Đúng
10h25 ngày 19/1/1974, đại tá Hà Văn Ngạc ra lệnh tấn công các chiến hạm Hải
quân Trung Quốc nhằm tái chiếm Hoàng Sa. Hải pháo hai bên nã đạn trực tiếp
không ngừng.
Chuẩn
bị cho trận chiến, Bộ Tư lệnh Hải quân Vùng 1 duyên hải Việt Nam Cộng hòa đã
thành lập Hải đoàn đặc nhiệm bảo vệ Hoàng Sa, gồm các chiến hạm và sĩ quan được
bổ sung từ Bộ Tư lệnh Hải quân tại Sài Gòn. Chỉ huy trưởng Hải đoàn đặc nhiệm
là đại tá Hà Văn Ngạc.
Các thập
niên 1950, 1960 và 1970, Hải quân Mỹ thường tân trang chiến hạm cũ từ Chiến
tranh thế giới thứ II rồi viện trợ cho đồng minh ở châu Á như Đài Loan, Việt
Nam Cộng hòa, Philippines… Vũ khí, hệ thống điện tử, hệ thống điều khiển của
tàu viện trợ đều lỗi thời. Trong khi đó, Liên Xô, Trung Quốc và một số quốc gia
Đông Âu đã trang bị cho hải quân theo quan điểm đổi tiện nghi, trang bị điện tử
để lấy ưu thế về tốc độ, vũ khí và dùng những chiến thuyền nhỏ tấn công các chiến
hạm lớn.
Xem
chi tiết.
Trận
chiến Hoàng Sa diễn ra chủ yếu trong lòng của vùng đảo Nguyệt Thiềm, chiến hạm
Trung Quốc nhỏ, nằm sát mặt nước nên rất khó bắn trúng, đồng thời dễ dàng nâng
cao độ của hải pháo, tạo thế tấn công hữu hiệu.
Hải
pháo của chiến hạm Việt Nam Cộng hòa nằm trên cao so với hải pháo Trung Quốc
nên khó xoay trở ở cự ly gần. Hơn nữa, khi Mỹ chuyển giao các chiến hạm cho Hải
quân Việt Nam Cộng hòa, các trang bị tối tân như pháo 76,2 ly bắn nhanh tự động
với hệ thống radar kiểm soát (radar control) và khóa mục tiêu (lock-on system)
đã bị tháo gỡ hoặc không còn sử dụng được.
Khẩu
127 ly trên các tuần duyên hạm của Việt Nam Cộng hòa đều phải điều chỉnh bằng
tay nên nhịp bắn rất chậm, chỉ hữu hiệu trong việc yểm trợ hải pháo.
Trung
Quốc có đủ tất cả lực lượng hải, lục, không quân và tiềm thủy đỉnh (tàu ngầm)
túc trực, sẵn sàng tham chiến. Việt Nam Cộng hòa chỉ có chiến đấu cơ tốt nhất
là loại F5E, tầm hoạt động ngắn, đủ nhiên liệu bay ra Hoàng Sa rồi quay về mà
không thể ở lại yểm trợ hoặc chiến đấu. (Tương quan lực lượng hai bên).
Máy
bay F5E của Việt Nam Cộng hòa chỉ đủ nhiên liệu bay ra Hoàng Sa rồi quay về. Ảnh
tư liệu
Trước
giờ khai hỏa
Diễn
biến được coi là khởi đầu trận hải chiến vào ngày 11/1/1974, khi Trung Quốc
tuyên bố quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa) và quần đảo Nam Sa (Hoàng Sa) thuộc lãnh thổ
Trung Quốc. Ngay lập tức, Ngoại trưởng Việt Nam Cộng hòa Vương Văn Bắc lên tiếng
bác bỏ lời tuyên bố vô căn cứ và lên án hành động gây hấn của Trung Quốc. Từ thời
điểm này, liên tục có những diễn biến căng thẳng cả trên thực địa lẫn mặt trận
ngoại giao đến khi cuộc nổ súng bắt đầu.
Bốn
chiến hạm Việt Nam Cộng hòa tham gia trận chiến.
Ngày
15/1/1974, Hải quân Trung Quốc xâm phạm lãnh thổ và lãnh hải Việt Nam khi đổ bộ
chiếm đóng các đảo Quang Hòa, Duy Mộng và Cam Tuyền.
10h,
HQ16 đi tuần tiễu phát hiện trên đảo Cam Tuyền cắm cờ Trung Quốc và gần đó là một
tàu đánh cá Trung Quốc màu xanh xám, mang tên Nam Ngư, số 402, có đại bác 25
ly. Tàu HQ16 đã dùng quang hiệu yêu cầu tàu Trung Quốc rời đảo nhưng tàu này
không trả lời. Chiều cùng ngày, tàu Trung Quốc mới rời khỏi đảo.
Ngày
16/1/1974, Ngoại trưởng Vương Văn Bắc gửi công hàm cho Chủ tịch Hội đồng Bảo an
Liên Hợp Quốc để lưu ý tình hình căng thẳng nghiêm trọng, có khả năng đe dọa
hòa bình và an ninh quốc tế, xảy ra bởi lời tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc.
Sáng sớm
hôm đó, HQ16 đi tuần và phát hiện trên đảo Quang Hòa có chòi canh, vọng gác cao
gắn cờ Trung Quốc cùng một chiến hạm Trung Quốc di chuyển quanh đảo. HQ16 yêu cầu
tàu này rút lui nhưng không có tín hiệu trả lời. Đảo Duy Mộng không có người
nhưng có hai tàu nhỏ của Trung Quốc ở gần bờ.
Trưa
16/1, HQ16 đưa 16 nhân viên cơ hữu lên đảo Vĩnh Lạc để thám sát, phát hiện có mộ
và bia đã đề chữ Hán. Lúc 15h35, HQ16 ghi nhận tại Tây Nam đảo Cam Tuyền có hai
tàu đánh cá Trung Quốc được vũ trang đại bác 25 ly, mang số 402 và 407.
Ngày
17/1, Chính phủ Việt Nam Cộng hòa gửi công hàm cho Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc
đề nghị ban bố mọi biện pháp thích hợp để cải thiện tình hình.
Trên
thực địa, lúc 11h, HQ16 hoàn tất đổ bộ đoàn 15 nhân viên cơ hữu lên tăng cường
giữ đảo Vĩnh Lạc. Nhóm này có nhiệm vụ phá hủy các tấm mộ bia và tổ chức phòng
thủ trên đảo.
15h
cùng ngày, HQ16 đến đảo Cam Tuyền, án ngữ tại phía Đông Nam để yểm trợ cho HQ4
đổ bộ 27 biệt hải lên phía Tây đảo Cam Tuyền trong khi hai tàu Trung Quốc 402
và 407 đang ở phía Nam đảo Cam Tuyền.
18h,
HQ4 phát hiện hai tàu Trung Quốc Kronshtadt 271 và 274 từ đảo Quang Hòa tiến về
đảo Cam Tuyền. HQ4 đã dùng quang hiện yêu cầu các tàu này rời đi, tàu Trung Quốc
cũng dùng quang hiệu trả lời rằng các đảo này thuộc chủ quyền của họ và yêu cầu
chiến hạm Việt Nam Cộng hòa rút lui. Tiếp đó, các tàu này chạy quanh HQ4 và di
chuyển chặn đầu chiến hạm, bất chấp quy tắc hàng hải quốc tế.
Ngày
18/1, một trong bốn tàu Trung Quốc rời đảo Quang Hòa tiến về HQ4 lúc 4h30.
Nhưng sau khi HQ4 tiến sát tàu địch thì tàu này rút lui về phía đảo Quang Hòa.
8h45, HQ16 phát hiện thêm một tàu Trung Quốc di chuyển phía Đông Nam đảo Duy Mộng.
Trên đảo đã thấy cờ Trung Quốc.
10h30,
HQ4 hoàn tất đổ bộ đoàn 15 nhân viên cơ hữu lên tăng cường giữ đảo Cam Tuyền và
rút tất cả 27 biệt hải trở về chiến hạm. Tàu Trung Quốc mang số hiệu 407 tiến về
phía HQ16.
15h
cùng ngày, Đại tá Hà Văn Ngạc và HQ5 đến Hoàng Sa. Hải đoàn gồm HQ4, HQ5, HQ16
tiến về Quang Hòa với hy vọng có thể đổ bộ toán hải kích lên đảo. Hai tàu Trung
Quốc 271 và 274 tiến tới chặn đường. Hai bên liên lạc quang hiệu, xác nhận
Hoàng Sa là lãnh hải của mình và yêu cầu phía bên kia phải rời ngay lập tức. Với
hành động cố tình chặn đường có thể gây đụng tàu, Hải đoàn trở về phía Nam đảo
Hoàng Sa, tiếp tục theo dõi chiến hạm Trung Quốc.
19h15,
HQ5 phát hiện thêm hai chiến hạm Trung Quốc loại T43 cải biến mang số 389 và
396.
23h, Đại
tá Hà Văn Ngạc nhận lệnh tái chiếm đảo Quang Hòa một cách hòa bình. Vị Chỉ huy
trưởng chia Hải đoàn ra làm hai phân đoàn đặc nhiệm: Phân đoàn một gồm HQ4 và
HQ5 do trung tá Vũ Hữu San, chỉ huy với nhiệm vụ có mặt tại phía Nam và Tây Nam
đảo Quang Hòa để đổ bộ hai toán hải kích và biệt hải. Phân đoàn hai gồm HQ10 và
HQ16 do trung tá Lê Văn Thự chỉ huy với nhiệm vụ giữ nguyên vị trí trong lòng
vùng đảo Nguyệt Thiềm để yểm trợ cho việc đổ quân. Nếu cuộc đổ bộ không thành
thì các chiếm hạm sẽ dùng hỏa lực tiêu diệt hai chiến hạm chủ lực của địch (271
và 274), còn quân Trung Quốc sẽ là mục tiêu tấn công cuối cùng.
19/1/1974
- Cuộc đấu pháo 30 phút
7h
sáng, HQ5 đổ bộ 22 hải kích lên bờ Tây Nam và HQ4 đổ bộ 27 biệt hải lên bờ Nam
để tái chiếm đảo Quang Hòa nhưng thất bại trước hỏa lực quá mạnh của Trung Quốc.
Cũng trong thời gian này, tàu Trung Quốc 402 và 407 tăng cường khoảng 2 đại đội
lên bờ đông bắc đảo Quang Hòa.
8h50
và 10h, Tư lệnh Vùng 1 Duyên hải chỉ thị cho đại tá Hà Văn Ngạc tấn công tối đa
vào các đảo. Nếu địch bắn phá, dùng mọi khả năng để chống trả. Nhận thấy chỉ thị
này sẽ bất lợi cho hải đoàn vì chiến hạm địch có toàn lực trong lúc hải đoàn Việt
Nam đang bị phân tán nên đại tá Hà Văn Ngạc đề nghị Tư lệnh Vùng 1 Duyên hải
cho triệt hạ tàu địch trước. Tư lệnh đồng ý.
10h,
Chỉ huy trưởng Hà Văn Ngạc ra lệnh rút hải kích và biệt hải. Các phân đoàn chuẩn
bị tấn công tại các vị trí ấn định. Phân đoàn một gồm HQ4 và HQ5 đối đầu với
hai hộ tống hạm 271 và 274 tại phía Tây Nam đảo Quang Hòa. Phân đoàn hai gồm
HQ16 và HQ10 đối đầu với hai hộ tống hạm T43 là 389 và 396 tại phía Tây Bắc đảo
Quang Hòa.
Cuộc tấn
công của Phân đoàn 2 gồm HQ16, HQ10 diễn ra ở phía Bắc đảo Quang Hòa. Đúng
10h25, đại tá Hà Văn Ngạc ra lệnh tấn công các chiến hạm Hải quân Trung Quốc tại
Hoàng Sa. HQ16 và HQ10 đứng yên, mọi ổ súng lớn, nhỏ từ mũi tàu ra sau lái đều
nhắm bắn vào tàu Trung Quốc. Hải pháo giữa chiến hạm hai bên nã đạn trực tiếp
không ngừng.
10h35,
HQ10 báo cáo Đài chỉ huy trúng đạn, Hạm trưởng bị trọng thương, hầm máy bị cháy
và ngập nước. Hạm trưởng HQ16 ra lệnh cho Hạm phó HQ10 là đại úy Nguyễn Thành
Trí lên thay quyền chỉ huy. HQ10 vẫn tấn công ào ạt vào chiếc 396 của Trung Quốc
đang tiến gần.
10h45,
chiếc 389 bị trúng đạn bốc khói mù mịt.
10h55,
chiếc 396 bị bắn không điều khiển được, đụng vào HQ10 rồi lại bật ra xa, bị
trúng thêm đạn bốc cháy xoay vài lần rồi dạt vào bãi san hô Tây Bắc đảo Duy Mộng.
HQ10 cũng bị thiệt hại nặng nề, bị trúng đạn và không thể điều khiển được.
Trong
khi đó, HQ16 bị trúng đạn lạc của HQ5, hầm máy bên phải ngập nước, vài phút
sau, tàu bị nghiêng. Phòng vô tuyến liên lạc truyền tin bị gián đoạn vì mất điện.
Nhận thấy không thể tiếp tục tham chiến, HQ16 rời khỏi lòng chảo, chạy về hướng
Đà Nẵng.
11h10,
HQ10 bị bỏ lại. Hạm trưởng và một số nhân viên tử thương. Hạm phó ra lệnh đào
thoát.
Cuộc tấn
công của Phân đoàn 1 gồm HQ5, HQ4 diễn ra ở phía Tây Nam đảo Quang Hòa. 10h25,
hải pháo 76,2 ly của HQ4 ở sân mũi gặp sự cố ngay từ phút đầu tiên và phải chờ
sửa chữa. Việc này đã làm đảo lộn các dự tính của đại tá Hà Văn Ngạc. Tuy vậy,
HQ4 vẫn tận dụng hỏa lực còn lại, tiếp tục bám sát mục tiêu của mình trong tầm
đại liên.
10h40,
khẩu 76,2 ly của HQ4 ở sân lái sau bị hỏng bộ phận tấn công tự động nên phải điều
chỉnh bằng tay, bắn từng phát một nặng nề và chậm chạp. Đại tá Ngạc đã ra lệnh
cho HQ4 rút lui khỏi vòng chiến để sửa chữa và chỉ thị HQ5 yểm trợ cho HQ4 rút
ra xa. HQ4 tuy bị trúng nhiều đạn nhưng máy móc chính và hệ thống truyền tin vẫn
điều khiển tốt.
10h55,
chiếc 274 bị trúng đạn, bốc cháy và dạt vào bờ san hô phía Nam đảo Quang Hòa.
Đa số súng trên HQ5 bị trở ngại, trừ khẩu pháo 40 ly bên trái, máy siêu tần
không còn liên lạc được, máy truyền tin trên đài chỉ huy cũng bị trúng đạn bể
nát, đại tá Ngạc phải vào Trung tâm chiến báo dùng máy VRC46 để chỉ huy.
Sau trận
hải chiến, HQ10 không điều khiển được, bị bỏ lại và sau đó bị Trung Quốc đánh
chìm; 3 chiến hạm (HQ4, HQ5, HQ16) bị hư hại; 74 binh sĩ hy sinh, 28 người bị
thương và 48 người bị bắt làm tù binh khi Trung Quốc tăng quân đổ bộ lên chiếm
các đảo vào ngày 20/1/1974.
Về
phía Trung Quốc, 2 chiến hạm (274 và 396) bị chìm hoặc dạt vào bãi san hô; 2
chiến hạm (271 và 389) bị thiệt hại nặng; không rõ số nhân viên bị thương và chết.
11h,
chiếc 271 được chiếc 389 tiếp trợ, hợp lực quay lại tấn công HQ5. HQ5 bị trúng nhiều
đạn nhưng phản công dữ dội khiến tàu địch thiệt hại nặng phải chùn lại.
Nhận
được tin báo tăng viện của địch sắp đến, với tình trạng HQ10 không thể sử dụng,
HQ16 nước vào hầm máy, tàu bị nghiêng, HQ4 và HQ5 trúng nhiều đạn chỉ còn hỏa lực
rất hạn chế, Chỉ huy trưởng Hải đội đặc nhiệm ra lệnh cho HQ5 rút lui về hướng
Đông Nam.
Hai
tàu địch cũng bị hư hỏng nặng nên rút về hướng Đông Bắc Hoàng Sa. HQ5 cùng HQ4
rút về hướng Đông Nam và tiến về Đà Nẵng.
11h10,
ba chiến hạm của Hải quân Việt Nam Cộng hòa buộc phải rút khi lực lượng tăng viện
Hạm đội Nam Hải của Trung Quốc nhập vùng (tàu hộ tống 281, 282 đến nơi sớm nhất,
khoảng 30 phút sau khi Hải quân Việt Nam Cộng hòa rút). 15 nhân viên cơ hữu thuộc
HQ16 bị kẹt lại đảo Vĩnh Lạc, 15 nhân viên cơ hữu thuộc HQ4 bị kẹt lại Cam Tuyền,
các đảo của Việt Nam chỉ còn lực lượng quân đội trú phòng vệ, không còn hải
pháo yểm trợ.
Diễn
biến sau trận chiến Hoàng Sa
11h50
ngày 19/1/1974, hai chiến hạm tăng viện của Trung Quốc 281, 282 nhập vùng tiếp
cứu các chiến hạm thiệt hại và nhân viên Trung Quốc bị thương, thiệt mạng. Hạm
đội Trung Quốc tiếp tục sử dụng hải, lục, không quân tấn công và chiếm toàn bộ
quần đảo Hoàng Sa, bắt 50 tù binh (có 1 người Mỹ). Các tù binh này sau đó được
trao trả vào ngày 17/2.
14h15
ngày 19/1/1974, HQ4 và HQ5 được lệnh quay lại Hoàng Sa tiếp cứu nhân viên đào
thoát từ HQ10 đồng thời nhận được tin HQ16 sẽ được HQ6 hộ tống về Đà Nẵng.
17h20
ngày 19/1/1974, HQ4 và HQ5 gần đến Hoàng Sa thì nhận được lệnh trở về Đà Nẵng.
7h
ngày 20/1/1974, HQ16 về đến vịnh Tiên Sa, cập cầu căn cứ hải quân Đà Nẵng.
7h30
ngày 20/1/1974, HQ4 và HQ5 cập cầu thương cảng Thống Nhất, Đà Nẵng.
Trong
khi đó, ở trên bờ, 12h ngày 19/1/1974 Sư đoàn 1 không quân Việt Nam Cộng hòa nhận
được lệnh chuẩn bị cuộc hành quân đánh bom các chiến hạm Trung Quốc tại Hoàng
Sa. Sáng 20/1, Kế hoạch không tập các chiến hạm Trung Quốc tại Hoàng Sa hoàn tất
và lực lượng tham chiến thuộc Phi đoàn 538 sẵn sang chờ lệnh.
Trưa
hôm sau, kế hoạch dội bom các chiến hạm Trung Quốc tại Hoàng Sa bị hủy bỏ.
Nguyễn
Hùng Cường
VÌ
SAO TRUNG QUỐC ĐÁNH CHIẾM HOÀNG SA
Chỉ một tuần sau chuyến công du của Ngoại trưởng Henry
Kissinger, thấy rõ ý định "bỏ rơi" của Mỹ cũng như các điều kiện bất
lợi với Việt Nam Cộng hòa, Trung Quốc đã điều chiến hạm ra cưỡng chiếm quần đảo
Hoàng Sa.
40 năm
trước, ngày 19/1/1974, một biến cố trọng đại trong lịch sử Việt Nam hiện đại đã
diễn ra - hải chiến Hoàng Sa giữa Hải quân Việt Nam Cộng hòa và Hải quân Trung
Quốc. Sau trận chiến, quần đảo Hoàng Sa - một bộ phận thiêng liêng và không thể
tách rời của Việt Nam đã bị Trung Quốc chiếm giữ.
Công Hàm bán Nước Của Phạm Văn Đồng, Một Tiền Đề để Trung Cộng Chiếm Hoàng Sa |
Suốt
nhiều thế kỷ, Việt Nam đã chiếm hữu thật sự, hòa bình và công khai quần đảo
Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa khi các quần đảo đó chưa thuộc chủ quyền bất cứ
quốc gia nào. Từ thế kỷ XVII, Nhà nước Việt Nam đã thực hiện hiệu quả chủ quyền
với hai quần đảo này và luôn bảo vệ các quyền, danh nghĩa của mình trước mưu đồ
và hành động xâm phạm chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và quyền lợi của Việt Nam với
hai quần đảo thiêng liêng của mình.
Đầu thế
kỷ XX, nhận thấy vị trí chiến lược cũng như tầm quan trọng của biển Đông nói
chung và quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa nói riêng, một số quốc gia (điển hình là
Trung Quốc) đã xâm chiếm bất hợp pháp các vùng lãnh thổ này của Việt Nam.
Xem
chi tiết.
Trung
Quốc luôn coi biển Đông, đặc biệt là các quần đảo của Việt Nam là bàn đạp quan
trọng để thực hiện chiến lược bành trướng xuống Đông Nam Á. Vì vậy, giới cầm
quyền Trung Quốc từ Trung Hoa Dân Quốc cho đến Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đã
không ngừng đẩy mạnh thực hiện âm mưu độc chiếm biển Đông.
Lợi dụng
tình hình rối ren khi Nhật đầu hàng đồng minh và việc giải giáp quân Nhật theo
Hiệp định Postdam 1945, Trung Hoa Dân Quốc đã đem quân chiếm giữ đảo Phú Lâm
(quần đảo Hoàng Sa) và đảo Ba Bình (quần đảo Trường Sa) vào cuối năm 1946. Sau
đó Trung Hoa Dân Quốc rút quân khỏi Hoàng Sa, và Nhật rút quân khỏi quần đảo
này theo Hòa ước San Fransisco 1951. Sau khi Hiệp định Geneva 1954 được ký kết,
Pháp rút khỏi Đông Dương, ngày 21/1/1956 Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đưa quân
chiếm đóng đảo Phú Lâm và Lin Côn.
Năm
1974, nhận thấy thời cơ đã chín muồi, Trung Quốc chiếm Hoàng Sa bằng vũ lực
toàn bộ nhóm đảo Trăng Khuyết phía tây nam quần đảo Hoàng Sa. Thời cơ này xuất
phát từ tình hình, bối cảnh quốc tế và trong nước.
Đầu thập
niên 1970, phong trào phản đối chiến tranh tại Việt Nam diễn ra sôi nổi và rộng
khắp trên thế giới khiến Mỹ ngày càng xa lánh Việt Nam Cộng hòa; đặc biệt sau
khi ký kết Hiệp định Paris ngày 27/1/1973, Hoa Kỳ và các lực lượng đồng minh phải
rút quân khỏi Việt Nam. Do không muốn tham gia vào một cuộc chiến đã bước vào hồi
kết, tháng 6/1973 Lưỡng viện Hoa Kỳ đã thông qua đạo luật
"Case-Church" cấm cơ quan hành pháp nước này tái can thiệp quân sự
vào ba nước Đông Dương trừ khi được chấp thuận của Lưỡng viện.
Ngoài
ra, Mỹ được cho là có một “toan tính” sâu xa hơn khi không can dự vào trận Hải
chiến 1974 vì khi đó, Việt Nam và Trung Quốc đều đi theo con đường Xã hội chủ nghĩa.
Việc Washington “làm ngơ” cho Bắc Kinh ngang nhiên chiếm Hoàng Sa sẽ tạo thù địch
giữa Hà Nội và Bắc Kinh, dẫn đến chia rẽ giữa các nước cộng sản. Khi người
"bảo trợ" đã ra đi, Chính phủ Việt Nam Cộng hòa rơi vào tình thế đơn
độc và bất lợi trong cuộc chiến bảo vệ Hoàng Sa.
Cuộc đụng
độ biên giới năm 1969 mang lại cho Quân Giải phóng Nhân dân Trung Hoa (PLA) niềm
tin rằng họ có thể chống trả Hồng quân Liên Xô. Từ đó, Trung Quốc bắt đầu thực
hiện sáng kiến đối ngoại mới bằng cách thúc đẩy quan hệ hữu nghị với Mỹ, cao
trào là chuyến thăm Trung Quốc của Tổng thống Richard Nixon tháng 2/1972. Sau
chuyến công du đó, Trung Quốc trở thành "đồng minh giai đoạn" của Mỹ
để kìm chân và chống lại Liên Xô. Mỹ không muốn quan hệ chiến lược này bị rạn nứt
vì vụ Hoàng Sa. Việc lựa chọn giữa "đồng minh cũ" hay "người bạn
mới" trong “thời kỳ trăng mật” này không phải là sự lựa chọn khó khăn đối
với Mỹ.
Ngoại
trưởng Kissinger trong chuyến thăm Trung Quốc. Ảnh tư liệu
Thực tế,
trong trận Hải chiến Hoàng Sa chính quyền Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã nhiều
lần thông báo tình hình với Đại sứ quán Mỹ nhưng Washington đã không có động
thái hỗ trợ nào.
Trên
vùng biển Đông ngoài khơi Việt Nam gần với đảo Hải Nam (Trung Quốc) và Hoàng Sa
(Việt Nam) thời điểm đó có mặt Hải đoàn 77 (Task Force 77) của Hải quân Mỹ gồm
các hàng không mẫu hạm và các chiến hạm yểm trợ. Hải đoàn này đủ khả năng kiểm
soát không và hải phận, cũng như hoạt động của các tàu ngầm trong vịnh Bắc Bộ.
Tuy nhiên, Mỹ đã hoàn toàn đứng ngoài cuộc.
Cũng
thời điểm đó, Việt Nam Cộng hòa mới chỉ là quan sát viên mà chưa phải thành
viên của Liên Hợp Quốc trong khi Trung Quốc là một trong 5 nước ủy viên thường
trực của Hội đồng Bảo an. Vị thế quốc tế của Trung Quốc khiến nước này tự tin rằng,
Việt Nam Cộng hòa không có đủ tư cách sử dụng các cơ chế để tự vệ và bảo vệ
Hoàng Sa theo các điều khoản của Hiến chương Liên Hợp Quốc.
Ngày
30/1/1974, Lãnh sự quán Mỹ ở Hồng Kông đã báo cáo về Bộ Ngoại giao và Đại sứ
quán Mỹ ở các nước liên quan về những tính toán của Trung Quốc trong việc thôn
tính quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Cơ quan này nhận định, Trung Quốc đã có ý
đồ đánh chiếm Hoàng Sa từ trước.
Theo
phân tích của lãnh sự quán Mỹ, quyết định đánh chiếm Hoàng Sa phụ thuộc vào một
số yếu tố như tiềm năng về dầu khí tại khu vực, lo ngại Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa có thể đưa ra tuyên bố chủ quyền ở Hoàng Sa cũng như lợi ích chiến lược về
lâu dài của quần đảo.
Bên cạnh
đó, Trung Quốc cũng có thể lo sợ việc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẽ không tiếp tục
giữ thái độ im lặng trước vấn đề chủ quyền quần đảo Hoàng Sa. Bằng việc sử dụng
vũ lực, Trung Quốc đã tránh tình huống nguy hiểm hơn nhiều sau khi Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa đưa ra tuyên bố chủ quyền về Hoàng Sa. Điều này đã được Nhà nước Cộng
hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam tiến hành sau khi đất nước thống nhất.
Theo
nhận định trong các hồ sơ ngoại giao được giải mật, nỗi lo sợ ngày càng lớn của
Trung Quốc trước hoạt động của hải quân Liên Xô tại biển Đông và các vùng biển
khác ở châu Á có thể là yếu tố dẫn đến quyết định của Trung Quốc. Đây là thời kỳ
đỉnh điểm rạn nứt quan hệ Xô - Trung liên quan đến tranh chấp lãnh thổ dọc biên
giới hai nước, cũng như các vấn đề Nam Phi, Trung Đông và Đông Dương.
Trong
lúc nhiều yếu tố bên ngoài nghiêng về hướng có lợi cho một cuộc chiến chớp
nhoáng của Trung Quốc thì bối cảnh trong nước cũng hết sức bất lợi cho Việt Nam
Cộng hòa khi Lưỡng viện Mỹ giảm dần viện trợ từ 1,4 tỷ USD năm 1972 xuống 1 tỷ
USD năm 1973 và 700 triệu USD vào năm 1974. Quân đội Việt Nam Cộng hòa dần rơi
vào thế thụ động vì thiếu nhiên liệu, vũ khí. Bất lợi hơn là ý định “bỏ rơi” miền
Nam Việt Nam của Mỹ. Tình trạng phân chia Bắc - Nam cũng là một trở ngại cho
phía Việt Nam Cộng hòa trong trận hải chiến 1974.
Lợi dụng
bối cảnh đó, Trung Quốc đã không e ngại khi điều động chiến hạm đến cưỡng chiếm
quần đảo Hoàng Sa.
Nguyễn
Hùng Cường
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét