Hồ sơ ngoại giao được
giải mật của Mỹ cung cấp một góc nhìn mới về Hải chiến Hoàng Sa cách đây tròn
40 năm.
Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai (trái) đãi tiệc Tổng thống Mỹ Richard Nixon (giữa) trong chuyến thăm lịch sử năm 1972 |
Câu hỏi
liệu có sự thông đồng giữa Trung Quốc và Mỹ trong việc Bắc Kinh đánh chiếm
Hoàng Sa vào tháng 1.1974 vẫn là vấn đề chưa có câu trả lời dứt khoát sau 40
năm. Tuy nhiên, mối quan hệ mới được vun đắp giữa hai nước vào lúc đó cũng như
thái độ của Mỹ trong vấn đề Hoàng Sa chắc chắn góp phần khuyến khích Trung Quốc
mạnh dạn thôn tính trọn vẹn quần đảo của Việt Nam.
Các hồ
sơ ngoại giao của Mỹ được giải mật trong thời gian qua gợi ý Washington đã chủ
động bỏ rơi và gây sức ép buộc Việt Nam Cộng hòa (VNCH) không được “manh động”
trong vấn đề Hoàng Sa nhằm bảo vệ "thời kỳ trăng mật" trong quan hệ với
Trung Quốc.
Như một
sự trớ trêu, Liên Xô lại là một trong những quốc gia tỏ ra thông cảm với VNCH
trong vụ Hoàng Sa, qua việc chỉ trích Trung Quốc, dù chỉ để phục vụ mục đích
tuyên truyền chống Bắc Kinh vào lúc đó. Ngược lại, bằng một thái độ lạnh nhạt,
Washington và các đồng minh đã cố gắng thuyết phục Sài Gòn không đưa vấn đề
Hoàng Sa ra Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc.
Thái độ
của Mỹ trong vấn đề Hoàng Sa đã được một đại diện ngoại giao Liên Xô tại Liên
Hiệp Quốc mô tả bằng một câu nói mỉa mai rằng Washington đang bối rối trong việc
lựa chọn ủng hộ “đồng minh cũ và người bạn mới”.
Bối cảnh
quốc tế
Hải
chiến Hoàng Sa cần phải đặt trong bối cảnh những rạn nứt quan hệ Liên Xô -
Trung Quốc. Quan hệ Xô - Trung trong thập niên 1960 bị phủ bóng bởi những bất đồng
sâu sắc về tình trạng của khu vực Ngoại Mông cũng như nhiều tranh chấp lãnh thổ
dọc biên giới sau vụ “đoạn giao” năm 1960.
Cuộc đụng
độ ở biên giới năm 1969 mang lại cho Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA)
niềm tin rằng họ có thể chống trả Hồng quân Liên Xô. Từ đó, Trung Quốc bắt đầu
thực hiện sáng kiến đối ngoại mới bằng cách thúc đẩy quan hệ hữu nghị với Mỹ, với
cao trào là chuyến thăm Trung Quốc của Tổng thống Richard Nixon vào tháng
2.1972. Sau chuyến thăm của Nixon, Chủ tịch Trung Quốc Mao Trạch Đông đã ra lệnh
tiến hành chương trình hiện đại hóa quân đội lớn, kêu gọi phát triển hải quân
viễn dương, cũng như tiếp tục mở rộng việc phòng thủ bờ biển. Điều này mang lại
cho hải quân Trung Quốc phương tiện cần thiết để tiến xuống biển Đông. Trong
khi đó, Mỹ đã rút quân khỏi miền Nam Việt Nam theo hiệp định Paris ký kết tháng
1.1973.
Trong
bối cảnh cuộc chiến Việt Nam sắp đi vào hồi kết, Bắc Kinh đã quyết định đánh
chiếm Hoàng Sa ngay trước khi Việt Nam thống nhất. Việc Bắc Kinh lên kế hoạch kỹ
càng cho việc tiến chiếm Hoàng Sa cũng được ghi nhận trong một bức điện tín được
Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn Graham Martin gửi về cho Bộ Ngoại giao Mỹ vào ngày
20.1.1974, một ngày sau khi hải chiến nổ ra: “Rõ ràng, Trung Quốc không đơn giản
tăng viện lực lượng ở Hoàng Sa mà đang tiến hành một kế hoạch chuẩn bị kỹ lưỡng
nhằm chiếm quần đảo”. Chính vì việc này, ông Martin đã đề nghị Washington hãy
cân nhắc gây sức ép lên Bắc Kinh và đẩy mạnh các bước đi trong lĩnh vực ngoại
giao. Tuy nhiên, Bộ Ngoại giao Mỹ khi đó có vẻ như bận rộn bảo vệ mối quan hệ với
Trung Quốc hơn là với một đồng minh hết thời.
Thái độ
của Mỹ
Tháng
11.1973, Ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger công du Trung Quốc và có các cuộc mật
đàm với Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai. Trước đó, vào tháng 2.1973, hai nước
đã tuyên bố thiết lập văn phòng liên lạc. Khi tình hình biển Đông căng thẳng
vào tháng 12.1973, Đại sứ quán Mỹ tại Singapore đã gửi điện tín cho Bộ Ngoại
giao Mỹ hỏi về lập trường của chính phủ trong các tranh chấp tại khu vực. Bộ
Ngoại giao Mỹ đã gửi điện tín cho các đại sứ quán và văn phòng liên lạc ở VNCH,
Singapore, Philippines, Đài Loan và Trung Quốc rằng lập trường của Washington
là không đứng về bên nào trong các tuyên bố chủ quyền tại đây. Quan điểm này được
tái xác nhận trong các cuộc họp ngày 25.1.1974 và 31.1.1974 của nhóm hành động
đặc biệt do Kissinger đứng đầu. Theo đó, phía Mỹ sẽ tránh xa những tranh chấp ở
Hoàng Sa và Trường Sa.
Trước
đó, ngày 11.1.1974, Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã đơn phương tuyên bố chủ quyền với
quần đảo Hoàng Sa. Ngay sau đó, ngày 12.1, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao VNCH đã
cực lực bác bỏ những tuyên bố vô căn cứ của Trung Quốc. Ngày 16.1, Ngoại trưởng
Vương Văn Bắc của VNCH ra tuyên bố tố cáo Trung Quốc cử người và tàu bè đến
vùng biển xung quanh các đảo Hữu Nhật, Quang Hòa và Duy Mộng, vi phạm trắng trợn
chủ quyền của VNCH. Sau khi Hải chiến Hoàng Sa nổ ra vào ngày 19.1, Đại sứ Mỹ
Martin ngày 20.1 đã gửi điện tín báo cáo về Bộ Ngoại giao cho biết họ đã tức tốc
đề nghị các quan chức VNCH hãy kiềm chế, tránh hành động leo thang và khẳng định
quân đội Mỹ sẽ không hề can thiệp trong bất kỳ tình huống nào. Bộ Ngoại giao Mỹ
trước đó thông báo cho các đại sứ quán của Mỹ rằng họ đã yêu cầu Bộ Quốc phòng
chỉ thị cho hải quân tránh xa khu vực.
Trong
cuộc gặp với quyền trưởng Văn phòng Liên lạc Trung Quốc ở Washington Hàn Tự
ngày 23.1.1974, Kissinger đã đề nghị Bắc Kinh xem xét trường hợp của nhân viên
người Mỹ Gerald Emil Kosh bị bắt giữ trong trận chiến và khẳng định Mỹ không ủng
hộ tuyên bố chủ quyền của VNCH với Hoàng Sa.
“Chính
quyền Nam Việt Nam đang gửi một số kiến nghị đến các tổ chức quốc tế như SEATO
cũng như Liên Hiệp Quốc. Chúng tôi muốn các ông biết rằng chúng tôi không liên
kết với những kiến nghị đó”, Kissinger phát biểu, theo một biên bản được giải mật
của Bộ Ngoại giao Mỹ. (Còn tiếp)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét