“Kẻ hèn nhát hỏi: ‘Có an toàn không?’ Kẻ cơ hội hỏi: ‘Có khôn khéo không?’ Kẻ rởm đời hỏi: ‘Có được tiếng tăm gì không?’ Nhưng, người có lương tâm hỏi: ‘Có là lẽ phải không?’ Và có khi ta phải chọn một vị trí không an toàn, không khôn khéo, không để được tiếng tăm gì cả, nhưng ta phải chọn nó, vì lương tâm ta bảo ta rằng đó là lẽ phải.”
Thứ Năm, 28 tháng 3, 2013
HỒI KÝ BÊN GIÒNG LỊCH SỬ - KỲ 9
Linh Mục Cao Văn Luận
Tôi
không biết tiếng Mỹ nhiều, tuy đã có học sơ sơ. Câu nào không hiểu thì tôi viết
lên giấy để nói chuyện với các Bà Phước. Tôi nhớ một mẫu chuyện buồn cười trong
mấy ngày tôi trọ trong Trường các Bà Phước. Trong phòng rửa mặt, có một tấm
gương soi mặt. Tôi đinh ninh tấm gương gắn chết vào tường, chẳng để ý gì cả.
Sáng dậy đánh răng rửa mặt xong tôi để bàn chải, thuốc đánh răng trên lavabo
rồi đi dùng bữa ăn sáng. Lúc trở lại, tôi không thấy đâu nữa, lại xuống phố mua
thêm. Sang ngày thứ hai, những thức đánh răng của tôi lại biến mất.
HỒI KÝ BÊN GIÒNG LỊCH SỬ - KỲ 10
HỒI KÝ BÊN GIÒNG LỊCH SỬ - KỲ 11
Linh Mục Cao Văn Luận
Tại
Nam phần, có mấy lực lượng được coi như không theo ông Diệm, đó là một số đơn
vị quân đội dưới quyền chỉ huy trực tiếp của Tướng Hinh và các thuộc hạ thân
tín, các quân đội giáo phái như Cao Đài, Hòa Hảo và quân đội Bình Xuyên.
HỒI KÝ BÊN GIÒNG LỊCH SỬ - KỲ 12
Linh Mục Cao Văn Luận
39. Chế độ bị dư luận và Chính quyền Mỹ
chống đối
Vào
năm 1961 tôi bắt đầu nghe những luồng dư luận bất mãn đối với Tổng Thống Diệm
trong nhiều thành phần dân chúng.
HỒI KÝ BÊN GIÒNG LỊCH SỬ - KỲ 13
Tôi
cho rằng tình hình đã đi quá đà, nay dù ở trung ương có những nỗ lực dàn xếp
thì các địa phương một số người quá khích của bên chính phủ, hoặc bên Phật Giáo
vẫn cứ gây ra những hành động nguy hiểm, khiêu khích.
HỒI KÝ BÊN GIÒNG LỊCH SỬ - KỲ 14
Linh Mục Cao Văn Luận
Theo
một tài liệu được tiết lộ tại Quốc Hội, thì từ khi trở lại chức vụ Giám Đốc
Việt Nam Vụ, ông Kettenburg chủ xướng một phong trào chống ông Diệm, gây ác cảm
với ông Diệm trong hàng ngũ chính khách và Bộ Ngoại Giao Mỹ. Ông đã thành công
ngoài sức tưởng tượng, nhờ những sự vụng về của ông Diệm trong vụ Phật Giáo.
Báo chí Mỹ khi nghe nói đến đàn áp tôn giáo thì lập tức có thiện cảm với kẻ bị
đàn áp và chống lại chính quyền chủ trương đàn áp.
HỒI KÝ BÊN GIÒNG LỊCH SỬ - KỲ 15 (KỲ CUỐI)
Linh Mục Cao Văn Luận
44. Những cơn sóng gió mới
Đám
đông dần dần giải tán trong sự yên tĩnh. Sau buổi ồn ào, tôi càng lo sợ nhiều
hơn. Tình hình Huế vẫn còn sôi động, tuy bề ngoài chẳng có gì rõ rệt. Tôi nhận
thấy một số phần tử quá khích vẫn còn muốn tiếp tục cuộc đấu tranh dưới một
hình thức mới. Phía Phật Giáo vẫn không cho rằng việc lật đổ chế độ Ngô Đình
Diệm đã đủ thỏa mãn họ.
Thứ Tư, 27 tháng 3, 2013
HỒI KÝ NGUYỄN HỮU HẠNH - PHẦN 1
Lời giới thiệu
Ông Nguyễn Hữu Hanh nguyên giữ những địa vị quan trọng về kinh tế, tài chánh
trong chính quyền Việt Nam Cộng hoà cũng như trên trường quốc tế:
- Cố
vấn kinh tế, tài chánh cho Tổng thống Ngô Đình Diệm, 1955-1962
- Tổng
giám đốc Ngân hàng Quốc gia Việt Nam, 1955-1962
- Tổng
giám đốc Ngân hàng Khuếch trương SOFIDIV, 1963-1965
- Chánh sự vụ (Division chief) Ngân hàng Thế giới (World Bank), 1965
HỒI KÝ NGUYỄN HỮU HẠNH - PHẦN 2
II. Thời
trung và đại học
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
Năm 1944, tôi tốt nghiệp trung học khi thi đậu bằng tú tài hai, thường được gọi là Bac II, với hạng Bình (Mention Bien). Điều này làm cho cha mẹ tôi rất đỗi vui lòng và tự hào vì hai người tuy rất nghèo nhưng đã ráng chịu thiếu thốn nhiều bề để cho tôi và em Minh tôi được học lên trung học. Có một chuyện vui là vào năm thi tú tài I, sau phần thi viết, tôi đang xem bảng thì có một cô giáo người Anh ra tìm tôi, tự giới thiệu là cô Wilkinson ở Hà Nội vào chấm thi. Cô cho tôi hay bài của tôi được điểm cao nhất, và cô muốn gặp người học sinh đạt được điểm cao nhất ấy… Sau đó, khi thi vấn đáp, cô lại khen tôi. Cô rất xinh đẹp nên tôi không khỏi đôi khi bâng khuâng nhớ nghĩ về cô. Dưới thời thuộc điạ, người da trắng hay khinh miệt người da vàng, mà có một câu chuyện như vậy, cũng là một điều rất lạ.
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
Năm 1944, tôi tốt nghiệp trung học khi thi đậu bằng tú tài hai, thường được gọi là Bac II, với hạng Bình (Mention Bien). Điều này làm cho cha mẹ tôi rất đỗi vui lòng và tự hào vì hai người tuy rất nghèo nhưng đã ráng chịu thiếu thốn nhiều bề để cho tôi và em Minh tôi được học lên trung học. Có một chuyện vui là vào năm thi tú tài I, sau phần thi viết, tôi đang xem bảng thì có một cô giáo người Anh ra tìm tôi, tự giới thiệu là cô Wilkinson ở Hà Nội vào chấm thi. Cô cho tôi hay bài của tôi được điểm cao nhất, và cô muốn gặp người học sinh đạt được điểm cao nhất ấy… Sau đó, khi thi vấn đáp, cô lại khen tôi. Cô rất xinh đẹp nên tôi không khỏi đôi khi bâng khuâng nhớ nghĩ về cô. Dưới thời thuộc điạ, người da trắng hay khinh miệt người da vàng, mà có một câu chuyện như vậy, cũng là một điều rất lạ.
HỒI KÝ NGUYỄN HỮU HẠNH - PHẦN 3
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
III. Sự
nghiệp đầu tiên (1954–1965)
Năm 1954 tôi trở về Việt Nam làm việc cho Ngân hàng Trung ương [1] Đông
Dương, Lào, Cao Miên, Việt Nam (Institut d'Emission des Etats Associes du Laos,
du Cambodge et du Viêt Nam) dưới quyền của Tổng Giám đốc René Frappart và Chủ tịch
Hội đồng Quản trị Victor Cusin. Nhờ có kiến thức chuyên môn và tận tâm làm việc,
tôi được thăng hạng rất nhanh, vượt qua nhiều người Pháp và tất cả nhân viên
người Việt vào làm việc trước tôi.
HỒI KÝ NGUYỄN HỮU HẠNH - PHẦN 4
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
Nhưng tôi cũng cảm thấy rất cô đơn, bởi tôi biết mình không thể dựa vào ai khác, và cũng không thể thảo luận hay trao đổi ý kiến với ai, bởi vì chẳng có ai trong chính phủ hiểu biết về lãnh vực này. Dự trữ ngoại tệ của Việt Nam vào lúc đó hầu như chỉ gồm toàn đồng Phật-lăng “nội địa” thu được từ mặt hàng cao su xuất cảng qua Pháp và gạo xuất cảng qua các thuộc địa Pháp ở châu Phi. Đồng Phật-lăng của chúng ta không hoán đổi được; mỗi năm Ngân hàng Quốc gia Pháp (Banque de France) chỉ cho chúng ta đổi một số lượng nhỏ lấy những đồng tiền hoán đổi được như đồng Đô-la Mỹ, đồng Bảng Anh, đồng Mác Đức hay đồng Yên Nhật. Nước Pháp đã trải qua một giai đoạn rối loạn chính trị và bất an xã hội kéo dài, kèm theo những khó khăn rất lớn về mặt kinh tế tài chánh, và đồng tiền Pháp cứ liên tục giảm giá. Cứ mỗi lần giảm giá hay chính phủ Pháp phá giá như vậy thì chúng ta lại mất một tỉ lệ phần trăm trị giá ngoại tệ dự trữ. Như vậy tuy chúng ta đã giành được độc lập chính trị từ tay người Pháp năm 1955, nhưng trên bình diện tiền tệ thì chúng ta vẫn còn là một thuộc địa của Pháp. Không ai trong chính phủ tỏ vẻ quan tâm tới sự bất bình đẳng trong hệ thống chi trả với Pháp, tới sự suy yếu của dự trữ ngoại tệ và sự hao hụt trị giá đồng tiền Việt Nam vì liên hệ với hệ thống tiền tệ của Pháp. Hơn thế nữa, số vàng dự trữ của chúng ta (33 tấn rưỡi) mà quân Pháp lấy được từ tay quân Nhật sau khi Nhật bại trận năm 1945 đã bị chở về Pháp khi lính Pháp rút về nước năm 1955, và chúng ta không có vàng để hỗ trợ cho đồng tiền quốc gia kể từ lúc đó.
Nhưng tôi cũng cảm thấy rất cô đơn, bởi tôi biết mình không thể dựa vào ai khác, và cũng không thể thảo luận hay trao đổi ý kiến với ai, bởi vì chẳng có ai trong chính phủ hiểu biết về lãnh vực này. Dự trữ ngoại tệ của Việt Nam vào lúc đó hầu như chỉ gồm toàn đồng Phật-lăng “nội địa” thu được từ mặt hàng cao su xuất cảng qua Pháp và gạo xuất cảng qua các thuộc địa Pháp ở châu Phi. Đồng Phật-lăng của chúng ta không hoán đổi được; mỗi năm Ngân hàng Quốc gia Pháp (Banque de France) chỉ cho chúng ta đổi một số lượng nhỏ lấy những đồng tiền hoán đổi được như đồng Đô-la Mỹ, đồng Bảng Anh, đồng Mác Đức hay đồng Yên Nhật. Nước Pháp đã trải qua một giai đoạn rối loạn chính trị và bất an xã hội kéo dài, kèm theo những khó khăn rất lớn về mặt kinh tế tài chánh, và đồng tiền Pháp cứ liên tục giảm giá. Cứ mỗi lần giảm giá hay chính phủ Pháp phá giá như vậy thì chúng ta lại mất một tỉ lệ phần trăm trị giá ngoại tệ dự trữ. Như vậy tuy chúng ta đã giành được độc lập chính trị từ tay người Pháp năm 1955, nhưng trên bình diện tiền tệ thì chúng ta vẫn còn là một thuộc địa của Pháp. Không ai trong chính phủ tỏ vẻ quan tâm tới sự bất bình đẳng trong hệ thống chi trả với Pháp, tới sự suy yếu của dự trữ ngoại tệ và sự hao hụt trị giá đồng tiền Việt Nam vì liên hệ với hệ thống tiền tệ của Pháp. Hơn thế nữa, số vàng dự trữ của chúng ta (33 tấn rưỡi) mà quân Pháp lấy được từ tay quân Nhật sau khi Nhật bại trận năm 1945 đã bị chở về Pháp khi lính Pháp rút về nước năm 1955, và chúng ta không có vàng để hỗ trợ cho đồng tiền quốc gia kể từ lúc đó.
HỒI KÝ NGUYỄN HỮU HẠNH - PHẦN 5
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
IV. Bước
vào khu vực tư
Tháng 9/1961, hết kỳ nghỉ phép tôi về thăm ông Diệm và báo là tôi muốn tham gia
vào khu vực ngân hàng tư, nhưng trong lãnh vực mà tôi vẫn còn có thể phục vụ lợi
ích chung và giúp ông phát triển kinh tế đất nước: hỗ trợ tài chánh cho nền kỹ
nghệ non trẻ của Việt Nam là một mối quan tâm lớn của ông Diệm. Tôi nói với ông
là tôi sẽ giúp sức thành lập một ngân hàng kỹ nghệ bán công để tài trợ cho việc
phát triển kỹ nghệ Việt Nam. Diệm đồng ý nhưng ông nói hễ khi nào ông cần tôi,
ông sẽ gọi và giao cho tôi một trách nhiệm mới trong chính quyền. Tôi trả lời
vâng nhưng tận trong đáy lòng tôi không tin cho lắm việc tôi sẽ trở lại dưới
quyền ông bởi vì tôi biết rằng chế độ ông đã mất lòng dân và đám tay chân bộ hạ
của ông không những đã làm cho những người đầy thiện chí như tôi mà còn làm cho
quần chúng bình thường xa lánh. Diệm hứa là sẽ giúp đỡ tận tình cho kế hoạch của
tôi. Đó là lần cuối cùng tôi còn trông thấy Diệm, trước khi ông bị giết trong
cuộc đảo chánh 1963.
HỒI KÝ NGUYỄN HỮU HẠNH - PHẦN 6
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
V. Sự
nghiệp quốc tế đầu tiên
Tháng 8/1964 tôi đưa cả gia đình tôi qua Pháp. Sau đó ít lâu tôi được phái đoàn
Ngân hàng Thế giới (World Bank) ở Tokyo phỏng vấn và tuyển dụng làm Chánh sự vụ
ở IFC trong Ngân hàng Thế giới. Tôi rời Việt Nam tháng 2/1965 để nhận công
việc ở World Bank. Gia đình tôi ở Pháp đi theo tôi tới Washington D.C và chúng
tôi đã được sống sung sướng một thời gian. Lợi tức của tôi tăng lên đáng kể với
công việc mới, lương mỗi năm 22.000 đô-la, khỏi thuế, tương đương với 250.000
đô-la trước thuế – tính theo giá đô-la năm 2004 (vào thời điểm ấy, chiếc xe
Mercury đầy đủ tiện nghi máy móc, tôi mua chỉ với giá 2.000 đô-la thôi, bây giờ
phải hơn 25.000 đô-la).
HỒI KÝ NGUYỄN HỮU HẠNH - PHẦN 7
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
VI. Tận
tuỵ trong công việc: Không phần thưởng, chỉ có niềm vui
Ngồi ghế Thống đốc và làm việc tận tuỵ trong thời chiến với tất cả những sự tàn
phá và những khó khăn kinh tế tài chánh, đã là khó vô cùng rồi; còn khó hơn nữa
và có thể đến mức không chịu đựng nổi, khi mà ngoài Ngân hàng Trung ương, còn
phải điều hành toàn bộ nền kinh tế tài chánh của một quốc gia bị lọt vào giữa
vòng tham nhũng, đầu cơ, chợ đen, cùng những thiếu thốn vì biến động chính trị
và bất an xã hội. Trong vòng một năm từ 1967 tới 1968, ngoài Ngân hàng Trung
ương, tôi còn phải ôm trong tay Bộ Tài chánh, Bộ Kinh tế, Bộ Thương mại và Bộ Kỹ
nghệ, bốn bộ này tạo thành một Tổng uỷ Kinh tế Tài chánh, thông thường nằm dưới
dự giám sát của một phó Thủ tướng và bốn Tổng trưởng. Tôi đã từ chối chức phó
Thủ tướng mà Kỳ đề nghị, bởi vì tôi luôn luôn ghét chính trị và chỉ muốn phục vụ
đất nước như một chuyên viên. Đây quả là một lượng công việc khổng lồ và một
lãnh vực hoạt động hết sức rộng lớn.
HỒI KÝ NGUYỄN HỮU HẠNH - PHẦN 8
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
VII. Sự
nghiệp quốc tế lần thứ hai
Sau khi rời khỏi chính phủ và Ngân hàng Trung ương cùng Ngân hàng Thương tín,
tôi được đề nghị hai việc làm: William Diamond, cấp trên của tôi tại Ngân hàng
Thế giới và đang là Giám đốc Cơ quan Phát triển Tài chánh IFC, World Bank, rất
vui khi biết tôi đã quyết định trở về Washington để làm việc. Ông gởi lời nhắn
là tôi sẽ được hoan nghênh trong bộ phận của ông với chức vụ Chánh sự vụ Bắc
Phi và các nước nói tiếng Pháp (việc trước đây của tôi năm 1965). Tôi cũng được
mời nhận chức vụ Quản trị viên dự khuyết trong hội đồng quản trị Quỹ Tiền tệ Quốc
tế IMF, phụ trách các nước Trung Hoa (tức Đài Loan), Đại Hàn, Việt Nam. Chính
phủ Việt Nam đề nghị tôi chấp nhận công việc thứ hai vì nó sẽ cho phép tôi tiếp
tục phục vụ đất nước và về thăm Sài Gòn bốn hoặc năm lần một năm để giúp cho
Ngân hàng Trung ương và chính phủ – vị trí Thống đốc Ngân hàng Trung ương vẫn
còn để trống suốt gần hai năm. Và Thiệu muốn tôi tiếp tục làm Cố vấn Kinh tế
Tài chánh cho chính phủ.
HỒI KÝ NGUYỄN HỮU HẠNH - PHẦN 9
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
VIII. Sự
nghiệp quốc tế thứ ba
Khi tôi trở lại Washington vào tháng 4/1975, tôi vẫn phân vân lưỡng lự giữa hai
khả năng: hoặc quay lại World Bank làm việc với Bill Diamond, hoặc về IMF với
Ian Mladeck, người đã đề nghị tôi gia nhập Sở Ngân hàng Trung ương (CBS) làm việc
với ông, sau khi tôi rời chức vụ trong hội đồng quản trị. Tôi chọn công việc thứ
hai; tôi được mời giữ chức vụ Cố vấn, thích hợp với kiến thức chuyên môn và
nguyện vọng của tôi hơn.
HỒI KÝ NGUYỄN HỮU HẠNH - PHẦN CUỐI
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
IX. Chánh
sách ngoại giao Hoa Kỳ
Đầu thập niên 50, khi tôi bắt đầu tiếp xúc với những ngân hàng lớn của nước Mỹ ở
New York, như ngân hàng America, ngân hàng City Bank, ngân hàng Chase Manhattan
Bank, ngân hàng Hannover Bank, tôi đã gặp khá nhiều nhân viên trẻ trong ban điều
hành, trước đây đã từng làm việc ở các cơ quan OSS (Office of Security
Service), tiền thân của CIA trước và trong cuộc thế Chiến thứ II; họ đã được gởi
tới Trùng Khánh ở miền Nam Trung Quốc và tới miền Bắc Việt Nam để quan sát tình
hình quân sự và chính trị tại các vùng này, cũng như mối quan hệ giữa lãnh tụ
quốc gia Tưởng Giới Thạch, lãnh tụ Trung cộng Mao Trạch Đông, phong trào Việt
Minh.Thứ Ba, 26 tháng 3, 2013
HỒI KÝ TRẦN QUANG CƠ KỲ 1
Tập
hồi ký Hồi ức và Suy nghĩ của ông Trần Quang Cơ (1920–) lưu chuyển trong nước
từ đầu năm 2003. Tác giả nguyên là Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng thứ nhất
Bộ Ngoại giao, thành viên Đoàn Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tại Hội nghị Paris
(68–73) về Việt Nam.
Trước
khi làm việc tại Bộ Ngoại Giao (1954), Trần Quang Cơ là sĩ quan quân đội nhân
dân giảng dạy tại trường Cao Đẳng Ngoại Giao. Ông là cán bộ ngoại giao suốt 44
năm (54–97) – 1964 làm bí thư thứ nhất ở Đại Sứ Quán Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa
tại Indonesia – 1966 Trần Quang Cơ trở lại Hà Nội, 1976 phụ trách Vụ Bắc Mỹ rồi
chuyển sang vụ Âu Châu trước khi sang làm Đại Sứ tại Thái Lan vào năm 1982.
Được đưa vào Trung ương đảng cộng sản Việt Nam từ 1986; ròng rã 12 năm kể từ
1979, ông Trần Quang Cơ tham gia các cuộc thương lượng nhằm giải quyết chiến
tranh tại Cambodia. Sau chiến tranh Việt Nam, ông tham gia cuộc đàm phán bình
thường hoá quan hệ với ba nước Hoa Kỳ, Liên Xô, và Trung Quốc. Tháng hai 1991,
ông xin rút ra khỏi danh sách đề cử vào Ban chấp hành Trung ương đảng cộng sản
Việt Nam khóa VII nhưng không được chấp thuận. Tháng bẩy cùng năm ông gặp Tổng
Bí Thư Đỗ Mười xin không nhận chức bộ trưởng ngoại giao thay thế ông Nguyễn Cơ
Thạch. Cuối năm 1993, ở Hội nghị giữa nhiệm kỳ, ông tự ý xin rút khỏi Ban chấp
hành Trung ương đảng cộng sản Việt Nam.
HỒI KÝ TRẦN QUANG CƠ - KỲ 2
Hồi Ký Trần Quang Cơ |
Tháng 10.1982, tôi được bổ nhiệm đi làm đại sứ tại Vương quốc
Thái Lan[33]–một
điểm tiên tiến của mặt trận đối ngoại thời kỳ ấy vì chính quyền Thái Lan lúc đó
gắn bó rất chặt với Trung Quốc trong việc nuôi dưỡng bè lũ diệt chủng Polpot chống
Việt Nam. Không thể nói nhiệm kỳ đại sứ của tôi ở Thái Lan khi đó là bình lặng
hay tẻ nhạt. Hầu như không có tháng nào là không có những đám đông biểu tình
trước sứ quán hò hét phản đối Việt Nam “xâm lược” Campuchia, xâm phạm lãnh thổ
Thái. Thông thường những hoạt động này trở nên náo nhiệt vào đầu mùa khô hàng
năm, cùng lúc với các hoạt động quân sự bắt đầu trên biên giới CPC–Thái. Đám
“biểu tình” – có khi là dân “xám–ló” (loại xe xích–lô máy của Thái), có khi là
tổ chức dân vệ Thái, có khi là đám người Việt phản động ở mấy tỉnh Đông Bắc–thường
tụ tập trong công viên Lum–pi–ni[34] ở
gần đại sứ quán ta trên đường Oai–rơ–lét (Wireless Road[35]),
để nhận tiền “biểu tình phí”.
HỒI KÝ TRẦN QUANG CƠ - KỲ 3
Ngay sau khi ở Thành Đô về, ngày 5/9/1990 anh Linh và anh Mười,
có thêm anh Thạch và anh Lê Đức Anh đã bay sang Nông Pênh thông báo lại nội
dung cuộc gặp cấp cao Việt–Trung với BCT Campuchia. Để thêm sức thuyết phục
Nông Pênh nhận Thỏa thuận Thành Đô, anh Linh nói với lãnh đạo Campuchia: “Phải
thấy giữa Trung Quốc và đế quốc cũng có mâu thuẫn trong vấn đề Campuchia. Ta phải
có sách lược lợi dụng mâu thuẫn này. Đừng đấu tranh với Trung Quốc đến mức xô đẩy
họ bắt tay chặt chẽ với đế quốc “. Lập luận này được Lê Đức Anh mở rộng thêm:
“Mỹ và phương Tây muốn cơ hội này để xoá cộng sản. Nó đang xoá ở Đông Âu. Nó
tuyên bố là xoá cộng sản trên toàn thế giới. Rõ ràng nó là kẻ thù trực tiếp và
nguy hiểm. Ta phải tìm đồng minh. Đồng minh này là Trung Quốc.”
HỒI KÝ TRẦN QUANG CƠ - KỲ CUỐI
Trong 4 đối tượng có thể tạo nên nguy cơ đe dọa ta, có những nước
lớn cỡ toàn cầu hoặc khu vực như Mỹ, TQ, Nhật; riêng Thái Lan là nước ngang tầm
với ta nên mức độ thách thức đối với ta không so được với các nước lớn. Trong
các dạng thách thức khác nhau của cả 4 đối tượng, có nhiều điều mới trên cơ sở
giả định hoặc dự phòng để cảnh giác, song có những điều đang là hiện thực, đang
là những vấn đề thực tế và thúc bách đặt ra trước mắt ta. Vì vậy với khả năng rất
hạn hẹp về mọi mặt của ta, ta cần phân biệt rõ đâu là nguy cơ lớn nhất trực tiếp
đe dọa những lợi ích sống còn của dân tộc VN để tập trung trí lực và vận dụng
cao độ sách lược đối ngoại đối phó lại. Trước hết chắc chắn đó không phải là Nhật
hay Thái Lan. Đó chỉ có thể là Mỹ hay TQ .
Thứ Hai, 25 tháng 3, 2013
NGƯỜI ĐÀN BÀ CẢI TỬ HOÀN SANH DÙNG THIỀN ĐỊNH MỞ LUÂN XA CHỮA BỆNH CHO 6 VẠN NGƯỜI HỌ ĐÃ KHỎI BỆNH “THẦN KỲ” RA SAO?
Sau vài tháng luyện tập kiên trì, tôi đã dần khỏi hết những bệnh
đã kể ở trên. Tất cả bệnh tật của tôi trước đây có bệnh án, có kết quả xét nghiệm
và giấy tờ liên quan về quá trình điều trị của các bệnh viện trung ương tại Hà
Nội; giờ đi đến chính những nơi điều trị đó xét nghiệm lại, thì thần kỳ thay,
không còn chứng bệnh nào tồn tại. Chỉ có điều tôi phải duy trì niềm vui ngồi
thiền hằng ngày của mình, dừng tập là bệnh có thể ập đến.
NGƯỜI CẢI TỬ HOÀN SANH DÙNG THIỀN ĐỊNH MỞ LUÂN XA, CHỮA BỆNH CHO SÁU VẠN NGƯỜI Ở VIỆT NAM
Bà Hồ Thị Thu, (58 tuổi, người ở thôn Hội Vân, xã Cát Hiệp, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định) mỗi ngày dùng đến gần chục tiếng đồng hồ để ngồi thiền. Bà ngồi bất động, muỗi đốt no bụng máu rồi lặng lẽ bay đi hay rụng xuống xung quanh, bà cũng kệ. Cháy nhà chết người xung quanh, bà cũng kệ.
Bà bảo, sách viết, người Ấn Độ nói, kẻ nào mỗi ngày ngồi thiền dăm ba tiếng đã được xem như cái gì đó giống như “Phật sống” rồi. Bà có thể ngồi im như tượng cả ngày, các luân xa (huyệt đạo) khai mở, bà đang tự chữa bệnh cho mình và tính đến nay đã chữa bệnh cho hơn 6 vạn người trong xã hội. Cái phương pháp chữa bệnh đó đã được thế giới biết đến không ít. Bà chỉ nặng lòng hơn, chỉ quyết liệt và đắm say hơn để quên thân xác mình, quên tất tật mọi thứ của đời mình, mà hiến dâng vì hạnh phúc cho những người cùng bệnh, cùng khổ.
Chủ Nhật, 24 tháng 3, 2013
TÔI ĐI TÌM TỰ DO - NGUYỄN HỮU CHÍ - PHẦN 1 ĐẾN PHẦN 20
Tôi là Nguyễn Hữu Chí, sinh ra
và lớn lên ở Miền Bắc, từng có hơn một năm phải đội nón cối, đi dép râu, theo
đội quân Việt Cộng xâm lăng Miền Nam. Trong những năm trước đây, khi cuộc đấu
tranh bảo vệ chính nghĩa của cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản tại Úc còn
minh bạch, lằn ranh quốc cộng còn rõ ràng, tôi hoàn toàn tin tưởng và sẵn sàng
đối phó với mọi âm mưu, thế lực của cộng sản. Nhưng gần đây, có những dấu hiệu
rõ ràng chứng tỏ, những thế lực chìm nổi của cộng sản tại Úc đang tìm cách xóa
bỏ lằn ranh quốc cộng, đồng thời thực hiện âm mưu làm suy yếu sức mạnh đấu
tranh của người Việt hải ngoại. Trong hoàn cảnh đấu tranh ngày càng khó khăn
đó, tôi thấy mình chỉ có thể đi tiếp con đường mình đã chọn khi được quý độc
giả hiểu và tin tưởng. Vì vậy, tôi viết hồi ký này, kể lại một cách trung thực
cuộc đời đầy đau khổ, uất ức và ân hận của tôi khi sống trong chế độ cộng sản,
cũng như những nguy hiểm, may mắn khi tôi tìm tự do…. Trong hoàn cảnh vô cùng
khó khăn trên nhiều phương diện, lại phải vừa duy trì tờ báo, vừa tham gia các
sinh hoạt cộng đồng, vừa tìm cách “mưu sinh, thoát hiểm” giữa hàng chục “lằn
tên đường đạn”, nên hồi ký này có rất nhiều thiếu sót. Kính mong quý độc giả
thông cảm bỏ qua, hoặc đóng góp nếu có thể.
TÔI ĐI TÌM TỰ DO - NGUYỄN HỮU CHÍ - KỲ 21 ĐẾN KỲ 40
KỲ 21
Trong
số những vũ khí tuyên truyền được cộng sản Hà Nội sử dụng để đầu độc người dân
Miền Bắc, có một vũ khí vô cùng quan trọng và hiệu quả là tên tuổi của những
nhân vật nổi tiếng ở Miền Nam cũng như thế giới, đi theo cộng sản hoặc có những
tuyên bố hậu thuẫn cộng sản. Bên cạnh đó, những cuộc biểu tình, đình công, tại
các quốc gia tây phương, thay vì chứng tỏ quyền tự do, dân chủ của người dân
được bảo đảm, dưới sự nhào nặn tuyên truyền của chế độ cộng sản, đã trở thành
những hình ảnh, tin tức quảng bá cho quan điểm, “xã hội tư bản là thối nát, bóc
lột tàn nhẫn; còn xã hội cộng sản là lý tưởng, là con đường tất yếu của nhân
loại”.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)