SÀI GÒN – 5. KẾT CUỘC: GIẢI
PHÓNG MIỀN NAM VIỆT NAM, 1975
Tại Campuchia … Chúng đâm xỏ dọc nguyên thân các
nhi đồng bằng một cọc tre và dùng đinh đóng các xác này trên tường của các tòa
nhà. … Nhiều bà mẹ đã lập tức hóa điên. 138
Tại Việt Nam … Lúc 06:30 chiều ngày 29 tháng 4,
1975, “Điện bị cắt … cả thành phố tối thui … bị bao phủ vì tủi hổ”. 139 Đèn
đường tắt hết, mưa đổ xuống, nhưng sự phản bội và nổi nhục của Mỹ không
bao giờ được rửa sạch.
Tại Lào… Chiến dịch – Tiêu huỷ Diệt chủng,
và – Triệt tiêu Toàn diện xóa bỏ các bộ tộc Hmong trên cao nguyên của Lào, bắt
đầu thập kỷ của – thanh lọc sắc tộc và diệt các chủng tộc miền núi mà đã –
không được ngay cả một phút tin thôi trên các hệ thống Mỹ.
Giải phóng Miền Nam Việt-Nam, tháng giêng tới
tháng 4 năm 1975
Sau phần tường trình về công tác nhiều năm thành
công tiến hành “hoạt động chính trị” chống lại kẻ thù (địch vận) ở ngoại quốc,
và trong phong trào hòa bình tại quốc nội Hoa Kỳ, chúng ta đi nhanh qua phần kế
tiếp.
Hà Nội đang hoàn thiện kế hoạch của mình – giải
phóng miền Nam Việt Nam và cuối cùng là thống nhất dưới quyền Cộng sản toàn bộ
Đông Dương: Việt Nam, Lào và Cam-pu-chia. Bộ đội đầy đủ súng ống của Bắc
Việt tin tưởng là một tân Quốc hội Hoa Kỳ hoàn toàn không bị ràng buộc bởi
quyền phủ quyết sau sự kiện Watergate, lại được hỗ trợ bởi bọn Mỹ cùng chí
hướng trung thành với Hà Nội trong phong trào hòa bình, sẽ ngăn chặn Tổng
thống Gerald Ford can thiệp. Lực lượng quân sự của miền Nam Việt Nam không còn
có thể có được các tiếp liệu vào phút cuối của Mỹ như họ đã từng có trong các
cuộc xâm lược trước vào năm 1968 và 1972.
Sau khi lặng lẽ tăng gấp bốn lần hoơ các chuyến
chuyển vũ khí, trong đầu tháng 11 ở Moscow và cuối tháng 12 năm 1974 tại Hà
Nội, giới lãnh đạo quân sự của Liên Bang Xô Viết đã đích thân khuyến khích các
lãnh đạo Bắc Việt.140 Tại Hà Nội vào cuối tháng 12, Tổng tham mưu trưởng Lực
lượng vũ trang của Liên Xô, tướng VG Kulikov, đã gặp Thủ tướng Chính phủ, tay
chuyên nghiệp thường đứng ra chào đón các phái đoàn hòa bình Mỹ, Phạm Văn Đồng,
chiến lược gia quân sự, Tướng Võ Nguyên Giáp và tên tướng chỉ huy cuộc xâm lược
là Văn Tiến Dũng. Ngày 27 tháng 12 năm 1974, Kulikov đã ca ngợi trình độ
tác chiến cao trong việc huấn luyện của các đơn vị Bắc Việt mà y đã duyệt. 141
Có lẽ Kulikov nói với bọn cộng sản Việt là chúng đã tốt nghiệp để từ ở vị trí
chỉ là – tiền đồn của chủ nghĩa xã hội ở Đông Nam Á, 142 thành một cái gì
đó đáng kể hơn. Tướng Giáp cảm ơn – sự giúp đỡ to lớn và hữu hiệu
của Liên Xô … mà đã dành cho nhân dân ViệtNam.
Kulikov cho bọn cộng sản Việt Nam một chân dung
khảm xa-cừ của VI Lenin … Đến năm 1975 việc ca ngợi công khai như trước kia đối
với Thomas Jefferson đã không còn hữu dụng trong công tác tuyên truyền.
Vậy là, cuộc xâm chiếm cuối cùng của miền Nam
ViệtNamđã được quyết định.
Trong hai cuộc họp 143 tại Hà Nội vào tháng 12
năm 1974 và tháng 1 năm 1975, Lê Duẩn, tên kế nhiệm Hồ Chí Minh và là lãnh tụ
Đảng Cộng sản thuyết phục Bộ Chính trị Bắc Việt để thực hiện một cuộc xâm lược
quy mô khác toàn miền Nam Việt Nam. Mặc dù chiến dịch tổng tấn công vào năm
1968 và 1972 đã thất bại rất nặng nề, thì bây giờ, một Quốc hội hậu Watergate
với sự hỗ trợ bởi một bộ máy phản chiến quốc gia sẽ khiến Tổng thống Gerald
Ford sẽ nhu nhược, hầu ngăn chặn việc Mỹ cung cấp vũ khí, và không trợ cho các
đồng minh Nam Việt Nam.
Việc Giải Phóng Nam Việt nam
Để thăm dò ý chí của của Mỹ, vào ngày 1 tháng
giêng năm năm 1975 lực lượng quân sự chính quy Bắc Việt tấn công Phước Bình,
thủ đô của tỉnh Phước Long chỉ cách Sài Gòn một trăm dặm. Đại sứ Graham Martin
cầu xin Washington hãy có một phản ứng ngoại giao và công khai có sắp xếp tốt
hơn và mạnh mẽ hơn là trong quá khứ. Martin muốn toàn bộ sự thật như là một câu
trả lời để bác bỏ chiến dịch có tổ chức cố tình dối trá và bóp méo, đặc biệt là
từ – Don Luce, Fred Branfman … trong Trung tâm Tài nguyên Đông Dương (Indochina
Resources Center) 144 Khi thấy không có phản ứng quân sự từ Chính phủ Mỹ, các
tên đồng chí cùng chiến tuyến đầy kinh nghiệm của Hà Nội trong Liên minh
Chống Tài Trợ Chiến Tranh (Coalition to Stop Funding the War ) vùng lên
ra tay hành động. Liên minh Mỹ đã lên án chế độ Thiệu của miền Nam Việt Nam vi
phạm tự do báo chí và bỏ tù hàng chục ngàn tù nhân chính trị. Hà Nội thì không
có tự do báo chí mà còn thủ tiêu các nhà bất đồng chính kiến. Liên minh Mỹ
không đổ lỗi cho các tiểu đoàn và sư đoàn trang bị vũ khí đầy mình của các lực
lượng xâm lược cộng sản, mà lại kết án quân đội Nam Việt đã luôn luôn phá hoại
hòa bình tỉnh Phước Long bằng cách – liên tục tấn công các khu vực thuộc quyền
Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời, bao gồm cả tỉnh Phước Long.145
Nhìn chung bề ngoài, đối với đa số những người
không am tường thì Liên minh Ngăn chặn tài trợ Chiến tranh có vẻ như là là một
kết hơp hùng mạnh của các tổ chức đại diện cho một phần lớn công luận Mỹ. Thực
ra, Liên minh này được thành lập do nhiều nhóm nhỏ của bọn cùng phối hợp để tự
tuyên bố là tiếng nói cho tất cả các thành viên của nhiều nhóm tiền phong bao
gồm America Friends Service Committee, ASFC, Clergy And Laity Concerned, CALC,
Episcopal Peace Fellowship, Fellowship of Reconciliation, Indochina Mobile
Education Project, Indochina Peace Campaign, IPC, Indochina Resource Center,
IRC, International Committee to Free South Vietnamese Prisoners from Detention,
Torture and Death, Medical Aid to Indochina, MAI, People‘s Coalition for Peace
and Justice, PCPJ, SANE, Vietnam Veterans Against the War, VVAW, Women‘s
International League for Peace and Freedom, WILPF, War Resisters League, WRL,
và Women Strike for Peace, WSP.
Các tổ chức này thường có cùng hội viên, văn
phòng và máy in. Các hội đã được hưởng quy chế miễn thuế là Board of Social
Concern of the United Methodist Church, United Church of Christ, and the United
Presbyterian Church thì lại quay qua tài trợ cho hội cũng được được miễn thuế
là Indochina Resource Center, mà đã sản xuất một số lượng khổng lồ về tài liệu
tuyên truyền ủng hộ Hà Nội cho Liên Minh, rồi vận động ở hành lang Quốc hội và
không cung cấp được tài liệu cho Quốc hội về tình trạng miễn thuế của họ.
Coalition to Stop Funding đã nhiệt tình cung cấp
bộ mặt bề ngoài một cách hiệu quả và hợp pháp cho cuộc xâm lược của Cộng sản
vào năm 1975.
Pháo kích tỉnh lỵ Sông Bé (Phước Bình), thủ phủ
của tỉnh Phước Long
Được xếp cùng hạng với cuộc kháng cự cuối cùng
tại Alamo và tại đèo Thermopylae, tuy hào hùng nhưng vô ích, quân đội can
trường của Cộng Hoà Việt Nam, Quân Đội VNCH, bị thương vong quân tới 84% và
20.000 thường dân vô tội đã chết. Lịch sử gần như không nói gì tới việc phòng
thủ oai hùng của QLVNCH tại Phước Bình và việc cộng sản tàn sát dã man thường
dân không tự vệ. Cuối tháng 12 năm 1974 và đầu năm 1975 vụ pháo kích của
dân thường ở thành phố Sông Bé, 146 còn được gọi là Phước Bình, thủ phủ của tỉnh
Phước Long, cũng là một vụ tàn sát do cộng sản thi hành mà đã không được tường
trình đúng mức trong suốt lịch sử lâu dài của cuộc chiến. Douglas Pike nay cho
biết hành vi hung ác của cộng sản rất phổ biến đến mức mà báo chí đã không còn
xem chúng như là – tin tức. 147 Thật vậy, sớm nhất là vào năm 1966 Văn Phòng
Liên Hợp Các Vấn Đề Công Cộng (Joint United States Public Affairs Office,
JUSPAO), đã có một máy bay trực thăng trực sẳn chờ hàng ngày để đưa các phóng
viên đến các nơi đã xẩy ra các hành vi tàn ác này. Các phóng viên hầu như không
bao giờ sử dụng tới trực thăng này 148 và đã hoàn toàn không viết gì về các tội
ác cộng sản.
Sau khi nghỉ ngơi chờ sẵn trong mật khu tại
Cam-pu-chia của họ, các lực lượng chính của quân Bắc Việt và Việt Cộng đã di
chuyển vào miền Nam Việt Nam. Cuộc tấn công ban đầu bao gồm hai sư đoàn bộ
binh, một tiểu đoàn xe tăng T-54 Liên Xô, một trung đoàn pháo binh, một trung
đoàn phòng không, và nhóm trinh sát Việt Cộng với bộ binh. Khởi công ngày 13
tháng 12, năm 1974, quân Bắc Việt nhanh chóng loại bỏ từ tiền đồn này tới tiền
đồn khác của Nam Việt và sau đó chỉa mủi dùi vào sân bay tại Sông Bé. Lực lượng
phòng thủ của Quân Đội VNCH phản công lại với lựu đạn, pháo và trực thăng,
triệt hạ 16 xe tăng địch mới vừa được tân trang lại, nhưng QLVNCH đã đành
khất phục trước sức pháo vượt trội của địch là 3.000 quả mỗi ngày.
Ngày 6 tháng 1, trong khi chiến đấu chống lại
bốn xe tăng T-54, vị tỉnh trưởng đã bị trúng thương nặng (mà sau đó đã tử
thương) và đã phải cùng bộ tham mưu rút lui bỏ Sông Bé, Phước Bình, thủ phủ
tỉnh đầu tiên bị mất vào tay địch. Hầu hết các đơn vị phòng thủ gồm có Quân Đội
VNCH, Địa Phương Quân và Nghĩa Quân đều đã chiến đấu cho tới khi chết, – chỉ có
850 trong số 5.400 là sống sót, 16%. Hàng chục ngàn đã bị tàn sát, chỉ có 3.000
phụ nữ và trẻ em trong số từ 20.000 đến 30.000 thường dân thoát khỏi được trận
pháo tàn nhẫn và bừa bãi của pháo binh và xe tăng Hà Nội.
Ngày 7 tháng giêng, Phước Bình thất thủ. “Số ít
công chức cấp tỉnh, thôn, và ấp đều bị xụ tử mà không cần xét xử”. 149 Trận
chiến đánh chiếm tỉnh Long Phước hoàn tòan không hề là – nhân đạo và khoan dung
như những chính sách mà bọn cộng sản luôn luôn đề cao và các phong trào ‘hòa
bình’ luôn luôn cổ xúy – tính cách tàn bạo của nó thật là dứt khoát.
Liên minh Coalition to Stop Funding the War,
luôn luôn trung thành với Hà Nội, tuyên bố là Ngoại trưởng Henry Kissinger
(Tổng thống Ford đã không bị đề cập đến) đã ngấm ngầm cố gắng bóp méo công luận
và bi thãm hóa cuộc chiến. Tờ Washington Post viết, – Họ đang phô bày Phứơc
Bình như là một ví dụ nghiệt ngã của số phận đang chờ đợi những thị xã, thành
phố và các tỉnh quan trọng hơn của Nam Việt, … 150 Cả phong trào hòa bình cũng
như là báo chí đã không tin là cộng sản ác độc cũng như không tin là QLVNCH oai
hùng.
Đại tá Harry G. Summers viết rằng cuộc xâm lược
của Bắc Việt tại tỉnh Phước Long là – một vi phạm trắng trợn Hiệp định Paris …
rõ ràng để thăm dò ý chí của Mỹ,… Tổng thống Gerald Ford đã nhu nhược hạn chế
phản ứng của mình chỉ bằng những công điện ngoại giao. Bắc Việt Nam đã được bật
đèn xanh để xâm chiếm miền Nam Việt Nam 151, và, chúng tôi thêm là, đã
nhận được ba lần hô to cổ vũ từ các điệp viên Mỹ của họ mà đang nằm trong Liên
minh Coalition to Stop Funding the War.
Kể từ đó, với cán cân bằng quân sự nay đã cố
định và không thay đổi, các biến chuyển quân sự lần lượt tiếp diễn không ngừng
cho tới kết quả đương nhiên của chúng – cuộc xâm chiếm toàn bộ miền Nam
ViệtNam, Campuchia và Lào của cộng sản.
Cuộc xâm chiếm miền Nam Việt Nam chỉ mất bốn
tháng, kết thúc nhiều năm trước cả lịch trình ban đầu của Hà Nội. Ở khắp mọi
nơi, bộ đội được trang bị rất đầy đủ của Hà Nội đã đối đầu với một quân đội
miền Nam Việt Nam mà chỉ được trang bị với vũ khí cứ cạn kiệt nghiêm trọng lần
lần và hoàn toàn không hy vọng có thêm viện trợ Mỹ nữa. Chiến lược gia cốt yếu
của miền Bắc Việt Nam và cũng là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Đại tướng Võ Nguyên
Giáp, cho biết, trong Làm thế nào Chúng tôi thắng trận, ” [Đảng chúng tôi] đã
kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị và ở vào vài giai đoạn nhất
định … cùng với đấu tranh ngoại giao để hoàn toàn đánh bại cuộc chiến xâm
lược tân thực dân của Mỹ-Thiệu.” 152 Giáp, theo lời Đô đốc Elmo Zumwalt, đã rất
rõ ràng. Họ luôn luôn biết là họ đã giành chiến thắng ngay ở đây [ở Mỹ] và các
bọn Jane Fonda của thế giới này đã rất là lợi ích cho họ. 153 Như chúng ta sẽ
thấy, việc đấu tranh chính trị, sử dụng phong trào phản chiến (địch vận) đã
đóng một vai trò hợp nhất và quả thật cốt yếu cho các chiến thắng quân sự của
Hà Nội vào năm 1975.
‘Mùi Chiến Thắng”
Tin tức – Watergate. Quốc hội triệu tập vào ngày
14 tháng giêng năm 1975. Một năm trước đó, Hiệp định Hòa bình Ba-lê trong tháng
giêng năm 1973 đã cho phép – thay thế viện trợ quân sự không giới hạn, vật tư
thiết yếu như thuốc men, bông băng, đạn dược, phụ tùng thay thế, và vũ khí
chiến thuật cho Nam Việt. Hơn nữa, Tổng thống Nixon đã hứa với Thiệu rằng lực
lượng Hoa Kỳ sẽ can thiệp để cứu Sài Gòn như đã từng làm vào năm 1972 (và ở Yom
Kippur năm 1973). Nixon nay đã không còn và nghĩa vụ quy định bởi hiệp ước hòa
bình cùng những lời hứa của tổng thống bất kể tới Quốc hội nay mang ý nghĩa
khác. Thượng nghị sĩ Edward Kennedy và John Tunney đề nghị tu-chính dự luật
ngân sách quốc phòng để tiếp tục giảm triệt để thêm viện trợ quân sự cho Nam Việt.
Một tu-chính từ Kennedy cắt giảm $ 266 triệu từ một dự luật chi tiêu bổ sung
cho Việt Nam. Sau đó là cắt giảm 220 triệu USD dành cho Campuchia. Một cuộc
điều tra của Thượng viện về Chiến dịch Hòa bình tại Đông Dương của Hayden và
Fonda bị xếp lại. 154 Để trả lời yêu cầu của Tổng thống Ford chuẩn chi 522
triệu để hỗ trợ Đông Dương, tổ chức Weather Underground đánh bom Bộ Ngoại giao
làm hư hỏng 20 phòng nằm trong ba tầng lầu, đe dọa bốn địa điểm khác tại
Washington, nhưng thất bại khi đặt bom Tòa Nhà Liên Bang ở Oakland. 155 Việc
cắt giảm hai phần ba viện trợ cho Nam Việt của Quốc hội đã, như chúng ta từng
thấy, làm trầm trọng hơn do việc Liên Xô đã tăng gấp bốn lần hơn viện trợ cho
Bắc Việt.
Các tên phản chiến Dân chủ và bọn chó nhát Cộng
hòa đã cắt ống dưởng khí đang nuôi giúp các đồng minh của chúng ta, Andy
Messing, một sĩ quan bộ binh trong Congressional Affairs đã hồi tưởng lại.156
Trong một vài tháng sau đó, Kissinger đã nói với John Connolly, cựu Thống đốc
Texas và bạn của Tổng thống Nixon, – Chúng tôi gây nên làn sóng hoảng sợ, và
sau đó chỉ là địa ngục mà thôi. Chắc chắn đã sẽ có tấn công (Bắc Việt), nếu
không vì các cuộc tranh luận tại Quốc hội về việc viện trợ cho các đồng minh
của chúng ta. 157 Gareth Porter, George Kahin, Tom Hayden đã ra làm chứng trước
Quốc hội như là một phần kế hoặch của Liên minh Coalition to Stop Funding the
War.
Đại Hội Quốc Gia để cứu vãn Hòa bình – ngày 25
tới 29 tháng giêng năm 1975
Hòa bình đang bị đe dọa không bằng các chiến xa
Bắc Việt, nhưng mà bởi kháng chiến miền Nam. Vì vậy, trong khi Bắc Việt Nam
đang bắt đầu trận tấn công cuối cùng để đánh bại Nam Việt, Tom Hayden và Jane
Fonda nhập chung với IF Stone, Bella Abzug, Joan Baez, Rabbi Balfour Brickner,
Daniel Ellsberg, George McGovern, Holly Near, Pete Seeger, và hàng ngàn tên
khác trong một Đại Hội Quốc Gia để cứu vãn Hòa bình. Từ thứ bảy 25 tháng giêng
đến ngày 29 tháng giêng năm 1975, chúng đã gặp nhau tại Đại học Georgetown, tại
nhà thờ Presbyterian ở đại lộ New York, điện Capitol và nhà thờ Lutheran Church
of the Reformation. Chương trình của các buổi họp của Đại hội tại Georgetown
đáng chú ý nhất là đã có sự hiện diện của Giám mục James Armstrong, Nguyễn Hữu
An (Liên minh của người Việt Nam), Fred Branfman (Indochina Resource Center),
Thích Thiện Châu (Việt Nam Resource Center), Bob Chenoweth (IPC POW), Tom
Cornell (FO), dân biểu Ron Dellums, dân biểu Robert Drinan, Ngô Công Đức
(Indochina Resource Center), Daniel Ellsberg, Jim Forest (AFSC), Morton Halpern
(Trung tâm Nghiên cứu an ninh Quốc gia), dân biểu Tom Harkin, Sokhom Hing
(Group of Khmer Residents), Ngô Vĩnh Long (Indochina Resource Center), Don Luce
(Calc), Doug Hostetter (United Methodist), Ed Miller (IPC,POW), Gary Porter
(Indochina Resource Center), Le Anh Tu (NARMIC/AFSC), Cora Weiss (Medical Aid
to Indochina) và Ron Young (AFSC).
Tom Hayden với Jane Fonda trình chiếu phim
Haskell Wexler của chúng – Giới thiệu kẻ thù (Introduction to the Enemy), nhằm
mô tả cuộc sống hạnh phúc của các chiến binh, phụ nữ, trẻ em, người lao động
Việt Nam để đến một chủ nghĩa xã hội không tưởng. Cuốn phim của Peter Davis và
Bert Schneider, Hearts and Minds, là một tuyên truyền chiến tranh tuyệt hảo
nhằm mô tả nền văn hóa Mỹ như là chỉ có tính cách phân biệt chủng tộc và quân
phiệt. Các buổi hội thảo bao gồm tất cả những đại ảo tưởng và đại lừa dối về
cuộc chiến tại Việt Nam, bao gồm luôn cả những kỳ vọng to lớn nhất của trí
tưởng tượng tả phái, một thành phần thứ ba tại Việt Nam, hòa giải, trung lập,
viện trợ y tế, và bồi thường chiến tranh. Đã xuất hiện những quan niệm mà nay
đã trở nên thông thường và hữu ích nhằm bóp méo sự thực: Campuchia được
hòa bình sau chiến tranh, luật quốc tế sẽ tương phản với chế độ tra tấn của Nam
Việt, các tù nhân chính trị, các chuồng cọp ác độc của CIA. 158 Liên minh yêu
cầu, – Quốc hội hãy từ chối bất kỳ nỗ lực nào để gia tăng viện trợ quân sự cho
miền Nam Việt Nam HOẶC Campuchia. 159
Ngoại trưởng Kissinger đã kể về tính cách nghiệt
ngã do việc Hoa Kỳ không viện trợ được đồng minh. Ngày 9 tháng 2 năm 1975
Kissinger điện thoại cho Silvio Conte (Cộng hòa-Massachusetts) để thảo luận về
số 377 triệu đô-la viện trợ khẩn cấp cho Campuchia. Conte trả lời – công luận
chống lại việc này. Kissinger hỏi lại tâm trạng công chúng sẽ ra sao nếu – họ
thấy cảnh quân Cộng sản tiến vào Phnom Penn – điều này chắc chắn sẽ xẩy ra vào
ngày 15 tháng 4 nếu họ không nhận được tiền. 160 Kissinger đã đóan sai đúng ba
ngày. Kissinger và Walt Rostow, cố vấn của Tổng thống Kennedy và Johnson, bàn
luận vào ngày 22 tháng 2 năm 1975.
Kissinger: – Những gì chúng ta đang làm tại Việt
Nam quả là một trong những đại bi kịch của thời đại chúng ta.
Ngày 24 tháng hai năm 1975 Kissinger nói với Bộ
trưởng Quốc phòng James Schlessinger rằng khi thất bại - trong việc
đối phó với Khmer Đỏ tại Campuchia … đã như đổ xác người xuống cống.
Ngày 2 tháng 3 năm 1975, Sydney H. Schanberg của
tờ New York Times, tường thuật về từ Phnom Penn, Cam-pu-chia, đặt câu hỏi lý do
vì sao Hoa Kỳ nên tiếp tục hỗ trợ đồng minh là Chính phủ Lon Nol. Một viên chức
Đại sứ quán trả lời, – Nếu phía bên kia nắm quyền, họ sẽ giết chết tất cả các
những người có học, các giáo viên, các nghệ sĩ, trí thức, và đó sẽ là một bước
lùi trở về với thời man rợ, Schanberg không tin nhhư vậy. Vì vậy, anh ta
viết về quan điểm riêng của mình trong khi vẫn còn hưởng sự an toàn tương đối
tại thủ đô Campuchia. Không hề để ý tới chính sách và cách thực hành của hệ
thống man rợ từng được biết đến của Khmer Rouge, Schanberg viết rằng tuy –
trong khi các phần tử nổi dậy – có thể chỉ đốt cháy toàn bộ nhiều ngôi làng,
giết hại và gây tàn phế cho các nông dân không có vũ khí, – thì cách xử sự này
đã không là nhất trí và có tính cách toàn quốc. Anh ta đã che dấu các sự thật
đáng kinh bằng cách tường thuật là các lực lượng Khmer bị chia ra thành các
nhóm Stalin, Mao-ít và quốc gia tranh dành lẫn với nhau. Gần như là đảng Dân
chủ và đảng Cộng hòa, các độc giả của anh ta chắc phải nghĩ thế. Các phần tử
nổi dậy – đã có - mục tiêu chung là lật đổ chính phủ Lon Nol được
Mỹ hậu thuẫn, – ngụ ý rằng việc chống đối chủ nghĩa đế quốc cũng không có gì là
quá xấu. Một phụ đề đã đăng, – Đối với Nhân Dân, chính chiến tranh là kẻ
thù, 162 Bằng một cách nào đó, đương sự đã không để ý tới làn sóng người
Campuchia đang chạy trốn Cộng sản về với đồng minh của Mỹ. Tỏ ra là mình luôn
luôn biết ai phạm tội, Sydney Schanberg sau đó quy lỗi cho việc Mỹ đánh bom đã
gây ra nạn diệt chủng Campuchia sau đó. Việc ném bom của Mỹ đã làm Pol Pot nổi
khùng lên.
Ngày 5 tháng 3, Dân Biểu Otto Passman nói với
Kissinger rằng ủy ban của ông còn thiếu một phiếu bầu để thông qua viện
trợ cho Cam-pu-chia. Kissinger nói với Phil Habib, – Rồi sẽ không đi đến đâu và
chúng ta sẽ tự vấn lương tâm để khi đi xuống mà đầu vẫn ráng ngẩng lên. 163
Và nhóm Weather Underground, nhằm phản đối việc
tái diễn chiến tranh gây ra bởi Sài Gòn và Washington tại Việt Nam, vào ngày 28
tháng giêng đã đánh bom Bộ Ngoại giao Mỹ ở Washington, DC và trong cùng một
ngày tại Oakland, California, một văn phòng của Cơ quan Phát triển Quốc tế (
Agency for International Development).164
Trong khi đó, để giành chiến thắng, Bắc Việt
tăng cường thêm khoảng 250.000 binh sĩ vô Nam Việt Nam. Tổng cộng, 418.000 bộ
đội xâm nhập miền Nam, 17 sư đoàn tác chiến và một số lượng tương đương trong
vai trò hỗ trợ.
Hãy đổ lổi cho Tên Đại Sứ Điên Khùng
Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn là Graham Martin cố gắng
một cách tuyệt vọng tìm kiếm viện trợ cho miền Nam Việt Nam. Nhân viên CIA
Frank Snepp viết trong Decent Interval là cách thức của Martin đối với
Washington là chỉ thẳng mặt các tên Mỹ đang mưu đồ và tuyên truyền cho Hà Nội:
“Tom Hayden, Jane Fonda, Fred Branfman và Don Luce của Indochina Resource
Center là những tên mà ông đề cập đến một cách thường xuyên nhất. “. FBI và CIA
đã không thể cung cấp cho Đại sứ Martin nguồn tin giúp ông chứng minh được cáo
buộc của mình chống các điệp viên Mỹ đang gây ảnh hưởng giúp Hà Nội – nơi
nào mà chúng đã nhận được tiền trả cho chúng. Theo Snepp, không ai chịu nghe
Đại sứ Martin, ngay cả khi ông mô tả đó cũng một chiến thuật tuyên truyền mà
Bắc Việt đã dùng để chống lại Pháp. 165 Ngay cả cựu Chủ tịch Hành Pháp Trung
Ương Nam Việt là Nguyễn Cao Kỳ cũng tin rằng việc hầu như ai cũng ghét Đại sứ
Martin đã khiến các yêu cầu cuối cùng của Sài Gòn để được hỗ trợ trở nên tuyệt
vọng. Martin đã bác bỏ mạnh mẻ lập luận của các kẻ mà ông cho là cản trở đường
tiến. Trong những ngày cuối cùng của một cuộc chiến tuyệt vọng, Đại sứ Martin
đã không còn xử sự một cách ngoại giao nữa.
Vào ngày 6 tháng 3 năm 1974, Đại sứ Graham
Martin viết một bức điện gần 20 trang tấn công phóng viên David Shipler của New
York Times, gọi việc làm của y – là một sự việc có thể dùng để nghiên cứu về
công tác tuyên truyền che dấu dưới chiêu bài điều tra báo chí. Shipler không
báo cáo các hành vi vi phạm Hiệp định Paris của Việt Công. Mặc dù đứng trưóc
một cuộc xâm lược từ Bắc Việt, Shipler, giống như bọn vận động hành lang phản
chiến, đã tường trình là chỉ có một bên tiến hành chiến tranh, Nam Việt. Thiệu
có bác bỏ các cuộc bầu cử, nhưng Shipler cũng không đề cập đến việc là từ năm
1954 cộng sản đã từ chối bất kỳ cuộc bầu cử nào mà được quốc tế giám sát.
Shipler biện bạch cho việc Bắc Việt sử dụng pháo hạng nặng và cũng không báo
cáo sự kiện Cộng sản tập trung pháo vào đám đông thường dân đã bị mắc kẹt hay
đang chạy trốn. Martin nhận xét là tường trình của Shipler không chỉ là tuyên
truyền, và là phong trào phản chiến đang phối họp các nỗ lực của chúng thông
qua Hội nghị Stockholm bị kiểm soát bởi Liên Xô và thông qua các đại diện của
Hà Nội ở Paris. 166 Cục quốc tế của Đảng Cộng sản Liên Xô tài trợ cho Hội nghị
Stockholm 15 triệu $ mổi năm. 167
Khi George Webber, chủ tịch của New York
Theological Seminary thất bại không liên lạc được với cộng sản ở Sài Gòn để yêu
cầu họ ngưng lại chính sách khủng bố, theo như lời yêu cầu của Đại sứ Martin,
Martin đã gởi qua bưu điện cho Webber một hộp đầy hình ảnh của các trẻ em bị
tàn phế. – … Nhưng do quyết định của ông … những đứa trẻ này khã dỉ có thể vẫn
còn sống. Cả hai thư gởi cho Shipler và Webber đều bị tiết lộ ra cho báo
chí. 168 Thành ra, cung cách cư xử không đẹp của Martin mới trở thành đáng là
những bản tin, còn việc Cộng sản tàn bạo thì chắc chắn không đáng đã tin để
tường thuật. Và hầu hết tất cả mọi người đều cũng đã biết từ nhiều năm nay
xuyên qua tuyên truyền của Hà Nội cung cấp bởi các tên phản chiến Mỹ rằng chính
Mỹ đã giết trẻ em tại Việt Nam. Việt Cộng yên lành qua cơn sóng gió.
Bạn sẽ có dám đốt cháy một trẻ em khi cần?
Trí Thức Moscow
Vào tháng 3 năm 1975, cộng sản Khmer Đỏ tại
Campuchia và quân đội của Hà Nội ở miền Nam Việt Nam chỉ cần vài tuần nữa để
chiến thắng. Jane Fonda thì đang ở tại Moscow và đã đánh hơi được cái “mùi của
tự do” mà đã y thị đã từng thưởng thức trong một cuộc diễu hành quân sự của
Liên Xô vào ngày May Day năm 1964 với người tình Pháp và cũng là người chồng
đầu tiên của y thị, Roger Vadim. Trong thời gian ở Liên Xô, Fonda vẫn tiếp tục
chỉ trích kịch liệt Nam Việt Nam và Mỹ. “Không phải là ở Liên Xô mà quyền tự do
dân sự bị vi phạm nhiều nhất”, y thị tuyên bố, “nhưng mà là ở miền Nam
Việt Nam”. Y thị nói với tờ Literaturnaya Gazeta của Liên Xô, rằng y thị “muốn
nhân cơ hội này cảm ơn nhân dân Liên Xô về sự hỗ trợ mà họ đang giúp Việt Nam.”
Tom và Jane đã hoạt động trong nhiều năm để bảo đảm rằng nước Mỹ (“kẻ thù
chung”) sẽ không còn hỗ trợ cho Nam Việt Nam hoặc Campuchia. Tháng 3 năm 1975,
giáo sư Gabriel Kolko được mời đến Hà Nội – ngay lập tức, – để được tham vấn về
kinh tế của miền Nam Việt Nam. Chăc có lẽ lúc đó y cùng đi xe chung với bộ đội
Bắc Việt mà đang xâm chiếm miến Nam. Kolko đã trải qua bốn ngày cuối cùng
của chiến tranh (ngày 26 tới 30 tháng 4 năm 1975) ở miền Nam Việt Nam, tại Huế
và Đà Nẵng. Sau đó thì Kolko đã cố vấn kinh tế cho Hà Nội từ Paris. Vợ y và y
đã trở lại Việt Nam nhiều lần vào năm 1976, 1981, 1983 và 1987, và ngày càng vỡ
mộng về việc lại có một quốc gia cộng sản khác đã không thành lập được cái xã
hội chủ nghĩa không tưởng. 169
Ngày 7 tháng 3 năm 1975 Tổng thống Ford tổ chức
cuộc họp báo cứu nguy cuối cùng để xin 222 triệu Mỹ kim viện trợ cho
Cam-pu-chia và Việt Nam. – Tôi muốn nói được rằng việc tàn sát sẽ chấm dứt nếu
chúng ta ngưng viện trợ. … Nếu chúng ta từ bỏ đồng minh của chúng ta, điều đó
có nghĩa là chúng ta sẽ nói với tất cả các thế giới rằng chiến tranh phải được
trả giá. Khi được hỏi về sự thờ ơ của công luận, Ford đã nói, – … Chúng ta đã
thấy những câu chuyện kinh tởm. Việc sử dụng bừa bãi của các phi đạn tại
… Phnom Penh, trẻ em bị thương nằm la lết trên đường phố … Khi được hỏi
liệu chăng viện trợ của Mỹ sẽ tiếp tục gây ra đổ máu, Ford đã lưu ý là
mục tiêu của Khmer Đỏ không chỉ là giáo viên và các quan chức, mà luôn cả những
người vô tội. Ford muốn tránh một cuộc thảm sát. Vẫn giữ lịch sự ngay trong
thời chiến, Tổng thống Ford từ chối quy tội cho ai đã làm mất Đông Dương, – các
sự kiện cũng đủ nói lên sự thật. 170
Ngày 17 tháng 3, tờ Chicago Tribune tường trình
câu chuyện của Cha Robert Gehring về một cuộc tấn công của Khmer Đỏ vào một
trại tị nạn của Sở Cứu Trợ Công Giáo (Catholic Relief Services). – Chúng đã đâm
xuyên dọc thân hình các trẻ em và rồi đóng đinh các xác này lên tường các tòa
nhà. … Nhiều bà mẹ đã hóa điên ngay lập tức. 171 Thượng nghị sĩ Mike Mansfield
tuyên bố rằng vị bạn tốt của ông là Hoàng tử Sihanouk đã nói với ông ta là nếu
Khmer Đỏ chiến thắng thì họ sẽ không trả thù. 172 Trong một bức thư ngày
24 tháng 3 năm 1975, dân biểu Pete McCloskey (Cộng hòa-California), một kẻ
chống chiến tranh từ lâu nay, sau một chuyến viếng thăm Cam-pu-chia, khi trở về
đã chấp nhận quan điểm về các cuộc tắm máu và hỗ trợ cho việc bổ sung viện trợ
quân sự cho chính phủ Lon Nol. Sokhom Hing, một điệp viên của Khmer Đỏ và cũng
là thành viên trong chiến dịch Hòa Bình Đông Dương của Hayden-Fonda, đổ lỗi cho
các cuộc thảm sát là do Lon Nol và các cuộc oanh tạc của B-52 đánh xuống lực
lượng Khmer Đỏ đang tiến quân. Người tị nạn thì lại chạy trốn mà không nhảy ùm
vào vòng tay của quân đến giải phóng họ, nhưng lại là về phía chính phủ Lon Nol
và các người Mỹ. 173 Các vụ tắm máu trong quá khứ và hiện tại không làm Quốc
hội thay đổi ý kiến. 174
“Chỉ Không Đáng Gì”
Trong khi Jane đang vui hưởng chuyền đi Moscow của
y thị, lực lượng chính quy Bắc Việt tấn công Ban Mê Thuột, một thành phố trên
cao nguyên với dân số 90.000 người, ngay trung tâm của miền Nam Việt Nam. Ngày
11 tháng 3, 1975 Ban Mê Thuột thất thủ. Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu của Nam
Việt đã không có nhiều lựa chọn. Ngày 14 tháng 3, ông rút QLVNCH từ Tây Nguyên
(Pleiku) để về tái phối họp ngõ hầu lập lại một tuyền phòng thủ vững chắc đóng
chốt tại thành phố ven biển Tuy Hòa. Tổng Thống Thiệu hy vọng việc rút lui
chiến lược này sẽ cho phép miền Nam Việt Nam đứng trụ lại và ngăn chặn được làn
sóng tấn công dữ dội của Bắc Việt tại tuyến phòng thủ mới này. Để củng cố quyết
địng dồn quân trên tuyến Tuy Hòa, ông cũng quyết định việc rút quân dài tới 300
dặm về phía nam dọc bờ biển Đông, từ phía bắc của Huế, qua Đà Nẵng, Chu
Lai, và Bình Định. Việc này quả đã gây ra một thảm họa.
Lệnh rút lui của Thiệu suốt dọc 300 dặm từ các
thành phố duyên hải phía bắc và Tây Nguyên trở thành một việc tháo chạy hổn
loạn của một quân đội mất tinh thần xen kẽ với số người tị nạn thường dân đầy
kinh hãi. Bắc Việt đã cố tình pháo giết cả thường dân lẫn quân nhân với súng
cối, súng trường, và các xe tải Molotova Nga, trải đầy đường số 7 dẫn về
Tuy Hòa với hàng đống xác chết – trên Đoàn xe của Nước Mắt (Convoy of
Tears). 175 Kissinger đã kể lại với Schlesinger, – việc sụp đổ này
đã thực sự do chúng ta gây ra. … cơn kinh hoàng, – và ngay sau đó, theo
phóng viên David Binder, – Có thể rồi họ sẽ sụp đổ nhưng chính chúng ta đã gây
ra nó. 176
Pháo binh của Bắc Việt đã giết luôn cả thường
dân đang trốn chạy – phụ nữ và trẻ em – cũng như những chiến sĩ QLVNCH. Chúng
bắn vào và – nghiền nát ra từng mảnh nhỏ 200.000 binh lính và dân thường hoảng
sợ đang chạy trốn, tàn sát cả phụ nữ và trẻ em trong các đoàn xe bị khựng lại
trên đường chạy trốn khỏi Tây Nguyên qua Quốc lộ 21, một – Đoạn Đường của Nước
mắt (Trail of Tears), nơi mà phân nữa của số đã bỏ mình. 177 Ở phía Bắc, hàng
trăm ngàn người chạy trốn từ Quảng Trị và Huế về Đà Nẵng, nơi có tới 50.000
người đã chết. Mẹ của Thủ tướng Bắc Việt Phạm Văn Đồng đã không bị lừa gạt bởi
sức lôi cuốn của các lời hứa hẹn êm ấm của con trai bà. 178 Tên họ Phạm đã từng
lừa một số lớn khách thăm phản chiến người Mỹ, bằng cách gọi họ là đồng chí
cùng chiến tuyến, nhưng mẹ của y biết rỏ con ác quỷ núp sau nụ cười quyến rũ
của con trai của mình.
Khi đi Hà Nội, Larry Levin, tên Giám đốc nhân
viên của Liên minh U.S. Coalition to Stop Funding the War do Tom Hayden bổ
nhiệm, đã phỏng vấn Xuân Thuỷ, Trưởng ban Hòa đàm Ba Lê. Nhằm phản biện lại sự
kiện số đông dân Nam Việt đã quyết định chạy trốn khỏi quê hương của họ, Thủy
đã cáo buộc – việc áp buộc di tản … (Chính phủ Hoa Kỳ) … gọi là giải cứu người
di tản ‗ “Đây chỉ là một trò lừa bịp với mục đích nhằm làm xôn xao dư luận thế
giới và tự cung cấp lý do để can thiệp vào Việt Nam. 179 Ngày 20 tháng 4, Đài
phát thanh giải phóng của Việt Cộng lặp lại chủ đề tuyên truyền của Hà Nội: các
giới chức cầm quyền Mỹ đã đưa hàng không mẫu hạm Enterprise và Coral Sea … dưới
chiêu bài di tản. Các hành vi này – vi phạm nghiêm trọng Thỏa ước Ba Lê … với
mục đích nhằm hỗ trợ phe nhóm Nguyễn Văn Thiệu … 180 Trong thực tế, hiệp ước
Paris vào tháng giêng năm 1973 không đòi hỏi phải lật đổ Thiệu và mặc nhiên xem
như dân chúng Nam Việt sẽ không quyết định số mệnh của mình bằng súng ống. Thật
vậy, Nam Việt có quyền nhận tiếp liệu quân sự để tự bảo vệ chống lại cuộc xâm
lược của Bắc Việt.
Trong khi đó, vào ngày 13 tháng 3 năm 1975, đợt
tuyển mộ thứ tám của Lữ đoàn Venceremos rời Cuba với 125 tới 135 thành viên mới
người Mỹ, 181 là rường cột cho một cuộc Cách mạng Xã hội chủ nghĩa Mỹ trong
tương lai.
Planet CIA, một Ước lượng Tình báo quốc gia đặc
biệt vào ngày 27 tháng 3 năm 1975 đã có ý kiến, – Các yếu tố hậu cần … có thể
sẽ cản trở một cuộc tấn công chớp nhoáng vào Sài Gòn bởi vì cộng sản không có
đủ tiếp liệu sẳn sàng ở các vị trí tiền phương. 182 Henry Kissinger thì
lại thấy tình hình phát triển một cách nhanh chóng và khẩn cấp hơn, –
Chúng tôi không muốn rút ra khỏi Việt Nam bằng cách bắn vào các người tỵ nạn
đang trốn chạy.
Ngày 31 tháng 3 năm 1975, trong khi Nam
Việt đang chống đở các đơn vị pháo binh và thiết giáp xâm lăng của Bắc Việt thì
viên lãnh tụ Phật giáo từng được thế giới hoan nghênh là Thích Trí Quang,
cư xử y hệt một điệp viên hay cũng có thể là một tên bị bịp, đã đòi hỏi Tổng
thống Nguyễn Văn Thiệu phải từ chức.
Cả Tổng Thống Ford lẫn Thiệu cùng tiếp tục cầu
xin với Quốc hội khoản cứu trợ quân sự khẩn cấp cho Nam Việt, nhưng vào tháng
3, đảng Dân chủ thuộc Hạ Viện bỏ phiếu 189-49 chống lại mọi viện trợ cho Việt
Nam hoặc Campuchia. Việc Quốc hội hỗ trợ cho chiến tranh đã đạt đỉnh cao vào
năm 1969, và vào các năm 1973-74 ngân sách chiến tranh, sau khi điều chỉnh theo
lạm phát, đã là bốn phần trăm của con số cao nhất trong năm 1969, và tới
1974-75 ngân sách chiến tranh chỉ còn là một phần bủn xỉn bằng chỉ với một
phần trăm của mức năm 1969. Các dân biểu hoặc là dửng dưng hoặc là chống lại
các lời kêu gọi cuối cùng vào năm 1975. Chính cái Quốc hội từng cắt rồi
bỏ chạy của nhiệm kỳ 1972-1976 đã nhổ nước bọt vào mặt các Cựu chiến binh Việt
Nam, đã bỏ rơi các đồng minh Việt Nam, đã phản bội và làm mất tinh thần nhân
dân miền Nam Việt Nam, và đã không cho họ vũ khí, đạn dược, và ngay cả băng cứu
thương. Phong trào phản chiến thân Hà Nội đã bao che Quốc hội về phương diện chính
trị.
Lê Đức Thọ, kẻ từng từ chối phần của mình trong
giải Nobel Hòa bình do việc ký kết các định Hòa bình Paris vào tháng Giêng năm
1973, nay về gia nhập các tên chỉ huy của các Quân Đoàn Bắc Việt và bộ đội
trong cuộc tấn công quân sự cuối cùng vô Sài Gòn.
Kẻ thù có 5 sư đoàn để chống lại 15 sư đoàn của
chúng ta. Như vậy chúng ta không thể nào mà không chiến thắng. … Mọi công bố
chính thức của Hoa kỳ đều loại trừ khả năng… tái can thiệp của Mỹ. …
Chúng ta phải … một cách nhanh chóng và vững chắc tiến hành công việc của chúng
ta. 183
Một quân nhân mà cũng là học giả, Robert F.
Turner đã nói, – các chính trị gia theo khuynh hướng tự do như J. William
Fulbright, Frank Church, Edward Kennedy, Robert Packwood, Claiborne Pell và
Clifford đều xứng đáng để chia xẻ một phần lớn trách nhiệm … [cho việc
thất bại trong cuộc chiến tranh tuyên truyền] cùng với một giới báo chí cực kỳ
ngu dốt và vô trách nhiệm. 184
Tổng Thống Thiệu đã đọc đi đọc lại trong tuyệt
vọng các thư bí mật nhận từ cựu Tổng thống Richard Nixon mà đã cam kết sẽ có
viện trợ quân sự cho dù bất kỳ việc gì sẽ xẩy ra. Thật vậy, Hiệp Định Paris
1973 đã cam kết – thay thế viện trợ quân sự không giới hạn cho Nam Việt.185
Nixon đã từ chức và Gerald Ford thì lại thiếu quyết đoán.
Tổng thống Ford thì đi chơi ‘golf’ dưới nắng ấm
mặt trời tại Palm Springs; CIA thì cung cấp lời khuyên về việc cải thiện tuyên
truyền của miền Nam Việt Nam; Kissinger thì tự hỏi vì sao bọn Việt Nam không
“chết cho nhanh … [và không] cứ lây lất mãi;” còn Nam Việt thì cứ cầu xin một
cách vô vọng các cuộc không tập bởi B-52. Để chối từ các cuộc không tập do
B-52, và vì hiểu lầm các đám đông hung dữ như là công luận Mỹ, Kissinger đã
nói, “Nhân dân Mỹ sẽ xuống đường một lần nữa.” 186 Tom Hayden và Jane Fonda thì
đang nghiên cứu một bản đồ lớn “đầy với kim dùng để đánh dấu và các vạch mực
cho thấy các mủi di chuyển quân.” 187 Bắc Việt đã cung cấp thông tin
chiến trường cho Tom Hayden kể từ năm 1965.
Đến cuối tháng 3, Nam Việt vẫn chiến đấu một
cách cương quyết, nhưng QLVNCH bị cạn dần về hỏa lực, phụ tùng thay thế, máu,
băng cứu thương và luôn về tinh thần. Cuối cùng, toàn bộ tuyến phòng thủ thành
lập từ các lực lượng rút quân về dọc các thành phố ven biển bị sụp đổ trước sức
tấn công của BắcViệt. Trong vòng năm ngày, vào ngày 25 tháng 3, Huế và Chu Lai
về phía bắc bên bờ phía nam của vùng phi quân sự thất thủ. Ngày 30 tháng 3, đến
phiên Đà Nẵng.
Tổng Thống Thiệu chuẩn bị một tuyến phòng thủ từ
Đông sang Tây (từ ven biển Nha Trang chạy tới Tây Ninh), 100 dặm về phía bắc
của Sài Gòn. Điều đó cũng là vô ích. Chỉ trong năm ngày nữa, ngày 2 tháng 4,
Qui Nhơn thủ phủ của tỉnh Bình Định thất thủ. Ngày 3 tháng 4, Tuy Hòa, Nha
Trang, vịnh Cam Ranh thất thủ. Chỉ còn có Sài Gòn và đồng bằng phía Nam là vẫn
còn chưa bị xâm chiếm. Ngày 5 và 6 tháng 4, Sylvia Kushner thuộc tổ chức công
khai cộng sản là Chicago Peace Council triệu tập một Hội nghị Quốc gia
nhằm cổ võ cho một việc cắt giảm sâu đậm về chi tiêu quân sự tại khách sạn
LaSalle ở Chicago. Dân Biểu Ron Dellums, kẻ đã cung cấp văn phòng tài trợ do tiền
thuế của dân cho Indochina Peace Campaign của Tom Hayden và Jane Fonda
nhằm cắt bỏ viện trợ Mỹ cho Đông Dương, đã nói, – Hội nghị … sẽ nói với hàng
trăm ngàn người thuộc phong trào đầy cảm hứng nhằm chống cuộc chiến Đông Dương.
Các dân biểu Ralph Metcalfe, Bela Azbug, Les Aspin, và Abner Mikva đã tham dự
Dellums. 188
Chiến Thắng Cuối Cùng
Ngày 7 tháng 4, một người đàn ông nhỏ con với
mái tóc màu xám, nhà ngoại giao và cùng từng được đề cử cho giải Nobel hòa bình
với Henry Kissinger, đã đích thân giao tận tay các mệnh lệnh quân sự của Hà Nội
đến bộ chỉ huy Việt Cộng COSVN. Lệnh là phải bám sát vô Sài Gòn. Do đó, Lê Đức
Thọ, tay đàm phán hàng đầu của Hà Nội, đã liền chứng minh một lần cuối cho tiến
trình phối họp hoàn hảo của một mặt trận vừa chính trị, vừa ngoại giao và luôn
trên chiến trường để phục vụ cho một chiến lược thành công của chiến tranh cách
mạng. Ngày hôm sau, Bert Schneider nhận được giải Academy Award cho bộ phim tài
liệu hay nhất, Hearts và Minds, một bộ phim nói rằng nước Mỹ chỉ thuần túy là
kỳ thị chủng tộc và quân phiệt. Bert Schneider đã nói: – Thật là mỉa mai khi
chúng ta lại đang ở đúng vào lúc mà Việt Nam sắp được giải thoát.
Schneider đã đọc bức điện chúc mừng từ những người Cộng sản Việt Nam tại
Paris. Cử tọa Hollywoodcùng đứng lên vổ tay hoan nghênh quân giải phóng, các kẻ
thù và các nhân viên người Mỹ của chúng. Tướng Westmoreland nói mỉa mai lớn
nhất là Mỹ thì đòi hỏi Sài Gòn phải dành cho được tình thương cùng lòng tin của
người dân trong khi Hà Nội thì lại đi chinh phục con tim và khối óc của những
người – chịu trách nhiệm chính lúc ban đấu về việc chúng ta tham chiến.
[các nhà lãnh đạo chính trị.] 190 Angelo Codevilla đã nói là trái tim và lòng
tin của người Việt Nam quả đã dành được, vì họ luôn luôn chạy trốn về phía nam,
trong khi cuộc chiến đấu dành trái tim và khối óc của các tầng lớp ưu tú người
Mỹ thì – trong phòng khách các đại học … [và] … trong những phòng trải thảm chứ
không phải là trong rừng. 191
Những Ngày Cuối Cùng
Những ngày cuối cùng đầy vinh dự của Quân Lực
VNCH đã được ghi lại trong lịch sử, nhưng lại rất ít khi được đề cập đến. Vào
hồi kết cuộc, sau trận bảo vệ anh dũng lúc ban đầu ở Phước Bình, rồi là sự sụp
đổ tang thương phía bắc cùng sự hỗn loạn trên các tuyến đường ven biển dẫn về
phía nam, lực lượng quân sự còn lại của miền Nam Việt Namđã chiến đấu rất anh
dũng. Bắt đầu từ ngày tháng 4, tại Xuân Lộc, Tướng Lê Minh Đảo đã chỉ huy Sư
Đoàn 18 chống lại các đơn vị của ba sư đoàn quân Bắc Việt là 6, 7 và 341. 192
Thật vậy, mãi cho đến ngày 13 tháng 4, QLVNCH đã tiến công đánh các lực lượng
cộng sản tại vùng châu thổ. 193 QLVNCH mà gần như là không được tiếp tế đã
chiến đấu một cách oai hùng tại Gò Dầu Hạ và Xuân Lộc, nhưng ngày 15 tháng 4 đã
phải rút về phía Sài Gòn. Ngày 16 tháng 4 năm 1975 khi nói chuyện với Chủ tịch
Appropriations (Trưng Dụng) của Hạ viện George H. Mahon, Kissinger đã cho biết,
– Nam Việt đang chiến đấu rất tốt. Tôi nghĩ rằng một số Thượng nghị sĩ đã sợ
một chiến thắng của miền Nam Việt Nam hơn là một sự thất bại bởi vì họ phải bỏ
phiếu cho sự trưng dụng khác. 194 Tướng Alfred Gray được trích dẫn trong
Leading The Way của Al Santoli:
Ngày cuối cùng, khi toàn nước đang sụp đổ,
tôi theo dõi làn sóng dành cho quân đội và vẫn có thể nghe các thủy quân lục
chiến Nam Việt vẫn chiến đấu gần Đà Nẵng. Bắc Việt đã tràn ngập Đà Nẵng nhiều
tuần trước … Thủy quân lục chiến đã rút vào những ngọn đồi và đã tiếp tục chiến
đấu trở lại. Bốn mươi ba đại đội trưởng của họ đã tử trận trong khi chiến
đấu trên các ngọn đồi.195
Phóng viên Robert Reinhold của tờ New York Times
đã phỏng vấn các tên lãnh tụ phản chiến Tom Hayden và Jane Fonda trong khi hàng
trăm ngàn người tị nạn, chen lấn làm tắc nghẽn đường xá, chạy trốn, không phải
để ngã vào vòng tay của các tên giải phóng miền Bắc của họ, nhưng mà là chạy về
Sài Gòn. Hayden và Fonda “kinh hoàng nhìn xem … các cảnh của đoàn người tị nạn
chạy trốn và cảnh cái chết, nhưng họ không ngạc nhiên.” Về các người tị nạn,
Jane Fonda nói, “Việc đau khổ và tang tóc đã xẩy ra từ nhiều thập kỷ – lần này
thì không đáng gì.” 196 Y thị đã chỉ nói đúng về số lượng người bị thiệt
mạng của Hà Nội đưa ra là 1.100.000 tới 1.400.000 trong suốt cuộc chiến.
Chủ bút của tờ Washington Post, Ben Bradlee gọi
Kissinger, – Tôi đã có ba người ở Sài Gòn … mà việc di tản rõ ràng là quan
trọng với tôi. …
Kissinger: … Mỹ hay Việt Nam?
Bradlee: … Bây giờ, tôi chỉ nói riêng về người
Mỹ. … Ngoại trưởng có nghỉ là các kế hoạch di tản đều tốt đẹp không?
Kissinger: Vấn đề của chúng tôi về việc di tản
là làm sao thực hiện mà không gây nên: một, hoảng sợ khắp nơi, và hai,
các cuộc bạo loạn chống Mỹ. … Tôi không quá lo lắng về việc đưa người Mỹ ra
khỏi ….
Bradlee: Vâng.
Kissinger: … Hiện có hàng trăm ngàn người Việt
Nam mà chúng ta cần ít ra phải làm cho họ thấy là mình đang cố gắng cứu sống họ.
197
Màn trình diễn quả thật không đáng chi. Ở Nha
Trang viên Lãnh sự Moncrieff Spear nói cho những người Thượng đã chạy trốn khỏi
Ban Mê Thuột và Phú Bổn là tàu hải quân Mỹ sẽ di tản họ, nhưng tàu không bao
giờ đến. Một nhân viên Sở Ngoại giao tại Sài Gòn đã bán chổ cho số người Việt
giàu có. 198
Ngày 16 tháng 4, một thành phố ven biển năm mươi
dặm về phía nam của chiến tuyến phòng thủ thứ nhì của Thiệu (Nha
Trang-Tây Ninh) là Phan Rang thất thủ. Việc kết thúc đã gần, Tổng thống Ford
cho biết, – Hôm nay, Mỹ có thể lấy lại cảm giác tự hào đã có trước vụ Việt Nam.
Nhưng nó không thể đạt được bằng cách lại tái khởi động một cuộc chiến mà Mỹ đã
xem như chấm dứt.” Việc Việt Namthất thủ ” không thể báo trước ngày tàn
của thế giới hay của trọng trách lãnh đạo toàn cầu của Mỹ.” Bắt chước Abraham
Lincoln.., Ford nói là đã tới lúc “ nhìn về một chương trình cho tương lai, để
thống nhất, để băng bó các vết thương của quốc gia.” 199 Tại Hà Nội vào
ngày 16 tháng 4, tay đàm phán tại Paris là Xuân Thủy đã nói với Larry
Levin, giám đốc nhân viên của Liên minh Mỹ U.S. Coalition to Stop Funding the
War của Tom Hayden là – nhân dân miền Nam Việt Nam … đã vùng lên và các lực
lượng giải phóng [Bắc Việt] đã tham gia cuộc đấu tranh của họ. 200 Cùng
ngày hôm đó, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói với truyền hình Hòa Lan, – các đồng
bào miền Nam của chúng tôi … đang dành được nhiều chiến thắng to lớn. 201
Đó hoàn toàn là một chiến thắng của miền Bắc, bởi vì Việt Cộng đa số đều
đã chết và nhân dân miền Nam Việt Nam thì lại chạy trốn xa các người tới giải
phóng họ.
Xuân Thủy yêu cầu Mỹ ngưng các chuyến tàu
tiếp tế đạn dược cùng kéo tàu Mỹ ra khỏi vùng biển Việt Nam.
- Đông Dương vắng bóng người Mỹ: Đối với đa sô,
sẽ là một cuộc sống tốt đẹp hơn. (New York Times)
Những Cánh Đồng Để Giết Người
Tháng 3 năm 1975 AnthonyLake, cựu phụ tá của
McNamara và Kissinger viết trong tờ Washington Post, – Lợi lộc tại Campuchia:
Tiếp tục viện trợ chỉ kéo dài thêm chết chóc. Wilfred Burchett, điệp viên
của KGB Liên Xô, mà các giới truyền thông Mỹ và phong trào hòa bình tin cậy,
cho biết, – một trong những dân tộc dể thương và yêu chuộng hoà bình trên
thế giới nhất đã bị thí nghiệm với các loại vũ khí mới nhất trong kho vũ khí
Mỹ. Vào ngày 17 tháng 4, thủ đô Campuchia thất thủ; do Pol Pot lãnh đạo,
Khmer Đỏ tuyên bố “Năm thứ 0″ Sokhom Hing, một điệp viên của Khmer Đỏ và cũng
là kẻ từng tham gia trong Chiến dịch Hòa bình của Hayden-Fonda Đông
Dương tuyên bố – nhân dân đón chào hoan hô họ … Đã không có tắm máu.
202 Các nhà lãnh đạo chóp bu Campuchia mà đã từ chối di tản
với Đại sứ Mỹ vào ngày 12 Tháng 4, Sirik Matak, Lon Non và các thành viên nội
các, đều bị xữ tử vào ngày 17 tháng 4. 203
Tuy vậy, vào ngày 1 của năm 0, Khmer Đỏ vô Phnom
Penh và cưởng bách toàn thể dân chúng, kể cả các bệnh nhân trong bệnh viện,
phải ra khỏi thành phố. Cuộc tắm máu bắt đầu để trả thù. Trong thời gian ba
năm, đã có đến 2.000.000 người Campuchia, có lẽ độ 1 / 3 của toàn dân, đã bỏ
mình trên “Những Cánh đồng Để Giết người.” (Killing Fields) Đây là cuộc tắm máu
mà chính Jane Fonda và Tom Hayden cùng báo chí đã cho biết sẽ có thể chỉ được
ngăn chặn bởi một sự cắt bỏ viện trợ của Hoa Kỳ cho Đông Dương. Việc cắt viện
trợ lại làm nạn thảm sát tới nhanh hơn.
Bọn cánh tả quá khích tuyên bố rằng việc Mỹ ném
bom đã làm Pol Pot nổi điên. Thực tế thì các vụ cưởng bách di tản và tàn sát
đều được quyết định do Pol Pot, một tên theo xã hội chủ nghĩa không tưởng
chuyên đọc Lenin, Stalin, Hồ và Mao trong các quán cà phê tại Paris.
“Đông Dương Đã Không Thất Thủ”
Khi bọn xâm lăng cộng sản tiến vào Phnom Penh,
Campuchia vào ngày 18 tháng 4, Tom Hayden đang nói chuyện với bọn đại diện của
Khmer Đỏ. Ấn bản ngày 18 tháng 4 của tờ New York Times trích dẫn cách giải
thích các sự kiện của Hayden: “Đông Dương đã không thất thủ — nó đang vươn lên.
Chỉ có toàn bộ cơ sở chiến tranh lạnh thất bại mà thôi.” Theo Hayden, bọn cộng
sản sẽ không thay thế các chính phủ Đông Dương, nhưng sẽ thành lập các chính
phủ liên minh. “Chính sách của phía bên kia là hòa giải,” Trong khi xe tăng
Liên Xô tràn về phía nam và thường dân vô tội chạy trốn ráng tránh khỏi bị pháo
của bọn người trong cái lực lượng hòa giải của y giết, Tom Hayden tuyên bố đầy
tự tin là, “chủ nghĩa cộng sản là một trong những giải pháp mà sẽ cải thiện
cuộc sống của người dân.” Trong một bài báo kêu gọi “Hòa bình”, Hayden viết
trong tờ Rolling Stones ngày 8 tháng 5 năm 1975: “Quả thật là mỉa mai khi mà
tân chính phủ mới Campuchia đã lên nắm quyền đúng ngày 200 năm sau chuyến thành
công của Paul Revere, nhưng lần này thí các tiếng súng vang lại từ Đông Dương.”
Dưới hàng chữ ghi Ngày Tháng, Phnom Penh, Campuchia, là một tựa đề trên
tờ New York Times của bài viết do Sydney Schanberg, “Đông Dương vắng bóng người
Mỹ: Đối với đa sô sẽ là một cuộc sống tốt đẹp hơn”. Viên cố vấn về ngôn ngữ của
các tay độc tài cộng sản, Noam Chomsky đã nói là – Khmer Đỏ có thể thực sự đã
cứu sống nhiều sinh linh. Sojourner của Jim Wallis, mà trong tương lai sẽ là cố
vấn tinh thần cho Tổng thống Obama, đã thành lập nguyên cả một kỷ nghệ để xuất
bản các bài báo và bài xã luận đổ lỗi diệt chủng trên đầu Hoa Kỳ. 204
Ngày 21 tháng tư năm 1975, một Tổng thống đầy
giận dữ của miền Nam Việt Nam, Nguyễn Văn Thiệu, đã nói trong 90 phút trên
truyền hình cho người dân miền Nam Việt Nam, và đọc một bức thư gởi năm 1972 của
Tổng thống Nixon cam kết “hành động trả đũa nghiêm trọng” nếu sự sống còn của
miền Nam Việt Nam bị đe dọa. Thiệu đã lên án Hiệp định Hòa bình Paris, luôn cả
Henry Kissinger lẫn Hoa Kỳ và nói rằng, “Hoa Kỳ đã không tôn trọng lời hứa của
họ. Đó quả thật là vô nhân đạo. Quả thật là không đáng tin cậy. Quả thật là vô
trách nhiệm.” Sau lời hô hào chót, Thiệu đã an toàn bay đi Đài Loan,
tránh đượcviệc chắc chắn sẽ bị xử tử, và sau đó sống lặng lẽ và êm ấm
ở
LondonvàBoston.
Trong một cuộc điện đàm ngày 22 tháng 4,
Kissinger nói với Ted Koppel của ABC, -Chúng tôi cũng cố gắng để cứu một số
người Việt. Mình không thể cứ bỏ lại mọi người ở đó. Một danh sách tối
thiểu là 200.000 người cần phải được di tản. 205 Ngày 26 tháng 4, Đại sứ
Dean Brown thuyết trình cho Kissinger về các vụ di tản. -Người Mỹ đã dắt tới
máy bay chung bạn bè Việt Nam của họ và nói hãy cho đi cùng. … Những người này
không có giấy tờ và không có bằng chứng gì cho thấy là họ đang bị nguy cơ nhiều
… Và có một khó khăn với Thống đốc bang California Jerry Brown, một người bạn
của Tom Hayden và Jane Fonda. Thống đốc Jerry Brown đã than phiền, – Chúng ta
muốn đổ người Việt vào California mà đang bị một tỷ lệ thất nghiệp cao.
206 Julia Taft, chủ tịch của lực lượng đặc nhiệm của Ford về những người
tị nạn, cho biết thống đốc của California, Jerry Brown, đã đi đến mức – cố gắng
ngăn chặn máy bay chở người tị nạn hạ cánh xuống căn cứ không quân Travis gần
Sacramento. Bộ Trưởng Y Tế và An Sinh của Brown, Mario Obledo, cảm thấy rằng
gia tăng thêm một số đông người thiểu số lớn sẽ không được hoan nghênh ở
California. Và ông nói rằng đã có rồi một lượng lớn người gốc Tây Ban Nha,
Philippines, da đen, và các dân tộc thiểu số khác”. 207
Ngày 29 tháng 4, lúc 01:01 Zulu, Henry Kissinger
gởi các công điện cho Đại sứ Graham Martin nhằm ra lịnh chính xác cho hành vi
phản bội cuối cùng. – Nếu sân bay hãy còn sử dụng được … tiếp tục di tản số
người Việt Nam bị nguy cơ nhiều … Nếu sân bay không còn sử dụng được nữa … hãy
chuyển qua di tản mọi người bằng máy bay trực thăng, lặp lại, tất cả các người
Mỹ … tác xạ phòng ngừa sẽ được sử dụng [chống lại những người tị nạn Việt Nam]
khi cần thiết …. Trân trọng kính chào. 208 Nhân viên Đại sứ quán nhận
lãnh nhiệm vụ khủng khiếp là phải chứng kiến cảnh bỏ rơi miền Nam Việt-Nam.
209
Khi trốn chạy bỏ trụ sở mình, Đại sứ quán Mỹ để
lại các hồ sơ danh sách 30,000 nhân viên Phượng Hoàng, 210 nhân viên
chương trình bình định, những hồi chánh viên trốn về từ cơ sở hạ tầng của Việt
Cộng. Giữa cảnh ô nhục này, danh dự trường cữu của Sư Đoàn 7 QLVNCH đang phô
diển lần cuối cùng. Giới Báo chí Sài Gòn đã chê trách Sư đoàn này từ sau
trận Ấp Bắc năm 1963, mà trong trận chiến cuối cùng đã một lần nữa đánh bại các
cố gắng của quân Bắc Việt nhằm chiếm Quốc Lộ số 4, một con đường chính từ đồng
bằng sông Cửu Long về Sài Gòn. Cũng vào ngày cuối cùng, Trung Úy Thanh và Trần
Văn Hiền đã lái một máy bay C-119 để chiến đấu hỗ trợ các đơn vị QLVNCH đang
chiến đấu với quân Bắc Việt cho tới giờ phút cuối cùng. 211 Các thiếu nhi 12 và
13 tuổi đóng cữa trường trung học và tử thủ bảo vệ Trường Thiếu Sinh Quân của
mấy em và đã bị tổn thương nặng nề mãi cho đến khi quy hàng. 212
Đêm Cuối Tại Sài-Gòn
Vào đêm cuối cùng ở Sài Gòn, những người giàu có
thì dùng sà lan; – các người nghèo – 1 triệu 4 người thì nguyên một thập
kỷ sau đó đã đi theo trên những chiếc bè, ván đóng, thuyền thúng và trên những
“chiếc ca-nô” của Fonda. Khoảng 250.000 người đã chết khi cố gắng
làm vậy. Lúc 18 giờ 30 ngày 29, “Thành phố tối thui vì mất điện … và đắm chìm trong
tủi nhục”. 213 Đèn đường tắt ngấm, những cơn mưa ập đến, nhưng việc phản
bội và nổi xấu hổ của Mỹ sẽ không rửa sạch được.
Sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975, mặt trời lên
chiếu xuống hàng trăm tàu thuyền nhỏ ở ngoài khơi 214 và hình ảnh cuối cùng của
biết bao nhiêu là tấm ảnh giả tạo nhưng nổi tiếng từng phản ảnh kinh nghiệm
đáng tởm của Mỹ tại Việt Nam – các thủy quân lục chiến ném những trái đạn xì
đầy khói màu hồng để đẩy ngược ra những người Việt Nam tuyệt vọng cuối cùng
đang cố ráng bám leo lên chiếc trực thăng cuối cùng đang cất cánh từ mái của
một tòa nhà của Mỹ mà mãi mãi sau này sẽ vẫn được mô tả như là Đại sứ quán Hoa
Kỳ. Tấm ảnh này cũng như biết bao nhiêu tấm khác đã khác xa sự thật rất nhiều.
Đó không phải là Đại sứ quán Mỹ. Đó là một nhà an toàn của CIA ở khu
chung cư Pittman số 22 Lý Tự Trọng, đang di tản chỉ một số nhỏ viên chức cao
cấp Việt Nam, như Tướng Trần Văn Đôn và ông Trần Kim Tuyến, và đã bỏ lại gần
hầu hết các điệp viên, nhân viên và gia đình Nam Việt của CIA. Mãi ba mươi năm
sau vào ngày 29 tháng 4 năm 2005 thì nhiếp ảnh gia Hubert Van Es mới chịu tiết
lộ địa điểm thực sự với độc giả của New York Times. 215 Trong viện Bảo
tàng Chiến tranh Van Es đã tìm thấy một trong các bức ảnh trước đó của ông với
lời chú thích là Sư Đoàn Dù 173 đang rút lui trong khi thực sự họ đang xung
phong. Van Es cho biết chú thích này bóp méo lịch sử – chỉ nhằm tự phục vụ
tuyên truyền. 216 Các bản tin và quan điểm của Van Es đã tới trể
tới 30 năm. Đó quả thật là thích hợp cho bản tin cuối này. Denis Warner, nhà báo
Úc đã viết, đó là – cuộc chiến tranh đầu tiên bị thất bại trong các cột tin của
tờ New York Times. 217
07:30, ngày 30 tháng 4 năm 1975. Đúng là “Chào
Mừng Buổi Sáng Việt Nam” cho viên chỉ huy hàng đầu của quân đội chiến
thắng. Tướng Văn Tiến Dũng nói, “Đã không có một buổi sáng tươi đẹp, rạng rỡ,
trong veo và thoáng mát, với mùi thơm ngọt như buổi sáng hoàn toàn thắng lợi
của hôm nay.” WSP và COLIFAM của Cora Weiss giữ bản quyền tiếng Anh sách Đại
thắng mùa Xuân của Chúng tôi của Tướng Dũng. Cora Weiss, tuy đã không dịch tác
phẩm của Dũng sang tiếng Anh, cũng hưởng được vinh dự là một đồng chí cùng
chiến tuyến phục vụ trong mặt trận thứ hai của Hà Nội tại Hoa Kỳ nhằm khai thác
các gia đình của tù binh chiến tranh Mỹ. Weiss và Hà Nội đã phổ biến rộng rải –
một loại virus xảo quyệt nhằm nghiền nát hy vọng và phá tan đức tin trong gia
đình của tù binh chiến tranh và gây ra cảm tưởng phản chiến trong một số của
họ. 218
Với tư cách là Đại sứ Hoa Kỳ, Graham Martin,
đang rời Sài Gòn đã bị khuất phục. John McAuliff, tay lãnh đạo Quaker trung
thành của Hà Nội thuộc Ủy ban American Friends Services Committee, AFSC, lại
tới một Hà Nội trong chiến thắng như là một thành viên của phái đoàn hòa bình
để ở lại ba tuần. McAuliff gặp Đỗ Xuân Oánh của Hiệp hội Việt Nam-Hoa Kỳ,
một kẻ nói được tiếng Anh thường được giao phó chào đón bọn hợp tác Mỹ.
219 McAuliff thành lập Dự án Hòa giải Đông Dương của Mỹ để đòi hỏi bồi
thường cho Hà Nội. Cùng lúc đó, Hà Nội ra lệnh giải tán các chi hội hàng tỉnh
của Lực lượng Hoà giải Quốc gia ở miền Nam và bắt đầu bỏ tù, tra tấn cùng giết
chết các người trung lập thuộc thành phần thứ ba, Phật tử, Đại Viet. 220
Quân đội Pathet Lào và Bắc Việt bắt đầu hành quân – Diệt Chủng Tàn Phá,
và – Nhổ Sạch để tiêu diệt các đồng minh của Mỹ, người Hmong thuộc các bộ lạc
trên núi Lào. 221 CIA đã chỉ huy một cuộc chiến tranh câm lặng và bí mật
tại Lào, mà theo đó 35.000 người Hmong đã bỏ mình; hầu hết nam giới từ 17 đến
34 tuổi đều đã chết vào năm 1968. 222 Nhiều trường hợp tử vong hơn đã xẩy ra sau
cuộc chiến. 223
Hôm sau ngày Sài Gòn thất trận, Huỳnh Tấn Mẫm,
chuyên viên chào mừng các phái đoàn hòa bình của Mỹ, tác giả thực thụ của Hiệp
định Hòa bình của Nhân dân (People‘s Peace Treaty) có chữ ký của sinh viên Nam,
Bắc Việt Nam và Mỹ, và cũng là điệp viên của Hà Nội đã cuối cùng tự lố dạng
trên truyền hình, đứng trước một chân dung lớn của Hồ Chí Minh để chào mừng
cuộc xâm lăng của Bắc Việt. 224
Cùng xem truyền hình Mỹ, thì các tên khủng bố
đang lẫn trốn của Weather Underground, Bill Ayers và Bernardine Dohrn,
cũng ăn mừng luôn. “Chúng tôi vui mừng khôn xiết … Chúng tôi đã dành nhiều ngày
để kỷ niệm, cười và khóc.” Ôi, niềm vui khi đang dự đoán những thành quả của
một cuộc cách mạng của nhân dân, và bọn chống cộng Mỹ đã chết và đang chết.
Việt-Nam Chiến Thắng
Vào lúc 11:30 sáng, tăng T-54 Liên Xô của Lữ
đoàn 203 Tăng Bắc Việt tông nát cửa sắt hàng rào bảo vệ Dinh Tổng Thống của
Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa. Đã không hề có bọn Việt Cộng địa phương, hay
bọn du kích mặc bà-ba đen, hay đám người nông dân rất biết ơn hoặc số Phật tử
hoan ca chào đón. Vào buổi trưa, 20 cây số cách xa Sài Gòn, trong trận cuối
cùng của cuộc chiến tranh trên Đại lộ Không Niềm Vui, Quốc lộ số 1, 60 quân
nhân còn lại của Tiểu đoàn 82 Biệt Động Quân QLVNCH, chỉ huy bởi Thiếu Tá Vương
Mộng Long đang bị bao vây và chiến đấu đến người cuối cùng. 225
Cần khoảng 17 tới 22 sư đoàn và tiếp liệu hậu
cần to lớn để đánh bại các binh sĩ Nam Việt Nam đang bảo vệ quê hương.. – Giống
như chúng ta, Hà Nội đã không dành được trái tim và lòng tin của nông dân Việt
Nam. Nhưng không giống như chúng ta, Hà Nội … đã chơi lá bài tẩy của
chúng … một lực lượng gồm tới 22 sư đoàn, 226 Stuart Herrington,
một cố vấn của chương trình Phượng Hoàng mà đã rất thành công giúp tranh thủ
được con tim và lòng tin của rất nhiều người miền Nam, đã tuyên bố như vậy.
Đóng kịch để dành riêng cho các ốnh kính của
phóng viên ngoại quốc, bộ đội Bắc Việt đã trương lá cờ màu xanh, đỏ và vàng của
Việt cộng. Các hình ảnh của lá cờ Việt Cộng duy nhất này đã được chuyển qua
nhiều hãng thông tấn xã quốc tế. Nhiều thập niên đầy máu và hàng triệu thương
vong đã mua được một thoáng giây danh dự giả tạo cho Việt Cộng, mà lá cờ dân
tộc sẽ sớm bị hủy bỏ, mà kỷ niệm cũng sẽ nhanh chóng chìm vào quên lãng trên
khán đài quốc tế. Trong cuộc diễu hành Ngày Chiến thắng 15 tháng 5 đã không có
cờ Việt Cộng. 227 Việt Cộng, Mặt Trận Giải Phóng Quốc Gia NLF, trừ ngoại lệ của
bà Nguyễn Thị Bình nắm các chức vụ nghi lể, đã không giữ một vai trò nào trong
chính phủ mới. Một thành viên Phật tử của quốc hội cũ, Nguyễn Công Hoan, đã có
được văn phòng tại quốc hội mới trước khi bị bắt giam vô trại cải tạo. Vào năm
1977, khoảng 300.000, trong đó có luôn một số Việt Cộng bất mãn, đã bị bỏ tù,
gấp bội phần con số tù 7000 của chính phủ chống cộng trước kia của Thiệu vào
ngày 30 tháng Tư năm 1975.
Thành phần thứ ba – thành viên của Mặt Trận Giại
Phóng Quốc Gia, Phật tử và người Công giáo, đã công khai gia nhập với bọn cộng
sản mà trước đây họ đã từng hội họp bí mật chung với nhau. Lột ra cái mặt nạ
giả dối trung lập, họ bắt đầu giúp giải giới và đăng ký cảnh sát Sài Gòn và
QLVNCH để đưa vào các trại cải tạo. Và một bọn rất nổi tiếng là Trần Thị Lan, Hồ
Ngọc Nhuận, Phan Khắc Từ, Ngô Bá Thành, Huỳnh Liên, Huỳnh Tấn Phát, Trương Bá
Cần và Võ Đình Cường bắt đầu công khai tham dự chính phủ mới. 228 Lãnh tụ
sinh viên mà cũng là một điệp viên của Việt Cộng, Đoàn Văn Toại, được giao phó
trách nhiệm đầu tiên của mình, – kế hoạch tịch thu tất cả tài sản tư nhân
ở miền Nam Việt Nam. 229 Trương Như Tảng, Bộ trưởng Bộ tư pháp của Việt
Cộng, cho biết – các quan chức tham nhũng và không đủ khã năng của Hà Nội
cùng các lực lượng an ninh tàn bạo … đã tranh dành với nhau để tịch thu các nhà
tốt nhất, các đồn điền giàu có nhất, và mọi xa xỉ phẫm của thị trường chợ đen.
230 Võ M. Nghĩa đã viết, – Miền Nam … đã chứng kiến cảnh miền Bắc tham lam và
đói khát tràn xuống miền Nam giống như đàn châu chấu, lấy chở gần như tất cả
mọi thứ trở lên miền Bắc, từ các đồng hồ, xe đạp cho tới vàng miếng. 231
Việt Cộng đã không bao giờ là một cái gì ngoài
việc chỉ là một công cụ của chiến dịch chính trị-quân sự của Bắc Việt tại miền
Nam. Như Lê Duẩn của miền Bắc đã cho biết ngay sau chiến tranh, ” Phần [Bắc]
của chúng tôi là lãnh đạo duy nhất và riêng rẻ mà đã tổ chức, kiểm soát và chi
phối toàn bộ cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam ngay từ ngày đầu tiên của
cách mạng.” 232 Với con số tới 85.000 binh sĩ thiệt mạng trong Tết Mậu Thân
1968, cán bộ Việt Công còn lại rất ít và đã được tăng cường bởi Bắc Việt,
Sinh Bắc Tử Nam, hơn một triệu sinh linh đã có số mệnh như vậy.
Cuối cùng, Mark Moyar, tác giả của công trình
nghiên cứu rất có giá trị về chương trình bình định Phượng Hòang (Phoenix), đã
viết, – Chính phủ Việt Nam đã chiến thắng cuộc đấu tranh dành quyền kiểm
soát vùng nông thôn miền Nam Việt Nam cùng lòng trung thành của dân chúng ở đó,
nhưng họ đã thua trận. 233 Tựu chung thì cuộc chiến chính trị ở Nam Việt
Nam chỉ là một mủi của gọng kìm trong chiến lược của Bắc Việt. Cuộc chiến tranh
nhân dân để rồi chiến thắng bằng xe tăng Liên Xô đã khiến trái tim và lòng tin
của người dân Việt Nam vô nghĩa. Càng mĩa mai hơn, các chiến thắng quân sự Mỹ
Việt đều đã vô nghĩa đối với lòng tin yêu, đối với báo chí và đối với các chính
trị gia trên mặt trận thứ hai ở Mỹ. Tướng Davidson viết, – Các thành phần phản
chiến trong Quốc hội đã trở thành những đồng minh có uy quyền nhất của Bộ Chính
trị Bắc Việt, và Chính phủ Hoa Kỳ đã không bao giờ ý thức được rõ ràng là con
tim và lòng tin của người dân Mỹ đã trở thành mục đích chính yếu trên chiến
trường. 234
Chúng đã phải hân hoan đến chừng nào
Trong khi hàng ngàn người miền Nam cố gắng được
tiếp tục tự do bằng cách tranh nhau trong tuyệt vọng để lên được các chuyến
bay, các trực thăng, sà lan, và tàu bè đang ra đi, thì cánh tả ở Mỹ lại hân
hoan vui mừng. Theo giáo sư Mát-xít Howard Zinn, “mọi người đều đứng dậy và vỗ
tay hoan hô” khi một bản tin được đọc lên cho khán thính giả tại một cuộc
biểu tình ở Đại học Brandeis ngày 30 tháng 4 năm 1975. Bàn tin là “Chính phủ
Sài Gòn đã đầu hàng. Chiến tranh nay kết thúc.”
Cũng giống như đại tướng Trần Văn Trà, Tom
Hayden gần rơi nước mắt “khi nghỉ tới các khuôn mặt của nhân dân tại Việt
Nam trong suốt mười năm qua, khi nghĩ là họ phải là hạnh phúc biết bao.” Jane
Fonda thì không im được trước tin sụp đổ của Sài Gòn. Cô so sánh việc chiếm
đóng Sài-gòn với cuộc Cách mạng Mỹ: “một cuộc cách mạng giành độc lập đang lại
diển ra tại Việt Nam.” Y thị nói: “Khi nói Sài Gòn đã ‘thất thủ’ thì cũng như
là nói 13 thuộc địa đã ‘thất thủ’ gần hai thế kỷ trước.” Một lá thư của VVAW /
WSO cho biết, – Việt Nam và Campuchia đã giành được nhiều chiến thắng tuyệt vời
… nhờ sự trợ giúp của loài người và các tổ chức tiến bộ trên toàn thế
giới … chẳng hạn như IPC và VVAW / WSO. … Chúng ta cũng sẽ có một ngày ăn mừng
chiến thắng của chúng ta đối với chủ nghĩa đế quốc. 235
Văn phòng Quốc gia Tập thể (National Office
Collective) của VVAW / WSO từng nghĩ là chiến dịch Hoà Bình Đông Dương, IPC, đã
không đủ đặc tính cách mạng để khã dỉ có thể tham gia vào việc bầu cử chính
trị. Tay làm cách mạng Tom Hayden đã quyết định ứng cử vào Thượng viện trong
bang California. 236 Y đã thành công hạ nhục ứng viên đảng Dân chủ là
Gene Tunney và giúp đắc cử đảng viên Cộng hòa George Murphy.
Việc “ đón mừng hòa bình” đã là nguyên nhân cho
lễ kỷ niệm tập thể đặc biệt. Được tổ chức một cách kỳ diệu chỉ trong vòng mười
ngày, 50.000 người đã tập trung để làm lễ kỷ niệm tại Sheep Meadow trong Công
viên Trung tâm thành phố New York vào ngày 9 tháng 5 năm 1975. David Dellinger,
Bella Abzug, và Elizabeth Holtzman đã diển thuyết và Joan Baez, Harry
Belafonte, và Phil Ochs thì hát. Mụ Bình đánh điện mừng buổi lễ New York – các
tình cảm chân thật và lòng mang ơn sâu sắc đối với những người Mỹ mà trong
nhiều năm qua đã hoạt động không mệt mỏi ngỏ hầu chấm dứt chiến tranh bất công
và tội lổi, và gần đây nhất, hầu cắt bỏ viện trợ cho tên Nguyễn Văn Thiệu phát
xít quân phiệt hiếu chiến … Chúng tôi hy vọng quý bạn sẽ kêu gọi chính phủ Hoa
Kỳ … để giúp đở chúng tôi nhanh chóng xây dựng lại đất nước chúng tôi.
237 Lê Thị Xuyên của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam viết cho Arlene Eisen
Bergman, – Thắng lợi to lớn này không thể nào tách rời khỏi được tình đoàn kết
chiến đấu, giúp đở và hỗ trợ của bạn… Chúng tôi luôn luôn ghi nhớ … các
cuộc biểu tình, diển hành, kiến nghị, truyền đơn, điện tín, thư phản đối ….
Chúng tôi nghĩ rằng chiến thắng của chúng tôi cũng là của bạn. Xuyên yêu cầu
hãy gởi trả lại các cô nhi Việt Nam. 238
Chiến Thắng Cuối Cùng của Việt Nam
Jim Wallis, một chuyên viên biểu tình phản
chiến, lãnh đạo của SDS tại bang Michigan, bạn của Daniel Berrigan, chủ
bút của Sojourners, kẻ kêu gọi công lý xã hội kiểu Mác-Lênin, và tên cổ vũ của
Việt Cộng đã bị chiến thắng của Cộng sản tại miền Nam Việt Nam chinh phục, –
Tôi không biết làm thế nào khác để diễn tả cái cảm xúc êm đềm đang từ từ chạy
xuyên qua tôi khi các bản tin cho biết là cuối cùng, Hoa Kỳ đã bị đánh bại tại
Việt Nam. 239 Wallis đã thay thế Jeremiah Wright làm cố vấn tinh thần của
Tổng thống Barack Obama.
Đường Phố Sài-gòn Không Còn Niềm Vui
Sài Gòn “Giải Phóng” (đổi tên thành Thành phố Hồ
Chí Minh) đã không chia sẻ niềm vui. Nhà báo Pháp Brigitte Friang tả cảnh xe
tăng vào Sài Gòn lúc trưa ngày 30 tháng 4, “Chúng tiến vào một thành phố chết,
chỉ có 125 nhà báo ngoại quốc chào đón … Báo chí đổ xô… không phải là dân chúng
đổ xô.” Friang, một thành viên của kháng chiến Pháp trong Thế chiến II cho
biết, “Tôi không chờ đón một sự chối bỏ mạnh mẽ như vậy.” Nó không giống
như việc giải phóng Paris vào năm 1945. Vào năm 2008 cư dân Việt vẫn gọi cựu
thủ đô miềnNamlà Sài Gòn chứ không phải là thành phố Hồ Chí Minh.
Sự phản bội và bỏ rơi miền Nam Việt Nam xẩy ra
và đắm chìm trong các nỗ lực điên cuồng vào phút cuối. Một tuần trước khi pháo
làm Nhựt Tân Sơn ở Sài Gòn không còn hoạt động, độ 35.000 người đã vượt thoát
bằng phi cơ vận tải Mỹ. Các trực thăng từng được khoe trương và chụp hình
nhiều, của – Chiến dịch Frequent Wind, chỉ cứu được cfó 5.680 người miền Nam.
Một số 32.000 người Nam Việt khác đã tự đào
thoát được bằng xuồng nhỏ, bè, ghe thúng và ghe chèo đển các tàu Mỹ. Khoảng
20.000 người đã lên được tàu Hải quân Nam Việt. 240
Chỉ vỏn vẹn sau ba ngày ít ỏi, ngày 2 tháng 5,
Bộ Tham mưu Liên quân chấm dứt “các chiến dịch tị nạn.” Hầu hết 980.000 người
Việt từng phục vụ trong các đơn vị QLVNCH đã bị bỏ rơi và 800.000, sẽ bị bắt
đưa vô các trại cải tạo. 241 Một số gồm độ 56.000 đã chết vì khát, đói, bệnh
tật và tự tử còn độ 250.000 thì bị giam giữ trên sáu năm. 242 Một cách
nhục nhã, vai trò của Mỹ tại ViệtNam đã chấm dứt.
Đối với Mỹ, Việt Nam là 2.600.000 người đã phục
vụ ở đó, 58.000 tử vong, 300.000 thương vong, 21.000 tàn tật vĩnh viễn,
và 2.500 mất tích trong khi thi hành nhiệm vụ. Tuổi trẻ Mỹ đã trả bằng máu và
tuổi thơ của họ cho sự mất tự do của Đông Dương. Tuy nhiên, những sự hy sinh
này đã mua được thời gian rất quý báu cho các quốc gia láng giềng trong khu vực
Đông Nam Á, Thái Lan, Malaysia, Singapore, Indonesia, và Philippines, để chuẩn
bị hữu hiệu hơn việc phòng thủ riêng của họ. Các nhà lãnh đạo Mỹ đã tỏ ra ít
khôn ngoan và yếu kém về lòng can đảm chính trị và cuối cùng người dân Mỹ nay
đã thức tỉnh khi họ khước từ các luận điệu khoe trương rổng tuếch và các ảo
tưởng về trí thức của cánh tả. Trong một cuộc khảo sát của Harris vào năm 1980,
73% đồng ý, – Rắc rối ở Việt Nam là quân đội của chúng ta đã được yêu cầu chiến
đấu trong một cuộc chiến tranh mà các nhà lãnh đạo chính trị ở Washington đã sẽ
không để cho họ chiến thắng. 243 Người dân Mỹ không bao giờ thực sự từ bỏ chủ
trương là khi lâm chiến thì phải thắng; chỉ có điều là các nhà lãnh đạo của họ
đã có các ưu tiên khác bgay trong nước và về quốc tế.
Những người dân bị còn ở lại Đông Dương bắt đầu
phải trả giá đắt cho việc họ đã liên hệ với những chính trị gia Mỹ mà nay đã
không còn quan tâm đến số phần của họ nữa. – Hòa Bình là một danh từ khác
nhằm ám chỉ việc thanh tóan ân oán giang hồ: trừng phạt và đàn áp kẻ thua trận,
Võ M. Nghĩa đã viết. 244
Hàng Triệu Người Vẫn Trốn Chạy hay Chết
Bọn tả phái vẫn nói rằng chỉ có số hiếm hoi các
tầng lớp đặc quyền đặc lợi Việt Nam sẽ chạy trốn sau chiến thắng của Cộng sản –
“chỉ” 100.000 người. Tuy nhiên, từ năm 1975 đến 1983, khoảng 2 triệu người đã
chạy trốn, với số 500.000 người đã tới Hoa Kỳ. 245
Chỉ trong thời hạn chín mươi ngày kể từ khi Sài
Gòn thất thủ, đúng như chuyên gia về Việt cộng Doug Pike đã dự đoán, cái – đêm
của đao dài đã đến. Vào ban đêm và ở những nơi hoang vắng, bọn quân giải phóng
– đã lặng lẽ bắt đi và thủ tiêu 70.000 – 85.000 người miền Nam, 246 trong số đó
có khoảng 30.000 nhân viên Phượng Hoàng mà Cộng Sản đã dễ dàng xác định được do
các hồ sơ bỏ lại của CIA, chiếu theo lời kể của Đại sứ Pháp. 247 Tướng Dũng
cũng viết là các hồ sơ của Tổng tham mưu và Tổng cục Cảnh sát cũng bị tịch thu
toàn bộ. 248 Sau – giải phóng, đa số các vụ thủ tiêu đều xảy ra vào ban
đêm ở các huyện và tỉnh, xa khuất sự biết được của giới báo chí Sài Gòn, nay
không còn bao nhiêu mà vẫn tiếp tục hiện diện ở tiệm cà phê Grival, ở sân lộ
thiên của khách sạn Continental, – Continental Shelf, và quầy rượu ở tầng
thượng của khách sạn Rex. Rất nhiều những người đã bị xử nơi công cộng trong
các cuộc tập hợp tại xã thôn ở ngoài Sài Gòn nhằm khuấy động lòng hận thù đối
với các kẻ thù của nhà nước và bị tuyên án tử hình, nhưng việc hành quyết và
chôn vùi họ thì lại là ở những nơi bí mật. 249 Trong hai năm đầu tiên,
1975-1976, có không ít hơn là 65.000 người đã bị âm thầm giết chết chiếu theo
các cuộc phỏng vấn 800 người tị nạn bởi Jacqueline Desbarats và Karl Jackson
tại Đại học California, Berkeley. 250 Nguyễn Công Hoan nói rằng các vụ hành
quyết là để trả thù các đảng viên đảng đối lập, cảnh sát, tình báo, nhân viên
Phượng Hoàng, chống cộng và hồi chánh viên. Họ đã bị thanh toán bằng súng, rựa,
chôn sống, và tra tấn trong một thời gian rất dài. 251
Tayđạo diển của SDS và Newsreel làm phim – Chiến
Tranh Nhân Dân, Robert Kramer thì lại có cái nhìn khác hơn, – chính phủ
cách mạng … [đã cho phép] … ân xá [cho hầu hết] trừ rất, rất là ít … lòng tha
thứ … tính khiêm tốn. Đang khi hoàn tất một bộ phim khác trong khi, – bọn Việt
đã giành được chiến thắng, Kramer nghỉ là – quả sẽ tuyệt vời nếu chúng tôi được
mời đi thăm Cộng hoà miền Nam Việt Nam bây giờ … (để làm tài liệu) … về cuộc
biến động đáng kinh ngạc của nhân dân nay thực sự có thể tự làm chủ. 252
Với thời gian trôi qua, việc gởi tin đi từ Việt
Namsẽ càng khó khăn hơn. Tháng 3 năm 1976, cuối cùng thì chính phủ cộng sản ra
lệnh cho mọi phóng viên, thông tấn xã ngoại quốc và Hội Hồng Thập Tự phải
rời khỏi Sài Gòn trước ngày 8 tháng 5 năm 1976. Một tháng sau, vào ngày 12
tháng 6 năm 1976 sau khi đã sàng lọc báo chí, nhà cầm quyền công bố các phiên
tòa có tính cách trình diển, – Toà án Nhân Dân, để xét xử 12 loại tội phạm, –
đày tớ, ngụy, nợ máu và kẻ thù của chính quyền và cách mạng. 253 Và sau
đó là, – phân biệt chủng tộc và diệt chủng đối với các dân tộc miền núi,
người Thượng, ví dụ như Degar, 254 và Khmer, Lào, Chàm ở Cam-pu-chia, Lào và
Việt Nam mà đều không hề dành được chỉ một phút tin nào trên các hệ thống tin
phát đi của Mỹ, theo lời của phóng viên quân đội và tiểu thuyết gia John M. Del
Vecchio. 255
Người Hmong
Trong tổng số 120.000 người Hmong đã chiến đấu
bên cạnh người Mỹ ở Lào, máy bay đã di tản được 2.500 gần Chiềng Long, Lào
trong tháng 5 năm 1975. Quả thật là một sự vô ơn không tưởng tượng được
đối với những đồng minh của Mỹ mà đã chận lại được số 70.000 bộ đội Bắc
Việt trong suốt một thập niên. 256 Số binh sĩ Hmong còn ở lại cùng gia đình của
họ – dĩ nhiên, đã bị tàn sát như các loài thú hoang. Ngay vào ngày 9 tháng 5
năm 1975, đảng Cách Mạng Nhân Dân của Pathet Lào đã ra lệnh cho cán bộ tìm giết
người Hmong, – bọn cộng tác với Mỹ cùng gia đình của họ, – giết cho tới
tận gốc rể. Một số 100,000 bộ đội Bắc Việt đã được để lại hầu phụ giúp
trong công tác kéo dài suốt nhiều thập niên này. Sau đó thì máy bay MIG Liên xô
đã rải – mưa vàng xuống làng mạc và vườn tược người Hmong. Từ đó, các
khoa học gia đã xác định được một số tác nhân gây chết người như myotoxin
trichothecene nhân tạo, các chất làm xuất huyết. 257 Chất độc đã gây ra lở
phồng đỏ, mắt vàng ra, chảy máu mũi, sốt nặng, sưng dạ dày và tử vong cho nhiều
người.
Nhiều ngôi làng đã bị bỏ lại trống không – xác
gà, lợn và chó chết cong queo. 258 Mãi tới cuối năm 2007, một số tiền
thưởng $600 và thẻ đảng viên vẫn được dành cho bất kỳ người lính nào mà đã giết
được một binh sĩ Hmong. Tổ chức Ân xá quốc tế đã kiểm chứng được việc mổ bụng
các trẻ em và các vụ hiếp dâm tập thể phụ nữ Hmong và hành vi bắt đi trẻ em Lào
để nuôi lớn thành – “thiếu niên của nhà nước”. Các tên như Lois
Foehringer, David Merchant, Jacqui Chagnon và Roger Rumpfy, đại diện các tổ
chức cứu trợ người tị nạn tư nhân, chẳng hạn như Ủy Ban Phản Chiến Mennonite và
Dịch vụ các Người bạn Committee ( Mennonite and American Friends Service
Committee) 259 thường có cảm tình với Pathet Lào và Hanoi. 260 Mỹ cuối cùng đã
cấp quy chế tị nạn cho 250.000 người Hmong, nhưng chỉ sau khi Bộ Ngoại giao và
Liên Hợp Quốc, chiếu theo một Thỏa Hiệp Tam Phương đã cố gắng cưởng bách hồi
hương người Hmong tị nạn ở Thái Lan trở về lại xứ Lào Cộng. 261
Trong thời chiến tranh Việt Nam, Tướng Vang Pao
và những người Hmong là những đồng minh của Mỹ được trả tiền để đẩy Cộng sản ra
khỏi Đông Dương. Người Hmong Lào cũng bị bỏ rơi giống như người Nam Việt. Số
người Hmông mà vẫn tiếp tục kháng cự lại tội ác diệt chủng đang diễn ra đã trở
thành nạn nhân trong năm 2008 qua một vụ gài bẩy của ATFE nhằm hứa hẹn cung cấp
cho họ vũ khí và lính đánh thuê. Vì vậy, ở Sacramento, California Larry Brown,
viên Chưởng Lý Mỹ, đã ra lệnh bắt giữ viên tướng tộc trưởng Vang Pao Lào đầy
huyền thoại và tám người khác vì bị cáo buộc âm mưu lật đổ Chính phủ Cộng sản
Lào. 262 Không có hành động tốt nào, dù xưa bao nhiêu, mà không khỏi bị trừng
phạt.
Độ 300.000 người đã chạy trốn khỏi được Việt Nam
từ sau tháng 4 năm 1975; 263 có đến tới 600.000 thuyền nhân đã bị chết đuối, bị
cá mập ăn hoặc bị giết bởi hải tặc trong vùng biển Nam Trung Hoa; có lẽ hơn 2
triệu người đã bị đưa đi cải tạo; và 100.000 thì trở thành tù nhân chính trị.
Nghiên cứu sau đó của nhà hoạt động nhân quyền người Pháp là Tiến sĩ Jacqueline
Desbarats cho thấy rằng – hơn một triệu người miền Nam đã bị cưỡng chế đi
đến - Vùng Kinh tế Mới, hai triệu rưởi bị đưa đi – các trại
cải tạo, và hơn 100.000 bị giết chết mà không được xét xử. 264 Cưỡng bức
lao động trong các khu kinh tế mới là một phương tiện kỹ thuật xã hội nhằm –
đào tạo con người mới của xã hội chủ nghĩa và nó cũng dời nơi sinh sống và biến
các dân tộc đồi núi (người Thượng) thành dân tộc thiểu số ngay chính trong quê
hương của tổ tiên họ, ví dụ như tại các tỉnh Đắc Lắc, Gia Lai-Kông Tum và Lâm
Đồng ở Tây Nguyên. Đến năm 1988, độ 2.000.000 người đã bị buộc phải di dân đến
thường là những khu rừng nhiệt đới đầy muổi mà đất lại cằn cổi. 265 Trong số
hàng trăm ngàn người bị đày đi các trại cải tạo thì độ 10% đã chết mỗi năm vì
đói, vì thiếu chăm sóc y tế, vì bị tra tấn và bị xử tử. 266
Thủ tướng Phạm Văn Đồng vào ngày 22 tháng 9 năm
1978 cho biết, – trong vòng ba năm, tôi đã trả tự do cho hơn một triệu tù nhân
từ trại về. Con số do Đồng công nhận về số lượng tù nhân chính trị của Hà
Nội là năm lần hơn so với con số gian dối to lớn nhất của Hà Nội rằng
miền Nam Việt Nam có 200.000 tù nhân chính trị, ba mươi lần nhiều hơn tổng số
tù nhân của tổng Thống Thiệu. Các chuồng cọp của Sài Gòn, từng được mô tả theo
trí tưởng tượng là rất kinh khủng - nay kích thước đã bị thu hẹp – dưới
chính sách nhân đạo và khoan hồng của Hà Nội – thành những phòng ngang ba
‘feet’, dài sáu ‘feet’cho các người giam riêng và ngang 15 ‘feet’, dài 25
‘feet’ giam chung từ 40 tới 100 tù. Tu sĩ Phật giáo Thích Thiện Minh, người đã
sống sót sau mười năm trong một nhà tù Thiệu nay chỉ sống sót được có sáu tháng
trong một nhà tù Cộng sản. 267
Morley Safer của CBS khi phỏng vấn siêu điệp
viên Phạm Xuân Ẩn vào năm 1989, phỏng đoán trong Flashbacks: On Returning to
Vietnam (Những đoạn hồi tưởng: Trở về lại Việt Nam) là chắc chắn Ẩn đã
phải đang suy tư về một cuộc cách mạng mà đã thất bại, – Tất cả những gì đã
được nói về – giải phóng hai mươi, ba mươi năm trước đây, tất cả các âm mưu,
tất cả các tử thi, nay chỉ đưa đến kết quả này, một đất nước cực nghèo và tan
nát. Safer đã nói – một lũ lý thuyết gia học hành dang dở, tàn nhẫn và đầy tính
quyền huynh thế phụ. Các nhận định về – tất cả những lời đồn đãi và tàn
ác, đều đã được gán cho Ẩn một cách phổ biến, một kẻ rất hối hận với lương tâm.
Nhưng đáng để chú ý thực sự, thì đó chỉ là những lời của Safer, chứ không
phải của Ẩn.
Điều thực sự mà Ẩn đã nói với Safer là cách mạng
đã thất bại vì – hoàn tòan ngu ngốc … Chúng tôi gọi đó là cuộc cách mạng của
nhân dân, nhưng lẻ dĩ nhiên những người đầu tiên phải khổ đau lại là nhân dân.
… Khi mà người dân còn phải ngủ trên vĩa hè thì cách mạng đã thất bại … Không
phải là các nhà lãnh đạo là những người nhẫn tâm, nhưng hệ quả của quan niệm
gia trưởng và các lý thuyết kinh tế sai lầm thì cũng như nhau. 268 Phạm
Xuân Ẩn đã phủ nhận sự tàn bạo của các tên lãnh đạo cộng sản mà đã phung phí từ
1.1 triệu đến 1,4 triệu sinh mạng của bộ đội chúng trên chiến trường trước khi
lại thanh lọc hàng trăm, hàng ngàn người miền Nam sau khi lên nắm quyền. Đôi
khi thì các kẻ có thiện ý nhưng ngu xuẩn vẫn khá hơn là các tên điếm thúi. Với
vai trò quan trọng trong việc phân tích tin tình báo quân sự và tạo ảnh hưởng đến
đám báo chí ngây thơ Mỹ tại Saì-gòn 269, tên họ Phạm đã nhận được mười sáu huy
chương công tác 270 và được thăng Tướng.
Mặc dù từng nhiều năm bị đổ lỗi là hậu quả do sự
suy đồi đạo đức của quân đội Mỹ mang lại, – tình trạng mãi dâm và sử dụng
ma túy lan tràn vẩn được tha thứ – chỉ vì mục đích kiếm tiền.
271 Hiện nay đỉ điếm và giá lao động rẻ tiền là những mặt hàng xuất khẩu
có lợi nhất của Việt Nam. Karen Nussbaum, một cựu nhân viên của Liên minh nhân
dân cho hòa bình và công lý, PCPJ, và Chiến dịch Hoà Bình Đông Dương, IPC được
bổ nhiệm bởi Tổng thống Clinton vào làm việc tại Văn phòng phụ nữ của Bộ Lao
động – nơi mà y thị đã tổ chức một hội nghị chuyên đề về Lao động cưỡng bức: Tệ
nạn mại dâm trẻ em, mà sau đó phúc trình đã xác định Việt Nam như là một
nguồn cung cấp chính của gái mãi dâm trẻ em. Có lẽ để bênh vực các đồng minh cũ
của mình trong thời chiến tranh, Nussbaum đã ghi nhận sai lầm là Việt Nam đang
cô gắng ngăn chận nạn nô lệ tình dục. 272
Mọi điều thì còn tồi tệ hơn ở Cam-pu-chia. Một vài
tên soạn niên sữ thiên tã đã viết, “Người ta ước tính rằng trong chế độ Pol
Pot, đã có từ 2 tới 4.000.000 (một nửa dân số) đã bỏ mạng.” Đó là, một triều
đại “của khủng bố … kinh sợ … lò sát sanh. “. 273 Michael Lind đã viết,”
Nếu cần có bất kỳ người Mỹ nào xứng đáng để chia sẻ trách nhiệm với Khmer Đỏ về
thảm cảnh và nạn đói khát, thì đó chính là các thành viên phản chiến của Quốc
hội … [mà đã khước từ] viện trợ quân sự và không trợ cho các đồng minh
Campuchia của Mỹ.” 274 Và tất nhiên, đã là – các tên hoạt động cho hòa bình mà
đã thuyết phục Quốc hội để từ bỏ tự do hầu đổi lấy cái hòa bình vĩnh cửu của
oan hồn và nghĩa địa.
Với bọn thắng trận, không chỉ là chiến lợi phẩm
đã tịch thu mà luôn cả sự vui sướng khi trả thù được.
Cưởng Bách Hồi Hương và Bồi Thường?
Với Sài Gòn nay đã thất thủ thì Jane và Tom cùng
bạn bè thay thế George McGovern để tiếp tục kêu gọi từ chối viện trợ cho những
người tị nạn đang chạy trốn khỏi Việt Nam. Chỉ vài tuần sau khi Sài Gòn sụp đổ,
ngày 5 tháng 5 năm 1975, Hayden đã phát biểu tại Đại học California ở Davis.
Đối với người tị nạn, Hayden nói, “Tại sao họ lại sợ hãi như vậy? Họ là một
giai cấp đặc quyền mà chúng ta đã tạo ra.” Y đòi hỏi những người tị nạn phải bị
trả về Việt Nam. Y nói “tình cảm tuôn tràn dành cho trẻ mồ côi và người tị nạn
Việt Nam” đã “không đúng.” Theo lời góp ý của Hayden, Trung tâm về Quyền Hiến
định (Center for Constitutional Rights), mà các thành viên đã từng đi Hà Nội
với tư cách là thành viên của Ủy ban Luật sư về chính sách Mỹ đối với Việt Nam
(Lawyers Committee on American Policy Towards Vietnam) và Luật sư đoàn Quốc gia
Guild, đã khởi tố nhằm đưa trở lại các trẻ mồ côi từng tới Mỹ trước khi Sài Gòn
thất thủ cho cái chính phủ cộng sản mới..
Nhiều viên chức chính phủ Mỹ – đặc biệt là Bộ
trưởng Quốc phòng James Schlesinger –đã muốn tất cả chết đi, Tổng thống Ford
sau đó nhớ lại, – tôi vẫn còn đau buồn về những người mà chúng ta đã không cứu
được.” Mỹ đã tái định cư một cách tượng trưng 130.000 người tị nạn Việt. Đó ít
hơn là 1% dân số của miền Nam Việt Nam, nhưng nó làm cho mọi người cảm thấy
thoải mái – tiêu chuẩn đạo đức mới của thập niên sáu mươi – Làm ít hơn sẽ
làm tăng thêm đắng cay của nổi nhục nhã. ” Ford đã tuyên bố như vậy. 275 Và quả
thật như vậy. Sử gia Doug Brinkley nói, Ford - đã hợp pháp hóa việc nhập
cư của những người Việt Nam … và đã mở rộng vòng tay chào đón họ. ” Theo
Brinkley, ngay cả trước khi mất, Ford vẫn tiếp tục nhận được – thư của … con
trẻ … cảm ơn ông đã giúp cha mẹ của chúng rời khỏi đất nước. Số người Việt đã
trở thành những nhóm dân nhập cư có năng lực sản xuất nhiều nhất trong lịch sử
Mỹ. Chúng ta đã nhận quá ít.
Đó là phần vui đẹp của câu chuyện.
Không giống như George Meany của AFL-CIO, người
đã từng hỗ trợ nỗ lực chiến tranh và hổ trợ quân đội, tên lãnh đạo công đoàn
Leonard Woodcock sau đó đã ráng thực hiện một thỏa thuận nhằm cho bọn Cộng sản
4,7 tỷ $ bồi thường, cùng tuyên bố là tất cả những binh sĩ Mỹ mất tích trong
chiến tranh đều đã chết và nên bình thường hóa quan hệ. Nayan Chandra đã viết,
“Người Việt Nam (cộng sản) hy vọng rằng hàng ngàn người biểu tình cho hòa bình
và hàng tá lãnh đạo trong Quốc hội … sẽ đẩy mạnh chương trình nghị sự về
bồi thường. Nhiều người cũng đã tin vậy. Cùng với Tom Hayden và Leonard
Woodcock những tên khác đã hỗ trợ cho việc bồi thường đã là Giám mục James
Armstrong, Sam Brown., Ramsey Clark, Don Luce, Pete Seeger và Cora Weiss. 276
Số người Mỹ và đại diện dân cử mà hỗ trợ cho
việc bồi thường chiến tranh đã là một con số không. Bằng một cuộc bỏ phiếu 266
chống 13, Dân biểu John M. Ashbrook (Cộng hòa-Ohio) đã thông qua một nghị quyết
chống đối bất kỳ viện trợ nào cho Hà-nội. 277
Vào giữa tháng 9 năm 1975, trước Câu lạc bộ Báo
chí nổi tiếng Los Angeles, Hayden đã kêu gọi chấp thuận tư cách thành viên Liên
Hợp Quốc cho cả hai miền Bắc và miền Nam Việt Nam vừa bị xâm chiếm. Để
đáp lại cho việc đồng ý nhỏ nhoi này, hai lần phiếu ở Liên Hợp Quốc, và hơn $ 3
tỷ đô-la Mỹ về bồi thường, Hayden cho biết, Việt Nam sẽ hợp tác hơn về việc
người Mỹ mất tích trong chiến tranh. Hayden đã nhắc lại lời kêu gọi của y để
hồi hương những người tị nạn, nhấn mạnh rằng hầu hết người tị nạn thực sự muốn
trở về mặc dù có hàng ngàn kẻ bất kề biển cả bão táp và hải tặc sẽ hãm hiếp
cướp bóc mà vẫn đang ra đi để trốn thoát.
Các Con Cờ Đô-mi-nô
Ngày 22 tháng 8 năm 1975, Lào đã thất thủ – cái
nước thứ ba của Đông Dương – chỉ đơn giản là về hình thức mà thôi. Không ai để
ý tới, bởi vì Bắc Việt đã toàn quyền với Lào kể từ khi chính sách trung
lập của Tổng thống Kennedy cho phép bọn Pathet Lào do Hà Nội hỗ trợ kiểm
soát phần phân nửa của đất nước mà trong đó có con đường mòn Hồ Chí Minh. Vụ
diệt chủng thầm lặng các người Hmong mà đã chiến đấu trong cuộc chiến bí mật
của CIA ở Lào đã bắt đầu.
Dù có các cuộc nổi dậy vũ trang cộng sản do Hà
Nội, Liên Xô và Trung Quốc đã nổ ra trong hầu hết các quốc gia còn lại của châu
Á, họ đã không thất thủ hoặc biến thành cộng sản. 278 Sự can dự của Hoa
Kỳ tại Việt Nam đã giúp thời gian cho các quốc gia láng giềng, đã dạy họ bài
học về chống nổi dậy và giúp họ có thể tự chiến đấu. Thái Lan, Philippines,
Indonesia, Malaysia, Singapore, Thái Lan đã không thành cộng sản. 279 Không bị
ảnh hưởng bởi cao trào Cộng sản ở Trung Quốc và Liên Xô, Nhật Bản tương tự cũng
vẫn là một đồng minh của Mỹ. Tại Indonesia vào năm 1966, tướng Suharto đã loại
bỏ viên tướng thân Liên Xô là Sukarno.
Năm 1976, tổ chức kế thừa trực tiếp của Liên
minh IPC Nhằm Chấm Dứt Chiến Tranh là Liên minh cho Một Chính sách Đối
ngoại Mới, đã tức tối chống lại các – chế độ độc tài tàn bạo của Nam Hàn,
Philippines, Indonesia, Thái Lan và Đài Loan, 280 mà đã thành công thóat
qua khỏi được chủ nghĩa đế quốc Cộng sản.
Các nhà thờ chính thống vẫn tiếp tục giúp đở
việc rửa tiền và bao che cho Cộng sản cùng các điệp viên của chúng tại Mỹ
mặc dù mất nhiều tín đồ tới dự lể vào ngày Chủ nhật. Các ngân phiếu ký cho Liên
minh cho Một Chính sách Đối ngoại Mới đã được giao cho Hội đồng quản trị của
Giáo Hội và Xã hội thuộc nhóm Methodist Đoàn Kết, 281 tuy chỉ đại diện cho một
thiểu số cấp tiến mà đã lại chi tiêu một phần lớn số tiền mà đa số người
Methodist đã sẽ không đồng ý. 282
Thật không may, các con cờ đô-mi-nô ở xa hơn bên
ngoài châu Á đã không học được gì từ kinh nghiệm của Việt Nam. Sau cuộc chiến
Việt Nam, Liên Xô và các nước chư hầu, Đông Đức và đặc biệt là Cuba, tăng gia
các cuộc phiêu lưu quân sự trong chiến lược mà nhà chiến lược gia và sử
học Bill Rood gọi là - Hàng rào Phía Xa ở châu Phi, Trung Mỹ, và Trung
Đông: Afghanistan, Cape Verde, Congo, Ethiopia, Guinea Bissau, Angola,
Madagascar, Mozambique, Sierra Leone, Somalia, Nam Yemen, Tanzania, Uganda,
Zambia, 283 El Salvador, Guatemala, Grenada và Nicaragua. 284
Viet Nam! Abril 1975
Việt Nam đã được chứng minh độ tin cậy vào Mỹ
hay thay đổi tùy lúc này tới lúc khác trong cuộc Chiến tranh Lạnh và đã khuyến
khích nhiều cuộc phiêu lưu của cộng sản ở khắp mọi nơi, – cho đến khi Ronald
Reagan quyết định chống lại đế chế gian ác, đòi hỏi các bức tường phải bị giật
xập xuống giữa Đông và Tây, phải giải phóng Grenada Mat-xít, phải hỗ trợ phong
trào kháng chiến chống cộng ở Afghanistan và Nicaragua và phải tranh thủ sự
giúp đỡ của Đức Giáo Hoàng, của một lãnh tụ lao động Ba Lan và của các
Sheiks dầu Saudi nhằm lật đổ chủ nghĩa đế quốc cộng sản Liên Xô và Đông Âu.
Tuy nhiên vì ít người Mỹ hiểu được chiến lược
của Hà Nội trong việc sử dụng phong trào phản chiến, bọn Cộng sản vẫn đánh giá
cao các đồng chí cùng chiến tuyến Mỹ của chúng.
“Bằng Cách nào Chúng Tôi đã Chiến Thắng?”
Với tư cách là chiến lược gia chính yếu và Bộ
trưởng Bộ Quốc phòng của Bắc Việt, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, sau đó cho biết,
“Bằng Cách nào Chúng Tôi đã Chiến Thắng”, việc kết hợp đấu tranh quân sự với
đấu tranh chính trị [của Đảng chúng tôi] ở vào các giai đoạn nhất định… cùng
với cuộc đấu tranh ngoại giao, để hoàn toàn đánh bại cuộc chiến xâm lược tân
thực-dân của Mỹ-Thiệu. “Không còn nghi ngờ là Hà Nội đã có một chiến lược đầy ý
thức để sử dụng phong trào phản chiến của Mỹ hầu giành chiến thắng trong cuộc
chiến – ”hoạt động chính trị chống lại kẻ thù (địch vận) ở ngoại quốc.”
Các điệp viên chính trị của Hà Nội đã thành công trong việc làm thay đổi nhận
thức là chiến tranh không thể nào thành công khi chống lại người cộng sản mà
đang đại diện – công lý, hòa bình, dân chủ và chuyển đổi các hành vi quân
sự Mỹ và Nam Việt thành bất hợp pháp – khủng bố, đàn áp hay tội phạm
chiến tranh, vô hiệu hóa khã năng quân sự của họ 285 Bernardine Dohrn kết
luận, – vai trò tiên phong của Việt Nam và các nước thuộc thế giới thứ ba khác
trong việc đánh bại đế quốc Mỹ đã rất rõ ràng cho phong trào của chúng tôi
trong một thời kỳ. 286
Sự trung thành của phe tả Mỹ đối với Cộng sản
Việt Nam và ác cảm của chúng đối với chính sách đối ngoại của Mỹ không phải chỉ
là tạm thời.
Roger Canfield
Lê Bá Hùng chuyển ngữ với sự chấp thuận của Tác
giả)
138 Ronald Yates, ― Linh mục quyết không rời các
người tỵ nạn bất kể hăm dọa của Khmer Đỏ, Chicago Tribune, 17 tháng 3 năm 1975,
14.
139 Chanda, Nayan. Brother Enemy: The War After
The War. Harcourt Brace Javanovich xuất bản, New York. 1986. 1.
140 Tại Moscow vào ngày 11 tháng 11 năm 1974,
Bắc Việt Nam và Liên Xô ký kết một thỏa thuận về hợp tác khoa học và văn
hóa, và vào ngày 11 tháng 12 năm 1974, thỏa thuận về viện trợ kinh tế và
kỹ thuật.
141 KRASNAYA ZVEZDA BÁO CÁO KÊT QUẢ CHUYẾN THĂM
CỦA KULIKOV, Moscow KRASNAYA ZVEZDA bằng Nga ngữ ngày 28 tháng 12 năm 1974 p I
LD
142 Valerian Skvortsov, ― Giúp đở từ Bạn Bè,
PRAVDA BÌNH LUẬN VỀ VIỆN TRỢ CỦA LIÊN XÔ CHO CỘNG HÒA NHÂN DÂN VIỆT NAM VỀ TÁI
THIẾT, Moscow PRAVDA bằng Nga ngữ ngày 11 tháng chạp năm 1974 p 5 L.
143 18 tháng chạp năm 1974 và 8 tháng giêng năm
1975.
144 Điện tín gởi từ Tòa Đại sứ tại Việt
Nam về Bộ Ngoại giao, Sài-gòn, 8 tháng giêng năm 1975, 1230Z trong Văn
khố Quốc gia, RG 59, Central Foreign Policy Files,Mật: Tức thì.
145 Coalition to Stop Funding the War, ―1975:
Will Peace Come to Indochina? Legislative Update, 14 tháng giêng năm 1975.
146 John M. Del Vecchio, ―Cambodia, Laos and
Viet Nam? The Importance of Story Individual and Cultural Effects of Skewing
the Realities of American Involvement in Southeast Asia for Social, Political
and/or Economic Ends, 1996 Vietnam Symposium “After the Cold War: Reassessing
Vietnam,” 18-20 tháng 4 năm 1996.
147 Armond Noble viện dẫn Douglas Pike từng kêu
gọi vào giữa thập niên 60 – Các hành vi tàn ác xẩy ra hàng ngày đến mức chúng
không còn được đáng xem là tin tức. Năm 1988 Pike kể với Noble, ―Có thể
tôi đã nói vậy, nhưng tôi không nhớ.
148 Phóng viên kiêm nhiếp ảnh viên tuần
báo Time kể lại cho tác giả vào ngày 27 tháng 3 năm 2011.
149 Đại tá Harry G. Summers, Jr.,
America’s Bitter End in Vietnam. Đó đã là Trận chiến Việt Nam nhìn dưới
kính hiển vi… Thiện ý bị phá nát tan vì thi hành sai sau đó.
http://www.historynet.com/wars_conflicts/vietnam_war/3030666.html?showAll=y&c=y
150 Coalition to Stop Funding the War, ―1975:
Will Peace Come to Indochina? Legislative Update, 14 tháng giêng năm 1975.
151 Đại tá Harry G. Summers, Jr.,
America’s Bitter End in Vietnam. Đó đã là Trận chiến Việt Nam nhìn dưới
kính hiển vi… Thiện ý bị phá nát tan vì thi hành sai sau đó.
http://www.historynet.com/wars_conflicts/vietnam_war/3030666.html?showAll=y&c=y
152 Tướng Võ Nguyên Giáp, How We Won the
War, Philadelphia: RECON Ấn bản, 1976, 28 nguyên từ tờ Nhân Dân và Quân
Đội Nhân Dân, 31 tháng 6 và 1 tháng 7 năm 1975 và như “A New Development
of the Art of Leading a Revolutionary War, Vietnam Courier, tháng 8 và 9 năm
1975.
153 Đề đốc Elmo R. Zumwalt, Jr., Vietnam War
Symposium, Texas Tech University, 18 tháng 4 năm 1996 viện dẫn bởi Lewis Sorley
trong A Better War: The Unexamined Victories and Final Tragedy of America‘s
Last Years in Vietnam, New York: Harcourt, 93-94.
154 Max Friedman gởi cho Canfield và mấy người
khác, 26 tháng 11 năm 2008.
155 David Binder, New York Times 30 tháng
giêng năm 1975; Wallace Turner, New York Times 30 tháng giêng năm 1975.
156 Andy Messing kể cho tác giả, 21 tháng 10 năm
2007.
157 Băng thu cuộc nói chuyện qua điện thoại của
Kissinger, TELCON 14 tháng 4 năm 1975, 9:47 p.m. Connolly/The
Secretary.
158 Assembly to Save the Peace, ― Thơ Mời Tham
Dự Hòa Bình (Peace Convocation) vào ngày 26 tháng giêng năm 1975;
Assembly to Save the Peace, ― Hội thảo vào ngày thứ 7, 25 tháng giêng năm
1975; Assembly to Save the Peace, ― Lịch trình điều chỉnh, 25 tới 29 tháng
giêng năm 1975. Mọi phóng ảnh từ bản chính do Max Friedman.
159 Coalition to Stop Funding the War, ―1975:
Hòa bình sẽ tới Đông Dưong hay không? Legislative Update, 14 tháng giêng năm
1975.
160 Thu băng cuộc nói chuyện điện thoại
của Kissinger, TELCON, 2/9/75 1:50 p.m., Kissinger/Conte.
161 Thu băng cuộc nói chuyện điện thoại của
Kissinger, TELCON, 2/22/75 5:37 p.m. Walt Rostow/Kissinger.
162 Sydney Schanberg, ―For the People, War
Itself Is the Enemy: The ‗Enemy‘ Is Red, Cruel and after 5 Years, Little Known,
New York Times, 2 tháng 3 năm 1975.
163 Thu băng cuộc nói chuyện điện thoại của
Kissinger, TELCON, 3/5/75 8:56 a.m. Kissinger/Cong. Otto Passman, TELCON
3/5/75 9:02 a.m. Kissinger/Habib.
164 FBI, FOIA, Weather Underground. Nguồn tin
chính là phúc trình Đương nhiệm SAC Chicago gởi cho Giám đốc ―Foreign
Influence-Weather Underground Organization, 20 tháng 8 năm 1976, 185.
165 Canfield, Roger New American, tháng 4 năm
1985; Bùi Tín, Wall Street Journal, 1995.
166 Phái viên đã đả kích tờ New York Times
là tường thuật sai lầm về Việt nam, AIM REPORT, Accuracy in Media, Bộ
III, Số 4, tháng 4 năm 1974, 1.
167 Ion Mihai Pacepa, ―Kerry‘s Soviet Rhetoric
(The Vietnam-era antiwar movement got its spin from the Kremlin),
National Review, 24 tháng 2 năm 2004.
168 Nguyễn Cao Kỳ, How We Lost… 207-208; George
Webber và Graham Martin, 1974, tài liệu của Catholic Peace Fellowship,
University of Notre Dame Archives, CCPF 10/05 Folder.
169 Gabriel Kolko, Vietnam: Anatomy of a Peace,
London: Rutledge, 1997, 16-17.
170 Biên bản họp báo của Tổng Thống … New
York Times, 7 thang 3 năm 1975, 16.
171 Ronald Yates, ―Linh mục quyết không rời các
người tỵ nạn bất kể hăm dọa của Khmer Đỏ, Chicago Tribune, 17 tháng 3 năm 1975,
14.
172 Bill Laurie nói với Canfield và nhiều
người khác, 13 tháng giêng năm 2009.
173 Cambodia ‗Falls‘ to Cambodians, Rochester
Patriot, 9-22 tháng 4 năm 1975 in lại trong tờ Syracuse Peace Council, Peace
Newsletter, tháng 5 năm 1976 SPC 707.
174 Leslie Gelb, ―Fear of Cambodian Bloodbath
Seen Key to Senate Vote on Aid,‖ New York Times, 13 tháng 3 năm 1975, 18.
175 Denis Warner, Certain Victory, 60-63 được
viện dẫn bởi James Banerian và Vietnamese Community Action Committee,
Losers Are Pirates: A Close Look at the PBS Series ―Vietnam: A Television
History, Phoenix: Tiếng Mẹ Zxu1ât bản, 1984, 260
176 Thu băng điện thoại của Kissinger, TELCON
2 tháng 3 năm 1975 6:12 a.m. Kissinger/Schlesinger; TELCON 1 tháng
4 năm 1975, 3:00 p.m. Kissinger/David Binder.
177 Trung Tướng Harold G. Moore (Hồi hưu) and
Joseph Galloway, We Are Soldiers Still, New York: Harper Collins, 2008,148.
78 Denis Warner, Certain Victory, 75 viện dẫn
trong James Banerian và Vietnamese Community Action Committee, Losers Are
Pirates: A Close Look at the PBS Series ―Vietnam: A Television History,
Phoenix: Nhà xuất bản Tiếng Mẹ, 1984, 262.
179 Xuân Thủy do (Larry) Levin (IPC) phỏng vấn,
Hà-nội, VNA chương trình Anh ngữ 15:44 GMT ngày 16 tháng 4 năm 1975, BK.
180 Hoa kỳ đã vi phạm Hiệp ước Ba Lê khi đưa tàu
đến, Đài Giải phóng (bất hợp pháp) bằng tiếng Việt tại Nam Việt, 03:00
GMT ngày 20 tháng 4 năm 1975 SG.
181 FBI, FOIA, Weather Underground. Nguồn tin
chính là phúc trình Đương nhiệm SAC Chicago gởi cho Giám đốc ―Foreign Influence-Weather
Underground Organization, 20 tháng 8 năm 1976, 246.
182 SNIE 53/14.3-75, 27 tháng 3 năm 1975, 3.
183 Tiếp tục sách Đại Thắng Mùa Xuân của Tướng
Văn Tiến Dũng, như phóng viên tờ Nhân Dân đã viết, phần về Nhanh
như Sấm sét,‘phụ đề, ―Chiến dịch mang tên bác Hồ. Tại Hanoi chương trình tiếng
Việt 23:30 GMT ngày 3 tháng 5 năm 19 76 như đã viện dẫn trong FBIS, Vol. IV:
Asia and Pacific, ngày 5 tháng 5 năm 1976, K8-10, kể lại trong sách của
Harold W. Rood, Kingdoms of the Blind: How the Great Democracies Have Resumed
the Follies That Nearly Cost Them their Life, St. Petersburg: Nhà Xuất bản
Hailer, 2005, 243N43.
184 Robert F. Turner, ―The Fonda Fallacies, 24.
185 James Webb, – Ngủ chung với Địch,
TheAmericanEnterprise.org, 4/3/2003.
186 Nguyễn Tiến Hưng, Hồ sơ Dinh Độc Lập, 304.
187 Peter Collier, The Fondas: A Hollywood
Dynasty (New York: Putnam, 1991) như đã viện dẫn trong sách của K. L.
Billingsley, “All in the Family,” California Political Review (Mùa Đông
1991),27.
188 Tường trình cho Tiểu ban An ninh Quốc nội
Thượng viện, The Nationwide Drive Against Law Enforcement Intelligence
Operations, phần 2, 14 tháng 7 năm 1975, 179.
189 James Webb, – Ngủ chung với Địch,
TheAmericanEnterprise.org, 30 tháng 4 năm 2003, 2-3. Cũng từ Webb, ―Peace?
Defeat? What Did the Vietnam Protesters Want? diển văn đọc tại American
Enterprise Institute, jameswebb.com/articles/variouspubs/aeiprotesterswant.htm
190 Tướng William C. Westmoreland, A Soldier
Reports, New York: Dell, 1976, 548.
191 Angelo Codevilla, Political Warfare…trong
sách của J. Michael Waller, Strategic Influence: Public Diplomacy,
Counterpropaganda, and Political Warfare, Washington: The Institute of World
Politics, 2009, 210.
192 Garnett “Bill” Bell với George J.
Veith, Leave No Man Behind: Bill Bell and the Search for American POW/MIAs from
the Vietnam War, Madison: Goblin Fern Press, 2004,91.
193 David Schiaccitano, ―The River, in Santoli,
To Bear Any Burden, 15.
194 Thu băng điện thoại của Kissinger, TELCON
17 tháng 4 năm 1975, 6:35 p.m.
Chủ tịch Mahon/Ngoại trưởng.
195 John Del Vecchio viện dẫn Santoli, Al.
Leading the Way: How Vietnam Veterans Rebuilt the U.S. Military: An Oral
History. Balantine Books; New York.1993; Department of State Airgram, N. Can
Tho A-005. “RVNAF Performance: Defense of Hòa Trinh Village.” 6 tháng 2, 1975.
196 Canfield, Roger New American, tháng 4 năm
1985
197 Thu băng điện thoại của Kissinger, TELCON
Ben Bradlee/Kissinger, ngày 9 tháng 4 năm 1975, 2:40 p.m.
198 Mike Benge, Ethnonationalist Movements, 8
tháng 7 năm 2009.
199 Cựu Tổng Thống Gerald Ford mất năm
93 tuổi, theo Jeff Wilson AP ngày 26 tháng chạp năm 2006 và Barry
Schweid, ―Ford Được Nhớ Đến Như là Một Người Thực Tế, AP, 28 tháng chạp
năm 2006.
200 Xuân Thủy do (Larry) Levin (IPC) phỏng vấn,
Hanoi VNA chương trình Anh ngữ 15:44 GMT ngày 16 tháng 4 năm 1975, BK.
201 Phạm Văn Đồng trong cuộc phỏng vấn với
TV Hòa lan, Hanoi bằng Anh ngữ 15:58 GMT ngày 16 tháng 4 năm 1975,
BK.
202 Cambodia Thất Thủ vào Tay người Cambodia,
Rochester Patriot, l 9-22 tháng 4 năm 1975 đăng lại trong Syracuse Peace
Council, Peace Newsletter, tháng 5 năm 1976 SPC 707.
203 Fact-index.com/c/ca/Cambodia_civil_war.html
204 JIM WALLIS,
http://www.DiscoverTheNetwork.org, 24 tháng 4 năm 2010,
http://www.discoverthenetworks.org/printindividualProfile.asp?indid=1833
205 Thu băng điện thoại của Kissinger, TELCON,
ngày 22 tháng 4 năm 1975, 2:30 p.m. Connolly/Ngoại Trưởng
206 Thu băng điện thoại của Kissinger, TELCON,
ngày 26 tháng 4 năm 1975, 10:15 a.m. đại sứ Dean Brown/Ngoại Trưởng
207 Phạm Xuân Quang, “Ford’s Finest Legacy,”
Washington Post, 30 tháng chạp năm 2006; Bruce Chapman,, ― Với tư cách
một Thống đốc, Jerry Brown đã chống đối mãnh liệt việc Nhập cư của Người Việt,
Discovery News, 2 tháng 10 năm 2010 2:49 PM, http://www.discoverynews.org/2010/10/as_governor_jerry_brown_was_vo038821.php
208 Henry A. Kissinger gởi cho Graham Martin,
flash DE (đọc không được) WTE #2378 1190107 Z (đọc không được) 290101Z APR 75,
FM: Tòa Bạch Ốc. Tại Thư viện Ford và
http://www.presidentialtimeline.org/html/record.php?id=568.
209 Ken Moorefield, ―The Fall of Saigon, in
Santoli, To Bear…, 232, 235,237
210 Lê Thị Anh, ―Second Anniversary: the New
Vietnam, National Review, 29 tháng 4 năm 1977, 487.
211 Bill Laurie, ―RVNAF, 1968-1975, 12
http://www.buttondepess.com/secretstuff/ttu2006/RVNAF_1968_1975.pdf.
212 Bill Laurie, ―Vietnam, the Media and Lies,
tại
http://veteransforacademic freedom.org/2010/01.
213 Chanda, Nayan. Brother Enemy: The War After
The War. Harcourt Brace Javanovich, Publishers; New York. 1986. 1.
214 Ken Moorefield, ―The Fall of Saigon, in
Santoli, To Bear…,237.
215 Hubert Van Es, ―Thirty Years at 300
Millimeters, New York Times, 29 tháng 4 năm 2005.
216 Don North, ―Old Hacks‘ Return to Vietnam.,‘
consortiumnews.com, 21 tháng 4 năm 2010.
217 Tướng William C. Westmoreland, A Soldier
Reports, New York: Dell, 1976, 556.
218 Garnett ―Bill, Bell với George J.
Veith, Leave No Man Behind: Bill Bell and the Search for American POW/MIAs from
the Vietnam War, Madison: Goblin Fern Press, 2004,126-7.
219 Kitty Thermer, ―Vietnam Reconciled: A small
band of teachers studies John McAuliff‘s Vietnam, World Review Magazine, Volume
18, Number 3.
220 Nguyễn Công Hoan, ―Promises, in Santoli, To
Bear…, 286.
221 Santoli, To Bear…, 349.
222 Robert Shaplen, Time Out of Hand: Revolution
and Reaction in Southeast Asia, New York: Harper and Row, 1969, 347-48
viện dẫn trong bài của William McLeary, ―Supporting the ‗Secret War‘: CIA
Air Operations inLaos, 1955-1974, cia.gov/libray/center-for-the-study-of-intelligence/Kent-csi/docs/v43i3a07p.htm.
223 Vương quốc Lào: Điện Capitol Hill khởi động
cứu giúp người Hmong, Cựu chiến binh Lào của Quân đội Bí mật Mỹ, 3 tháng 11 năm
2009 tại ww.pr-inside.com.
224 Hồ sơ dinh Độc lập, 255
225 Vương Mộng Long, ―End of the Road: Memoir by
Vuong Mong Long-, Ranger Magazine, Số 20, tháng 5 năm 2007.
226 Đại Tá Harry G. Summers, Jr., USA
(Hưu) viện dẫn Stuart Herrington trong Mark Moyar, Phoenix and the
Birds of Prey; The CIA‘s Secret Campaign to Destroy the Viet Cong, Annapolis:
Naval Institute Press, 1997, xi.
227 Trương Như Tảng, ―The Victory Parade, trong
Santoli, To Bear Any Burden, 19.
228 Paul Quinn-Judge, ―Inside Saigon:
Eye-witness Report: Events after the takeover, Commonwealth, 26 tháng 9 năm
1975, 429-32.
229 Đoàn Văn Toại, ―A Lament for Vietnam, báo
New York Times, 29 tháng 3 năm 1981, 3 trong số 13.
230 Trương Như Tảng, ―The Victory Parade, trong
Santoli, To Bear Any Burden, 19.
231 Võ M. Nghĩa, ―The War Viewed From All Sides,
trong sách của Võ M. Nghĩa, Đặng V. Chât, Hồ V. Hiền (eds.), War and
Remembrance, SACEI Forum #6, Denver: Outskirts Press, Inc, 2009, 16; Nghĩa đã
viện dẫn Bùi Tín, Following Ho Chi Minh, Honolulu: Hawaii University Press,
1995, 89, 100-1.
232 Lê Duẩn, viện dẫn bởi Bùi Diễm với David
Chanoff, In the Jaws of History, Boston: Houghton Mifflin, 1987, 337.
233 Mark Moyar, ―VILLAGER ATTITUDES DURING THE
FINAL DECADE OF THE VIETNAM WAR, 1996 Vietnam Symposium, “After the Cold
War: Reassessing Vietnam,” 18-20 tháng 4 năm 1996,
http://www.vietnam.ttu.edu/vietnamcenter/events/1996_Symposium/96papers/moyar.htm
234 Phillip B. Davidson, Vietnam at War, New
York: Oxford University Press, 1991, 810. Đọc thêm Rothrock, Divided… 317-18 và
53-54.
235 National Office Collective of VVAW/WSO gởi
các hội viên IPC thân mến, 3 tháng 6 năm 1975.
236 National Office Collective of VVAW/WSO gởi
Các Hội viên IPC thân mến, 3 tháng 6 năm 1975.
237 Guardian, 21 tháng 5 năm 1975, 3.
238 Bergman, Women…, 251.
239 Ronald H. Nash, Why The Left Is Not Right,
Zondervan, 1996, 58.
240 Võ M. Nghĩa, ―The War Viewed From All Sides,
trong sách của Võ M. Nghĩa, Đặng V. Chât, Hồ V. Hiền (eds.), War and
Remembrance, SACEI Forum #6, Denver: Outskirts Press, Inc, 2009, 20
241 Nguyễn Cao Quyền, ―Post-1975 Vietnamese
Communist System of ‗Reeducation‘ Camps, ARVN: Reflections and
Reassessments After 30 Years, at March 2006 Vietnam Center‘s 2006 Annual
Conference, 17/03/2006 at http://www.huongduong.com.au/article_692.html
242 James Webb, ―Sleeping with the Enemy,
Frontpage.com, 30 tháng 4, 2003.
243 James Webb, ―Sleeping with the Enemy,
Frontpage.com, 30 tháng 4, 2003.
244 Võ M. Nghĩa, ―The War Viewed From All Sides,
trong sách của Võ M. Nghĩa, Đặng V. Chât, Hồ V. Hiền (eds.), War and
Remembrance, SACEI Forum #6, Denver: Outskirts Press, Inc, 2009, 13
245 Who Spoke Up, trang 471; Mike Faber, The
Long Road to Freedom, 1988; Canfield, Roger New American, tháng 4 năm 1985.
246 John M. Del Vecchio, ―Cambodia, Laos and
Viet Nam? The Importance of Story: Individual and Cultural Effects of Skewing
the Realities of American Involvement in Southeast Asia for Social, Political
and/or Economic Ends, 1996 Vietnam Symposium “After the Cold War: Reassessing
Vietnam,” 18-20 tháng 4 năm 1996, Texas Tech University đã kể Saigon,
Sagan, Ginetta and Denney, Stephen. Violations of Human Rights in The Socialist
Republic of Vietnam: 30 tháng 4 năm 1975- 30 tháng 4 năm 1983, The Aurora
Foundation, Atherton, California. 1983.
247 Lê Thị Anh, ―Second Anniversary: the New
Vietnam, National Review, 29 tháng 4 năm 1977, 487; Frank Snepp.
248 Tướng Văn Tiến Dũng (dịch bởi John
Spragens, Jr.) Our Great Spring Victory, Hanoi: Nhà Xuất bản Thế Giới, 2005,
Cora Weiss, Copyright, bản dịch Anh văn, 1977, 286.
249 Nguyễn Tương Lai, ―New Socialist Man, in
Santoli, To Bear…, 283.
250 Moyar, Phoenix. Trang 347 ghi chú số 2 viện
dẫn Jacqueline Desbarat và Karl Jackson, ―Research Among Refugees Reveals a
Blood Bath, báo Wall Street, 22 tháng 4 năm 1985.
251 Nguyễn Công Hoan, tường trình, Human Rights
in Vietnam, trước Tiểu ban the Subcommittee on International
Organizations of the Committee on International Relations of the House of
Representatives, Quốc hội khóa 95, Khóa họp đầu, 26 tháng 7 năm 1977,149.
252 G. Roy Levin, ― phỏng vấn Robert Kramer và
John Douglas, Reclaiming our past, reclaiming our beginning, Jump Cut, số
10-11, 1976, 6-8.
253 Lê Thị Anh, ―The New Vietnam: Second
Anniversary, National Review, 29 tháng 4 năm 1977, 487.
254 Scott Johnson, ―Ho Chi Minh‘s Gift, Epoch
Times, 25 tháng 5 năm 2009.
255 John M. Del Vecchio, ―Cambodia, Laos and
Viet Nam? The Importance of Story Individual and Cultural Effects of Skewing
the Realities of American Involvement in Southeast Asia for Social, Political
and/or Economic Ends, 1996 Vietnam Symposium “After the Cold War: Reassessing
Vietnam,” 18-20 tháng 4 năm 1996. Hãy đọc hai tác phẫm của ông là 13th Valley
và For the Sake of All Living Things.
256 Jane Hamilton-Merritt, Tragic Mountains: The
Hmong, the Americans, and the Secret Wars for Laos, 1942-1992, Bloomington:
Indiana University Press, 1999, Xvii-Xviii.
257 Jane Hamilton-Merritt, Tragic Mountains: The
Hmong, the Americans, and the Secret Wars for Laos, 1942-1992, Bloomington:
Indiana University Press, 1999, XV
258 Al Santoli, ―Little Girl in the Yellow Rain,
trong Readers Digest, tháng 4, 1984; James Banerian and the Vietnamese
Community Action Committee, Losers Are Pirates: A close Look at the PBS Series
―Vietnam: A Television History, Phoenix: Nhà Xuất bản Tiếng Mẹ, 1984, 216-7.
259 Pacifist Couples Aid Laos, New York Times,
26 tháng 11, 1987. Jane Hamilton-Merritt, Tragic Mountains: The Hmong, the
Americans, and the Secret Wars for Laos, 1942-1992, Bloomington: Indiana
University Press, 1999, 503-5. Tác giả đã phục vụ trong một thời gian ngắn với
David Merchant tại USAID ở Đông Hồi năm 1968.
260 Jane Hamilton-Merritt, Tragic Mountains: The
Hmong, the Americans, and the Secret Wars for Laos, 1942-1992, Bloomington:
Indiana University Press, 1999, 15, 498, 503, 512-3, 517-8.
261 Jane Hamilton-Merritt, Tragic Mountains: The
Hmong, the Americans, and the Secret Wars for Laos, 1942-1992, Bloomington:
Indiana University Press, 1999, XViii-XIX.
262 Mike Benge, ―The Two Faces of Communist Laos
(Hidden Genocide), FrontPageMagazine.com, 28 tháng 2, 2008; Stephen Magagnini,
―Some call Gen. Vang Pao ‗King of the Hmong, Sacramento Bee, 18 tháng 7, 2009.
263 James Banerian và Vietnamese Community
Action Committee, Losers Are Pirates: A close Look at the PBS Series ―Vietnam:
A Television History, Phoenix: Nhà Xuất bản Tiếng Mẹ, 1984, 2 viện dẫn về Hội
Hồng Thập Tự Quốc Tế
264 Jacqueline Desbarats, Repression in the
Socialist Republic of Vietnam: Executions and Population Relocation, trong
John Norton Moore, ed., The Vietnam Debate: A Fresh Look at the Arguments
(Lanham, MD: University Press of America, 1990) 196-97.
265 Stephen Denney, Human Rights and Daily Life
in Vietnam, báo cáo soạn cho Lawyers Committee for Human Rights, 25 tháng
3, 1990, 6-7 của 15.
266 Mark Moyar, Phoenix and the Birds of Prey;
The CIA‘s Secret Campaign to Destroy the Viet Cong, Annapolis: Naval Institute
Press, 1997, 347.
267 Đoàn Văn Toại, ―A Lament for Vietnam, báo
New York Times, 29 tháng 3, 1981, 5-6 của 13.
268 Morley Safer, Flashbacks: On Returning to
Vietnam, New York: St. Martin‘s Paperbacks, 1990, 290-91; Đại tá Phạm Xuân Ẩn,
Việt-nam, tháng 8, 1990, viện dẫn trong sách của Lewis Sorley, A Better War:
The Unexamined Victories and Final Tragedy of America‘s Last Years in Vietnam,
New York: Harcourt, 1999, 384; cũng được nêu ra trong sách của Victor Davis
Hansen, Carnage and Culture, New York: Anchor, 2001, 416.
269 Theo quan điển của tác giả, thường không
được chia xẻ, nói chung. Ít người đã từng làm việc cả hai bên của giới báo chí
kình chống nhau.
270 Bass, The Spy Who Loved Us,
271 Mark Moyar, Phoenix and the Birds of Prey;
The CIA‘s Secret Campaign to Destroy the Viet Cong, Annapolis: Naval Institute
Press, 1997, 348.
272
http://departments.bloomu.edu/crimjust/pages/articles/Child_Labor.pdf
273 Zaroulis, Who Spoke Up, 420.
274 Michael Lind, 174.
275 Bob Woodward: Ford on Vietnam, Sacramento
Bee, 3 tháng giêng, 2007; Quinn X. Pham: Ford‘s Finest Legacy, Sac Bee, 3 tháng
giêng, 2007.
276 The Pink Sheet, # 169, 7 tháng 11,
1977.
277 Nayan Chandra, Brother Enemy, 147-149.
278 Nguyễn Công Hoan, tường trình, Human Rights
in Vietnam, trước Subcommittee on International Organizations of the
Committee on International Relations of the House of Representatives, Nhiệm kỳ
Quốc hội thứ 95., Khóa họp đầu., 26 tháng 7, 1977, 147.
279 Mark Moyar, Getting Vietnam Right, The
American Spectator, 30 tháng 8, 2007.
280 A New Foreign Policy Agenda, n.d.; Ad Hoc
Coalition for a New Foreign Policy, Legislative Update, Số đặc biệt về chi phí
quân sự, Mùa Xuân 1976.
281 Ad Hoc Coalition for a New Foreign Policy,
Join the Network, Legislative Update,
Số đặc biệt về chi phí quân sự, Mùa Xuân 1976
282 Robert Wilson, Biases and Blind Spots:
Methodism and Foreign Policy Since World War II, Chương 4, The Reemergence of
Radicalism, 1-3.
285 Douglas Pike, PAVN: People’s Army of
Vietnam. Presidio Press, Novato, California, 1986, 239-40.
286 Dohrn viện dẫn trong FBI, FOIA, Weather
Underground. Nguồn tin chính là phúc trình Đương nhiệm SAC Chicago gởi
cho Giám đốc ―Foreign Influence-Weather Underground Organization, 20 tháng 8
năm 1976, 6.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét