Từ Hy Thái Hậu |
Dòng họ Tống gồm những ai?
Họ là con cháu của một gã thiếu niên đi hoang. Gã thiếu niên đó
gặp cơ duyên may mắn qua được Hoa Kỳ, sống dưới sự che chở của giáo hội
Methodist vào khoảng cuối thế kỷ 19. Gã thiếu niên may mắn đó vốn người họ Hàn
tại đảo Hải Nam, nhưng khi sang Hoa Kỳ, hắn đổi tên là Tống Charliẹ Khi trưởng
thành và trở về Trung Hoa, Tống Charlie lấy tên là Tống Giáo Nhân, và tạo được
một sản nghiệp đồ sộ bằng nghề in và bán sách Thánh Kinh. Tống Giáo Nhân cũng
bí mật tham gia phong trào cách mạng của Tôn Dật Tiên, chống lại triều đình Mãn
Thanh.
Nếu Tống Giáo Nhân không có ba cô con gái thì cuối cùng gia đình
nhà họ Tống sẽ không giầu sang quyền thế đến thế, và cũng sẽ chỉ là một gia
đình trọc phú tầm thường trong cái đám đông đảo những người Trung Hoa giầu có.
Nhưng Tống Giáo Nhân sinh được ba cô con gái rất quý tướng. Đúng ra Tống Giáo
Nhân có sáu người con, ba trai và ba gái. Nhưng chính ba cô con gái này đã trở
thành những nhân vật xuất chúng trên chính trường Trung Hoa, vì kết hôn với
những lãnh tụ lớn của Trung Hoa. Ba chị em nhà họ Tống đã tạo được một sự
nghiệp chính trị hiển hách và những sản nghiệp vĩ đại cho nhà họ Tống.
Trong số ba người con gái của Tống Giáo Nhân, chỉ có bà Tống
Khánh Linh tạo được một địa vị cao quý trong lịch sử và tâm hồn người Trung
Hoa. Bà được cả hai phe cộng sản và Quốc dân đảng kính trọng. Tống Khánh Linh
kết hôn với Tôn Dật Tiên, nhà đại cách mạng Trung hoa của đầu thế kỷ 20. Trong
lịch sử Trung hoa có hai cuộc cách mạng quan trọng nhất, đã thay đổi hoàn toàn
cơ cấu của xã hội và nhà nước. Cuộc cách mạng thứ nhất là của Tần Thủy Hoàng
năm 221 trước tây lịch, đã chấm dứt kỷ nguyên phong kiến, và thiết lập chế độ
quân chủ tập quyền chuyên chế. Cuộc cách mạng thứ hai là của Tôn Dật Tiên năm
1911, còn được gọi là cuộc Cách Mạng Tân Hợi. Cuộc Cách Mạng Tân Hợi đã lật đổ
sự thống trị của vua chúa, và dẫn tới việc thành lập chế độ dân chủ.
Khi Tôn Dật Tiên chết năm 1925, bà Tống Khánh Linh trở thành
biểu tượng sống của cuộc Cách Mạng Tân Hợi. Bà quyết định ở lại với những người
cộng sản chiến thắng năm 1949, từ chối không rời bỏ nước Trung Hoa yêu quý của
bà. Bà không bao giờ theo chủ nghĩa cộng sản, nhưng bà được những người cộng
sản, từ Mao Trạch Đông trở xuống, hết sức kính trọng và biệt đãi. Chu Ân Lai đã
từng gọi bà là "một người cao quý nhất của quốc gia". Không những chỉ
riêng người Trung Hoa kính trọng bà Tống Khánh Linh, mà cả người ngoại quốc
cũng ngưỡng mộ bà. Nhiều chánh khách quốc tế đã tỏ lòng quý trọng bà. Đại học
Victoria của Gia Nã Đại đã trao tặng bà văn bằng Tiến sĩ Luật Khoa danh dự ngày
8-5-1981.
Tất cả những người con khác của Tống Giáo Nhân đều đi theo Tưởng
Giới Thạch, vì có lợi cho họ. Cô con gái út nhà họ Tống là Tống Mỹ Linh kết hôn
với Tưởng Giới Thạch, và là một vị đệ nhất phu nhân đầy quyền thế. Cô con gái
lớn của nhà họ Tống là Tống Ái Linh thì kết hôn với Khổng Tường Hy, nhà tài
phiệt số một của Trung Hoa, cháu 75 đời của Khổng Tử. Tống Ái Linh đã trở thành
người đàn bà nhiều tiền nhất Trung Hoa.
Ba người con trai của Tống Giáo Nhân là Tống Tử Văn, Tống Tử
Lương và Tống Tử An. Tống Tử Văn trở thành cánh tay đắc lực cho Tưởng Giới
Thạch, nhờ công ơn của hai bà chị và cô em gái là vợ của Tưởng Giới Thạch. Tống
Tử Văn đã giữ những chức vụ quan trọng trong chính phủ Quốc dân đảng, như bộ
trưởng tài chánh, bộ trưởng ngoại giao và thủ tướng. Trong chính thể Quốc dân
đảng thối nát tham nhũng thì quyền đẻ ra tiền, vì thế các người con trai nhà họ
Tống cũng tạo được những sản nghiệp khổng lồ. Trừ bà Tống Khánh Linh, mỗi người
trong gia đình nhà họ Tống có tài sản lên tới cả tỷ mỹ kim, trong khi đó hàng
triệu người Trung Hoa chết đói hàng năm.
Một điều ngạc nhiên là ba chị em nhà họ Tống có những sự nghiệp
khác hẳn nhau. Mặc dầu tình chị em giữa ba người bao giờ cũng thân thiết, nhưng
con đường đi của họ hoàn toàn xa cách nhau. Người ta có thể nói ba chị em nhà
họ Tống tiêu biểu cho ba khuynh hướng chính trị tại Trung Hoa trong đầu thế kỷ
20, với Tống Ái Linh đứng về phía cực hữu, Tống Khánh Linh phía cực tả trong
khi Tống Mỹ Linh thì đứng giữa.
Ba chị em nhà họ Tống đã là đề tài sôi nổi nhất cho các nhà
tướng số Trung Hoa, mặc dầu cả ba chị em nhà họ Tống đều không tin bói toán, và
chưa bao giờ đi xem bói toán, vì họ là những tín đồ Thiên Chúa Giáo. Các nhà
tướng số Trung Hoa đã căn cứ vào các tấm hình của ba chị em nhà họ Tống trên
báo chí để đưa ra những nhận xét về tương lai và sự nghiệp của ba bà. Một điều
các nhà tướng số đều đồng ý là cả ba chị em nhà họ Tống đều có tướng
"vượng phu", có nghĩa là có tướng giúp chồng thành công. Các ông
chồng của ba chị em nhà họ Tống đều "làm nên" là nhờ tướng tốt của
vợ.
Đối với các nhà tướng số Trung Hoa thì hơi khó đoán cho Tống Ái
Linh, vì Tống Ái Linh không thích chụp hình, và hình của bà cũng ít xuất hiện
trên báo chí. Theo các nhà tướng số thì Tống Ái Linh có khuôn mặt "hạt
dưa", có nghĩa là mặt trái soan. Người Trung hoa rất ưa thích đàn bà con
gái có khuôn mặt trái soan. Một người đàn bà được coi là có tướng tốt nếu người
ta không nhìn thấy hàm từ phía sau. Khuôn mặt trái soan của Tống Ái Linh không
những được coi là đẹp, mà còn chứng tỏ bà là một người rất khôn ngoan kín đáo,
và tính tình rất thực tế nữa. Quả thực các nhà tướng số đoán đúng con người của
Tống Ái Linh, một người luôn luôn đứng sau hậu trường để chỉ huy, không xuất
đầu lộ diện trước công chúng, nhưng tiền bạc lúc nào cũng đổ vào các trương mục
ngân hàng của bà. Không những kín đáo mà Tống Ái Linh còn có một tâm địa độc
ác, không ngần ngại dùng những biện pháp mạnh nếu gặp trở ngại, nhưng bao giờ
cũng ở trong bóng tối.
Tống Khánh Linh có khuôn mặt tròn và hơi nhỏ, với những nét đẹp
cực kỳ thanh tú. Bà có một vẻ mặt cao quý và trang nghiêm của một người thiên
về lý tưởng. Khuôn mặt Tống Khánh Linh là khuôn mặt của một công chúa. Ngay khi
đã lớn tuổi, Tống Khánh Linh vẫn giữ được vẻ đẹp quý phái và nhân hậu này. Bà
là người được rất nhiều chính khách ái mộ, cả về nhan sắc và nhân cách. Bề ngoài
bà có vẻ yếu đuối, nhưng tinh thần bà rất mạnh mẽ, lúc nào cũng sáng chói không
lay chuyển hoặc nhượng bộ, ngay cả trong những nghịch cảnh.
Tống Mỹ Linh thường được coi là người đẹp nhất trong ba chị em,
nhưng Tống Mỹ Linh chụp hình không ăn ảnh lắm. Gò má Tống Mỹ Linh hơi cao, và
đó là tướng của một người có uy quyền. Các nhà tướng số thường chỉ vào lưỡng
quyền cao của Tống Mỹ Linh và đoán bà sẽ có được quyền lực chính trị. Trong cái
địa vị của một đệ nhất phu nhân trong một nước Trung Hoa hãy còn phong kiến thì
Tống Mỹ Linh có cái uy quyền của một Dương Qúy Phi đang được sự sủng ái của
Tưởng Giới Thạch, một thứ Đường Minh Hoàng hiện đại. Khi kết hôn với Tống Mỹ
Linh, Tưởng Giới Thạch thừa hưởng cái sự nghiệp chính trị hiển hách cũng như uy
tín của Tôn Dật Tiên, vì Tôn Dật Tiên cũng là rể nhà họ Tống như Tưởng Giới
Thạch. Chính vì thế Tưởng Giới Thạch cũng cảm thấy chịu ơn Tống Mỹ Linh một
phần nào. Thực ra khi Tôn Dật Tiên chết, Tưởng Giới Thạch ước ao được kết hôn
với bà Tống Khánh Linh, góa phụ của Tôn Dật Tiên, bởi vì nếu lấy được bà Tống
Khánh Linh thì Tưởng Giới Thạch sẽ có uy thế chính trị lớn lao gấp bội. Nhưng
bà Tống Khánh Linh vốn khinh tởm Tưởng Giới Thạch, và bà cũng quyết tâm thủ
tiết với chồng, mặc dù bà có nhiều chính khách tên tuổi theo đuổi, nên họ Tưởng
đành lấy cô em vậy.
Gia đình nhà họ Tống ảnh hưởng tới chánh sách của tổng thống Mỹ
Roosevelt về Á Châu trong một thời gian khá lâu dài. Những người nhà họ Tống
rất giỏi khoa giao tế, và biết cách mua chuộc các chính khách Hoa Kỳ. Ngoài ra
sự thành công của họ còn nhờ một phần lớn vào sự ủng hộ của Henry Luce, một nhà
truyền giáo Mỹ rất có thế lực tại Trung Hoa. Các tạp chí Time và Life của Henry
Luce đã tạo huyền thoại quanh gia đình nhà họ Tống, mô tả họ là những người yêu
chuộng dân chủ, và là những anh hùng dân tộc của Trung Hoa.
Chúng ta hãy theo dõi cuộc đời của ba chị em nhà họ Tống, để xem
họ đã đem lại vinh quang cho dòng họ nhà chồng và dòng họ Tống như thế nào, và
ảnh hưởng của họ đối với chính trường Trung Hoa đầu thế kỷ 20 ra sao.
Chương 1: Vận May Của Một Chú Bé Triều Châu
Tống Charlie vốn họ Hàn và sinh tại đảo Hải Nam thuộc mỏm cực
nam của Trung Hoa. Tổ tiên nhà họ Hàn lánh nạn Mãn Thanh và di cư từ vùng Sơn
Tây tới đảo Hải Nam từ lâu đời rồi. Lúc đầu họ bị dân bản xứ gọi là Hakka, có
nghĩa là "Khách Trú", nhưng dần dần họ kết hợp với người địa phương
tại đảo qua những cuộc hôn nhân giữa hai nhóm dân, và cuối cùng trở thành người
Triều Châu. Thân phụ Tống Charlie là Hàn Hùng Kỳ, một thương gia khá giả, sống
bằng nghề thương thuyền, buôn lậu và buôn thuốc phiện. Người Triều Châu có
khuynh hướng lien kết với nhau chặt chẽ trong lối sống và công việc kinh doanh.
Họ tổ chức thành những bang hội. Hàn Hùng Kỳ cũng là một bang trưởng Triều
Châu.
Hàng năm cứ về mùa hè, những người Triều Châu tại Hải Nam chất
đầy hàng hóa lên những thương thuyền của họ, và chở tới bán tại các vùng duyên
hải miền bắc Trung Hoa. Khi mùa đông đến, để tránh cái lạnh của miền bắc, họ
chở hàng hóa xuôi về miền nam, đem đến bán tại Việt Nam, Thái Lan, Mã Lai và
Nam Dương. Thương thuyền của họ rất lớn, hai đầu cong lên, hai bên mạn thuyền
vẽ hai con mắt, giống như mắt gà. Những tay lái buôn này bình thường làm ăn
lương thiện, nhưng gặp lúc thuận lợi, bắt gặp một thương thuyền nhỏ bé yếu thế
hơn, họ trở thành những tay hải tặc, tấn công thuyền lạ, cướp của, giết người,
quăng xác nạn nhân xuống biển, và đánh đắm thuyền của nạn nhân cho mất tang
tích. Đôi khi trên đường viễn thương, nếu gặp một làng mạc duyên hải nào trù
phú mà không có sự phòng thủ, họ cũng xông vào, tấn công đoạt của và giết
người.
Theo tục lệ của người Triều Châu, các con của bang trưởng phải
đi tập sự làm việc buôn bán tại các chi nhánh khắp nơi. Khi Tống Charlie lên 9
tuổi thì được ông bố gửi đi theo người anh lớn đang tập sự hành nghề tại đảo
Java của Nam Dương. Năm 12 tuổi, Tống Charlie gặp được một người bà con xa vào
hàng cha chú. Người chú hờ này đi Nam Dương mua hàng về bán tại Hoa Kỳ. Người
chú hờ gặp Tống Charlie liền có ý định dụ hắn đi theo sang lập nghiệp tại Hoa
Kỳ. Thực tâm người chú hờ chỉ có ý lợi dụng, đem Tống Charlie sang làm việc
không công cho mình. Nhưng đó cũng là vận may hãn hữu cho Tống Charlie, và hắn
lập tức đi theo người chú hờ.
Năm 1862, chính phủ liên bang Hoa Kỳ quyết định phát triển hệ
thống xe lửa xuyên lục địa, nối hệ thống xe lửa từ bờ biển phía đông sang bờ
biển phía tây Hoa Kỳ, từ Philadelphia trên bờ Đại Tây Dương sang San Francisco
trên bờ Thái Bình Dương. Đây là một đại công trình dài tới 4500 cây số đường
sắt, chạy xuyên qua những cánh đồng mênh mông của miền đông và những vùng hoang
vu sa mạc, những đỉnh cao của rặng núi Sierra Nevada của miền tây. Hai công ty
được giao phó xây dựng công trình này là Union Pacific bắt đầu từ miền đông, và
Central Pacific bắt đầu từ miền tây. Hai công ty dự định đường xe lửa từ hai
đầu sẽ gặp nhau tại trung tâm Hoa Kỳ.
Công ty Union Pacific gặp thuận lợi hơn, vì miền đông là đồng
bằng nên không gặp trở ngại, và cũng dễ tuyển nhân công vì dân cư vùng này đông
đúc và có nhiều di dân từ Âu Châu sang. Trái lại công ty Central Pacific gặp
rất nhiều khó khăn, phải xây đường xe lửa vượt qua các rặng núi tuyết và sa mạc
thuộc tiểu bang Nevadạ Hơn nữa công nhân tại miền tây rất khan hiếm; công ty
chỉ tìm được một số người da đen mới được giải phóng, và một số người Mê Tây Cơ
di cư bất hợp pháp. Những người này lại lười biếng và hay bỏ bê công việc. Công
nhân người Mỹ da trắng thì ít ai chịu làm một công việc vừa nguy hiểm gian khổ
vừa ít lương như thế. Cuối cùng công ty tuyển thử một số người Trung Hoa, và
kết quả là người Trung Hoa làm việc rất chăm chỉ, hiệu quả gấp đôi những toán
nhân công khác. Hơn nữa, công nhân Trung Hoa bằng lòng một số lương rẻ bằng
phân nửa của công nhân Mỹ.
Thế là hàng chục ngàn người Trung Hoa tham gia xây cất đại công
trình này, và người Trung hoa chiếm tới 80% công nhân của công ty Central
Pacfific. Đến năm 1865, các công nhân Trung Hoa bắt đầu đụng phải những khối đá
hoa cương đầu tiên trong rặng núi Sierra Nevadạ Họ phải chịu đựng những trận
bão tuyết, làm việc trong cái lạnh dưới không độ, phải làm việc tại những nơi
nguy hiểm, cheo leo trên những vách đá thẳng đứng. Tuy thế, công việc vẫn tiến
triển đều đặn. Gần hai năm sau, đường xe lửa vượt qua được sang bên kia rặng
núi Sierra Nevadạ Trên một ngàn công nhân Trung Hoa đã thiệt mạng trong các tai
nạn, như đá lở, cốt mìn nổ trúng, bị tuyết vùi hoặc chết cóng. Nhưng người này
chết thì lại được bổ xung bằng người khác. Số công nhân Trung Hoa du nhập vào
Hoa Kỳ lên đến trên một trăm ngàn người.
Ngày 10-5-1869, hai toán công nhân miền đông và miền tây đã gặp
nhau tại một địa điểm trong tiểu bang Utah. Thế là đại công trình đã hoàn tất,
và công nhân Trung Hoa đã góp một phần lớn vào sự hoàn thành đường xe lửa này.
Hai công nhân Trung Hoa đại diện cho miền tây, và hai công nhân Ái Nhĩ Lan đại
diện cho miền đông, khiêng khúc đường rầy cuối cùng đặt xuống, trước tiếng reo
hò của đông đảo quan khách trong ngày lễ khánh thành. Toàn thể nước Mỹ hân hoan
chào mừng ngày vui lớn đó. Trong khi người Mỹ ăn mừng thành quả lớn lao ấy thì
các công nhân xây cất đường xe lửa bị sa thải, vì hết công việc.
Với sự cần cù làm việc và tinh thần tiết kiệm, sau một thời gian
làm công nhân xây cất đường xe lửa, nhiều người Trung Hoa đã có đủ tiền để mở
những tiệm buôn nhỏ. Người chú hờ của Tống Charlie cũng ở trong trường hợp này.
Ông ta mở được một tiệm bán trà và đồ khô của người Trung Hoa tại thành phố
Boston. Khi Tống Charlie tới Boston, hắn phải làm việc trong cửa tiệm của ông
chú suốt ngày, và cả bảy ngày trong tuần. Lúc đó tại thành phố Boston cũng có
một số sinh viên người Trung Hoa sang du học do các nhà truyền giáo gửi tới. Các
sinh viên Trung hoa du học thường lui tới tiệm của Tống Charlie để mua đồ.
Trong số những sinh viên đến tiệm có Văn Bình Chung và Mai Sơn Châu. Hai người
trở nên thân thiết với Tống Charlie.
Hai sinh viên này thấy rằng nếu Tống Charlie cứ tiếp tục làm việc
tại tiệm trà như thế thì sẽ không có tương lai gì. Họ nghĩ Tống Charlie cần
phải đi học thêm để có một tương lai sáng sủa hơn. Cả hai người tới gặp người
chú của Tống Charlie, và yêu cầu ông ta cho phép Tống Charlie đi học, ít nhất
là bán thời gian. Ông chú hờ tỏ ra rất tức giận trước đề nghị này, vì thực tâm
ông ta chỉ muốn lợi dụng sự làm việc của Tống Charlie mà không phải trả lương.
Ông ta từ chối đề nghị của Văn Bình Chung và Mai Sơn Châu. Ông quyết liệt nói
với Tống Charlie rằng muốn khấm khá thì nên đi theo con đường làm ăn của ông
ta, cần gì phải đi học cho tốn kém. Hãy theo gương của ông tạ Ông ta có cần học
hành gì đâu mà cũng làm chủ được một cửa tiệm rất phát đạt.
Tống Charlie dĩ nhiên rất bất mãn không được đi học như ý muốn,
nên đã rắp tâm muốn thoát ly khỏi cửa tiệm của ông chú hờ. Một hôm hắn ra bến
tầu, thơ thẩn đứng chơi. Chợt hắn trông thấy một chiếc tầu buôn sắp sửa nhổ neo
rời bến. Không kịp suy nghĩ, Tống Charlie chạy vội xuống chiếc tầu đang sửa
soạn ra khơi và tìm một chỗ thật kín đáo để nấp. Mãi khi con tàu ra khơi rồi
người trên tầu mới bắt được Tống Charliẹ Viên thuyền trưởng chiếc tàu này vốn
là một người rất mộ đạo, thuộc giáo hội Methodist. Tống Charlie kể nông nỗi
phải trốn khỏi cửa tiệm của ông chú hờ để tìm cách được đi học. Viên thuyền
trưởng thương tình cảnh của một đứa trẻ 15 tuổi, và định tâm giúp đỡ Tống
Charlie.
Viên thuyền trưởng tìm cách đưa Tống Charlie vào dòng truyền
giáo Methodist tại North Carolinạ Tống Charlie liền được hội truyền giáo chú ý
ngay vì Tống Charlie là người Trung Hoa. Các nhà truyền giáo Methodist vẫn thèm
khát cái "thị trường tôn giáo" đông đảo của Trung Hoa, nơi họ ước ao
sẽ gặt hái được hàng triệu linh hồn đi theo họ. Họ quyết định cho Tống Charlie
theo học trường truyền giáo để được huấn luyện thành một nhà truyền giáo, và
sau đó sẽ được đưa về hoạt động tại Trung Hoa.
Tống Charlie cũng tỏ ra có nhiều tiến bộ trong việc học, mặc dù
hắn không có căn bản giáo dục. Tuy vậy Tống Charlie thường chú ý đến con gái
nhiều hơn là việc đọc sách Thánh Kinh. Có lần Tống Charlie đã bị tống cổ ra
khỏi nhà một giáo sĩ truyền giáo mà hắn đang ở trọ, vì hắn lân la tán tỉnh cô
con gái cưng của chủ nhà. Đến năm 1885, Tống Charlie tốt nghiệp trường truyền
giáo, và được hội truyền giáo quyết định gửi về phục vụ giáo hội Methodist tại
Thượng Hải. Tháng 12 năm đó, Tống Charlie lên đường hồi hương bằng xe lửa xuyên
qua Hoa Kỳ để tới California. Tống Charlie đi trên con đường xe lửa do chính
đồng bào của hắn đã đóng góp nhiều công lao để thiết lập nên.
Trên chuyến xe lửa xuyên Hoa Kỳ đi về miền tây, Tống Charlie
không hề hay biết rằng với vẻ mặt người Trung Hoa, hắn có thể gặp nguy hiểm bất
cứ lúc nào, một sự nguy hiểm có thể đưa tới cái chết mất xác. Lúc đó người
Trung Hoa sống tại Hoa Kỳ đang trải qua một thời kỳ bị khủng bố khủng khiếp.
Trên những cánh đồng đầy hoa trái và những rặng núi màu tím hùng vĩ của miền
tây Hoa Kỳ, người Trung Hoa đang bị người Mỹ trắng săn đuổi và lột da đầu. Vào
những năm của thập niên 1880, miền tây Hoa Kỳ trải qua một cuộc khủng hoảng
kinh tế trầm trọng, việc làm rất khan hiếm khiến, và con số người thất nghiệp
gia tăng rất nhanh chóng. Giới chủ nhân người Mỹ gặp dịp người khôn của khó,
người thất nghiệp thì nhiều, và nhu cầu thì lại ít, lợi dụng thời cơ của chủ
nhân ông, xa thải người da trắng và mướn người Trung Hoa thay thế. Người Trung
Hoa làm việc chăm chỉ hơn người Mỹ trắng, chấp nhận đồng lương bằng nửa người
Mỹ trắng, và không dám đưa ra các yêu sách đòi hỏi chủ nhân như những công nhân
da trắng có nghiệp đoàn.
Để trả đủa lại, các công nhân da trắng thất nghiệp khuấy động
phong trào điệt trừ "mối hiểm họa da vàng" trên báo chí, và được sự
ủng hộ của các chính trị gia thời cơ muốn lấy phiếu của cử trị Các khu vực của
người Trung Hoa bị tấn công và đốt cháy. Những người da trắng quá khích tổ chức
những buổi party "cắt đuôi heo", đè người Trung Hoa xuống rồi cắt mớ
tóc đuôi sam của họ. Không những người Mỹ da trắng chỉ cắt cái đuôi sam của các
nạn nhân người Trung Hoa mà thôi, họ còn tàn nhẫn lột luôn cả da đầu nạn nhân
nữa.
Tại một vài nơi thuộc tiểu bang Montana, một số người Trung Hoa
bị chặt đầu. Một đám đông tại Rock Spring, tiểu bang Wyoming, chặt đầu 28 người
Trung Hoa trong thành phố và đốt sống những người khác trong lúc các mệnh phụ
da trắng đứng vỗ tay và cười một cách hả hệ Một cảnh thù hằn độc nhất vô nhị đã
xảy ra khi một đám người da trắng đè một người Trung Hoa xuống, lột quần áo và
cắt đứt bộ phận sinh dục của nạn nhân. Những người da trắng say men chiến thắng
đem cái bộ phận sinh dục ấy vào một tiệm rượu, nướng lên và chia nhau nhậu với
rượu, ngon lành như ăn barbecue vậy.
Hàng ngàn người Trung Hoa tìm cách bỏ chạy về Trung Hoa để tránh
cái "hiểm họa đa trắng". Những người Trung Hoa có học hoặc giầu có đã
rời Hoa Kỳ trở về nước. Nhưng những người Trung Hoa nghèo thì phải cố mà ở lại,
vì họ biết rằng trở về Trung Hoa thì cũng lại lâm vào cảnh đói khổ. Con số
người Trung Hoa tại Hoa Kỳ từ 110 ngàn người chỉ còn lại khoảng 60 ngàn. Những
người Trung Hoa liều ở lại phải đoàn kết với nhau thành từng cộng đồng sống
tách biệt hẳn, tránh không hòa nhập vào xã hội Mỹ để sinh tồn. Đúng lúc cuộc
tắm máu của người Trung Hoa lên cao độ nhất thì Tống Charlie đang trên đường
trở về Trung Hoa.
Tinh thần chống người Trung Hoa lên cao độ đến nỗi Quốc hội Mỹ
phải ra một đạo luật giới hạn số người Trung Hoa được di cư sang Hoa Kỳ. Đây là
lần đầu tiên chính phủ Mỹ ra một đạo luật như vậy. Thực ra trước kia chính
quyền nhà Mãn Thanh ngăn cấm không cho người Trung Hoa xuất ngoại. Nhưng các
cường quốc Âu Mỹ cần công nhân rẻ tiền, dùng áp lực buộc nhà Mãn Thanh phải cho
người Trung Hoa xuất ngoại. Nước cổ võ và đòi hỏi cho người Trung Hoa xuất
ngoại ồn ào nhất là Hoa Kỳ, vì nhu cầu công nhân xây cất đường xe lửa. Nhưng
khi đường xe lửa hoàn thành rồi thì đám nhân công Trung Hoa kia bỗng trở nên
một gánh nặng, chứ không còn cần thiết và ích lợi như trước nũa. Do đó Quốc hội
Mỹ sửa lại điều luật cũ, chỉ cho phép các giáo chức, sinh viên, thương gia và
du khách Trung Hoa được nhập cảnh Hoa Kỳ. Những người Trung Hoa đã có mặt tại
Mỹ bị cấm vào quốc tịch Mỹ. Năm 1881 có 40 ngàn người Trung Hoa đến Hoa Kỳ,
nhưng đến năm 1887 chỉ có 10 người.
Phản ứng tại Trung Hoa về việc tàn sát người Trung Hoa tại Hoa
Kỳ rất là ác liệt. Từng đám đông xông vào tàn phá các cơ sở truyền giáo của Mỹ
và Âu châu. Tại nhiều nơi, việc đi lại của người Âu Mỹ rất nguy hiểm. Các báo
chí Âu Mỹ không hề nhắc nhở tới sự khủng bố dã man mà người Trung Hoa phải chịu
đựng tại Hoa Kỳ, trong khi đó thổi phồng và tỏ thái độ phẫn nộ trước những trả
đủa của người Trung Hoa. Sự bóp méo sự thực của báo chí tây phương là cớ giúp
các cường quốc tây phương áp lực một triều đình Mãn Thanh yếu đuối phải nhượng
bộ. Triều đình nhà Mãn Thanh phải phái quân đội đi dẹp những vụ chống đối người
tây phương tại Trung Hoa. Triều đình ra tuyên cáo, yêu cầu người Trung Hoa phải
"sống hòa bình với các nhà truyền giáo Thiên chúa giáo". Trong khi đó
chính phủ Hoa Kỳ không có những nỗ lực tương tự để chấm dứt phong trào triệt hạ
người Trung Hoa tại Hoa Kỳ.
Trong cơn nguy hiểm cho người Trung Hoa tại Hoa Kỳ như thế, Tống
Charlie may mắn tới được San Francisco một cách an toàn. Tống Charlie dùng
đường thủy, đi tầu Pacific Mail Lines về Thượng Hải qua ngả Yokohamạ Sau mười
năm xa cách quê hương, Tống Charlie về đến Thượng Hải vào tháng giêng năm 1886.
Con tầu chở Tống Charlie đi vào sông Hoàng Phố, và cặp bến tại Hồng Khẩu.
Chương 2: Nhà Truyền Giáo Họ Tống
Khi Tống Charlie về đến Thượng Hải thì cái thành phố này đang
bắt đầu trở thành một thành phố kỹ nghệ và thương mại lớn nhất Trung Hoa. Trên
danh nghĩa thì lúc đó nước Trung Hoa đang được vua Quang Tự cai trị, nhưng thực
ra thì ông vua trẻ có tinh thần cải cách của nhà Mãn Thanh này đang bị giam giữ
trên một hòn đảo nhỏ bên trong Cung Điện Mùa Hạ. Người thực sự nắm giữ vận mạng
của mấy trăm triệu người Trung Hoa là Từ Hy, một bà thái hậu đã già và đã nắm
quyền từ nhiều năm trước.
Từ Hy là một người đàn bà thông minh, nhưng không hiểu biết gì
bên ngoài nước Trung hoa, và do đó đã trở nên lạc hậu trong cái thế kỷ có nhiều
tiến bộ tại Tây phương. Từ Hy đã phải nhượng nhiều đất đai cho các cường quốc
tây phương, nhưng bà tin rằng một ngày nào đó các nhượng địa sẽ trở về với
Trung hoa. Từ Hy được trời cho hưởng tuổi thọ, nhưng bà càng sống lâu càng thấy
vương quốc của bà ngày một thu hẹp lại. Nhiều tỉnh trù phú miền duyên hải phải
nhượng cho các nước tây phương. Miến Điện bị Anh quốc chiếm; Bồ Đào Nha chiếm
Ma Cao; Nga Sô thì chiếm một giải đất mênh mông ở miền bắc, còn Việt Nam rơi
vào vòng bảo hộ của Pháp. Từ Hy đã tiếm quyền của vua Quang Tự, nhưng vương
quyền ấy đã ung thối vô giá trị từ bên trong, và có thể tan vỡ bất cứ lúc nào.
Triều đình nhà Thanh vẫn còn huy hoàng và không thay đổi bên trong Cấm Thành,
trong khi thế giới bên ngoài tiến bộ không ngừng. Nhà Thanh còn giữ được sự huy
hoàng là nhờ vào tiền thuế hải quan, mô phỏng theo hệ thống thuế hải quan của
người Anh.
Thượng Hải thì hoàn toàn nằm trong tay ngoại bang, như những tô
giới của người Anh người Pháp. Dần dần cùng với nền khoa học mới, tinh thần văn
hóa tây phương xâm nhập vào Thượng Hải và lan ra các vùng kế cận. Các tu sĩ
công giáo người Pháp và tu sĩ Thiên chúa giáo của người Anh và Mỹ đã đem theo
những tiến bộ y học và tôn giáo của họ đến Thượng Hải. Những phái bộ truyền
giáo bành trướng khắp nơi, trên cái đất nước đã cho phép ba tôn giáo khác nhau
đồng lưu là Khổng giáo, Lão giáo và Phật giáo. Trong cái không khí phát triển
tôn giáo rất nhộn nhịp của cuối thế kỷ 19, giáo hội nào cũng cần có những người
như Tống Charlie.
So sánh với khu vực nội địa thì Thượng Hải quả là một thành phố
sang trọng. Ngay từ 1843, Thượng Hải đã là một hải cảng dành cho các nước tây
phương được quyền khai thác. Sau Hiệp ước Nam Kinh, người Anh phát triển thành
phố, biến Thượng Hải thành một thành phố tây phương, và cho phép người Trung
Hoa được làm những công việc đầy tớ hoặc mở những cửa tiệm nhỏ. Rồi mỗi khi có
nội chiến, Thượng Hải trở thành một trung tâm cho những di dân trốn tránh chiến
tranh trong nội địa, và đến sống dưới sự che chở của người ngoại quốc tại đây.
Vào lúc Tống Charlie về đến Thượng Hải năm 1886 thì Thượng Hải đã trở thành một
thành phố quốc tế, một nơi tiền rừng bạc bể cho những người biết mánh khóe làm
giầu, như giới mại bản.
Khi về đến Thượng Hải, Tống Charlie được Dr. Allen, người đứng
đầu giáo hội Methodist tại Thượng Hải, phái tới dạy học tại một trường trung
học Methodist. Một trong những học sinh đầu tiên của Tống Charlie là Hồ Thích,
sau này là đại sứ Trung hoa và là một nhà văn hóa danh tiếng. Hồ Thích không
bao giờ quên buổi dạy học đầu tiên của Tống Charliẹ Khi Tống Charlie bước lên
bục giảng của giáo sư, tất cả học sinh đều khúc khích cười với nhau, vì thân
hình lùn béo và nét mặt xấu trai của Tống Charliẹ Học sinh Trung hoa quen gặp
những ông thày trang nghiêm, mảnh khảnh và dáng điệu phong nhã. Hồ Thích tưởng
Tống Charlie sẽ bỏ lớp vì xấu hổ khi bị học sinh cười chế nhạo. Nhưng Tống
Charlie bình tĩnh lên tiếng, và tất cả học sinh đều im lặng lắng tai nghe cho
tới hết giờ. Tống Charlie đã chinh phục lớp học đầu tiên bằng khả năng và lòng
tự tin của mình. Các học sinh cũng công nhận Tống Charlie là một nhà giáo xuất
sắc, tuy bề ngoài không được hấp dẫn.
Nỗi khổ tâm của Tống Charlie không phải đến từ phía học sinh, vì
Tống Charlie rất thành công trong nghề dạy học và được học sinh ưa thích. Sự
khổ tâm đến từ Dr. Allen. Mỗi tháng Tống Charlie được trả lương 15 đô la và
phải chịu sự khắc nghiệt của Dr. Allen. Dr. Allen không ưa Tống Charlie vì họ
Tống được giáo dục tại Hoa Kỳ nên không có sự phục tùng hoàn toàn như những
giáo sĩ thuần túy Trung Hoa, chưa từng được xuất ngoại. Dr. Allen cũng không
thích sự thành công của Tống Charlie trong việc dạy học.
Đối với cấp lãnh đạo thì đã buồn phiền như thế. Ngay dân chúng
ngoài đường phố cũng không ưa Tống Charliẹ Mỗi khi đi ra đường, Tống Charlie
trở thành đề tài chế riễu cho người dân ngoài phố, vì cái bề ngoài không giống
ai của Tống Charliẹ Hầu hết thanh niên Trung hoa thời đó đều để tóc dài kết thành
đuôi sam, và mặc một chiếc áo choàng dài bó lấy người. Riêng Tống Charlie thì
cắt tóc ngắn và mặc âu phục. Tống Charlie không đẹp trai theo tiêu chuẩn người
Trung hoa: người thì lùn lại khá mập, bộ điệu rất tự nhiên vì do lối sống lâu
năm tại Hoa Kỳ, nên không biết che dấu xúc cảm như phần đông người Trung hoa
khác. Ngoài ra, người Thượng Hải rất khó hiểu được thổ âm Hải Nam của họ Tống.
Bởi vậy mỗi khi Tống Charlie đi dạo phố thì người lớn gọi chàng là "thằng
lùn", và con nít thì đuổi theo réo gọi "con quỷ lai căng". Do đó
những cảm tưởng đầu tiên của Tống Charlie về cuộc đời tại Thượng Hải không hào
hứng lắm.
Mấy tháng sau, Tống Charlie được phép về Hải Nam thăm gia đình
sau hơn mười năm xa cách. Cuộc đoàn tụ đem lại cho Tống Charlie nhiều niềm vui.
Thân phụ của chàng bây giờ đã là người lãnh đạo của người Triều Châu tại Hải
Nam, và người anh cả của chàng đã thay thế thân phụ quán xuyến công việc làm ăn
của gia đình. Không những thế, Tống Charlie còn được gia đình giới thiệu gửi
gấm với những tổ chức làm ăn bí mật của người Triều Châu tại Thượng Hải.
Sáu tháng sau, Tống Charlie được cử tới một nhiệm sở mới tại một
thị trấn cổ hủ có trên ba trăm ngàn dân, nằm bên ngoài Thượng Hải, trên đường
đi Tô Châu. Tại đây nhà truyền giáo trẻ tuổi bất đắc dĩ này bị cả người bản xứ
và người ngoại quốc xa lánh. Người bản xứ thì không chấp nhận lối ăn mặc và bề
ngoài của Tống Charlie, mà họ cho là quá ngoại lai. Còn người tây phương, phần
đông là giáo sĩ truyền giáo, thì không ưa Tống Charlie vì vấn đề cạnh tranh
nghề nghiệp. Tống Charlie thuê một một căn nhà tranh ở khuất xa mọi người. Đây
là giai đoạn Tống Charlie cảm thấy chán nản nghề truyền giáo nhất. Cuối cùng,
Tống Charlie phải tự thay đổi cho vừa lòng dân chúng. Chàng bắt đầu mặc áo
choàng dài, và chụp lên đầu một cái nón tròn nhỏ để hoà mình với quần chúng.
Cuộc đời vô vị của Tống Charlie cứ thế trôi qua, cho đến một
ngày kia vận may của chàng cũng tới. Một hôm Tống Charlie về thăm Thượng Hải.
Trong lúc đang lang thang ngoài phố thì tình cờ Tống Charlie gặp Văn Bình Chung,
người bạn cũ của những ngày còn ở Boston. Sau khi nghe những lời than thở của
Tống Charlie về cảnh sống hiện tại, Văn Bình Chung kết luận Tống Charlie cần
phải có vợ, và đó là giải pháp giản dị nhất để giúp Tống Charlie qua được sự
buồn phiền. Văn Bình Chung còn tình nguyện làm mai cho Tống Charlie nữa. Thực
ra Văn Bình Chung cũng vừa mới lấy vợ, được làm rể Nhiếp gia, một gia đình rất
giầu sang, dòng dõi quan tể tướng Văn Định Công đời nhà Minh. Gia đình này đã
theo đạo Thiên Chúa từ lâu đời. Chính Văn Bình Chung cũng đã giới thiệu Mai Sơn
Châu vào làm rể nhà họ Nhiếp, lấy cô con gái thứ hai của nhà này. Nhà họ Nhiếp
còn một cô gái út chưa chồng, và Văn Bình Chung tính làm mai cho Tống Charlie.
Nhiếp phu nhân sinh được ba con gái. Theo tục lệ cổ truyền, bà
bó chân cho con gái để giữ được những bàn chân nhỏ xinh đẹp. Việc bó chân cho
hai cô con gái đầu lòng thì không có gì trục trặc. Nhưng đến cô gái út thì có
phản ứng bất lợi. Mỗi khi bị bó chân thì cô bé đau đớn đến phát sốt lên. Cuối
cùng Nhiếp phu nhân phải bỏ ý định ấy. Nhiếp Quế Sương, tên cô gái út, lớn lên
với hai bàn chân to bình thường. Nhiếp Quế Sương được gia đình cho đi học theo
lối tây phương và biết chơi đàn dương cầm. Chính ba cái khuyết điểm: hai bàn
chân to, học cao và chơi đàn là ba yếu tố bất lợi cho đường chồng con của Nhiếp
Quế Sương. Thời đó không ai chịu rước về nhà một nàng dâu có tới những ba điều
cấm kỵ như thế.
Nếu Nhiếp Quế Sương khó lấy chồng thì Tống Charlie cũng là một
thanh niên khó lấy được một người vợ đàng hoàng, vì dáng người thô xấu, mập và
lùn, vì thổ ngữ Hải Nam, và vì lợi tức thấp kém trong một xã hội chỉ trọng kim
tiền. Bởi vậy hai người gặp nhau thật là tương xứng. Nhiếp phu nhân cũng nhận
biết điều này, và bà mau lẹ chấp nhận lời cầu hôn của Tống Charlie do Văn Bình
Chung đại diện. Hôn lễ được cử hành vào mùa hè năm 1887. Sau đám cưới, Tống
Charlie đưa vợ về nhiệm sở của mình. Với đồng lương 15 đô la một tháng cho hai
miệng ăn thì phải giật gấu vá vai mới đủ. Tuy nhiên Nhiếp Quế Sương cũng đem về
cho chồng một món hồi môn đáng kể, và gia đình họ Nhiếp có thể đưa Tống Charlie
vào các lãnh vực kiếm tiền dễ dàng tại tô giới Anh ở Thượng Hải.
Thực ra Tống Charlie không thiết tha gì với công cuộc truyền
giáo. Chàng có một cá tính đặc biệt, một người ưa thích vi phạm luật lệ hơn là
tuân giữ luật lệ. Lúc đó xã hội Trung Hoa rất cần những người biết phá bỏ những
luật lệ cổ truyền. Những tập tục cổ truyền trở nên một gánh nặng cần phải được
cởi bỏ, và đó là thời của giặc cướp trở thành vua chúa. Tống Charlie đang lăm
le từ bỏ giáo hội Methodist để tìm một con đường thích hợp với bản chất của
mình hơn.
Năm 1888, Tống Charlie được giới thiệu vào các tổ chức bí mật
tại Thượng Hải và bắt đầu giai đoạn hoạt động cách mạng. Tống Charlie gia nhập
Hồng Hội, một tổ chức chống lại triều đình Mãn Thanh. Chính Văn Bình Chung đã
đưa Tống Charlie vào Hồng Hội, và sau này chính Tống Charlie là người đã in
những tài liệu bí mật của hội. Hồng Hội giúp đỡ hội viên về tinh thần và vật
chất, và nhằm mục đích lật đổ nhà Mãn Thanh. Hồng Hội đã theo đuổi mục tiêu này
từ ba thế kỷ trước, kể từ ngày nhà Minh bị nhà Mãn Thanh thay thế.
Tuy nhiên cơ hội giúp Tống Charlie làm giầu chưa đến ngaỵ Chàng
rất thành công trong nghề truyền giáo. Năm 1888, Tống Charlie được lên chức mục
sư, năm sau được đổi về Thượng Hải, và năm 1890 thì chính thức được bổ nhiệm
trông coi một nhà thờ tại Thượng Hải, không còn phải đi thuyết giảng lưu động
như trước kia nữa. Chính lúc này Tống Charlie đã thành lập được một nhà in. Bây
giờ chàng không còn cần giáo hội Methodist nữa, và từ chức.
Ngay từ cuối năm 1889 Tống Charlie đã bắt đầu in Thánh Kinh, và
được giáo hội Methodist trợ cấp. Sau đó Tống Charlie in Thánh Kinh cho nhiều
giáo hội khác nhau và nhận trợ cấp của các giáo hội ấy. Đến khi nhà in của Tống
Charlie bắt đầu in các loại sách khoa học, lịch sử và kỹ thuật của tây phương
thì lợi tức của họ Tống đã khá lắm rồi.
Đầu năm 1890 Quế Sương sinh con gái đầu lòng và đặt tên là Tống
Ái Linh. Đến ngày 27-1-1892, Tống Khánh Linh ra chào đời. Vào lúc sinh Khánh
Linh thì Tống Charlie đã giàu có rồi. Dùng của hồi môn của vợ và tiền đầu tư
của Văn Bình Chung, và sự trợ giúp của Hồng Hội, Tống Charlie mua thêm máy in,
và một căn nhà trong khu tô giới Pháp để thành lập nhà in Hoa-Mỹ Ấn Quán.
Phú quý sinh lễ nghĩa. Tống Charlie biết mình không phải họ Tống
và đã lỡ nhận họ Tống rồi thì muốn cho họ Tống có danh tiếng. Tống Charlie bèn
cho in bộ sách "Bách Gia" đầu tiên về các dòng họ Trung Hoa mà chàng
cho là danh giá cao quý nhất. Dĩ nhiên trong cuốn Bách Gia này có ghi cả họ
Tống để được thừa nhận là người quý phái. Trên các tấm danh thiếp, Tống Charlie
bỏ hẳn cái tên lai căng Tống Charlie, và thay thế vào đó là cái tên Tống Giáo
Nhân thuần túy Trung Hoa. Cùng với cái tên mới Tống Giáo Nhân, tiền vào tay họ
Tống mỗi ngày một nhiều hơn, và Tống Giáo Nhân nghiễm nghiên trở thành một phú
thương có máu mặt tại Thượng Hải. Các hoạt động bí mật chống triều đình Mãn
Thanh của Tống Giáo Nhân không hề bị phát giác, nhờ đức tính rất kín miệng của
Tống.
Thời thế tại Trung hoa đã đến lúc phải thay đổi. Giới sĩ phu cho
rằng Trung Hoa bị tây phương làm nhục chỉ vì tây phương có vũ khí mạnh hơn. Họ
liền tìm cách chế tạo vũ khí mới và đào tạo quân đội Trung Hoa theo kiểu mẫu
tây phương. Một số sĩ phu khác có khuynh hướng cải cách, quan niệm rằng sức mạnh
của tây phương không phải là ở vũ khí, mà là ở sức mạnh kỹ nghệ. Lập tức kỹ
thuật tây phương được khai thác, và các ngành kỹ nghệ mới như tơ sợi, thuốc lá,
thực phẩm, ngân hàng, đóng tàu, và các cơ sở buôn bán bành trướng mau lẹ. Chính
trong giai đoạn này giai cấp trung lưu của Trung Hoa bắt đầu xuất hiện. Trong
hoàn cảnh đó, Tống Giáo Nhân, một người giỏi thổ ngữ Hải Nam, thổ ngữ Thượng
Hải, thông thạo Anh ngữ, và trong lúc đàm đạo lại hay trích dẫn những tư tưởng
đạo đức trong Thánh Kinh, đã mau lẹ trở thành một người mại bản có thế lực, và
rất thành công đại diện cho tây phương. Một chú bé Triều Châu nghèo khó đi
hoang, nay nghiễm nhiên trở thành một triệu phú tại Thượng Hải.
Các Bang Hội Và Công Cuộc Phản Thanh Phục Minh
Người Trung Hoa bất mãn và thù ghét triều đình Mãn Thanh, và lấy
các nhân vật Lương Sơn Bạc trong truyện Thủy Hử làm kiểu mẫu chống lại nhà
Thanh. Rất nhiều tổ chức bí mật, bang hội hoạt động cho mục đích lật đổ nhà Mãn
Thanh. Biểu tượng cho các tổ chức Phản Thanh Phục Minh là một hình tam giác,
còn gọi là Tam Điểm, tượng trưng cho quan niệm nhân sinh của người Trung hoa,
gồm có: Trời, Đất và Người.
Bang hội là một nét đặc biệt trong xã hội Trung hoa, biểu thị
phản ứng của nông dân, thợ thuyền, dân nghèo tại các thành thị, chống lại sự
đàn áp của giai cấp thống trị. Lịch sử Trung Hoa là hàng loạt những cuộc nổi
dậy của nông dân chống lại những triều đình hà khắc hoặc những triều đại ngoại
xâm. Trong những cuộc nổi dậy ấy, các bang hội đóng vai trò lãnh đạo quần
chúng. Hoạt động của các bang hội không phải chỉ là những cuộc đấu tranh chính
trị hay vũ trang, mà còn bao gồm nhiều hoạt động khác: có thể là một cuộc tấn
công vào nha môn để giết tham quan hoặc giải thoát tù nhân - có thể là phục
kích cướp đoạt hàng hóa, tiền thuế, lương thực, hoặc bắt cóc người đòi tiền
chuộc - có thể là tấn công các nhà giầu, thương gia hoặc địa chủ...
Thành phần chủ yếu của bang hội là các nông dân không có ruộng
phải đi lang thang kiếm miếng ăn, hoặc những thợ thuyền đi vào bước đường cùng,
và đặc biệt là những binh lính bị giải ngũ. Khi có chiến tranh thì nhà nước bắt
nông dân đi lính ồ ạt, nhưng khi hết chiến tranh, nhà nước sa thải lính hàng
loạt tại chỗ. Những người này không có phương tiện trở về quê, đành phải sống
lang thang, và dễ gia nhập các bang hội để tìm chỗ nương thân. Vả lại sau một
thời gian làm lính, những nông dân hiền lành trở thành những tay côn đồ, quen
cướp bóc hà hiếp dân chúng, và do đó họ không còn muốn trở lại với nghề nông
nữa.
Một bang hội lâu đời nhất tại Trung hoa là Bạch Liên Giáo, bắt
đầu ra đời từ thế kỷ 12, và có một vai trò quan trọng trong công cuộc chống lại
sự thống trị của người Mông Cổ. Khi nhà Mãn Thanh chiếm được Trung Hoa, Bạch
Liên Giáo cũng phát động vài cuộc nổi dậy, nhưng thất bại. Mặc dù không đạt
được thắng lợi, nhưng các bang hội cứ tiếp tục tồn tại trong nhiều thế kỷ. Mỗi
lần bị đàn áp, bang hội bị tan rã, nhưng những người còn sống sót lại tiếp tục
tập hợp và tổ chức lại. Số hội viên của các tổ chức bí mật này gia tăng rất
nhanh, và về sau có đủ thành phần trong xã hội tham gia. Có những tổ chức hoàn
toàn vì lòng ái quốc, nhưng cũng có nhóm dùng tinh thần ái quốc che dấu những
hoạt động tội ác của họ. Vào cuối thế kỷ 19 có ba tổ chức nổi bật nhất là Thiên
Địa Hội, Tam Điểm Hội và Tam Hòa Hội.
Tam Hòa Hội ra đời từ thế kỷ 17, khi người Mãn Châu lật đổ nhà
Minh và lập nên nhà Mãn Thanh. Người Trung Hoa không phục người Mãn Châu, và
nhiều tổ chức bí mật được thành lập với chủ trương Phản Thanh Phục Minh. Các
nhà sư chùa Thiếu Lâm cũng tham gia công cuộc này. Bề ngoài chùa Thiếu Lâm giả
vờ thần phục nhà Thanh để chờ thời cợ Năm 1678, nhà Thanh mở một cuộc chinh
phạt một bộ tộc tại Tân Cương. Các nhà sư Thiếu Lâm xin đi theo tham chiến với
quân nhà Thanh, nhưng thực tâm muốn tìm cơ hội liên kết với bộ tộc Tân Cương
chống lại nhà Thanh. Nhưng âm mưu của các nhà sư Thiếu Lâm bị bại lộ, và tất cả
các nhà sư Thiếu Lâm đều bị quan quân nhà Thanh hành quyết, và ngôi chùa bị hỏa
thiêu.
Nhưng có năm nhà sư Thiếu Lâm may mắn trốn thoát, và thành lập
Tam Hòa Hội, với mục đích diệt nhà Thanh để phục thù. Tam Hòa Hội đã gây khốn
đốn cho triều đình, vì thế những người thuộc Tam Hòa Hội mà bị triều đình bắt
được thì thường bị những hình phạt tàn khốc hơn các người thuộc bang hội khác.
Thực ra Tam Hòa Hội, Tam Điểm Hội và Thiên Địa Hội đều giống nhau trong mục
đích là khôi phục nhà Minh, nên mọi người trong ba hội này đều tự nhận là con
cháu nhà Minh, tức là Hồng Nhị Chữ Hồng thoát thai từ chữ Hồng Võ, niên hiệu
của Chu Nguyên Chương, ông vua khai sáng nhà Minh.
Về tổ chức, lúc đầu Tam Hòa Hội không có cơ quan trung ương, và
mỗi hội viên chỉ trực thuộc vào phân đàn của mình. Tam Hòa Hội có năm phân đàn
ở năm tỉnh lớn, tượng trưng cho năm vị sư sáng lập, thuộc các tỉnh Phúc Kiến,
Quảng Đông, Vân Nam, Hồ Nam và Chiết Giang. Như vậy sức mạnh của Tam Hòa Hội
đều tập trung tại miền nam Trung Hoa, và nhà Mãn Thanh cũng bị chống đối mạnh
nhất tại miền nam Trung Hoa. Từ giữa thế kỷ 19, Tam Hòa Hội chuyển hoạt động về
các thành phố duyên hải, đặc biệt là Thượng Hải, Quảng Châu...
Một trong những lãnh tụ quan trọng nhất trong phong trào Phản
Thanh Phục Minh là Tôn Văn, tự là Dật Tiên. Tôn Dật Tiên sinh ngày 12-11-1866
tại một làng ven biển thuộc tỉnh Quảng Đông. Thuở nhỏ Tôn Dật Tiên học trường
làng cho đến năm 13 tuổi thì theo mẹ đến đảo Hawaii, vì có người anh di cư lập
nghiệp tại đó. Tại Hawaii, Tôn Dật Tiên theo học trường trung học Iolani, một
trường nội trú dành cho con trai được sự bảo trợ của Hội truyền giáo Anh quốc.
Sau ba năm, gia đình nghe biết Tôn Dật Tiên đã theo đạo Thiên Chúa, nên không
cho học nữa và bắt Tôn Dật Tiên phải xuống tàu về nước. Khi về đến Trung hoa,
Tôn Dật Tiên biểu thị tín ngưỡng mới của mình bằng cách đập phá các pho tượng
trong một ngôi đền trong làng, và do đó Tôn Dật Tiên bị người làng tức giận,
trục xuất ra khỏi làng.
Tôn Dật Tiên quen biết một bác sĩ người Mỹ, và ông ra Hương Cảng
theo học ngành y khoa. Tôn Dật Tiên tốt nghiệp bác sĩ năm 1892. Ông hành nghề y
sĩ tại Ma Cao một thời gian rất ngắn, khoảng hai năm. Tôn Dật Tiên không quan
tâm nhiều đến nghề thày thuốc, và ông bỏ nghề thuốc khi Trung Hoa bị Nhật bản
đánh bại năm 1895. Cuộc đời của ông sau đó là những ngày gian lao của một nhà
cách mạng lúc nào cũng ở trong tình trạng trốn tránh lưu đày. Ông có hoài bão
nâng Trung Hoa lên ngang hàng với các quốc gia khác. Tôn Dật Tiên quyết liệt
chủ trương phải lật đổ nhà Mãn Thanh. Ông có tài diễn thuyết lôi cuốn quần
chúng nên được nhiều thanh niên đi theo.
Năm 1894, Tống Giáo Nhân gặp Tôn Dật Tiên lần đầu tiên. Cả hai
đều thuộc Tam Hòa Hội. Hai người có nhiều điểm tương đồng: cùng nói thổ ngữ
miền nam Trung Hoa, cùng theo đạo Thiên Chúa, cùng được giáo dục tại Hoa Kỳ, và
cùng có nhiều tham vọng. Do đó hai người trở thành bằng hữu chí thân một cách
mau lẹ. Bất cứ khi nào đến Thượng Hải, Tôn Dật Tiên cũng tới cư ngụ tại nhà
Tống Giáo Nhân. Con cái nhà họ Tống coi Tôn Dật Tiên như một người trong gia
đình, một thứ cha chú. Đối với Tống Giáo Nhân thì Tôn Dật Tiên tượng trưng cho
một ngọn lửa tinh khiết của những lý tưởng đã đem lại cho Tống Giáo Nhân một ý
nghĩa cao đẹp cho cuộc đời, ngoài những lúc tính toán làm giàu.
Công cuộc Phản Thanh Phục Minh của Tôn Dật Tiên cần phải được
quảng bá cho quần chúng, và phương tiện hữu hiệu nhất lúc đó là truyền đơn.
Không một nhà in nào dám in truyền đơn cho Tôn Dật Tiên, vì triều đình nhà
Thanh lúc nào cũng rình tìm và sẵn sàng dùng những biện pháp trừng phạt đẫm máu
cho cái tội bị gọi là "phản nghịch" này. Chỉ có nhà in của Tống Giáo Nhân
phải cáng đáng cái việc làm nguy hiểm ấy. Đó là một sự hy sinh lớn lao của Tống
Giáo Nhân cho công cuộc cách mạng, vì bất cứ lúc nào gia đình Tống Giáo Nhân
cũng có thể bị chính quyền nhà Thanh bắt và hành quyết.
Theo đúng truyền thống gia đình Trung hoa, bà Tống ít khi quan
tâm tới hành động của Tôn Dật Tiên, người bạn thân của chồng bà. Bà cũng không
thắc mắc khi thấy chồng và Tôn Dật Tiên thức rất khuya bàn luận trong phòng
riêng. Bà không hề ngờ rằng cái đầu của Tôn Dật Tiên, một người có bề ngoài
hiền lành phúc hậu như thế, đã bị triều đình Mãn Thanh treo một giá rất cao.
Chồng bà may mắn thoát tên trong danh sách những tên "phản nghịch"
đầu tiên. Tuy vậy khi được chồng cho biết lúc nào gia đình nhà họ Tống cũng
phải sẵn sàng chạy trốn thì bà không hề phản đối hoạt động nguy hiểm của chồng,
và hết mình ủng hộ và đi theo chính nghĩa của chồng.
Tôn Dật Tiên đòi hỏi những cải cách xã hội cho Trung hoa. Tam
Hòa Hội cử Tôn Dật Tiên đi gặp thừa tướng Lý Hồng Chương để đạo đạt những yêu
sách. Lúc đó Lý Hồng Chương đang mải lo đối phó với việc quân Nhật đánh chiếm
Cao Ly, một thuộc quốc của Trung hoa, nên không tiếp Tôn Dật Tiên. Sau chuyến
đi thất bại, Tôn Dật Tiên trở lại Honolulu đảo Hawaii và thành lập Hưng Trung
Hội. Ông bôn ba nhiều nơi để tìm sự trợ giúp cho công cuộc Phản Thanh Phục Minh
của ông. Mỗi khi ông trở về Thượng Hải, ông thường cư ngụ ngay tại nhà Tống
Giáo Nhân. Tôn Dật Tiên được gia đình nhà họ Tống rất quý trọng, và coi ông như
người cha đỡ đầu cho các con của Tống Giáo Nhân.
Các tổ chức Phản Thanh Phục Minh luôn luôn tìm cách gây khó khăn
cho triều đình Mãn Thanh. Một lãnh tụ Cao Ly thân Nhật đến thăm Thượng Hải, và
bị các tổ chức Phản Thanh ám sát chết. Một nhóm của Hồng Hội đem xác của nạn
nhân chặt ra làm nhiều mảnh, và gửi trả về Cao Ly bằng một chiến thuyền của hải
quân Trung hoa. Người Nhật vô cùng phẫn nộ, và chiến tranh giữa Nhật và triều
đình Mãn Thanh có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Vì thế triều đình Mãn Thanh phải
dồn hết nỗ lực về miền bắc, và lơi là miền nam; nhờ thế các tổ chức Phản Thanh Phục
Minh được tự do hoạt động hơn tại miền nam.
Ngày 1-8-1894, cuộc xung đột giữa Nhật và quân Mãn Thanh xảy ra,
và quân nhà Thanh thảm bại nhục nhã. Sự kiện này càng làm dân chúng Trung Hoa
căm phẫn sự bất lực của triều đình Mãn Thanh. Tôn Dật Tiên lập tức khởi sự một
cuộc nổi dậy tại miền nam trong vùng Quảng Châu. Tống Giáo Nhân được ủy thác ở
lại Thượng Hải lo về vấn đề tài chánh cho Tôn Dật Tiên, và làm tai mắt cho Tôn
Dật Tiên tại lưu vực sông Dương Tử.
Tôn Dật Tiên chọn ngày Song Cửu (9-9-1895) làm ngày khởi nghĩa,
vì ngày đó dân chúng Trung Hoa đi tảo mộ đông đảo, nên việc tập trung và vận
chuyển nhân sự của Hồng Hội sẽ không bị quan quân nhà Thanh nghi ngờ. Tại Quảng
Châu, Tôn Dật Tiên tuyển được 153 lính đánh thuệ Những người này được lệnh bố
trí tại tư gia của viên tổng đốc và các sĩ quan, và sẽ ra tay bắt giữ những
người này khi cuộc khởi nghĩa bắt đầu. Sức mạnh chính của cuộc khởi nghĩa là ba
ngàn tay anh chị của tổ chức Hồng Hội, và lực lượng này được trang bị bằng một
ngàn khẩu súng lục.
Theo kế hoạch dự liệu, tất cả vũ khí và người sẽ tập trung tại
Hương Cảng và di chuyển tới Quảng Châu bằng đường biển. Khi nào nhóm anh chị
Hồng Hội tới Quảng Châu thì cuộc khởi nghĩa bắt đầu. Một sự trục trặc xảy ra
ngay tại bến tầu Hương Cảng. Trong khi vũ khí được chuyển xuống tàu thì các tay
anh chị chia làm hai phe, phe nào cũng đòi hỏi phe mình phải được dùng súng, vì
số người nhiều hơn súng. Trong khi hai phe còn mải tranh luận trên bờ thì con
tàu nhổ neo theo đúng giờ đã ấn định trước. Vũ khí được chở đi Quảng Châu mà
không có người đi theo.
Tôn Dật Tiên ở Quảng Châu lâm vào cảnh tiến thoái lưỡng nan: có
vũ khí mà không có quân xử dụng vũ khí. Nếu cứ tiếp tục cuộc khởi nghĩa thì
nhất định sẽ thất bại, vì không đủ quân số cần thiết. Tôn Dật Tiên đành phải hoãn
cuộc khởi nghĩa, và đánh điện cho Hương Cảng và Thượng Hải biết quyết định mới
nhất của mình. Nhưng trước khi điện tín của Tôn Dật Tiên tới được Hương Cảng
thì cuộc tranh luận của hai phe anh chị tại bến tầu chấm dứt, và tất cả kéo
nhau xuống tầu đi Quảng Châu, trễ hơn một ngày theo kế hoạch dự liệu từ trước.
Đến lúc đó thì cảnh sát Anh tại Hương Cảng nghe biết được tin
tức của cuộc khởi nghĩa, liền báo cho nhà chức trách Mãn Thanh tại Quảng Châu
biết. Khi con tàu chở ba ngàn tay anh chị cặp bến Quảng Châu thì đã có quan
quân nhà Thanh chờ họ trên bến. Các tay anh chị thấy thế nguy liền nhảy cả
xuống biển, và hầu hết trốn thoát. Tuy nhiên nhà chức trách cũng bắt được một
số cấp lãnh đạo và 50 đoàn viên khởi nghĩa. Ngay tại thành phố Quảng Châu, quan
quân nhà Thanh mở cuộc ruồng bố, bắt thêm được nhiều người trong tổ chức, tịch
thu được một số vũ khí, quân phục và lá cờ hiệu của quân khởi nghĩa. Tôn Dật
Tiên kịp thời trốn sang Ma Cao, và dùng thuyền chạy sang Hương Cảng.
Số phận những người bị bắt thật là thê thảm. Họ bị trừng phạt
theo luật lệ khắt khe của nhà Thanh. Nhiều người bị chém đầu; một số khác phải
chịu những cái chết đau đớn hơn: bị đánh 600 roi cho đến chết hoặc bị xẻo từng
mảnh thịt cho đến chết.
Tuy thế, cuộc khởi nghĩa thất bại cũng đem lại danh tiếng lớn
lao cho Tôn Dật Tiên, một người được coi là tượng trưng cho công cuộc lật đổ
nhà Mãn Thanh. Trong suốt 16 năm sau đó, Tôn Dật Tiên phải lẩn trốn từ nước này
sang nước khác, tìm mọi cách trốn tránh sự truy nã của các tay ám sát bắt cóc
cừ khôi của nhà Thanh. Tống Giáo Nhân đã đóng góp rất nhiều cho công cuộc cách
mạng của Tôn Dật Tiên bằng cách cung cấp tiền bạc cho Tôn Dật Tiên và các tổ
chức bí mật của Tôn Dật Tiên.
Trong thời gian này, Tôn Dật Tiên tổ chức thêm vài cuộc khởi
nghĩa nữa, nhưng đều thất bại. Năm 1900 cuộc nổi loạn của Nghĩa Hòa Đoàn chống
lại tây phương thất bại. Liên quân tây phương tiến vào Bắc Kinh, và Từ Hy thái
hậu và vua Quang Tự phải bỏ chạy khỏi kinh thành. Sự nhục nhã của Trung hoa
trước sức mạnh của tây phương đã đến chỗ cùng cực. Nhiều sinh viên trốn qua
Nhật, tìm học thuật quân sự và khoa học của Nhật Bản để rửa nhục. Tất cả đều
quy tụ quanh Tôn Dật Tiên, coi ông như một nhà cách mạng duy nhất có thể quang
phục được nước Trung Hoa. Tôn Dật Tiên nắm lấy thời cơ, thuyết phục các phe
nhóm chống lại nhà Thanh đoàn kết với ông, và lập thành một tổ chức duy nhất,
gọi là Đồng Minh Hội do ông lãnh đạo.
Cuộc đại hội của Đồng Minh Hội tổ chức ngày 30-7-1905 tại Đông
Kinh. Tống Giáo Nhân cũng từ Thượng Hải tới tham dự, và được đại hội cử giữ
nhiệm vụ lo tài chánh cho hội, vì mọi người biết Tống Giáo Nhân có nhiều liên
hệ với giới tài phiệt Hoa Kỳ. Tống Giáo Nhân có bổn phận tìm ra tiền cho hội có
phương tiện hoạt động. Đồng Minh Hội đã chọn đúng người. Thành quả của cuộc
cách mạng Trung Hoa phần lớn do công lao tài chánh của Tống Giáo Nhân.
Chương 3: Ngày Song Thập Và Quốc Dân Đảng Trung Hoa
Ba chị em nhà Tống |
Trong khoảng mười lăm năm, kể từ khi từ chức khỏi giáo hội
Methodist, Tống Giáo Nhân có thêm bốn người con nữa. Năm 1894, bà Nhiếp Quế
Sương sinh con trai đầu lòng là Tống Tử Văn, và đến năm 1897 thì sinh cô con
gái út Tống Mỹ Linh. Sau đó là hai người con trai cuối cùng là Tống Tử Lương và
Tống Tử An. Tống Giáo Nhân gửi cả ba cô con gái và Tống Tử Văn sang du học tại
Hoa Kỳ.
Tống ái Linh |
Tống Giáo Nhân có vẻ yêu thích Tống Ái Linh hơn cả, có lẽ vì
Tống Ái Linh và ông bố rất giống nhau ở hai điểm là rất thực tế và yêu tiền. Ái
Linh rất thông minh nhanh nhẹn, và đã trở thành người phụ tá đắc lực cho Tống
Giáo Nhân. Các hoạt động tài phiệt của Tống Giáo Nhân bành trướng rất nhanh
chóng, và cần phải có người thân tín tin cẩn được để giao phó cho một phần công
việc. Tống Ái Linh chính là người Tống Giáo Nhân rất cần. Và cũng chính trong
thời gian làm việc với bố mà Tống Ái Linh học hỏi được nhiều kinh nghiệm quý
báu để sau này trở thành một người đàn bà có ảnh hưởng rất lớn, lũng đoạn thị
trường Trung Hoa vào đầu thế kỷ 20.
Trong lúc tài sản nhà họ Tống ngày một thịnh vượng thì vương khí
nhà Mãn Thanh ngày một tàn lụi. Người Trung Hoa tin rằng một triều đại tồn tại
được là nhờ có Thiên Mệnh, hay Lòng Trời còn tựa. Khi Thiên Mệnh không còn nữa,
tức là khi Lòng Trời đã bỏ, thì triều đại đó sẽ sụp đổ. Đến đầu thế kỷ 20 thì
Thiên Mệnh của nhà Mãn Thanh đã mất, và triều đại này đang đi vào mạt vận. Thực
ra thì các triều đại vua chúa của Trung Hoa chỉ kéo dài được vài trăm năm rồi
lại có một triều đại mới thay thế. Đến đầu thế kỷ 20 thì nhà Mãn Thanh đã cai
trị Trung Hoa được gần ba thế kỷ, một thời gian khá dài cho một triều đại quân
chủ.
Tháng 11-1908 Từ Hy Thái Hậu từ trần sau một nửa thế kỷ thao
túng chính trường Trung hoa. Từ Hy thay mặt con trai là vua Đồng Trị và cháu là
vua Quang Tự cai trị nước Trung Hoa. Vua Quang Tự là một nhà vua sáng suốt, dự
định cải tiến đất nước theo đường lối tây phương và loại bỏ Từ Hy Thái Hậu.
Nhưng Viên Thế Khải được vua Quang Tự giao cho thi hành kế hoạch thì phản lại
nhà vua, tố cáo tất cả âm mưu của vua Quang Tự cho Từ Hy Thái Hậu, do đó Từ Hy
Thái Hậu kịp thời bắt vua Quang Tự giam vào một hòn đảo nhỏ bên trong Cung Điện
Mùa Hạ, và chiếm quyền của vua Quang Tự. Trước khi chết, Từ Hy Thái Hậu vẫn còn
đủ thời giờ sai người đầu độc vua Quang Tự trước. Từ Hy sợ rằng sau khi mình
chết rồi, Quang Tự sẽ được trở lại vương quyền và làm những gì Từ Hy không ưa
thích.
Vua Phổ Nghi
Quyền lực nhà Mãn Thanh bây giờ rơi vào tay một ấu chúa do Từ Hy
Thái Hậu lựa chọn: đó là vua Phổ Nghi, một đứa trẻ mới lên ba tuổi. Phổ Nghi
trở thành vị hoàng đế cuối cùng của nhà Mãn Thanh và Trung Hoa. Thân phụ Phổ
Nghi là Thuần Thân Vương được bổ làm nhiếp chánh, thay mặt vua Phổ Nghi cai trị
việc nước. Nhưng Thuần Thân Vương là một người hiền lành chất phác, không có
khả năng lãnh đạo Trung Hoa trong một hoàn cảnh rất bất lợi: bên trong thì bị
người dân Trung Hoa phản đối, bên ngoài thì bị liệt cường bắt nạt xâu xé đất
nước Trung Hoa thành nhiều mảnh nhượng địa. Thuần Thân Vương cũng không thể là
đối thủ của con cáo già Viên Thế Khải được. Trước khi chết, vua Quang Tự muốn
em là Thuần Thân Vương phải giết Viên Thế Khải để báo thù cho nhà vua, nhưng
Thuần Thân Vương không dám giết Viên Thế Khải, chỉ tước bỏ mọi quyền lực của họ
Viên và bắt họ Viên phải về hưu.
Gặp lúc nhà Mãn Thanh đang bối rối và yếu thế, Tôn Dật Tiên tổ
chức nhiều cuộc nổi dậy, và đi du thuyết nhiều nước tây phương tìm sự ủng hộ
của quốc tế và sự đóng góp tài chánh cho công cuộc quang phục nước Trung Hoa
của ông. Các nước tây phương có vẻ lạnh nhạt với Tôn Dật Tiên vì họ chỉ muốn
nước Trung Hoa cứ tiếp tục ở vào thế yếu cho họ khai thác và làm chủ. Trong
nước thì tuy Tôn Dật Tiên được sự ủng hộ của đông đảo quần chúng, kể cả một số
người Trung Hoa đang phục vụ cho nhà Thanh, nhưng ông vẫn thất bại không tạo
được một thành công nào trong công cuộc lật đổ nhà Thanh.
Nhưng cuối cùng công cuộc cách mạng của Tôn Dật Tiên thành công
nhờ một yếu tố bất ngờ, không phải do công lao của ông. Tại thành Vũ Hán, một
nhóm sĩ quan trong quân đội Mãn Thanh bất mãn và âm mưu nổi dậy chống lại triều
đình. Các sĩ quan dấu bom và vũ khí tại nhiều nơi khác nhau, nhưng ngày
9-10-1911, một trái bom dấu trong khu vực nhượng địa của người Nga bất ngờ nổ
tung. Lập tức cảnh sát bao vây cả khu vực, lục soát và tìm được nhiều tài liệu
và danh sách những người tham dự cuộc khởi loạn. Viên tổng đốc ra lệnh đóng
chặt các cổng thành, và trại quân bị bao vây. Các sĩ quan phản loạn bây giờ chỉ
còn hai lựa chọn: hoặc đầu hàng để bị bắt và bị hành hạ dã man, có thể là bị xử
tử, hoặc liều lĩnh khởi sự cuộc phản loạn như kế hoạch từ trước, mặc dầu sớm hơn
dự liệu. Đấy là con đường sống suy nhất của họ, và thế là bốn tiểu đoàn quân
nhà Thanh bắt buộc phải quyết định liều chết thi hành cuộc nổi loạn. Vì ở thế
cùng đường nên toán quân phản loạn chiến đấu liều mạng và kiểm soát được thành
phố. Viên tổng đốc phải dùng thuyền chạy trốn ra sông Dương Tử. Cuộc nổi dậy
hoàn toàn bất ngờ, và đã thành công trong ngày Song Thập, tức là ngày
10-10-1911. Kể từ đó, ngày 10-10 được người Trung Hoa quốc gia coi là ngày Quốc
khánh.
Nhóm khởi loạn không có tổ chức. Họ không có liên lạc hoặc hậu
thuẫn của các nhóm Hồng Hội hoặc Đồng Minh Hội của Tôn Dật Tiên. Tuy nhiên họ
đã hoàn thành được một điều mà trong nhiều năm trời các nhóm Phản Thanh Phục
Minh, kể cả Tôn Dật Tiên, đã không thực hiện được. Họ đã chiếm được một thành
phố lớn của nhà Mãn Thanh. Nhóm phản loạn không có thủ lãnh nên quyết định mời
một đại tá trong quân đội Mãn Thanh là Lê Nguyên Hồng lên lãnh đạo họ, vì Lê
Nguyên Hồng có cấp bậc cao nhất trong thành. Một phái đoàn phản loạn được cử đi
đến nhà họ Lệ Lê Nguyên Hồng thấy quân phản loạn tới, lại tưởng họ tìm giết
mình, nên bỏ chạy trốn, hết phòng này sang phòng khác. Quân phản loạn vẫn nhẫn
nại đuổi theo. Cuối cùng Lê Nguyên Hồng chui vào trốn dưới gầm giường của vợ,
nhưng vì cái giường của vợ nhỏ quá nên chân của Lê Nguyên Hồng thò ra ngoài.
Toán quân phản loạn nắm chân Lê Nguyên Hồng kéo ra. Khi Lê Nguyên Hồng định năn
nỉ xin tha mạng thì tên thủ lĩnh loạn quân lịch sự hỏi thăm sức khỏe của họ Lệ
Hắn tâng bốc gọi Lê Nguyên Hồng là "Tướng quân", và yêu cầu Lê Nguyên
Hồng gia nhập quân phản loạn. Lê Nguyên Hồng mừng rỡ và nhận lời. Ngày 12-10,
nhóm phản loạn thành lập một chính phủ cộng hòa lâm thời và bầu Lê Nguyên Hồng
lên điều khiển chính phủ.
Nhóm phản loạn tại Vũ Hán tạo được một hậu quả dây chuyền. Các
tuần lễ kế tiếp đó, hết thành phố này đến thành phố khác đứng lên, noi gương
thành phố Vũ Hán, tuyên bố độc lập với nhà Mãn Thanh. Các tỉnh Hồ Nam và Sơn
Tây chống lại mệnh lệnh của triều đình. Tại Thiểm Tây, quần chúng vùng lên
chiếm và giết viên tổng đốc và đốt dinh tổng đốc tại thủ phủ Thái Nguyên. Những
đám đông gây hỗn loạn tại Thiên Tân và Tế Nam. Tại trường trung Học Trường Sa,
Mao Trạch Đông quẳng sách vở đi và gia nhập quân cách mạng.
Trong một cố gắng vãn hồi tình thế, nhà Mãn Thanh phải phục hồi
chức vị cho Viên Thế Khải lúc đó ở trong tình trạng phải về hưu. Nhà Mãn Thanh
thấy không còn ai ngoài Viên Thế Khải có đủ khả năng cứu vãn tình thế. Viên Thế
Khải là một viên tướng tài, có công cải tiến quân đội Trung Hoa theo kiểu mẫu
tây phương. Viên Thế Khải cũng là người có tham vọng làm hoàng đế nên không bỏ
lỡ cơ hội nắm lại quyền bính. Lập tức Viên Thế Khải tung ra những cuộc tấn
công, đánh bại các thành phố phản loạn. Viên Thế Khải chiếm lại được thành phố
Vũ Hán, nhưng được tin thành phố Nam Kinh đã lọt vào tay quân cách mạng. Tuy
nhiên, Viên Thế Khải không quan tâm đến Nam Kinh, và chỉ đánh cầm chừng, không
để cho nhà Mãn Thanh mạnh như trước nữa. Mục đích của Viên Thế Khải là chờ đợi
cho cả hai phe Mãn Thanh và Phản Thanh mệt mỏi, và cùng phải cầu cứu sự trợ
giúp của Viên Thế Khải. Như thế Viên Thế Khải sẽ ở vào địa vị thượng phong và
sẽ thực hiện được giấc mộng làm hoàng đế của mình.
Trong lúc Viên Thế Khải nắm vững tình hình trong nước thì Tôn
Dật Tiên lại xuất ngoại vận động sự ủng hộ của Âu Mỹ. Nhưng Tôn Dật Tiên vẫn
chỉ gặp được thất bại như trước. Tuy Tôn Dật Tiên thất bại đối với quốc tế,
nhưng quần chúng vẫn coi ông là người khai sáng ra công cuộc Phản Thanh Phục
Minh, tuy chính bản thân ông chưa bao giờ thành công chiếm được một tấc đất của
nhà Mãn Thanh, trong tất cả những cuộc nổi dậy khởi nghĩa của ông. Ngày
25-12-1911, Tôn Dật Tiên trở về Thượng Hải, và được dân chúng đón tiếp như một
vị anh hùng. Tôn Dật Tiên đến cư ngụ tại nhà Tống Giáo Nhân, và thương nghị
cùng các cộng sự.
Phe phản loạn chống nhà Thanh đang ở trong tình trạng chia rẽ,
không lãnh tụ nào chịu lãnh tụ nào, mặc dù họ chiếm được miền nam Trung Hoa và
đặt thủ đô tại Nam Kinh. Các phe phái muốn bầu một vị minh chủ làm tổng thống
để lãnh đạo công cuộc Phản Thanh, nhưng các cuộc họp bầu của họ đều đưa đến
thất bại. Cuối cùng họ đồng ý tìm một người có thể dung hòa được mọi phe phái
khác nhau. Chính vì thế, mọi phe phái đều quay về Tôn Dật Tiên, và bầu ông vào
chức tổng thống lâm thời của nước Cộng hòa Trung hoa.
Ngày 1-1-1912, Tôn Dật Tiên tuyên thệ nhậm chức tổng thống lâm
thời đầu tiên của nước Cộng hòa Trung hoa tại Nam Kinh. Đó là một ngày trọng
đại cho phe cách mạng Trung hoa. Tất cả gia đình Tống Giáo Nhân đều có mặt tại
Nam Kinh trong ngày lịch sử ấy. Tống Giáo Nhân cực kỳ hoan hỷ; ông và cô con
gái lớn Ái Linh có mặt thường xuyên tại Nam Kinh trong thời gian Tôn Dật Tiên
giữ chức tổng thống lâm thời.
Tôn Dật Tiên thành lập nội các, nhưng chính phủ của ông không có
ngân sách. Ông định vay tiền các nước tây phương, nhưng với cái danh nghĩa
chính phủ "lâm thời" nên không nước nào chịu cho ông vay tiền. Cuối
cùng ông phải vay một số tiền lớn của Nhật Bản, và dùng các mỏ sắt tại Hán Khẩu
làm bảo đảm. Nhưng Tôn Dật Tiên không có kinh nghiệm về hành chánh, vì từ trước
ông chưa hề giữ một chức vụ nào trong chánh quyền. Ông chỉ có kinh nghiệm
thuyết giảng cho quần chúng về công cuộc cách mạng. Không những thế, ông gặp
phải sự chống đối của những người thuộc tỉnh khác. Ông vốn là người Quảng Đông,
và nhiều người than phiền ông bổ nhiệm quá nhiều người Quảng Đông vào chính
phủ. Trong tình thế đó, nhiều người nghĩ rằng giải pháp hay nhất là ông từ
chức, nhường chỗ cho một người có khả năng hơn điều khiển chính phủ.
Tuy Tôn Dật Tiên trở thành tổng thống đầu tiên của Trung hoa,
nhưng thực quyền vẫn nằm trong tay Viên Thế Khải tại Bắc Kinh. Chính tại Bắc
Kinh, Viên Thế Khải được các quốc gia tây phương công nhận. Thực ra lúc đó Đồng
Minh Hội của Tôn Dật Tiên chưa sẵn sàng đối phó với thực tế của cuộc cách mạng.
Phe cách mạng chia làm hai phe chống đối nhau: phe thứ nhất tại Vũ Hán ủng hộ
Lê Nguyên Hồng và phe thứ hai tại Nam Kinh và Thượng Hải thì ủng hộ Tôn Dật
Tiên. Trong một cố gắng đoàn kết, hai phe đồng ý lập một đảng quốc gia mới,
được gọi là Quốc Dân Đảng. Tuy nhiên Quốc dân đảng mới thành hình, chưa thành
công nắm được tình thế khi mà các phe nhóm vẫn còn hăng say chống đối nhau.
Viên Thế Khải là một con cáo già, cả về chính trị và quân sự,
nên đã lợi dụng được sự chia rẽ của hai phe Vũ Hán và Nam Kinh. Viên Thế Khải
tìm cách thương thuyết ngầm với từng lãnh tụ Quốc dân đảng, và cố chứng minh
rằng chỉ có mình mới có khả năng chấm dứt sự hỗn loạn tại Trung Hoa, và Tôn Dật
Tiên chỉ là một người bất lực. Dần dần các lãnh tụ Quốc dân đảng có vẻ tin
tưởng những điều Viên Thế Khải nói. Chính Tôn Dật Tiên cũng đã làm một quyết
định bất ngờ: sau một tháng giữ chức tổng thống lâm thời, ông đã sẵn sàng từ
chức, nhường chức vụ đó cho Viên Thế Khải, với điều kiện Viên Thế Khải phải áp
lực ông vua cuối cùng nhà Mãn Thanh phải thoái vị để tránh đổ máu, và Viên Thế
Khải phải thành lập chính thể cộng hòa. Viên Thế Khải đã thành công lật đổ nhà
Mãn Thanh bằng cách bắt Phổ Nghi phải thoái vị, mặc dầu Viên Thế Khải nhượng bộ
triều đình Mãn Thanh rất nhiều điều khoản ưu đãi.
Những điều khoản Viên Thế Khải phải nhượng bộ nhà Thanh gồm có:
hoàng gia Mãn Thanh được làm chủ vĩnh viễn khu vực Cấm Thành và tất cả những
đặc quyền đặc lợi đã được hưởng trong quá khứ, kể cả việc giữ lại bốn ngàn cung
phi và thái giám, và hàng năm dược hưởng một ngân khoản bốn triệu quan. Sau đó
hoàng gia đã công bố bằng lòng cho phép Viên Thế Khải thành lập một chính phủ
cộng hòa.
Tuy được lên làm tổng thống thay Tôn Dật Tiên, nhưng Viên Thế
Khải không chịu di chuyển xuống thủ đô Nam Kinh, mặc dù Quốc dân đảng quyết tâm
duy trì thủ đô tại Nam Kinh. Viên Thế Khải thì không muốn rời bỏ Bắc Kinh vì
sức mạnh và phe nhóm của Viên Thế Khải ở miền bắc. Hơn nữa Viên Thế Khải cần
phải ở lại Bắc Kinh để thực hiện giấc mộng hoàng đế. Nhiều người biết rõ cái
mộng muốn làm hoàng đế của Viên Thế Khải. Tại Bắc Kinh người ta vẫn thường kể
cho nhau nghe một giai thoại sau đây để chế riễu cái mộng làm hoàng đế của Viên
Thế Khải:
"Viên Thế Khải có một thói quen phải ngủ một lát sau bữa ăn
trưa. Và ngay sau giấc ngủ trưa, một tên hầu phải dâng cho Viên một tách trà
cho tỉnh ngủ. Một hôm tên người hầu bước vào phòng ngủ của Viên như mọi ngày,
hai tay bưng một tách trà rất quý làm bằng ngọc; tên hầu không thấy Viên Thế
Khải đâu, mà chỉ trông thấy một con cóc khổng lồ đang ngồi trên giường của
Viên. Tên hầu giật mình hoảng sợ, đánh rơi cả chiếc tách quý. May tiếng động
không đánh thức giấc ngủ của họ Viên. Tên hầu rón rén chạy đi tìm người quản
gia, và mếu máo kể sự tình và xin tên quản gia tìm cách nào cho Viên Thế Khải
không trừng phạt hắn vì tội đánh vỡ mất cái tách bằng ngọc quý. Người quản gia
suy nghĩ một hồi rồi dặn tên hầu phải nói gì khi Viên Thế Khải hỏi đến cái tách
quý."
"Một lát sau, khi Viên Thế Khải thức dậy, thấy trà của mình
được đựng trong một chiếc tách tầm thường bằng sứ, liền hỏi cái tách bằng ngọc
đâu thì tên hầu trả lời đã làm vỡ chiếc tách đó rồi. Viên Thế Khải bừng bừng
nổi giận, nhưng tên hầu bình tĩnh giải thích tại sao chiếc tách bằng ngọc bị
vỡ: "Thưa tướng công, khi con bước vào phòng này con trông thấy một vật
rất lạ nằm trên giường của tướng công nên con hoảng hốt đánh rơi và làm vỡ
chiếc tách bằng ngọc." Họ Viên nổi giận hơn và hỏi tên hầu trông thấy gì.
Tên hầu vội thưa: "Con trông thấy một con rồng năm móng màu vàng nằm trên
giường của tướng công." Lập tức họ Viên hết giận, và còn có vẻ rất mừng
rỡ. Viên Thế Khải dị đoan tưởng đó là điềm lành, tướng tinh của mình là rồng
thì mình sẽ trở thành hoàng đế, vì rồng tượng trưng cho vương quyền. Họ Viên
liền mở tủ lấy mấy quan tiền thưởng cho tên hầu và căn dặn tên hầu không được
kể cho ai nghe những gì hắn đã trông thấy."
Viên Thế Khải phong cho Tôn Dật Tiên chức Giám đốc hệ thống hỏa
xa của Trung hoa, hy vọng cái chức vụ có số lương rất cao ấy sẽ làm hài lòng
Tôn Dật Tiên. Nhưng Tôn Dật Tiên thực sự vui lòng với chức Giám dốc hỏa xa, và
dự định sang Nhật vay thêm tiền để cải tiến hệ thống hỏa xa của Trung Hoa và
không hỏi ý kiến Viên Thế Khải. Đó là mối bất hòa đầu tiên giữa Viên Thế Khải
và Tôn Dật Tiên. Sau đó Tôn Dật Tiên quyết định làm một chuyến đi kinh lý bằng
xe lửa khắp Trung Hoa, từ Mãn châu tới Quảng Đông. Tôn Dật Tiên phong cho Tống
Giáo Nhân chức vụ Tổng Thủ Quỹ của ngành Hỏa xạ Lúc đó Tống Ái Linh là thư ký
riêng của Tôn Dật Tiên. Trong chuyến đi kinh lý này, Tôn Dật Tiên đem theo cả
Tống Ái Linh. Điều này chứng tỏ cho mọi người biết gia đình nhà họ Tống là
người của Tôn Dật Tiên. Như vậy gia đình nhà họ Tống lâm vào tình trạng nguy
hiểm, vì công khai liên kết với Tôn Dật Tiên, và Tôn Dật Tiên thì đang trở
thành kẻ đối đầu của Viên Thế Khải.
Viên Thế Khải |
Tôn Dật Tiên đã lấy vợ từ năm 19 tuổi và có ba người con, một
trai và hai gái. Người con trai của Tôn Dật Tiên là Tôn Khoa, đã trưởng thành
và đang du học tại Hoa Kỳ. Cuộc hôn nhân đầu tiên của Tôn Dật Tiên hoàn toàn do
gia đình sắp đặt, như phần đông các cuộc hôn nhân khác tại Trung hoa. Hai người
lấy nhau nhưng chưa bao giờ gặp mặt nhau trước khi cưới, và cũng không có quyền
có ý kiến. Ba tháng sau khi lấy vợ, Tôn Dật Tiên trở lại Hương Cảng tiếp tục
việc học, và rất ít khi về thăm vợ. Khi ông phải sống cuộc đời nguy hiểm của
một người bị triều đình tầm nã, thì ông giao vợ con cho người anh ở Hawaii
trông nom. Cuộc hôn nhân đầu tiên của ông hoàn toàn không có tình yêu, mà chỉ
vì bổn phận. Bà vợ Ông là một người vợ và người mẹ tận tụy, an phận theo một
nếp sống cổ truyền đã tồn tại hàng ngàn năm tại Trung hoa.
Bây giờ người vợ của Tôn Dật Tiên già rồi. Trong thời gian làm
việc chung với Tống Ái Linh, nhà đại cách mạng của Trung hoa đem lòng yêu cô
gái đáng tuổi con ông và là con gái bạn thân của ông. Có thể Tôn Dật Tiên so
sánh ÁI Linh, một cô gái trẻ đẹp, tân tiến mạnh khoẻ với người vợ già và quê
mùa cổ hủ của ông. Ông rất thích sự thông minh thực tế, tài ăn nói khéo léo và
thân thể chắc nịch của Ái Linh. Một hôm đang ngồi nói chuyện với một người bạn,
và ÁI Linh có việc bước vào phòng trong, Tôn Dật Tiên ngoái nhìn theo đôi mông
nẩy nở của Ái Linh và nói với người bạn:
"Tôi muốn kết hôn với Ái Linh."
Người bạn ngạc nhiên hỏi, "Bác sĩ đã có vợ rồi mà?"
Tôn Dật Tiên thản nhiên trả lời, "Tôi sẽ ly dị vợ tôi trước
rồi xin cưới ÁI Linh sau."
Người bạn phản đối, "Nhưng Ái Linh là con của Tống Giáo
Nhân, một người bạn thân của Bác sĩ. Bác sĩ nên nhớ Tống Giáo Nhân có ơn lớn
với Bác sĩ, và đã giúp đỡ Bác sĩ rất nhiều để Bác sĩ có được như ngày hôm naỵ
Đối với Ái Linh và các người con khác của Tống Giáo Nhân, Bác sĩ vẫn được coi
như một người chú. Họ có khác gì con của Bác sĩ đâu?"
Nhà đại cách mạng vẫn cương quyết, "Tuy vậy tôi vẫn muốn
lấy Ái Linh."
Một buổi tối Tôn Dật Tiên đến thăm Tống Giáo Nhân và đề nghị xin
cưới Ái Linh. Tống Giáo Nhân vô cùng kinh ngạc, mặt tái mét nhìn trừng trừng
vào mặt Tôn Dật Tiên, một người bạn chí thân của ông trong suốt hai mươi năm
vừa quạ Khi lấy lại được bình tĩnh, Tống Giáo Nhân buồn bã nói với Tôn Dật Tiên,
"Tôn Dật Tiên, tôi là người Thiên chúa giáo. Từ trước tới nay, tôi vẫn
tưởng ông cũng là một người Thiên chúa giáo như tôi. Tôi không bao giờ nuôi
dưỡng con cái tôi một cách buông thả để chúng có thể chấp nhận một đề nghị quái
gở như của ông. Chúng tôi là một gia đình Thiên chúa giáo, và mãi mãi sẽ như
thế."
Tôn Dật Tiên rất ngỡ ngàng trước sự từ chối quyết liệt của Tống
Giáo Nhân. Mặt ông bối rối và cực kỳ bẽn lẽn.
Tống Giáo Nhân nói tiếp, "Tôn Dật Tiên. Xin mời ông về đi.
Tôi muốn ông đừng bao giờ trở lại nhà tôi nữa."
Tuy nhiên sau đó hai người vẫn tiếp tục cộng tác với nhau một
thời gian nữa, tuy tình thân không còn được như trước. Tôn Dật Tiên và Tống ÁI
Linh không thể là một cặp vợ chồng tướng xứng hòa hợp với nhau được, không
những vì sự cách biệt về tuổi tác, mà còn vì bản chất rất khác nhau nữa. Tôn
Dật Tiên là một người lý tưởng, mơ mộng xa thực tế trong khi Tống Ái Linh là
một người rất thực tế và rất say mê tiền bạc
.
Viên Thế Khải |
Đầu năm 1913, Viên Thế Khải có vẻ thắng thế trong âm mưu đoạt
quyền lãnh đạo Trung Hoa, và muốn tái lập chế độ quân chủ để trở thành một
hoàng đế. Trong cuộc bầu cử năm đó, Quốc dân đảng thắng lớn, nhưng Viên Thế
Khải đâu có dễ dàng chịu thua như vậy. Từ Cấm Thành tại Bắc Kinh, Viên Thế Khải
phái những tay thích khách đi khắp nơi ám sát các lãnh tụ Quốc dân đảng. Nạn
nhân đầu tiên là Cung Châu Gia, một chính trị gia trẻ tuổi, có tài tổ chức, và
tạo được một hậu thuẫn mạnh mẽ tại nông thôn. Danh tiếng Cung Châu Gia ngày một
gia tăng, và có thể là một đe dọa cho Viên Thế Khải. Ngày 20-3-1913, trong lúc
Cung Châu Gia đi xe lửa tại Thượng Hải, một thích khách nhắm vào bụng ông bắn
hai phát súng. Hai phát đạn này có mục đích tạo sự đau đớn vô cùng trong lúc
nạn nhân hấp hối. Cung Châu Gia lăn lộn đau đớn trong hai ngày mới chết được.
Sau đó là hàng loạt các vụ ám sát khác, phần lớn là đầu độc vì
người Trung hoa hay ăn tiệc. Ngày 11-7-1913, tổng đốc Quảng Tây được sự khuyến
khích của Tôn Dật Tiên nên tuyên bố ly khai với Bắc Kinh, và trở thành một tỉnh
độc lập. Tôn Dật Tiên cũng công khai lên án âm mưu muốn làm hoàng đế của Viên
Thế Khải. Lập tức Viên Thế Khải cách chức Giám đốc Hỏa xa của Tôn Dật Tiên và
ra lệnh tróc nã. Tôn Dật Tiên phải vội vã trốn sang Đông Kinh.
Viên Thế Khải |
Viên Thế Khải ra tuyên cáo Quốc dân đảng chỉ là một tổ chức nổi
loạn và ra lệnh giải tán Quốc dân đảng. Sau đó họ Viên bổ nhiệm một Hội đồng
Chính trị để làm cố vấn cho Viên, và thành lập một Hội Đồng Hiến Pháp với thành
phần là những đại biểu được dân bầu lên. Họ Viên cố chứng minh những lợi điểm
của một nền quân chủ so với chính thể cộng hòa. Một số ít người cũng đồng ý với
họ Viên. Tại Nhật Bản, phe cách mạng nhìn thấy Viên Thế Khải đang phá hoại công
trình của họ đã tạo được sau bao nhiêu năm cố gắng, và cảm thấy rằng họ sẽ phải
bắt đầu lại từ đầu.
Khi Tôn Dật Tiên trốn sang Nhật thì Tống Giáo Nhân cũng lâm vào
tình cảnh nguy hiểm, vì mọi người biết rõ Tống Giáo Nhân là đồng chí của Tôn
Dật Tiên, và đã hoạt động sát cánh với Tôn Dật Tiên. Nếu Tống Giáo Nhân tiếp
tục ở lại Thượng Hải thì chắc chắn sẽ không tránh thoát được bàn tay của những
thích khách do Viên Thế Khải phái tới. Tống Giáo Nhân đành phải quyết định đem
cả gia đình trốn sang Nhật, gồm có Ái Linh, Khánh Linh và hai cậu con trai nhỏ.
Lúc đó Tống Tử Văn và Tống Mỹ Linh vẫn còn du học tại Hoa Kỳ.
Khi tới Nhật Bản, gia đình Tống Giáo Nhân được Quốc dân đảng tại
Nhật đón tiếp nồng hậu. Tống Ái Linh vẫn trở lại công việc làm thư ký cho Tôn
Dật Tiên như trước. Tôn Dật Tiên cũng đem theo cả vợ con sang lánh nạn tại
Nhật. Vì bổn phận của một lãnh tụ cách mạng, Tôn Dật Tiên đã phải sống xa gia
đình gần như suốt cả cuộc đời, vì thế hai vợ chồng bây giờ có vẻ xa cách nhau.
Sự ràng buộc giữa Tôn Dật Tiên và vợ con dường như rất lỏng lẻo. Nhưng tại Nhật
Bản, vợ của Tôn Dật Tiên tìm thấy sự an ủi ở một tình bạn thân cận với bà Tống
Giáo Nhân. Hai bà trở thành hai người bạn thân thiết với nhau, và cùng nhau đi
thăm nhiều thắng cảnh tại Nhật Bản.
Chương 4: Cuộc Tình Duyên Của Tống Ái Linh Và Khổng Tường Hy
Tại Nhật Bản, Tống Giáo Nhân được giới thiệu với Khổng Tường Hy,
một nhà tài phiệt Trung Hoa còn rất trẻ, mới 33 tuổi. Khổng Tường Hy người tỉnh
Sơn Tây và là dòng dõi đức Khổng Tử. Gia đình Khổng Tường Hy cực kỳ giầu có.
Dinh cơ nhà họ Khổng tại Sơn Tây có tới ba trăm phòng ốc, chiếm một diện tích
trên tám mươi mẫu đất, và trong nhà có trên năm trăm nô bộc phục dịch. Những đồ
đạc trong nhà cực kỳ sang trọng quý giá. Bàn ghế tủ giường được mua và chở từ
Quảng Đông lên tận miền bắc. Tài sản nhà họ Khổng là do một hệ thống các tiệm
cầm đồ, các dịch vụ buôn bán bất động sản và ngân hàng. Thân phụ Khổng Tường Hy
hiện đang điều khiển việc làm ăn của gia đình tại Bắc Kinh. Khổng Tường Hy mồ
côi mẹ rất sớm, và được thân phụ gửi theo học tại một trường truyền giáo, tại
đây Khổng Tường Hy bí mật theo đạo Thiên Chúa.
Khi loạn Quyền Phỉ của Nghĩa Hòa Đoàn bùng nổ năm 1900, các nhà
truyền giáo ngoại quốc tại Trung hoa, và ngay cả những người Trung hoa theo đạo
Thiên Chúa, đã bị loạn quân và triều đình tàn sát rất dã man. Việc lợi dụng
Nghĩa Hòa Đoàn để chống lại người tây phương là một sai lầm nghiêm trọng của Từ
Hy Thái Hậu, khiến cho nhiều thành phố lớn của Trung hoa bị liên quân tây
phương tàn phá để trả thù, và số thường dân vô tội bị chết oan cũng rất nhiều.
Trong những năm cuối thế kỷ 19, miền bắc Trung hoa hay bị hạn
hán, mất mùa khiến các nông dân nghèo phải phiêu bạt kiếm miếng ăn, và rất công
phẫn bất mãn triều đình. Lúc bấy giờ có hai người là Trương Đạt Thanh và Cao
Phúc Điền đứng ra chiêu mộ thanh thiếu niên từ 15 tuổi trở lên để dạy quyền
thuật. Hai người này còn đưa ra những nghi lễ cúng bái cho thêm phần kỳ bí, và
ban phát những bùa chú có thể chống được gươm dáo, và khiến đối phương phải
hoảng loạn tinh thần khi giao chiến. Hai người tổ chức môn đệ như tuần đinh
trong làng, và đo đó được gọi là Nghĩa Hòa Đoàn, và môn võ của họ được gọi là
Nghĩa Hòa Quyền. Về mặt tôn giáo, Nghĩa Hòa Đoàn rất giống với Bạch Liên Giáo.
Mục tiêu của Nghĩa Hòa Đoàn là tấn công các cơ sở truyền giáo
của người tây phương, vì họ cho đó là nguyên nhân của mọi tai họa mà người dân
Trung Hoa đang phải chịu đựng. Trong năm 1899, các nhà thờ Thiên Chúa giáo tại
vùng Sơn Đông bị Nghĩa Hòa Đoàn tấn công phá hủy, giáo sĩ bị giết hoặc phải bỏ
trốn về những thành phố an toàn. Bị các quốc gia tây phương phản đối và hăm
dọa, triều đình nhà Thanh phải sai Viên Thế Khải ra trấn thủ Sơn Đông để diệt
Nghĩa Hòa Đoàn. Nhưng một số quan nhà Thanh thấy Nghĩa Hòa Đoàn có thể dùng
được để áp lực lại tây phương, nên liên kết với Nghĩa Hòa Đoàn. Do vậy, Nghĩa Hòa
Đoàn đưa ra khẩu hiệu "Phù Thanh Diệt Dương". Vì lẽ này, các bang hội
"Phản Thanh Phục Minh" chống lại Nghĩa Hòa Đoàn, và đã có những sự
xung đột giữa Nghĩa Hòa Đoàn và các bang hội khác.
Năm 1900, Từ Hy Thái Hậu tin tưởng pháp thuật của Nghĩa Hòa Đoàn
có thể chống lại được sức mạnh của tây phương, nên cho Nghĩa Hòa Đoàn vào Bắc
Kinh. Khu vực của người tây phương tại Bắc Kinh bị quân Nghĩa Hòa Đoàn bao vây,
và gây nhiều thiệt hại cho người tây phương. Nhiều giáo sĩ tây phương và người
Trung hoa theo đạo Thiên Chúa bị tàn sát. Khi liên quân các nước tây phương
tiến vào tấn công, quân của Nghĩa Hòa Đoàn tay không xông vào quân địch, bất kể
súng đạn, vì họ tin rằng bùa chú của họ sẽ thắng. Nhưng Nghĩa Hòa Quyền và bùa
chú của họ không chống lại được súng đạn của tây phương. Do đó, Nghĩa Hòa Đoàn
bị đánh tan tành, thây chất thành đống, và Từ Hy Thái Hậu cùng vua Quang Tự
phải bỏ kinh thành chạy trốn về Tây An, để mặc Lý Hồng Chương ở lại thương
thuyết cầu hòa.
Khi Nghĩa Hòa Đoàn tàn sát giáo sĩ tây phương và người Trung hoa
theo đạo Thiên Chúa thì Khổng Tường Hy may mắn thoát được cuộc tàn sát là nhờ
về thăm nhà. Khổng Tường Hy thú thật với thân phụ đã theo đạo Thiên Chúa, và
được thân phụ và người chú dấu thật kỹ trong nhà. Mãi tới khi loạn Quyền Phỉ bị
dẹp rồi Khổng Tường Hy mới được tự do ra ngoài.
Ngay chính tại Sơn Tây, sinh quán của Khổng Tường Hy, một cuộc
hành quyết các giáo sĩ ngoại quốc đã xảy ra. Cuộc hành quyết bắt đầu với các
mục sư giòng Baptist. Mục sự Farthing bị lính dẫn lên trước. Bà vợ nắm chặt lấy
tay mục sư, nhưng Farthing nhẹ nhàng đẩy tay vợ ra, đi thẳng tới trước người
đao phủ và quỳ xuống. Một nhát dao vung lên, và đầu mục sư Farthing rụng xuống.
Kế đó là các vị mục sư khác, tất cả đều bị chặt đầu.
Viên tổng đốc thấy cuộc hành quyết quá chậm chạp mà số nạn nhân
thì còn nhiều, nên ra lệnh cho các binh sĩ khác dùng kiếm tiếp tay với các đao
phủ, để giải quyết cho xong số nạn nhân còn đông đảo. Bà mục sư Farthing hai
tay nắm chặt hai đứa con, nhưng binh sĩ giằng hai đứa bé ra, và đao phủ vung
đao. Chỉ một nhát, đầu bà Farthing đã văng đi. Sau người lớn, các đao phủ tiếp
tục hạ sát đến trẻ con. Nghệ thuật chém đầu của họ thật điêu luyện, vì đã có
nhiều kinh nghiệm. Chỉ một nhát dao vung lên là xong đời một nạn nhân. Tuy
nhiên cũng có vài đao phủ hơi vụng về, chưa quen với công việc chặt đầu người,
nên đôi khi phải chém tới vài nhát mới làm xong nhiệm vụ, khiến nạn nhân phải
vô cùng đau đớn.
Bà mục sư Lovitt đeo kính, nắm chặt tay con và nói với viên tổng
đốc, "Chúng tôi tới Trung Hoa để đem tin lành cho các ông về Chúa Cứu Thế.
Chúng tôi không làm điều gì hại, mà chỉ làm điều tốt. Tại sao các ông đối xử
với chúng tôi như vậy?" Một tên lính bước tới lột kính của bà Lovitt ra,
và hắn phải chém hai nhát mới chặt đứt được cổ bà Lovitt. Lúc chết rồi, tay bà
Lovitt vẫn nắm chặt tay đứa con bà.
Khi các mục sư Tin Lành tử đạo xong thì đến lượt các linh mục
công giáo người Pháp. Vị giám mục được dẫn ra trước. Vị giám mục đã già quá
rồi, râu tóc bạc phợ Ông hỏi viên tổng đốc tại sao ông ta hành động tàn ác như
thế. Viên tổng đốc trả lời vị giám mục già bằng một nhát kiếm tréo ngang mặt.
Máu phun ra nhuộm đỏ bộ râu bạc của vị giám mục già, và ông gục xuống chết ngaỵ
Sau đó là các linh mục và các vị nữ tu, tất cả đều chịu chung một hình phạt
chặt đầu.
Ngày hôm đó tất cả 45 giáo sĩ tây phương và gia đình bị hành
quyết, cùng với một số đông người Trung Hoa theo đạo Thiên Chúa. Xác của các
nạn nhân để mặc nằm tại bãi hành quyết suốt đêm hôm đó, vì mãi đến chiều tối
cuộc hành quyết mới chấm dứt. Trong đêm hôm đó, tất cả các xác đều bị lột hết
quần áo và những gì có giá trị đeo trên mình. Ngày hôm sau, tất cả xác đều được
chôn tập thể, trừ một vài cái đầu được đem đóng đinh ngay vào cổng thành, để
làm gương cho công chúng.
Quan quân nhà Thanh cũng như loạn quân Quyền Phỉ không khỏi kinh
ngạc cảm phục và e sợ trước sự can đảm của gia đình các nhà truyền giáo tây
phương. Trừ một vài sự run rẩy ở phía các bà, và các bàn tay trẻ con nắm chặt
váy mẹ ra, không một ai khóc lóc, kêu than hoặc van xin tha chết. Tất cả các nạn
nhân bình thản chấp nhận cái chết thảm khốc dưới đao kiếm của quan quân nhà
Thanh.
Sự hành quyết dã man các giáo sĩ truyền giáo và gia đình họ đã
gây phẫn nộ tại tây phương. Sáu quốc gia phái quân đội đến trả thù, một cuộc
trả thù vô cùng đắt giá cho người Trung hoa. Nếu chờ quân đội từ chính quốc tới
thì lâu quá, người Anh phải tung vào cuộc trả thù ba ngàn lính Ấn Độ, trong khi
người Pháp đem một số lính thuộc địa người Việt nam sang tham chiến. Huân tước
Alfred von Waldersee, chỉ huy quân đội Đức, ra lệnh cho binh sĩ dưới
quyền:"Khi các ngươi gặp quân Trung Hoa, các ngươi phải đánh bại chúng.
Không được tha một tên nào, không được bắt chúng làm tù binh, mà phải giết hết.
Tất cả những kẻ nào rơi vào tay các ngươi, các ngươi mặc sức chém giết. Cũng như
người Mông Cổ cách đây gần một ngàn năm dưới quyền của Hốt Tất Liệt đã tạo được
danh tiếng khủng khiếp còn lưu truyền đến ngày nay, thì bây giờ các ngươi có
nhiệm vụ làm cho Đức quốc cũng được kinh sợ như vậy tại Trung Hoa, và từ nay
người Trung Hoa sẽ không dám nhìn thẳng vào mặt người Đức."Sau đó là một
cuộc tàn sát trả thù vô cùng khủng khiếp của liên quân tây phương. Các thành
phố và cung điện bị tàn phá thành những đống gạch vụn vĩ đại. Quân Nga chặt đầu
tất cả đàn ông đàn bà và trẻ con trong suốt cả một vùng rộng lớn, rồi liệng xác
nạn nhân xuống dòng sông Hắc Long Giang. Trong lúc đó thì Khổng Tường Hy có mặt
tại Bắc Kinh. Khi được tin tỉnh Sơn Tây sẽ bị liên quân tây phương chiếu cố đặc
biệt, vì chính tại Sơn Tây số giáo sĩ bị chặt đầu nhiều hơn hết. Khổng Tường Hy
liền đứng ra thương thuyết, và dùng rất nhiều vàng bạc đút lót cho tây phương,
gọi là tiền bồi thường. Gia đình nhà họ Khổng còn nhường lại rất nhiều quyền
lợi kinh tế cho tây phương tại Sơn Tây, và nhờ đó cuộc trả thù của tây phương
tại Sơn Tây đã tránh được.
Triều đình nhà Thanh rất cảm kích công lao của Khổng Tường Hy,
và cấp thông hành đặc biệt cho Khổng Tường Hy được sang du học tại Hoa Kỳ.
Khổng Tường Hy học tại đại học Yale, và đậu bằng tiến sĩ về môn kinh tế tài
chánh. Khi trở về Trung Hoa, Khổng Tường Hy làm cố vấn cho sứ quân Diêm Tích
Sơn một thời gian. Về sau Khổng Tường Hy mở trường giáo dục quần chúng, quảng
bá lý tưởng dân chủ. Khi cuộc cách mạng xảy ra tại những tỉnh khác thì dân
chúng Sơn Tây yêu cầu Khổng Tường Hy đứng ra chỉ huy quân đội tình nguyện của
Sơn Tây, bao gồm những cảnh sát và vệ sĩ của các nhà giàu. Dân chúng muốn Khổng
Tường Hy làm tổng đốc Sơn Tây, nhưng họ Khổng từ chối, và chỉ quan tâm tới vấn
đề giáo dục.
Theo Khổng Tường Hy thì việc giáo dục rất quan trọng cho công
cuộc cách mạng, cải tiến đất nước. Họ Khổng tuyên bố, "Chúng ta không thể
hoàn thành cuộc cách mạng một sớm một chiều được. Người ta có thể tiến hành
thành công một cuộc đảo chánh, thay đổi thể chế chính trị trong một đêm. Nhưng
sau đó làm sao chúng ta có người để điều hành chính phủ? Chúng ta cần phải học
tập cách cai trị đất nước, và giáo dục là bước đầu và quan trọng nhất trong một
cuộc cách mạng."
Năm 1910, Khổng Tường Hy kết duyên với một thiếu nữ mồ côi nhưng
rất đẹp, và được học tại một trường truyền giáo. Cả hai người sống rất hạnh
phúc bên nhau được mấy năm tại Sơn Tây. Đến năm 1913, năm mà Viên Thế Khải trở
thành một nhà độc tài tại Bắc Kinh, thì vợ Khổng Tường Hy mắc bệnh chết. Khổng
Tường Hy rất đau lòng và nản chí trước cái chết của người vợ yêu quý, nên bỏ
nước sang Nhật Bản một năm để tìm quên. Chính tại đây Khổng Tường Hy gặp được
Tống Giáo Nhân và Tống Ái Linh.
Trong thời gian còn du học tại Hoa Kỳ, Khổng Tường Hy và Tống Ái
Linh đã gặp nhau một lần trong một buổi tiệc liên hoan năm 1906. Bây giờ gặp
lại nhau, Khổng Tường Hy bỗng say mê Ái Linh. Đối với Tống Ái Linh thì Khổng
Tường Hy chính là một người chồng lý tưởng, một người không đẹp trai hấp dẫn,
mặt mũi tròn như một trái bí, nhưng lại có rất nhiều tiền. Đối với Ái Linh thì
chỉ có tiền là đẹp, càng nhiều tiền thì càng đẹp.
Khi Khổng Tường Hy ngỏ lời cầu hôn lấy Tống Ái Linh, thì ngay
tối hôm ấy, Tống Giáo Nhân dùng hai đồng tiền gõ vào nhau để xem điềm tốt hay
điềm xấu. Hai đồng tiền gõ vào nhau, vang lên những âm thanh rất trong trẻo
ngọt ngào. Đó là những âm thanh của lợi lộc và phát tài. Tống Giáo Nhân vui vẻ
chấp nhận lời cầu hôn của "cây tiền" Khổng Tường Hỵ Hôn lễ của Tống
Ái Linh và Khổng Tường Hy được cử hành tại Nhật Bản vào mùa xuân năm đó.Mối
Tình Tống Khánh Linh Và Tôn Dật TiênTrong lúc còn du học tại Hoa Kỳ, Tống Khánh
Linh vẫn theo dõi hoạt động cách mạng của Tôn Dật Tiên. Nàng vô cùng sung sướng
khi Tôn Dật Tiên trở thành tổng thống năm 1912. Trong dịp đó, Tống Khánh Linh
viết một bài báo chào mừng ngày trọng đại của Trung Hoa, và coi Tôn Dật Tiên là
một vị anh hùng và cứu tinh cho dân tộc Trung Hoa. Năm 1913 Tống Khánh Linh hồi
hương và gặp người anh hùng của nàng. Nếu Tôn Dật Tiên thành công trong chức
tổng thống thì có lẽ rồi Khánh Linh cũng quên dần Tôn Dật Tiên, và sẽ đi theo
con đường riêng của nàng. Nhưng Tôn Dật Tiên là một mẫu anh hùng cách mạng thất
bại. Hết thất bại này đến thất bại khác theo đuổi ông trong suốt cuộc đời hy
sinh tận tuy tranh đấu cho đất nước của ông. Chính những thất bại của Tôn Dật
Tiên đã khiến hai cuộc đời của ông và Tống Khánh Linh gặp nhau. Phải chăng đó
là định mệnh?
Tống Khánh Linh trở về nước để thấy Tôn Dật Tiên đang thất thế,
phải trốn tránh và đang ở trong một tình trạng cô đơn gần như tuyệt vọng. Viên
Thế Khải đã trở thành người của thời cuộc, và đang ra lệnh tầm nã Tôn Dật Tiên.
Chính cuộc đời lưu vong tại Nhật Bản của hai nhà họ Tôn và họ Tống đã tạo môi
trường cho Khánh Linh và Tôn Dật Tiên lại gần nhau.
Tương lai chính trị của Tôn Dật Tiên trong thời gian lưu vong
tại Nhật Bản không được sáng sủa lắm. Trong một cố gắng đạt được sự ủng hộ của
Nhật Bản để có thể đương đầu với Viên Thế Khải, Tôn Dật Tiên đã hứa hẹn dành
cho người Nhật rất nhiều đặc quyền đặc lợi tại Trung Hoa nếu người Nhật giúp
ông đánh bại được Viên Thế Khải. Tôn Dật Tiên không biết được rằng người Nhật
cũng đang đi đêm với cả Viên Thế Khải. Tôn Dật Tiên vẫn nhất quyết đạt được sự
trợ giúp của người Nhật nên ông nhượng bộ thêm nữa, hứa cho người Nhật được
hưởng những đặc quyền như người Anh tại Trung Hoa. Các đề nghị của Tôn Dật Tiên
làm các giới chức Nhật rất thèm muốn, nhưng đúng lúc đó đệ nhất thế chiến bùng
nổ tại Âu châu. Người Nhật muốn chờ đợi, vì họ biết quyền lợi của người Anh tại
Á Châu sẽ thay đổi rất nhiều, tùy theo kết quả của cuộc đại chiến. Do đó mọi nỗ
lực của Tôn Dật Tiên đều không đưa đến một kết quả nào.
Những thất bại liên tiếp làm Tôn Dật Tiên ngã lòng, và ảnh hưởng
đến tinh thần ông. Lúc đó là giai đoạn đen tối nhất cho những người Trung Hoa
đang hoài bão một tương lai tươi sáng cho xứ sở họ. Cuộc Cách Mạng Tân Hợi 1911
là một hứa hẹn bình minh đầu tiên sau hàng ngàn năm tăm tối. Nhưng cuộc cách
mạng này đã bị phản bội, và cuối cùng đưa Trung Hoa vào sự đen tối của chế độ
độc tài Viên Thế Khải. Thật là một nghịch cảnh lớn lao đối với các nhà cách mạng
Trung Hoa, vì đã có lúc họ tưởng như đã đạt được mục đích. Nhiều người Trung
Hoa ái quốc đã phải tự tử vì không chịu đựng nổi sự thất vọng sâu xa này.
Trong hoàn cảnh tuyệt vọng đó, Tôn Dật Tiên rất cần một người,
một điểm tựa để bấu víu vào cho khỏi ngã quỵ, ít nhất là về mặt tinh thần. Tình
bạn thân mật giữa Tôn Dật Tiên và Tống Giáo Nhân trước kia không còn nữa, sau
vụ Ông đòi lấy Ái Linh làm vợ. Sau khi Ái Linh kết hôn với Khổng Tường Hy, và
tìm thấy hạnh phúc của nàng thì nàng từ giã công việc làm thư ký buồn tẻ và
không công cho Tôn Dật Tiên. Chưa bao giờ Tôn Dật Tiên cảm thấy cô đơn và chán
đời như thế, vừa mất Ái Linh, vừa không nhìn thấy tia hy vọng của công cuộc
quang phục nước Trung Hoa. Đúng giây phút tuyệt vọng ấy, Tống Khánh Linh đến
với Tôn dật Tiên, như một nàng tiên đưa một ông già đang mang một tâm hồn cằn
cỗi mệt mỏi, vào một vùng của hồi sinh và hạnh phúc. Tống Khánh Linh đang ở
trong tình trạng rảnh rỗi nên tình nguyện thay thế chị, đến làm việc giúp đỡ
Tôn Dật Tiên mỗi ngày.
Tống Ái Linh và Tống Khánh Linh là hai thái cực, khác nhau rất
nhiều phương diện. Ái Linh buồn tẻ bao nhiêu thì Khánh Linh xinh đẹp bấy nhiêu.
Ái Linh thực tế, tính toán và yêu tiền bạc bao nhiêu thì Khánh Linh hồn nhiên,
lý tưởng, thiên về tinh thần và những giá trị cao quý bấy nhiêu. Khi đến với
Tôn Dật Tiên, Khánh Linh chỉ là một bông hoa mới chớm nở, một thiếu nữ xinh
đẹp, trí thức, say mê lý tưởng và hết lòng yêu mến nước Trung Hoa.
Đối với Khánh Linh thì làm việc với Tôn Dật Tiên là một hạnh
phúc. Niềm hạnh phúc sâu xa của nàng là do nàng cảm nhận rằng nàng đang thỏa
mãn niềm khao khát của nàng ngay từ khi nàng còn nhỏ. Cuộc đời mới của nàng là
phục vụ cho cách mạng. Nàng nghĩ những gì nàng làm cho Tôn Dật Tiên sẽ đem lại
tự do và hạnh phúc cho hàng triệu công nhân và nông dân Trung Hoa. Những gì
nàng ghi chép cho Tôn Dật Tiên đã giúp nàng hiểu rõ ý nghĩa đích thực của cách
mạng. Nhiều lúc Khánh Linh cảm động vì những gì nàng viết đến nỗi phải ngừng
lại để lấy lại bình tĩnh mới có thể viết tiếp được. Nàng giống như một dòng
suối nhỏ uốn khúc quanh co để tìm lối ra đại dương, và bây giờ bất chợt cảm
thấy mình trở thành một phần của một dòng thác lũ, cuồn cuồn xô tới một vùng
nước mênh mông. Đây chính là điều nàng muốn thực hiện, cái nhu cầu của chính
bản thân nàng, một nhu cầu mà nàng không kiềm chế nổi.
Khi làm việc với Tôn Dật Tiên, Khánh Linh học hỏi được căn bản
của cách mạng, từ khởi đầu cho tới hiện tại, những khó khăn cũng như những hứa
hẹn của tương lai. Nàng nhận thấy cách mạng là một cái gì lớn lao cao cả, và
nhận thức Tôn Dật Tiên đã quá lý tưởng không nhìn thấy được những thực tế khó
khăn. Nàng hiểu Tôn Dật Tiên vì chính nàng cũng là một con người lý tưởng, và
hiểu được những ước vọng tha thiết thầm kín của Tôn Dật Tiên. Nhưng vì còn trẻ,
nên Khánh Linh không coi những khó khăn là quá to lớn, trái lại những khó khăn
ấy còn như gây hứng khởi cho nàng. Sự công bình và chính đáng của các nguyên
tắc cách mạng khích lệ nàng, và nàng tin tưởng rằng công cuộc cách mạng sẽ
thắng và Trung Hoa sẽ trở thành một quốc gia trong đó người dân được làm chủ
vận mạng của mình.
Khánh Linh chỉ là một cô gái trẻ bên cạnh một Tôn Dật Tiên đã
già, tuy vậy những bản năng che chở bảo vệ của một người mẹ trong người nàng
tuôn tràn ra để trợ giúp Tôn Dật Tiên. Đối với người khác, Khánh Linh có vẻ xa
cách, dè dặt, tránh né, nhưng nàng hết sức cởi mở, bộc lộ hết tâm tư với Tôn
Dất Tiên, vì nàng nghĩ ông hiểu nàng. Khánh Linh ít khi nào tâm sự với bất cứ
ai trong gia đình nàng, trừ một đôi lần với thân phụ và Mỹ Linh. Từ trước tới
nay, Khánh Linh dường như sống một cuộc đời cô đơn thầm kín. Mãi cho tới nay,
khi gặp Tôn Dật Tiên, cuộc đời mới thực sự mở ra cho nàng, và rất sống động.
Khánh Linh thường làm việc rất khuya, đến quá nửa đêm, cùng với
Tôn Dật Tiên. Nàng bàn luận với Tôn Dật Tiên những gì cần phải viết, và viết
cách nào cho có hiệu quả. Ban đêm trên giường ngủ, nàng thường nằm nghĩ lại
những đoạn văn nàng viết, về những gì nàng và Tôn Dật Tiên bàn thảo với nhau.
Những lúc ấy, một ý nghĩ mới và mạnh mẽ bắt đầu xâm chiếm tâm hồn nàng, nhưng
nàng vẫn cố gắng kiềm chế để chờ biết rõ tâm hồn nàng hơn nữa.
Nhiều khi Khánh Linh thấy Tôn Dật Tiên lo lắng, tinh thần và thể
xác mệt mỏi. Ông cần phải có một sức mạnh mới, vĩnh viễn bên cạnh trợ giúp ông.
Khánh Linh tự nhủ, "Ta có thể giúp Trung Hoa và ta có thể giúp bác sĩ Tôn
Dật Tiên. Bác sĩ cần tạ" Nàng chưa nói điều đó ra với ai, nhưng đó là một
niềm tin không thể lay chuyển nổi của nàng. Tinh thần chính trực của nàng bảo
cho nàng rằng nếu nàng dâng hiến đời nàng cho công cuộc cách mạng thì đây là
hành động cuối cùng, không thể lùi được. Thân phụ nàng tin rằng Trung Hoa cần
phải thay đổi, nhưng không phải là sự thay đổi mà nàng biết Tôn Dật Tiên đang
toan tính. Quyết định của nàng có phản lại cái gia đình yêu quý của nàng không,
nàng tự hỏi? Hằng đêm nàng nằm yên lặng, không ngủ, cố đi sâu vào nội tâm của
mình.
Nhưng cái tinh thần tận tụy và khả năng hy sinh của Khánh Linh
đã giúp nàng quyết định khi cái ý nghĩ đầu tiên đến với nàng. Tuy nhiều đêm
nàng nằm suy nghĩ, tự hỏi lòng mình, và cố gắng chắc rằng sau này sẽ không có
sự thay đổi nữa, nhưng lòng nàng đã thực sự quyết định rồi. Khánh Linh không
còn là một người con gái như mọi người trong gia đình vẫn nghĩ về nàng: dè dặt
ít nói, nhát sợ, hay mắc cở và khiêm tốn. Nàng biết rằng từ trước nàng vẫn che
dấu nhân cách của nàng. Nhưng bây giờ nàng sống với tâm hồn thực của nàng, một
con người đầy nghị lực, sẵn sàng và bạo dạn dâng hiến đời nàng cho cách mạng.
Hàng ngày Tôn Dật Tiên và Khánh Linh làm việc bên nhau, gần gũi
nhau và càng lúc càng ý hợp tâm đầu, vì hai người có cá tính giống nhau. Khánh
Linh thấy ở Tôn Dật Tiên một lý tưởng cao đẹp quang phục nước Trung Hoa, như
nàng vẫn thường ấp ủ. Nàng nhìn thấy ở Tôn Dật Tiên không phải là một ông già ở
tuổi ngũ tuần, mệt mỏi sau quá nhiều thất bại. Trái lại nàng chỉ thấy ở ông một
sự vô cùng đẹp đẽ, những hào quang của một kiểu mẫu anh hùng mà nàng hằng mơ
tưởng, một người đàn ông đẹp trọn vẹn với đầy đủ sức quyến rũ hùng tráng của
một bậc trượng phụ Còn Tôn Dật Tiên càng ngày càng say đắm cái nhan sắc tuyệt
trần của Khánh Linh, sự thông minh duyên dáng đáng mê của nàng, trong khi đó bà
vợ già quê mùa mà cha mẹ Ông cưới cho ông trên ba mươi năm trước, bây giờ mỗi
ngày một thấy vô duyên hơn.
Trước kia Tôn Dật Tiên muốn lấy Ái Linh làm vợ chỉ vì lòng ưa
thích sự mới lạ trẻ trung bên ngoài của một cô gái tân tiến. Nếu ông và Ái Linh
thành vợ chồng thì chắc chắn hai người đều không có hạnh phúc, vì bản chất khác
hẳn nhau. Nhưng bây giờ ông say mê Khánh Linh không những Khánh Linh đẹp và trẻ
hơn Ái Linh, mà ông còn cảm phục yêu mến cái tâm hồn cao thượng của nàng nữa.
Thế là việc phải đến đã đến. Hai con tim hòa hợp nhau, yêu nhau say đắm. Đây là
một sự kết hợp giữa mùa đông và mùa xuân, chàng đã 50 tuổi, có vợ và ba con đã
trưởng thành, và nàng mới chỉ 20 tuổi, một bông hoa hãy còn phong nhụy. Tuy
nhiên hai người vẫn cố gắng giữ kín mối tình lãng mạn của họ đến tối đa, không
một ai biết được.
Một điều bất ngờ xảy đến là Tống Giáo Nhân tỏ ý muốn trở về
Thượng Hải. Họ Tống đã mua một căn nhà lớn trong khu tô giới Pháp tại Thượng
Hải. Dĩ nhiên Khánh Linh kịch liệt phản đối quyết định trở về Thượng Hải của
thân phụ. Nàng đang ngụp lặn trong hạnh phúc đầu tiên và không muốn rời xa Tôn
Dật Tiên. Gia đình họ Tống phải kèm giữ Khánh Linh và đưa nàng về Thượng Hải
cấp tốc như một trường hợp bắt cóc. Hai vợ chồng Ái Linh và Khổng Tường Hy cũng
về theo. Có thể Tống Giáo Nhân tinh ý nghi ngờ có sự lén lút giữa Tôn Dật Tiên
và Khánh Linh, nên quyết định trở về Thượng Hải để kịp thời lôi con gái ra khỏi
cơn mệ Tống Giáo Nhân cũng không còn tin tưởng ở ông bạn cách mạng già của mình
nữa. Kể từ sau vụ từ chối không gả Ái Linh cho Tôn Dật Tiên, Tống Giáo Nhân
không còn quý trọng thân mật với người bạn chí thân nữa. Tống Giáo Nhân cũng
muốn tránh một trường hợp tương tự, phải từ chối lời cầu hôn của Tôn Dật Tiên
một lần nữa.
Chương 5: Cuộc Hôn Nhân Của Tống Khánh Linh Và Tôn Dật Tiên
Ngay khi về đến Thượng Hải, gia đình họ Tống loan báo lễ hứa hôn
của Khánh Linh với một thanh niên con một gia đình danh giá quyền quý. Khánh
Linh chống đối quyết định của gia đình một cách quyết liệt, và tuyên bố không
bao giờ chấp nhận cuộc hôn nhân ấy. Tâm hồn nàng đã gửi cả cho Tôn Dật Tiên tại
Đông Kinh rồi. Tống Giáo Nhân nhốt nàng trong một phòng ngủ trên lầu. Khánh
Linh bí mật viết thư cho Tôn Dật Tiên, hỏi ý kiến ông nàng trốn sang Nhật với
ông ta được không. Lá thư này Khánh Linh giao cho một đầy tớ gái thân tín đem
ra bỏ tận nhà bưu điện, để không bị thân phụ nàng biết. Nhận được thư Khánh
Linh, Tôn Dật Tiên vội vàng phúc đáp ngaỵ Nhà đại cách mạng thúc giục nàng phải
trốn sang Nhật với ông ta ngay tức khắc, vì ông ta rất cần nàng.
Khánh Linh trình bày cho thân phụ biết tất cả sự thực về mối
tình của nàng với Tôn Dật Tiên, và xin thân phụ chấp thuận cho nàng được toại
nguyện, được kết hôn với Tôn Dật Tiên. Tống Giáo Nhân khăng khăng không chấp
nhận một cuộc hôn nhân mà ông cho là tội lỗi đó. Đối với bà Tống Giáo Nhân thì
không chuyện gì có thể gây kinh hoàng cho bà hơn thế. Bà biết vợ chồng Tôn Dật
Tiên đều theo đạo Thiên Chúa, bà Tôn Dật Tiên cùng thế hệ với chồng và là một
người vợ chính đáng, xét theo mọi tiêu chuẩn đạo đức của Trung Hoa. Bà không
thể chấp nhận hành động của Tôn Dật Tiên bỏ người vợ cũ để chạy theo một người
con gái đáng tuổi con mình. Điều tàn nhẫn nhất đối với bà là người con gái trẻ
đó lại là con gái bà.
Nhưng Khánh Linh tỏ ra rất quyết tâm, không nhượng bộ sự ngăn
cấm của cha mẹ. Không những Khánh Linh có hành động chống đối với chính mẹ
nàng, mà còn đi ngược lại tất cả mọi tục lệ của xã hội Trung Hoa. Theo tục lệ
cổ của Trung hoa thì một người con gái có thể làm một người vợ bé, nhưng phải
do các bậc trưởng thượng của hai bên gia đình sắp đặt, và người con gái phải tỏ
vẻ vâng chịu quyết định của những người trưởng thượng. Người con gái Trung Hoa,
theo tục lệ cổ truyền, không thể tự ý đề nghị việc hôn nhân của mình, hoặc
không được phép chống đối lại ý chí của gia đình.
Vợ chồng Tống Giáo Nhân cho rằng gia đình họ gặp một điều đại
bất hạnh, và một hành động điếm nhục gia phong do chính đứa con gái cưng của
ông bà gây ra. Tống Giáo Nhân ra lệnh cho Khánh Linh phải trở lên phòng trên
lầu. Khánh Linh thành thực cho thân phụ biết nàng sẽ trốn sang Nhật với Tôn Dật
Tiên. Vì thế Tống Giáo Nhân cẩn thận khóa trái cửa phòng ngủ của con gái lại.
Nhưng ngay đêm đó, trong lúc người hầu gái đứng bên dưới giữ chân thang, Khánh
Linh trèo qua cửa sổ đi theo tiếng gọi của tình yêu. Ngay đêm đó Khánh Linh
xuống tầu thủy sang Kobe, Nhật Bản. Đó là một hành động vô cùng táo bạo đối với
một người con gái Trung hoa vào thời đó. Không những nàng bị coi là bất hiếu
với cha mẹ, mà còn phản lại nghĩa vụ gia đình nữa.
Khi Khánh Linh tới nơi, Tôn Dật Tiên cấp tốc tổ chức hôn lễ
ngay, để tạo ra một sự viêc đã rồi, nếu gia đình nhà họ Tống đến tận nơi để
phản đối. Ngoài ra Tôn Dật Tiên cũng không muốn Khánh Linh mang tiếng chỉ là
một người vợ bé của ông, và cũng không muốn mối tình duyên này có thể gây tai
hại cho công cuộc cách mạng. Đám cưới được cử hành một ngày sau khi Khánh Linh
tới Kobẹ Tôn Dật Tiên chưa kịp ly dị người vợ cả già nua của ông, nhưng ông tự
nhận ông ở vào tình trạng đã ly dị. Nếu Tôn Dật Tiên là một người theo đạo
Khổng thì ông có thể lấy thêm vợ bé, miễn là được vợ cả và các người trưởng
thượng trong gia tộc đồng ý. Nhưng ông là người theo đạo Thiên Chúa, và ông bị
coi như mắc tội đa thê.
Khi Tống Giáo Nhân khám phá Khánh Linh đã trốn khỏi nhà, ông
liền tra hỏi người hầu gái, và được biết Khánh Linh đã trốn sang Nhật Bản. Tống
Giáo Nhân liền vội vã xuống tàu Pacific Mail để đuổi theo con gái. Khi tới Kobe
ông dùng xe lửa đi Yokohama, nhưng quá trễ. Hôn lễ đã cử hành xong trước khi
ông tới. Tống Giáo Nhân đã thua Tôn Dật Tiên một bước, và đây có lẽ là sự thành
công duy nhất đáng kể trong cuộc đời cách mạng của Tôn Dật Tiên. Tống Giáo Nhân
đến gặp cô dâu và chú rể. Trong một trận cãi nhau kịch liệt, Tống Giáo Nhân
buộc tội Tôn Dật Tiên là người phản bạn, dụ dỗ con nít, và hành động một cách
bệnh hoạn. Ông nhắc cho Tôn Dật Tiên biết trong hai chục năm vừa qua, hai người
đã sát cánh chiến đấu bên nhau, và bây giờ chiến thắng đã gần kề thì Tôn Dật
Tiên phản lại lòng tin của ông.
Tôn Dật Tiên hoàn toàn im lặng trước cơn thịnh nộ của Tống Giáo
Nhân, vì ông là kẻ chiến thắng. Ông đã được Khánh Linh là đủ rồi; ông thản
nhiên nhìn Tống Giáo Nhân mắt tóe lửa, nói sùi cả bọt mép. Khi thất bại không
kêu gọi được lòng trung thành bằng hữu ở Tôn Dật Tiên, Tống Giáo Nhân thề sẽ
phá cuộc hôn nhân này, vì Khánh Linh chưa đủ tuổi thành niên, không được kết
hôn nếu không có sự ưng thuận của cha mẹ. Càng nói Tống Giáo Nhân càng thêm
giận dữ. Tôn Dật Tiên đã đi quá xa đối với ông. Ông tuyên bố từ nay sẽ cắt đứt
mọi liên lạc với Tôn Dật Tiên, và công cuộc cách mạng. Rồi với bộ mặt tái mét
vì giận, Tống Giáo Nhân quay lại, chỉ vào mặt Khánh Linh và nói ông từ nàng,
không chấp nhận nàng là con nhà họ Tống nữa. Ngay sau đó Tống Giáo Nhân xuống
tàu trở về Thượng Hải. Về sau này Tống Giáo Nhân tâm sự với một người bạn,
"Trong đời tôi, chưa bao giờ tôi đau đớn như thế. Con gái tôi và người bạn
thân nhất của tôi."
Như vậy Tống Khánh Linh chính thức trở thành bà Tôn Dật Tiên,
nhà đại cách mạng của Trung hoa. Bà vợ già của Tôn Dật Tiên lẳng lặng lùi vào
bóng tối. Hai người tạm thời ở lại Nhật Bản chờ thời cợ Thỉnh thoảng Tôn Dật
Tiên cũng lén lút trở về Trung Hoa để gặp và bàn luận với Trần Kỳ Mỹ và Tưởng
Giới Thạch.
Đế Chế Của Viên Thế Khải Thất Bại
Trong lúc Tôn Dật Tiên còn mải hưởng hạnh phúc mới với Khánh
Linh thì tại Bắc Kinh, Viên Thế Khải quyết tâm phục hồi nền đế chế. Vào cuối
năm 1915, Viên Thế Khải bắt đầu sửa soạn cho việc lên ngôi hoàng đế. Lúc đó các
nước tây phương còn mải mê với trận đại chiến thứ nhất, để mặc Nhật Bản một
mình một chợ tại Á Châu. Nhật bản muốn nhân cơ hội này thay thế các nước tây
phương để chiếm địa vị minh chủ ở Á Châu, và phá cuộc diện cơ hội đẳng quân của
tây phương tại Trung Hoa. Nhật Bản biết Viên Thế Khải đang vận động để tái lập
nền quân chủ, và Nhật có thể lợi dụng Viên Thế Khải cho mục tiêu của Nhật.
Trước hết Nhật Bản tuyên chiến với Đức, với tư cách là đồng minh
của Anh quốc. Nhật yêu cầu quân hạm của Đức phải rút ra khỏi biển Nhật Bản và
biển Trung Hoa, và phải giao nhượng địa Giao Áo của Đức cho Nhật. Đức không trả
lời. Quân Nhật liền tấn công Giao Áo, nhưng lại cố ý đổ bộ lên Long Khẩu là đất
của Trung Hoa, rồi tiến chiếm Tế Nam, thủ phủ tỉnh Sơn Đông. Viên Thế Khải phản
đối Nhật Bản, thì người Nhật gửi cho họ Viên một bản 21 điều khoản yêu sách,
đòi thừa kế tất cả chủ quyền của người Đức tại Sơn Đông và các đặc quyền tại
vùng Mông Cổ, Mãn Châu và vùng Hoa Bắc. Sau hơn bốn tháng thương thuyết đàm
phán, Viên Thế Khải phải thừa nhận cả 21 điều khoản yêu sách của Nhật. Từ đó
Nhật thay thế Anh và Nga làm chủ tình hình Đông Á, và Trung Hoa trở thành một
chư hầu của Nhật. Hoa Kỳ là nước duy nhất phản đối sự bành trướng của Nhật,
nhưng không có kết quả gì. Sự nghiệp chính trị của Viên Thế Khải là một chuỗi
những sự phản bội. Trước hết Viên phản bội vua Quang Tự, rồi phản bội nhà Mãn
Thanh, phản bội chính thể cộng hòa, và bây giờ đi với Nhật để phản bội ngay
chính nước Trung Hoa để mưu cầu quyền lợi riêng của mình.
Nhưng mộng đế chế của Viên Thế Khải gặp một sự chống đối mạnh mẽ
từ mọi phía. Bây giờ không còn ai tin được Viên Thế Khải nữa, vì họ Viên phản
bội mọi người. Ngay khi Viên Thế Khải làm lễ đăng quang lên ngôi hoàng đế thì
Thái Ngạc, nguyên là đô đốc Vân Nam, bỏ trốn về Vân Nam và cùng Đường Kế Nghiêu
đánh điện xin Viên thủ tiêu đế chế, và tuyên bố Vân Nam độc lập. Thái Ngạc đem
quân đánh lấy Tứ Xuyên, Lý Liệt Quân chiếm Quảng Đông. Viên Thế Khải sai Tào
Côn và Ngô Bội Phu tiến quân đánh Thái Ngạc, và Long Tế Quang tấn công Lý Liệt
Quân. Nhưng các tỉnh Quảng Tây, Chiết Giang, Hồ Nam, Thiểm Tây, Qúi Châu lần
lượt theo nhau tuyên bố độc lập và chống lại Viên Thế Khải.
Đến đây các bộ hạ thân tín nhất của Viên Thế Khải là Đoàn Kỳ
Thụy và Phùng Ngọc Tường thấy Viên Thế Khải bị cô thế, cũng theo các tỉnh miền
nam phản đối đế chế. Sự chống đối Viên Thế Khải bây giờ cũng lan nhanh và rộng
như cuộc cách mạng chống nhà Thanh năm 1911. Thực vậy, vào mùa xuân năm 1916,
khắp Trung Hoa đều chống lại Viên, và Viên trở thành một lãnh tụ cô đơn tại Bắc
Kinh. Khi bị ngay quân đội miền bắc chống lại thì Viên biết rằng giấc mộng làm
vua không thể thành tựu được. Viên liền ra sắc lệnh hủy bỏ ý định làm hoàng đế,
và chỉ giữ chức tổng thống thôi. Nhưng các tỉnh chống đối không chịu, đòi Viên
phải từ bỏ mọi quyền hành chính trị.
Đang uy quyền nhất nước, chỉ một bước nữa là lên ngôi vị hoàng
đế, nay bỗng nhiên mất tất cả. Viên Thế Khải vô cùng uất hận. Trong một cơn
giận không kiềm chế được, Viên cầm kiếm đạp cửa phòng của một người hầu thiếp
yêu quý nhất trong số hai mươi người vợ của Viên, đặc biệt là người hầu thiếp
xinh đẹp này mới sinh hạ được một đứa con trai cho Viên. Khi bước vào phòng,
Viên trông thấy người hầu thiếp đang nằm ôm đứa con trai vừa mới sinh. Trong
một cơn giận mất trí, Viên vung kiếm đâm chết cả hai mẹ con. Một tuần sau đó,
Viên quá ưu uất một sớm một chiều mất hết quyền lực, và cũng đau lòng hối tiếc
đã giết vợ và con trai, nên Viên bị đứt gân máu và từ trần ngày 6-6-1916.
Cái Chết Của Tống Giáo Nhân
Người con gái út của Tống Giáo Nhân là Tống Mỹ Linh được du học
tại Welleshley College thuộc tiểu bang Massachusett từ 1913 đến 1917, trong khi
đó Tống Tử Văn học về kinh tế tại đại học Harvard. Thời gian du học tại Hoa Kỳ
đã biến đổi Tống Mỹ Linh từ một cô gái mập tròn thành một thiếu nữ đẹp duyên
dáng và khoẻ mạnh. Rất đông sinh viên Trung hoa tại đại học Harvard tấp tểnh
muốn được lọt vào mắt xanh của nàng. Khi Mỹ Linh nghe tin về mối tình của chị
Khánh Linh với Tôn Dật Tiên, nàng lo sợ khi trở về Trung hoa, nàng có thể sẽ
phải chấp nhận một cuộc hôn nhân đã sắp đặt trước theo tục lệ cổ truyền của
người Trung hoa. Chính vì thế, nàng công bố việc hứa hôn của nàng với một sinh
viên họ Lý. Nhưng cuộc hứa hôn này cũng chỉ kéo dài được vài tuần, cho đến khi
sự lo sợ viển vông của nàng tan dần.
Vào lúc Mỹ Linh trở về Thượng Hải năm 1917 thì vụ ái tình tai
tiếng của Khánh Linh cũng đã nguôi rồi, và ít ai nhắc nhở đến nữa. Mỹ Linh trở
thành một người đẹp nổi tiếng, một cái đinh trong các buổi tiếp tân. Ai cũng
bàn tán về cô con gái út của nhà triệu phú họ Tống, vừa học cao vừa đẹp sắc
xảo. Mỹ Linh không hài lòng căn nhà của ông bố mua tại đường Joffrẹ Nàng cằn
nhằn đòi thân phụ phải mua một căn nhà thật lớn, có nhiều tiện nghi tân tiến
hơn. Tống Giáo Nhân có vẻ hối tiếc đã gửi các con gái du học ngoại quốc để trở
thành những người mà ông không còn kiềm chế nổi nữa, nhất là sau vụ Khánh Linh
cưỡng lại ông để kết hôn với Tôn Dật Tiên. Có lần Tống Giáo Nhân nói với bạn bè,
"Đừng bao giờ cho con cái du học. Chúng chẳng đem về cái gì tốt đẹp cả.
Chúng chỉ muốn đảo ngược tất cả mọi việc theo ý chúng."
Mặc dù Tống Giáo Nhân thề từ bỏ mọi liên lạc với công cuộc cách
mạng của Tôn Dật Tiên, nhưng trong dịp một nhà tài phiệt Hoa Kỳ có công giúp
cách mạng Trung Hoa đến thăm Thượng Hải, Tống Giáo Nhân cũng cố quên sự thù
nghịch với Tôn Dật Tiên, và cả hai người đều tiếp đón nhà tài phiệt Hoa Kỳ một
cách thật long trọng chu đáo. Nhà tài phiệt viết thư về nước cho bạn bè biết
ông ta được đón tiếp tại Thượng Hải như một vị hoàng đế.
Việc Tống Giáo Nhân lựa chọn về sống tại Thượng Hải trong tô
giới Pháp cũng là vì lý do an ninh. Phần lớn các nhà cách mạng Trung hoa đều
sống trong tô giới Pháp để hưởng sự bảo vệ của người Pháp. Một điều quan trọng
hơn đối với Tống Giáo Nhân là người chỉ huy ngành an ninh của Pháp tại Thượng
Hải là Hoàng Mặt Rỗ, chúa trùm nhóm anh chị Hồng Hội, một tổ chức tội ác có ảnh
hưởng bao trùm tất cả một khu vực rộng hàng ngàn dậm dọc theo sông Dương Tử.
Trước kia Tống Giáo Nhân đã giúp đỡ tổ chức của Hoàng Mặt Rỗ rất nhiều, nay ông
nhận thấy gia đình ông gặp nguy hiểm, và cần đến sự bảo vệ của Hoàng Mặt Rỗ.
Sau khi về Thượng Hải được ba năm thì Tống Giáo Nhân bất thần
chết vì bệnh ung thư bao tử, một cơn hấp hối đau đớn kéo dài trong vài ngày. Có
nhiều dấu hiệu mờ ám trong cái chết của Tống Giáo Nhân. Gia đình và bạn bè thân
của Tống Giáo Nhân không một ai nhận thấy một dấu hiệu suy yếu đau ốm nào ở họ
Tống. Rồi bỗng nhiên ông đau đớn kịch liệt vài ngày rồi chết, và được ghi nhận
là chết vì ung thư bao tử năm 1918, lúc đó Tống Giáo Nhân mới được 52 tuổi.
Người ta nghi rằng Tống Giáo Nhân chết vì bị đầu độc. Nếu ông không bị đầu độc
bởi kẻ thù thì cũng bị đầu độc bởi chính phe bạn. Ông là người có công rất
nhiều với công cuộc cách mạng của Tôn Dật Tiên, nhưng ngay khi ông phản đối
cuộc hôn nhân của Khánh Linh và Tôn Dật Tiên thì lập tức ông trở thành một cái
bóng mờ trong tổ chức. Các đệ tử của Tôn Dật Tiên phải cố gắng bảo vệ danh
tiếng của Tôn Dật Tiên trước sự chống đối khinh bỉ của Tống Giáo Nhân. Không
những thế, họ còn cho rằng cần phải xóa bỏ Tống Giáo Nhân vì đại cuộc của Tôn
Dật Tiên. Tôn Dật Tiên phải là một thần tượng hoàn toàn. Chính vì thế Tống Giáo
Nhân đau và chết một cách âm thầm. Ngay cả đám tang của họ Tống cũng được cử
hành một cách lặng lẽ mau lẹ, không được báo chí nhắc nhở, không được truy điệu
đúng mức với công lao đóng góp của Tống Giáo Nhân vào công cuộc cách mạng.
Các con của Tống Giáo Nhân đều có mặt bên giường chết của ông,
kể cả Tống Khánh Linh. Nhưng sau đám tang, khi các chị trở về nhà chồng hết,
thì chỉ còn lại một mình Mỹ Linh sống với bà mẹ. Mỹ Linh bây giờ được tự do
hành động theo đúng ý thích. Nàng mua một căn nhà lớn sang trọng hơn, và trở
thành một nhân vật nổi tiếng tại Thượng Hải.
Phong Trào Ngũ Tứ
Sau Đệ nhất thế chiến, Thượng Hải trở thành một thành phố cực kỳ
phồn thịnh. Giới mại bản Trung hoa ngày một giầu có thêm và mở rộng ảnh hưởng
sang các lãnh vực khác. Nhưng bên cạnh sự phồn thịnh của giai cấp tư bản thượng
lưu, thì đại đa số người dân Thượng Hải sống rất cực khổ vì bị giới chủ nhân
bóc lột đến tối đạ Trong những xưởng thợ, nhiều trẻ em khoảng mười tuổi phải
làm việc 13 giờ một ngày, và khi mệt quá thì nằm gục xuống ngủ bên cạnh máy
móc. Những đứa trẻ này đã bị cha mẹ bán cho xưởng máy và chúng không có cách
nào trốn khỏi những nhà máy được canh gác cẩn mật cả ngày lẫn đêm. Ngoài đường
phố tại khu vực nhà nghèo, ngày nào cũng có xác người chết đói nằm ngoài đường.
Trong khoảng từ 1920 đến 1940, sở hốt rác nhặt được ít nhất ba chục ngàn xác
chết đói ngoài đường phố Thượng Hải.
Đối với người Trung Hoa, việc lật đổ nhà Mãn Thanh cũng không
làm cho đời sống họ khá hơn, mà trái lại tình trạng sinh sống của họ còn tồi tệ
hơn trước. Thay vì có một chánh quyền mạnh ở trung ương, thì quyền lực chính
trị vỡ thành nhiều mảnh nhỏ. Mỗi sứ quân xưng hùng tại một khu vực, tha hồ đánh
thuế, vơ vét của cải và sang đoạt tài sản. Có sứ quân bắt dân chúng dưới quyền
phải nộp thuế trước 32 năm. Các sứ quân lại thường hay giao chiến với nhau để
tranh dành ảnh hưởng, nên miền quê bị tàn phá, ruộng đất hoa màu không trồng
trọt được. Gạo phải nhập cảng, và nông dân phải bồng bế nhau bỏ ruộng vườn ra
thành phố để rồi cũng chẳng khá gì hơn. Cuối cùng những nông dân này phải đem
bán con cái và chính họ cũng chết dần vì đói. Thời đó người ta tin rằng thịt
người được bán đầy ngoài chợ. Trẻ con được đem bán từng đàn: con trai thì vào
làm nô lệ trong xưởng máy, con gái thì theo một con đường duy nhất là vào các
động mãi dâm, làm đồ chơi cho giới thương gia có nhiều tiền.
Ngay trong Đồng Minh Hội của Tôn Dật Tiên cũng có sự phân hóa.
Nòng cốt của Đồng Minh Hội là thương gia và sinh viên. Sau đệ nhất thế chiến,
hai giới này coi nhau như thù địch. Sinh viên thì muốn một cuộc cách mạng toàn
diện: đuổi người ngoại quốc ra khỏi Trung Hoa, phân chia ruộng đất cho nông dân
và bãi bỏ các đặc quyền kinh tế. Trong khi đó quyền lợi của giới thương gia lại
gắn liền với người ngoại quốc. Đến khi Nhật Bản can thiệp vào Trung Hoa thì hai
phe sinh viên và thương gia tách hẳn nhau thành tả phái và hữu phái.
Sau đệ nhất thế chiến, Đức bại trận và mất tất cả các lãnh thổ
hải ngoại. Tại Trung Hoa, Nhật Bản nhảy vào thay thế Đức, và được Anh Pháp hứa
hẹn cho chiếm giữ ảnh hưởng lâu dài tại tỉnh Sơn Đông. Nhật Bản đưa ra 21 điều
khoản yêu sách cho Viên Thế Khải, đòi hỏi quyền kiểm soát Sơn Đông vĩnh viễn và
các nhượng bộ lớn tại Mãn Châu và nhiều nơi khác. Lúc đó Viên Thế Khải phải
chấp nhận các yêu sách quá đáng này vì Nhật hăm dọa sẽ ủng hộ đối thủ của Viên.
Họ Viên yêu cầu người Nhật giữ kín những nhượng bộ này. Tại hội nghị Ba Lê, đại
biểu Trung Hoa yêu cầu bãi bỏ phạm vi thế lực của ngoại quốc, thu hồi các tô
giới và Hoa Kỳ hết sức hỗ trợ cho đại biểu Trung Hoa. Nhưng khi phái đoàn Nhật
Bản đưa ra hiệp định Sơn Đông, cho phép người Nhật được thừa kế quyền lợi của
người Đức tại Trung Hoa, do chính Công sứ Trung Hoa tại Nhật Bản là Chương Tông
Tường ký thì Hoa Kỳ không thể bênh vực Trung Hoa được nữa. Như vậy phái đoàn
Trung Hoa tại hội nghị Versailles thất bại, ra về tay không.
Đại biểu Trung Hoa đánh điện về cho chính phủ biết nguyên nhân
sự thất bại là mật ước đã ký từ trước, có sự đồng ý của đại diện Trung Hoa. Khi
bức điện tín ấy được truyền ra thì quần chúng vô cùng phẫn nộ. Viên Thế Khải đã
chết rồi, nên mọi tội đều quy về Chương Tông Tường và bộ trưởng ngoại giao Tào
Nhữ Lâm và Lục Tông Dư, người tự ý vay tiền của Nhật Bản. Quần chúng gọi ba
người này là giặc bán nước.
Ngày 4-5-1919, mấy ngàn học sinh các trường học tại Bắc Kinh họp
nhau rồi diễn hành qua các đường phố, yêu cầu chính phủ phải trừng trị ba tên
bán nước. Khi bị cảnh sát cản đường, đoàn học sinh quay trở lại nhà Tào Nhữ
Lâm, lúc bấy giờ Chương Tông Tường cũng mới về nước, và đang trú ngụ tại nhà
Tào Nhữ Lâm. Tào Nhữ Lâm kịp thời bỏ trốn. Chương Tông Tường không trốn kịp, bị
học sinh bắt được và bị đánh gần chết. Chính quyền ra lệnh bắt một số học sinh.
Học sinh liền tổ chức thành những đoàn "giảng diễn", kêu gọi người
Trung Hoa tẩy chay hàng hóa Nhật. Rồi cuộc xuống đường của học sinh sinh viên
lan tràn khắp nước và được giới trí thức và công nhân hậu thuẫn. Nhật Bản vội
phái quân đội tới giữ an ninh tại các lãnh địa của Nhật, kể cả Thượng Hải. Một
số sinh viên bị bắt tại Bắc Kinh. Lập tức 64 ngàn công nhân đình công tại
Thượng Hải, bắt chính phủ Bắc Kinh phải trả tự do cho học sinh và cách chức các
viên chức thân Nhật. Phong trào sinh viên không chỉ nhắm vào người ngoại quốc,
mà còn chống đối cả những người Trung Hoa cộng tác và phục vụ người ngoại quốc.
Điều này làm cho giới mại bản và những bang hội bí mật lo ngại. Chính phủ phải
bãi chức Tào Nhữ Lâm, Chương Tông Tường và Lục Tòng Du, nhờ đó sự phẫn nộ của
quần chúng mới dịu xuống.
Cuộc vận động ái quốc này xảy ra ngày 4 tháng 5, nên được người
ta gọi là Phong trào Ngũ Tứ. Cuộc biểu tình của học sinh trong Phong Trào Ngũ
Tứ năm 1919 chấm dứt ngay khi đạt được mục tiêu. Nhưng cuộc đứng dậy vì lòng ái
quốc của học sinh và sinh viên trong Phong Trào Ngũ Tứ đã như một chất men say,
gây nguồn cảm hứng, khuấy tạo ra một làn sóng hưởng ứng rộng rãi, ảnh hưởng tới
toàn thể quần chúng, và mở đường cho những làn sóng cách mạng Trung hoa sau
này.
Đảng Cộng Sản Thành Hình
Tháng 5-1921, Trần Độc Tú và Lý Đại Chiêu đến Thượng Hải dự một
cuộc họp quan trọng. Chính trong cuộc họp này Đảng Cộng sản Trung hoa được đề
nghị thành lập. Các người cộng sản thấy cần phải có một tổ chức trung ương của
đảng, và Thượng Hải được coi là địa điểm hợp lý nhất để đặt tổ chức. Đảng cộng
sản Trung hoa được chính thức thành lập ngày 21-7-1921. Ngày hôm đó có mười hai
đại biểu, đại diện cho bảy chi bộ, và hai đại diện cho tổ chức cộng sản quốc tế
tham dự Đại hội lần thứ nhất của đảng.
Mười hai đảng viên Trung hoa và hai đại diện quốc tế gặp nhau
trong một trường nữ trung học bên trong khu tô giới Pháp. Lúc đó là mùa hè và
trường nữ trung học đóng cửa. Tuy nhiên một số đông đàn ông ra vào một trường
nữ trung học đã khiến cảnh sát phải nghi ngờ, và chặn một vài người lại để xét
hỏi. Chính vì thế, tất cả đại biểu đồng ý di chuyển địa điểm hội họp. Tất cả
tập họp lại trên bờ một cái hồ thuộc tỉnh Chiết Giang gần Thượng Hải, làm như
là một nhóm người đi cắm trại. Các buổi họp lênh đênh, vừa câu cá, vừa ăn nhậu,
vừa thảo luận đã đưa đến nền móng thành lập đảng cộng sản Trung hoa, và sau
này, ngày 21-7 mỗi năm được coi là ngày kỷ niệm thành lập đảng.
Trong các buổi họp kéo dài liên tục này, các cố vấn Nga Sô trở
nên bực bội trước những lý luận mơ hồ và lưỡng lự của các lãnh tụ Trung Hoa.
Đây là giai đoạn chập chững của cộng đảng Trung Hoa, và Mạc tư khoa coi các
lãnh tụ Trung Hoa chỉ là những tay mơ, những người đang tập sự trò chơi chính
trị. Tuy nhiên các buổi họp của cộng đảng Trung Hoa cũng là một báo động, đe
dọa quyền lợi của giới thương gia và dân anh chị băng đảng tại Thượng Hải. Lịch
sử Thượng Hải sau đó là một cuộc chiến ác liệt, một bên là đám anh chị làm ăn
trong bóng tối dựa vào giới thương gia, và một bên là phe cộng sản.
Trương Quốc Đào, đại diện phân bộ Bắc Kinh và là học trò của
Trần Độc Tú tại đại học Bắc Kinh, là người chủ tọa các buổi họp đầu tiên này.
Trần Độc Tú và Lý Đại Chiêu không có mặt trong ngày thành lập đảng. Mãi gần nửa
năm sau, Trần Độc Tú rút lui khỏi chức bộ trưởng giáo dục cho Tôn Dật Tiên tại
Quảng Đông, và trở về Thượng Hải đảm nhận chức Bí thư đảng, một chức vụ quan
trọng nhất. Mao Trạch Đông lúc đó chỉ là một trong hai đại diện của tỉnh Hồ
Nam, và chưa phải là một nhân vật quan trọng trong đảng cộng sản.
Thua kém hầu hết các đại biểu khác cả về học thức lẫn kinh
nghiệm, Mao Trạch Đông không được cử vào Ban Chấp hành Trung ương khóa thứ
nhất, gồm ba ủy viên chính thức và ba ủy viên dự khuyết. Năm 1922, đảng cộng
sản Trung Hoa họp lại một lần nữa, và Mao Trạch Đông cũng không có mặt trong kỳ
họp này. Trong thời kỳ đầu của đảng cộng sản Trung Hoa, Mao Trạch Đông không
được giữ một chức vụ nào cao hơn chức bí thư đảng bộ Hồ Nam. Tuy nhiên phạm vi
hoạt động của Mao Trạch Đông không chỉ giới hạn trong tỉnh Hồ Nam. Mao Trạch
Đông và hai người em ruột là Mao Trạch Đàm và Mao Trạch Dân đã hoạt động đắc
lực tại Giang Tây. Tháng 4-1923, Mao Trạch Đông bị viên tỉnh trưởng Hồ Nam ra
lệnh truy nã, Mao liền bỏ trốn tới Thượng Hải. Mao đến Thượng Hải đúng lúc đảng
cộng sản sắp sửa liên kết với tổ chức Quốc dân đảng của Tôn Dật Tiên.
XEM TIẾP CHƯƠNG 6
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét