai trị. Tôi không gặp trở ngại nhờ vợ tôi. lúc đó ở Hànội, bố trí sẵn. Vả
chăng, tôi đã thủ chất độc arsenic, phòng khi bị CS bắt, tôi xử dụng ngay. Khi
thấy cờ Vatican tung bay trên cổng Phát Diệm, lòng mừng vô hạn! Muốn sống còn
trong tay CS, cần giả dại để qua ải. Tôi còn nhớ: trong một đêm họp kín ở một
dưỡng đường sau tiền tuyến tại làng Lệ Xá, tỉnh Thanh Hóa, thuộc Khu 4, Bs Phạm
Phú Khai, Nguyễn Ðức Khang và tôi đang bàn tính kế hoạch chuồn êm theo gót đồng
nghiệp Nguyễn Tuấn Phát trốn an toàn về Hànội thì Bs Dư Thế Bảo, Quân y trưởng
Liên khu 3, một đảng viên CS và là xếp của chúng tội, bất chợt xuất hiện, y
giận dữ báo tin: Phát dinh tê rồi!. Do một phản ứng tự vệ, ba chúng tôi đồng
thanh mạt sát Phát: "Quả là thằng ngu! kháng chiến sắp thắng lợi, phí bao
công lao!" . Cuối cùng, tôi thoát đi được, một thời gian sau tới phiên
Khai, nhưng Khang - tội nghiệp! - bị kẹt lại. Năm 1951, trên mười đồng nghiệp
của tôi trở về thành. Anh biết vì sao không? Muà hè năm đó, trong Ðai hội Quân
Y Liên khu 3 và 4 tại Thanh hoá, Bs chủ tịch Hoàng Ðình Cầu - sau này là Thứ
trưởng Y tế và Viện trưởng Ðại học Y khoa Bắc Việt - dõng dạc chỉ thị:
"Khi bạn vào một gia đình chăm sóc bịnh mà biết được gia đình này có tư
tưởng phản cách mạng thì bạn phải tức khắc báo cho trạm công an gần nhất hay
biết. Các y sĩ có mặt trong buổi họp nêu rằng hành động này trái với lời tuyên
thệ Hippocrate của họ khi ra trường, theo đó họ đã long trọng cam kết gạt bỏ
mọi thành kiến khi chữa bịnh. Hoàng Ðình Cầu liền phản pháo gay gắt: "Lời
thề Hippocrate là một sự bịa đặt của tư bản phản động để gạt các anh!."
Nghe câu này - NLV nói -comme la goutte qui fait déborder le vase, chúng tôi
ngó nhau, lắc đầu ngao ngán. Mỗi người từ đó tìm mọi cách thoát thân. Riêng
tôi, nếu ở lại, sẽ bị chúng đày lên Việt Bắc như Nguyễn Mạnh Tường, Trần Ðức
Thảo... Một cơn ác mộng!.
Vấn đề Nam Việt Nam giải quyết trên chiến trường không phải tại
Hội nghị La Celle Saint Cloud!
Vấn: Hoà đàm tại Paris bắt đầu ngày 13.5.1968 tại khách sạn
Majestic, đại lộ Kléber, và kết thúc ngày 27.1.1973 bằng một Hiệp ưóc ký tại
Trung tâm Hội nghị Quốc tế Paris. Với tư cách Phó Thủ tướng, anh đóng vai trò
gì và có theo dõi mọi diễn tiến hay không?
Ðáp: Khi qua Paris để quan sát trong phái đoàn VNCH, Phó Tổng
thống Nguyễn Cao Kỳ có đề nghị tôi tham gia bên cạnh Trưởng đoàn Phạm Ðăng Lâm.
Tôi từ chối, vì trong nước, lúc đó, tôi kiêm thêm Bộ Văn hoá- Giáo dục, công
việc bề bộn. Trong thời gian hoà đàm, có những Bộ chuyên môn phụ trách. Tổng
trưởng Ngoại giao là Trần Chánh Thành, rồi Trần Văn Lắm, rồi Nguyễn Phú Ðức, em
vợ tôi.
Vấn: Trong trường hợp nào, anh được chọn làm trưởng đoàn tại Hội
nghị Hiệp thương La Celle Saint Cloud? Phái đoàn VNCH gồm có ai? ngụ ở đâu?
Phiá Chính phủ lâm thời Mặt trận Giải phóng miền Nam có ai? Ai cố vấn cho anh
nhiều nhất trong thời gian nhóm họp?
Ðáp: Tôi nghĩ tôi được chọn vì quá khứ kháng chiến của tôi, chớ
không phải vì tôi có tài ăn nóí miệng lưỡi. Phái đoàn Saigon gồm có Nguyễn Xuân
Phong (phó trưởng đoàn), Trần Văn Ân, Trần Văn Ðỗ, Nguyễn Quốc Ðịnh, Nguyễn Ðắc
Khê, Nguyễn Ngọc Huy, Nguyễn Ngọc An, Ls Nguyễn Thị Vui (bà con với Huỳnh Tấn
Phát và từng quen Nguyễn Thị Bình) và Nguyễn Triệu Ðan (phát ngôn viên báo chí).
Chúng tôi ngụ trong biệt thự mướn tại đại lộ Mayot, trong vườn Luxembourg,
trước đây do vợ chồng ông Kỳ xử dụng. Nguyễn Ngọc Huy - cùng với Nguyễn Ðắc Khê
- giúp tôi đắc lực để đối đáp với phái đoàn Mặt trận do Nguyễn Văn Hiếu dẫn
đầu. Họ có hai thành viên phái nữ gốc miền Nam, Thật sự, phó trưởng đoàn Ðinh
Bá Thi giựt dây, thấy rõ.
Vấn: Theo lời trình bày của Ngoại trường Nguyễn Thị Bình và
Nguyễn Văn Hiếu trong quyển Hồi ức về Hội nghị Paris (nhà xuất bản Chính trị
quốc gia Hànội,2001) thì, để trả lời đề nghị 6 điểm ngày 25.4.1973 của Mặt
trận, phái đoàn VNCH có đưa ra dự thảo thoả ước gồm 4 vấn đề: tổng tuyển cử,
lập hội đồng, các lực lượng vũ trang và tự do dân chủ nhưng lập trường của
Sàigòn thực chất là chống lại hoà giải, hoà hợp dân tộc theo nguyện vọng của
đại đa số nhân dân. Vì thế cuộc hiệp thương lâm vào bế tắc.. Anh nghĩ sao?
Ðáp: Theo điều 12 của Hiệp định 4 bên ký tại Paris thì trong
thời hạn 90 ngày sau khi ngừng bắn có hiệu lực bắn - kể từ 24 giờ GMT ngày
27.1.1973,- hai bên miền Nam Việt Nam làm hết sức mình để thực hiện việc ký kết
một hiệp định về các vấn đề nội bộ của miền Nam Việt Nam. Tổng thống Thiệu
không có chỉ thị đặc biệt gì cho chúng tôi vì biết trước hội nghị La Celle
Saint Cloud không đi đến đâu, chỉ có tác dụng câu giờ, mọi vấn đề sẽ giải quyết
trên chiến trường. Ðúng như Nguyễn Văn Hiếu kể lại, cuộc đàm phán diễn ra tẻ
nhạt, mỗi tuần hai bên gặp nhau một lần, mỗi phiá đọc bài phát biểu chuẩn bị
sẵn, sau đó tranh luận một lúc và chấm dứt để hẹn kỳ họp sau. Sau lối trên mười
phiên họp vài tháng đầu, tôi trở về Sàigòn, để cho Nguyễn Xuân Phong thay thế.
Mặt trận GPMN dùng Hội nghị như một diễn đàn tuyên truyền.
Vấn: Vì sao ngày 13.6.1973, Kissinger (Hoa Kỳ), Lê Ðức Thọ (Việt
Nam DCCH), anh (thay mặt VNCH) và Nguyễn Văn Hiếu (MTGPMN) lại ký tại Kléber
một thông cáo chung chuẩn bị vài giờ trước cùng ngày bởi sự ký kết một văn bản
thoả thuận giữa Kissinger và Lê Ðức Thọ tại Gif-sur-Yvette? Phải chăng để gỡ
một thế bí? Thông cáo chung này nội dung ra sao? Lý do nào thúc đẩy anh trở lại
Paris?
Ðáp: Vì quá lâu, tôi không nhớ thông cáo này nói gì nhưng rốt
cuộc, cũng chẳng đi đến đâu. Tôi trở lại Hội nghị để phản đối mạnh vụ MTGPMN và
Bắc kinh ký kết cho dân Hoa và Việt vô ra Trung quốc và miền Nam Việt Nam khỏi
cần chiếu khán. Quyết định này tai hại vì mở ngỏ miền Nam Việt Nam cho Tàu cộng
tràn vào.
Vấn: Theo Nguyễn Văn Hiếu, sau đó anh có trở qua tái họp tại La
Celle-Saint Cloud, mời phái đoàn Mặt trận dùng cơm chung, họ từ chối. Và anh
rời bỏ hội nghị luôn.
Ðáp: Ðúng vậy, tôi có đề nghị phái đoàn của Hiếu dùng cơm chung,
vì cùng là dân miền Nam cả, nhưng họ tránh né. Phó trưởng đoàn Nguyễn Xuân
Phong thay tôi tại Hội nghị cho đến ngày 15.5.1974 thì hai bên ngưng hẳn cuộc
đàm phán. Có tất cả 47 phiên họp. Sau tháng 4.1975, Nguyễn Xuân Phong ở lại
Việt Nam và nghe nói y cộng tác với CS.
Những ngày tháng hấp hối của Việt Nam Cọng hoà.
Sau đây, xin tóm tắt câu chuyện vấn đáp thân tình giữa bác sĩ
Nguyễn Lưu Viên và chúng tôi về giai đọan dẫn đến sự sụp đổ của miền Nam:
Vấn: Lúc còn ở trong chính quyền, bắt đầu từ lúc nào anh cảm
nghĩ Hoa Kỳ bỏ rơi VNCH? Trước hay sau hoà đàm Paris?
Ðáp (suy nghĩ một lúc): Sau hoà đàm Paris. Khi quân ta rút khỏi
Ban Mê Thuột. Trước đó, nói thật, Chính phủ không biết gi hết về việc điều đình
giữa TT Thiệu và Kissinger. Ông Thiệu cho đây là chuyện riêng, đôi khi bàn với
Hoàng Ðức Nhã (Thông tin) và Nguyễn Phú Ðức (Ngoại giao). Tôi có cảm tưởng TT
Thiệu và Thủ tướng Khiêm đều tin Mỹ sẽ không bỏ rơi vì miền Nam có dầu lửa.
Chính tôi đã đích thân dùng máy bay trực thăng ra ngoài khơi đảo Poulo Condore
viếng một giàn khoan Hoa Kỳ. Họ có tặng cho tôi một échantillon dầu trong một
cái tube và giải thích rằng loại dầu này rất tốt, và vùng này của Việt Nam nằm
trên một nappe dầu vĩ đại - như trên lưng một con voi - trải dài tới Nam Dương.
Thiệu lẫn Khiêm đều hy vọng Việt Nam sẽ tham gia OPEC (sic)
Vấn: Ở đọan trên, anh có nói: khi đi nhóm tại La Celle Saint
Cloud, anh không tin hội nghị đem lại kết quả vì vấn đề sẽ giải quyết trên
chiến trường miền Nam. Xin vui lòng cho biết rõ: Ai giải quyết? MTGPMN? Hoa Kỳ?
hay Chính phủ Sàigòn?
Ðáp: Nhiều người trong phái đoàn VNCH - luôn cả Bs Trần Văn Ðổ -
cũng tin Mỹ sẽ giúp Sàigòn giải quyết. Ðặc biệt, với oanh tạc cơ B52. Trước Ban
Mê Thuột, tôi có cảm tưởng (TT) Thiệu nghĩ đến giải pháp Việt Nam có thể chia
thành ba vùng: CS phía Bắc, MTGPMN từ vỹ tuyến 17 đến vỹ tuyến 13, và Việt Nam
Cọng hoà, phần đất còn lại. Ðúng vậy, tôi còn nhớ một buổi chiều, - trước vụ bỏ
Ban Mê Thuột - ông Thiệu họp với (Phó Tổng thống) Trần Văn Hương, (Thủ tướng)
Trần Thiện Khiêm, tôi (Nguyễn Lưu Viên), Nguyễn Văn Hảo (Phó thủ tướng, kiêm
khối Kinh tế- Tài chính), (Trung tướng) Ðặng Văn Quang và (Thiếu tướng CA)
Nguyễn Khắc Bình tại Dinh Ðộc Lập. Hảo nói, với giọng bỡn cợt,: Trời ơi! Thưa
Tổng thống, sao mà đánh đâu chạy đó vậy?( hì hì), mình phải làm gì chớ?. Ông Thiệu
liền chỉ vào một bản đồ quân sự lớn treo trong Văn phòng: Ðây! - ông trả lòi -
đây Ðà Nẵng, sẽ là Stalingrad và ông vẽ một đường từ Ðèo Cả xuyên tới Ðà Lạt.
Liền sau đó, có lệnh cho Quân đội quốc gia tử thủ, không được rút xa hơn nữa.
Cụ Hương sửa vài chữ trong thông cáo và trao cho Ðại tá Cầm điện cho các ông
tướng liên hệ.
Về giả thuyết chia Việt Nam làm ba, tôi nhớ sự việc diễn ra như
sau: Bữa đó, Phó Thủ tướng Trần Văn Ðôn vưà đi quan sát ở Mỹ và Âu châu về. TT
Thiệu tiếp Ðôn để nghe báo cáo và cùng chúng tôi lên Dinh Ðộc Lập ăn cơm. Khi
đi ngang chỗ đang sửa chữa vì vừa bị dội bom, ông Thiệu thấy có treo một lá cờ
vàng ba sọc đỏ, ông liền nói: Không biết các anh có tin dị đoan hay không, chớ
còn tôi, tôi nghĩ ba gạch tượng trưng cho đất nước mình sẽ chia ra làm ba!. Có
lẽ ý kiến này đã thoáng qua tâm trí của ông Thiệu lúc đó. Không ai phản ứng hay
bình phẩm gì. Trong số quan khách, có cả Bs Phan Quang Ðán.
Vấn : Khi bỏ Ban Mê Thuột, Ông Thiệu có bàn trước với Nội các
hay cá nhân anh hay không?
Ðáp: Không có! Không biết ông Thiệu có tính với Cao Văn Viên hay
không?
Vấn: Theo anh, vì sao Thiệu bỏ Pleiku sau Ban Mê Thuột? Có người
cho rằng ông Thiệu muốn thấu cáy Hoa Kỳ? Ðể mặc cả' với Mỹ? Tướng Ngô Quang
Trưởng từng thố lộ với tôi rằng QÐQG vẫn còn khả năng cầm cự. Anh nghĩ sao?
Ðáp (một phút trầm ngâm) Vụ rút lui ở Ban Mê Thuột làm tan hoang
hết! Nội các không hề được hỏi ý kiến. Pas un mot! Một ngày sau khi bỏ Pleiku,
có nhóm Hội đồng Nội các. Sau ordre du jour đã xong, Tổng trưởng Ngô Khắc Tỉnh
dơ tay lên, nói : Thưa Thủ tướng, tôi xin Thủ tướng một faveur: Dầu sao, chúng
tôi cũng là nhân viên Hội đồng Nội các, bà xã tôi vừa nghe tin Pleiku mất trên
đài BBC và VOA, mới nói lại cho tôi biết. Vậy xin Thủ tướng - nếu có tin gì -
thông báo chúng tôi, chớ không kỳ quá! Lúc đó. trên bàn chủ tọa, Thủ tường
Khiêm xoay qua tôi ngồi bên phiá trái, nói nhỏ: - Moa cũng vậy! (sic). Tôi ngạc
nhiên trả lời: - Bộ nói giả ngộ hay sao? anh là Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc
phòng, Ðại tướng bốn sao mà!. Ông Khiêm gật đầu: - Thật chớ! (nguyên văn).
Vấn: Không lẽ ông Thiệu lại quyết định một mình chuyện quá
nghiêm trọng như vậy?
Ðáp: Tôi có nghe hình như Tổng thống Thiệu có hội ý với hai
tướng Cao Văn Viên và Phạm Văn Phú. Tuy nhiên, sau tháng tư 1975, tôi thoát
được qua đảo Guam, có gặp một số sĩ quan cao cấp trong Bộ Tổng Tham mưu, họ quả
quyết ông Viên chỉ biết sau khi việc này xảy đến. Phủ Tổng thống ra lệnh thẳng
cho các Tư lệnh vùng, không qua Tổng Tham mưu, bằng một hệ thống trực tiếp.
Vậy, ông Thiệu đã chỉ thị ngay cho tướng Phú? Ðiểm này, nghĩ nên duyệt lại.
Vấn: Tại sao Thủ tướng Khiêm và anh (Phó Thủ tướng) không phản
đối?
Ðáp: Phản đối cách nào và vì sao? Có biết đâu mà protester?...
Ðây là vấn đề quân sự! (sic)
Vấn: Anh từng từ chức Phó Tổng ủy Di cư thời Ngô Ðình Diệm và đã
tham gia nhóm Caravelle thập niên 50 để phản đối độc tài gia đình trị nhà Ngô,
tại sao anh lại có thể chấp nhận hành động đơn phương của TT Thiệu như vậy
trong khi anh giữ chức vụ Phó Thủ tướng?
Ðáp: Bởi vì... lúc đó, không thấy gì bề ngoài. Bởi vì... ông
Thiệu rất khôn. Bởi vì..., về quân sự, có Ủy ban tướng lãnh ở phiá sau. Tôi
không có chân trong Hội đồng An ninh Quốc gia.
Vấn: Nguyễn Phú Ðức đóng vai trò hệ trọng trong HÐANQG, tương
đương với Kissinger bên Mỹ. Là em vợ của anh, Ðức không cho anh biết hay sao?
Ðáp: Khi nào cần, Ðức mới được TT Thiệu vấn ý, Ðức không phải là
hội viên thường trực. Trong Hội đồng, còn có Thủ tướng, có Tổng Tham mưu trưởng
Cao Văn Viên, Cố vấn quân sự Ðặng Văn Quang), Tổng giám đốc Công an Nguyễn Khắc
Bình, các Tư lệnh Quân khu.
Vấn: Nhưng trong vụ bỏ Cao Nguyên và Miền Trung, TT Thiệu đã qua
mặt các nhân vật vừa kể?
Ðáp: Có thể! Trong vụ Ban Mê Thuột, có lẽ tướng Viên biết, vì -
theo Nguyễn Phú Ðức viết trong hồi ký "Pourquoi les Etats Unis ont-ils
perdu la guerre au Việt Nam?" - chính ông Viên chỉ con đường số 19 để rút
quân (thay vì liên tỉnh lộ số 7) nhưng lộ trình triệt thoái này quá xấu. Tôi
không biết rõ ai đã lấy quyết định trong nội vụ, tướng Phú hay tướng Tất.
Vấn: Trong bài tôi phỏng vấn trước đây Ngoại trưởng Trần Văn
Lắm, ông Lắm có kể lại câu phê bình của tướng Westmoreland: "Ðây là một sự
triệt thoái hỗn lọan nhất mà tôi chưa từng thấy! ". Anh đồng ý hay không?
Ðáp: Ðồng ý! Cuộc triệt thoái chỉ được quyết định trong vòng 24
giờ đồng hồ. Các đơn vị của ta không thể vừa rút lui, vừa mang theo cả gia đình
đùm đề của họ mà họ phải bảo vệ. Cho lập các trại gia binh nơi đồn trú của binh
sĩ là một thất sách. Chủ trương người lính, tay súng, tay cày - chiến đấu vừa
bảo vệ tổ quốc, vừa chu toàn an ninh cho thân nhân - không dễ thực hiện. Trong
khi đó, người lính Bắc Việt bị Ðảng CS ép "sinh Bắc, tử Nam," ra đi không
có ngày về, họ không có những bận bịu của người lính quốc gia. Mặt khác, về
binh thuật, triệt thoái lắm khi khó hơn tấn công.
Vấn: Một vấn đề khác: Anh có liên hệ gì đến đảng Dân chủ của TT
Thiệu hay không? Ðảng này ảnh hưởng đến tinh thần Quân đội ra sao? Tệ hại như
đảng Cần lao thời TT Diệm chăng?
Ðáp: Tôi không liên hệ. Ông Thiệu cũng không hề bàn với tôi. Ông
Thiệu cho ra đời đảng Dân chủ để ủng hộ ông tái ứng cử và đắc cử Tổng thống.
Không có mục tiêu nào khác. Ông Thiệu có cho lập một Mặt trận gồm vài đảng phái
nhưng tồn tại không bao lâu. Thành thật, tôi không biết ảnh hưởng của đảng Dân
chủ trong Quân đội. Không thể so sánh đảng Dân chủ với đảng Cần lao vì đảng Cần
lao có đường lối, lãnh đạo và hệ thống tổ chức khá hơn nhiều. Ðảng Cần lao nguy
hiểm hơn.
Vấn: Anh còn nhớ phong trào tố tham nhũng của linh mục Trần Hữu
Thanh chớ? Thời Thiệu có nạn tham nhũng không?
Ðáp: Chắc là có. Tôi hỏi lại anh: Trong tất cả các chính phủ
Việt Nam, hiện tại và tương lai, vấn đề gì khó khăn nhất?.. Anh vừa trả lời:
"Cần nâng cao dân trí để dân có thể chọn lựa sáng suốt và trực tiếp cấp
lãnh đạo của mình." Vous avez le gouvernement que vous méritez. Tôi xin bổ
túc với ba điểm:
1) Tách Nhà nước khỏi Tôn giáo, séparation de l'E¨tat et de
l'E¨glise.
2) Quân đội luôn luôn phải ủng hộ và tuân lệnh Chính phủ hợp
hiến, hợp pháp. L'Armée est la Grande Muette có nghĩa là công dân có quyền tham
gia đảng phái nhưng khi vào quân đội, không được tuyên truyền chính trị.
3) Các đảng phái phải hợp pháp, hợp hiến, ôn hòa và công khai.
Vấn: Ba điểm anh vừa trình bày đúng là ba cột trụ của chế dộ
pháp trị, Etat de droit. Nên phân biệt luật Nhà nước (loi) và quyền dân
(droit). Trong các chế độ chuyên chế, lắm khi Luật bất chấp Quyền. Trong chế độ
pháp trị, luật chính phủ phải lấy quyền của dân chúng làm gốc. Xin phép hỏi
thêm anh vài câu chót, ngắn gọn: Lúc tại chức, anh thường tiếp xúc với hai phụ
tá chính trị của TT Thiệu là Huỳnh Văn Trọng và Nguyễn Văn Ngân hay không (cả
hai đều kết thúc sự nghiệp trong tù)? Anh nghĩ sao về vụ Ngân đả kích Thủ tướng
Khiêm trên báo? Anh có liên hệ gia đình gì với Tướng Nguyễn Khánh, Trần Văn Văn
và cụ Bùi Quang Chiêu? Trong nhóm Caravelle trước đây, bao nhiều người còn
sống? Ai giết Trần Văn Văn? Khi bốn Tổng trưởng gốc Nam trong chính phủ Nguyễn
Cao Kỳ như Âu Trường Thanh, Trần Ngọc Liễng... từ chức để phản đối kỳ thị, tại
sao anh - lúc đó Phó Thủ tướng - lại không ủng hộ họ? Anh nghĩ sao về chuyện
Nguyễn Thị Bình viết hồi ức tiết lộ nhóm Dương Văn Minh đi đêm với MTGPMN từ
lâu, trước hoà đàm Paris? Xin cho biết ý kiến về vụ tướng Nguyễn Khánh dùng bức
thơ của Huỳnh Tấn Phát để liên lạc, trong lúc lưu vong, với Chính phủ lâm thời
Giải phóng Miền Nam (chuyện này cũng do MTGPMN xác nhận trong quyển hồi ức về
Hiệp định Paris, xuất bản gần đây)?
Ðáp: Tôi không giao thiệp nhiều với hai ông Trọng và Ngân. Tôi
nghĩ ông Khiêm là người tốt. Tôi là cậu của Nguyễn Khánh, chị thứ tư của tôi
lấy Nguyễn Bửu, thân phụ của Khánh. Kế mẫu của nhà tôi là bà con của cụ Bùi
Quang Chiêu; Trần Văn Văn với tôi là cousins. Nhóm Caravelle chúng tôi gồm có
18 nhân sĩ, phần đông đã qua đời. Hiện Trần Văn Ân sống tại Rouen (Pháp), Bs
Nguyễn Tiến Hỹ và linh mục Hồ Văn Vui tại Việt Nam. Chúng tôi chống chương
trình Khu Trù mật, không chống kế hoạch Ấp chiến lược của ông Diệm. Vài hôm sau
vụ Vương Văn Ðông - Nguyễn Chánh Thi đảo chính hụt Ngô Ðình Diệm cuối năm 1959,
Ðại tá Công an Nguyễn Văn Y, thời Bộ trưởng Nội Vụ Bùi Văn Lương, tóm giam nhóm
Caravelle tại trại Võ Tánh, Sàigòn, cho đến tháng 2.1960 mới thả. Có hai giả
thuyết về vụ ám sát Trần Văn Văn: Một số người nghi nhóm Bắc kỳ ghét người Nam
tổ chức nhưng về sau, CS xác nhận chính họ chủ mưu, để chia rẽ phiá quốc gia.
Khi Văn bị hạ sát, tướng Nguyễn Ngọc Loan, Công an, điện thoại dọa tôi. Việc
nhóm Thanh - Liễng và hai tổng trưởng Nam cờ trong Nội các Kỳ từ chức là một
hành động không đúng, do Thanh sắp xếp. Trần Văn Văn cho tôi biết Âu Trường Thanh
là rể của Giáo Cái, Bến Tre, một cán bộ cao cấp phiá bên kia. Còn Liễng thì,
sau khi ôm chân Ấn Quang, y hoạt động cho Hànội trong Lực lượng thứ ba, làm
quân sư cho tướng Minh, và lúc CS chiếm Sàigòn, Liễng chạy chọt ghế dân biểu
Quốc hội. Dương Văn Minh có người em CS là Dương Văn Nhựt, một sĩ quan, lén lút
liên lạc với Minh từ lâu. Lúc sanh tiền, Trần Văn Văn từng nói với tôi: - không
thể tin Dương Văn Minh được!- Tôi không đồng ý về lập trường của Nguyễn Khánh.
Sau 1975, qua Mỹ, Khánh mới cho tôi biết chuyện liên lạc với Huỳnh Tấn Phát và
MTGPMN. Trong lúc tại chức, Khánh cũng đã dùng Quốc vụ khanh Bs Lê Văn Hoạch
(Cao Ðài, cựu Thủ tướng, đời Bảo Ðại) để tiếp xúc. Ông Hoạch có người em, giáo
sư tại trường Pétrus Ký, tập kết ra Bắc từ lâu.
Vấn: Xin thành thật cám ơn Anh đã chia xẻ bộc trực một số ký ức
độc đáo tuy chưa nói hết. Rất mong những sử liệu khác từ những nhân vật còn
sống như các ông Nguyễn Văn Thiệu, Trần Thiện Khiêm, Cao Văn Viên, Ngô Quang
Trưởng..vv.. sẽ làm sáng tỏ vụ bỏ ngỏ Miền Trung, một vấn đề vẫn đè nặng đến
nay trên tâm tư người Việt lưu vong. Cuối một cuộc đời tranh đấu chính trị cam
go, anh hy vọng gì về tương lai của đất nước?
Ðáp: Thiển nghĩ, muốn đất nước phát triển vững, cần dứt khoát
dẹp bỏ thành kiến và óc bè phái địa phương. Cần nghiêm túc đoàn kết. Không
tuyên truyền bịp bợm.. Tự do phải là mục tiêu tối thượng. Tự do phải được bảo
đảm bởi một chính phủ của dân, bởi dân và vì dân. Dân Việt Nam, không hướng
ngoại, không lai căng.
i) Trong quyển hồi ức thứ ba "Tổng Hành Dinh trong Mùa Xuân
Toàn thắng" do Nhà xuất bản Quân Ðội Nhân dân Hànội phát hành tháng
5.2000, Võ Nguyên Giáp ghi rằng, sau khi mất Ban Mê Thuột ngày 11.3.1975, TT
Thiệu nhóm với Tướng Phạm Văn Phú, tư lệnh vùng 2, trưa ngày 14.3.1975 tại Cam
Ranh để quyết định rút khỏi toàn Cao nguyên. Quân đội VNCH bỏ Pleiku ngày 16
tháng 3 và Kontum ngày 17.3.1975.
ii) Báo Công An Thành phố HCM, số ngày 30.4.1998, có đăng bài
"Trận đánh ngoạn mục giữa lòng thành phố (kèm theo ảnh của cán bộ Trần
Hoàng Sinh thuộc lực lượng an ninh CS T4) ) kể lại trường hợp Sinh, với sự trợ
giúp của đồng lõa Tám Em, ngày 17.12.1966 hạ sát bằng súng Dân biểu Trần Văn
Văn (lúc đó là Chủ tịch Quốc hội Lập hiến, chớ không phải Nghị sĩ, như bài ghi
trật) tại ngã ba đường Phan Kế Bính - Phan Ðình Phùng, Sàigòn và vu khống rằng
đây là một sự thanh toán nội bộ vì quyền lợi giữa các phe phái quốc gia. Cũng
theo bài vừa nêu, trong ba ứng cử viên Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao
Kỳ và Trần Văn Văn tại miền Nam Việt Nam năm 1966, Hànội xem Văn là người đáng
bị khai trừ ưu tiên vì là một con bài của Mỹ, nếu đắc cử tổng thống, sẽ rất
nguy hại cho Cách mạng. Trần Hoàng Sinh thoát được, còn Tám Em thì bị bắt và
đày ra Côn đảo. Sau tháng 4.1975., Tám Em được tự do.
Vụ ám sát tại Sàigòn, bằng cách đặt chất nổ, Viện trưởng Học
viện Quốc gia Hành chánh Nguyễn Văn Bông, một chính khách khác gốc miền Nam,
lãnh tụ đảng Tân Ðại Việt, sau đổi tên thành đảng Cấp tiến, (có tin đồn vài hôm
trước, Bông có hy vọng được chọn làm Thủ tướng), xảy ra sau vụ Trần Văn Văn và
gây thắc mắc không ít, liên hệ đến vấn đề kỳ thị Nam-Bắc. CS Hànội cũng đã lên
tiếng chính họ chủ mưu giết Gs Bông.
iii) Một thân nhân của Huỳnh Tấn Phát, hiện ở Paris, cho tác giả
bài này biết: Sau 1975, Phát bất mãn vì bị thất sủng. Sau 1980, CS cảnh cáo
Phát bằng một vụ mưu sát hụt. Phát bị thương tích và được đi trị bịnh tại Nga.
Vài năm sau, Phát qua đời tại Saigon trong sự lãng quên của quần chúng.
LÂM LỄ‚ TRINH
Thủy Hoa trang
Huntington Beach, Californie
THƯ TịCH
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét