Bùi Tín (VOA) - Đọc thật
kỹ bản TBC, có thể dễ dàng nhận ra nó được phía Trung Quốc khởi thảo và phía
Việt Nam hoàn toàn không được đóng góp hay thay đổi gì hết. Bản TBC hoàn toàn
phản ánh tham vọng bành trướng và xâm lược của đế quốc Cộng sản Đại Hán Trung
Hoa đối với đất nước Việt Nam, phục vụ dã tâm biến nhà nước Việt Nam Cộng sản
thành một chư hầu của Trung Quốc, biến Việt Nam thành một thuộc địa kiểu mới
của Trung Quốc, với sự tiếp tay của nhóm lãnh đạo CS bất tài và tham nhũng đã
thoái hóa đến cùng cực...
Chưa bao giờ có sự đầu hàng nhanh chóng và
nhục nhã đến như vậy.
Nhân danh Chủ tịch nước, ông Trương Tấn Sang,
đã dẫn đầu đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam sang thăm chính thức Trung Quốc. Ngày
21 tháng 6 ông đã ký với Chủ tịch nước kiêm Tổng Bí thư đảng CS Trung Quốc Tập
Cận Bình bản Tuyên bố chung rất quan trọng, liên quan trực tiếp đến vận mệnh
nước ta.
Bản Tuyên bố chung bằng hai thứ tiếng Trung
Quốc và Việt Nam này đã được dịch ra nhiều thứ tiếng khác và phố biến đi khắp
thế giới.
Mọi người Việt Nam yêu nước không thể không
bàng hoàng và phẫn nộ khi đọc kỹ văn kiện nói trên, không thể không nhận định
đây là một văn kiện tuyên bố đầu hàng bọn bành trướng và xâm lược phương Bắc.
Chắn chắn cả Bộ Chính trị 16 người đã được
thông báo và đồng tình với bản Tuyên bố chung (TBC) thảm hại này.
Đọc thật kỹ bản TBC, có thể dễ dàng nhận ra nó
được phía Trung Quốc khởi thảo và phía Việt Nam hoàn toàn không được đóng góp
hay thay đổi gì hết. Bản TBC hoàn toàn phản ánh tham vọng bành trướng và xâm
lược của đế quốc Cộng sản Đại Hán Trung Hoa đối với đất nước Việt Nam, phục vụ
dã tâm biến nhà nước Việt Nam Cộng sản thành một chư hầu của Trung Quốc, biến
Việt Nam thành một thuộc địa kiểu mới của Trung Quốc, với sự tiếp tay của nhóm
lãnh đạo CS bất tài và tham nhũng đã thoái hóa đến cùng cực.
Kính mời đồng bào ta ở trong nước và nước
ngoài, kể cả các đảng viên Cộng sản, hãy đọc cho kỹ bản TBC ký chưa ráo mực
này.
Ngoài bản TBC dài lòng thòng gồm có 8 điểm,
trong đó riêng điểm 3 chứa đựng đến 13 mục quan hệ hợp tác vừa mở rộng vừa ăn
sâu, 2 bên còn ký đến 10 văn kiện khác, trong đó có Chương trình hoạt động
chung của chính phủ 2 nước, Thỏa thuận hợp tác chiến lược toàn diện giữa bộ
Quốc phòng 2 nước, Thỏa thuận giữa 2 bộ Nông nghiệp về đường dây nóng trong
nghề đánh cá trên biển, về giám sát chất lượng, kiểm dịch thực vật, Điều lệ hợp
tác quản lý cửa khẩu trên đất liền, Ghi nhớ về xây dựng các trung tâm Văn hóa
Việt – Trung, Quan hệ giữa các tổ chức hữu nghị, Hợp tác trong thăm dò dầu khí
ngoài khơi Vịnh Bắc Bộ...
Trong 13 mục quan hệ mở rộng và ăn sâu, sau
khi khẳng định phương châm 16 chữ vàng và 4 tốt, TBC kể ra một loạt thỏa thuận:
thường xuyên tiếp xúc ở cấp cao đảng, chính phủ, hoạt động của Ủy ban chỉ đạo
hợp tác chiến lược toàn diện song phương, quan hệ chặt chẽ giữa 2 đảng, 2 ban
Đối ngoại, 2 ban Tuyên huấn, về ngiên cứu lý luận, về xây dựng đảng, quan hệ
giữa 2 bộ Ngoại giao, giữa các vụ, cục trong 2 bộ Ngoại giao, quan hệ giữa 2
quân đội, 2 bộ Quốc phòng, trao đổi về công tác đảng, công tác chính trị trong
quân đội, trong đào tạo sỹ quan, trong tuần tra chung ở vùng biên phòng đất
liền, hợp tác về thực thi pháp luật, an ninh, về trật tự an toàn xã hội, về an
ninh biên giới và cảnh sát biển, thực hiện kế hoạch 2 hành lang 1 vành đai vùng
biên giới, hợp tác về năng lượng, giao thông vận tải, đầu tư kinh doanh, hợp
tác về văn hóa, khoa học, công nghiệp và thông tin...
Bản TBC còn nhấn mạnh đến mối quan hệ hợp tác
chặt chẽ giữa 7 tỉnh biên giới phía Bắc Việt Nam với 3 tỉnh biên giới phía Nam
Trung Quốc - Vân Nam, Quảng Tây, Quảng Đông - và đảo Hải Nam.
TBC cũng nói đến hợp tác của Ủy ban Liên hợp
biên giới Việt – Trung để tàu thuyền đi lại tự do trong khu Bắc Luân, hợp tác
khai thác du lịch thác Bản Giốc, và cũng không quên nói đến hợp tác đáng cá
chung trong Vịnh Bắc Bộ.
Đọc kỹ các văn bản, có cảm giác như Việt Nam
đã hội nhập vào trong lòng Trung Quốc. Tuy 2 mà một. Hoà nhập triệt để về mọi
mặt, đặc biệt là về quốc phòng, về đối ngoại, về an ninh, trị an xã hội, về
đảng, nhà nước, về quân đội, về công tác đảng, bảo vệ đảng, bảo vệ quân đội. Cứ
như ở thời kỳ quan hệ anh em đồng chí bền chặt nhất vậy.
Đây phải chăng là một cạm bẫy do nhóm lãnh đạo
mới của đảng CS Trung Quốc, với Tập Cận Bình cầm đầu, giăng ra để nhử Trương
Tấn Sang chui vào tròng. Chiếc bẫy này chắc chắn đã được chuẩn bị rất công phu,
và buộc Trương Tấn Sang phải cúi đầu chấp nhận cả gói, không sửa đổi du di gì
được dù một ly.
Không hề có một chữ nào về Hoàng Sa, Trường Sa
là đất Việt Nam bị cưỡng chiếm bằng vũ lực. Không một yêu cầu nào về việc bảo
vệ tính mạng tài sản của ngư dân VN trong vùng biển quốc gia của mình. Không
một lời bác bỏ nào đối với cái lưỡi bò phạm pháp trên bản đồ Trung Quốc. Chủ
quyền quốc gia đã bị hoàn toàn từ bỏ. Lũ giặc bành trướng được coi là bạn bè
thân thiết nhất, là đồng chí tin cậy nhất, còn hơn anh em ruột thịt.
Đây có thể là phản ứng có tính toán của nhóm
Tập Cận Bình đối với lời lên án của Việt nam tại cuộc họp Shangri La ở
Singapore cuối tháng 5 vừa qua. Tuy chỉ là lời nói bóng gió, không nêu đích
danh, nhưng cũng đủ để bị chạm nọc, để mất mặt giữa trường quốc tế và để nổi tự
ái giận dữ. Đó là câu của thủ tướng Ba Dũng: "Đâu đó đã có những
biểu hiện đề cao sức mạnh đơn phương, những đòi hỏi phi lý, những hành động
trái với luật pháp quốc tế, mang tính áp đặt và chính trị cường quyền".
Đã nhún nhường, nói xa xôi, nhưng vẫn cay đắng, vì bọn trùm bành trướng luôn
kiêu ngạo, tự cao tự đại, tự coi là yêng hùng trong thiên hạ.
Trung Nam Hải gần đây tỏ ra rất lo ngại khi
trí thức và tuổi trẻ Việt Nam cũng như một số đảng viên CS lão thành tỏ rõ ý
muốn Việt Nam liên minh quân sự với Hoa Kỳ, Ấn Độ, Nhật Bản, Liên Âu... trước
mối đại họa bành trướng Trung Quốc.
Cũng có thể đây là một tính toán thâm độc của
Trung Nam Hải, nhưng cũng có thể là một tính toán sai lầm trong cơn hoảng hốt.
Họ không tính rằng sự lộ mặt quá lộ liễu là ông chủ của 16 ông vua tập thể ở Ba
Đình là dại dột và nguy hiểm cho họ ra sao. Nước cờ này sẽ đẩy đảng CS Việt Nam
đang núng thế thụt sâu thêm xuống hố suy thoái, bị lên án mạnh thêm là bán nước
cầu lợi riêng, chia rẽ thêm nhóm lãnh đạo vốn đã hiềm khích nhau, kích thích
mạnh thêm các cuộc xuống đường quyết liệt chống bành trướng và tay sai của đồng
bào ta.
Trần Trung Đạo - Đọc tuyên bố chung giữa
Tập Cận Bình và Trương Tấn Sang ký ngày 21 tháng Sáu vừa qua mới thấy số phận
chùm gởi CSVN phụ thuộc sâu xa vào cây cổ thụ già Cộng Sản Trung Quốc đến mức
độ nào. Sự khiếp nhược và ươn hèn thể hiện rõ đến mức chỉ trong một văn bản gồm
8 điểm nhưng có tổng cộng 29 lần “nhất trí”...
*
Tuyên bố chung Việt Nam, Trung Quốc
1. Nhận lời mời của Chủ tịch nước Cộng hòa
Nhân dân Trung Hoa Tập Cận Bình, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam Trương Tấn Sang đã thăm cấp Nhà nước nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa từ
ngày 19 đến ngày 21 tháng 6 năm 2013.
Trong thời gian chuyến thăm, Chủ tịch nước
Trương Tấn Sang đã hội đàm với Chủ tịch nước Tập Cận Bình; lần lượt hội kiến
Thủ tướng Quốc vụ viện Lý Khắc Cường, Ủy viên trưởng Ủy ban thường vụ Đại hội
đại biểu nhân dân toàn quốc Trương Đức Giang. Trong không khí thẳng thắn, hữu
nghị, Lãnh đạo hai nước đã đi sâu trao đổi ý kiến và đạt nhận thức chung rộng
rãi về việc làm sâu sắc thêm hợp tác chiến lược toàn diện Việt-Trung trong tình
hình mới, cũng như về các vấn đề quốc tế và khu vực cùng quan tâm.
Ngoài Bắc Kinh, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang
đã thăm tỉnh Quảng Đông.
2. Hai bên đã nhìn lại quá trình phát triển
quan hệ Việt-Trung, nhất trí cho rằng tình hữu nghị Việt-Trung là tài sản chung
quý báu của nhân dân hai nước, khẳng định sẽ tuân theo các nhận thức chung quan
trọng mà Lãnh đạo hai nước đã đạt được trong những năm qua về phát triển quan
hệ hữu nghị Việt-Trung, tiếp tục kiên trì phương châm “láng giềng hữu nghị, hợp
tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và tinh thần “láng giềng
tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”, không ngừng tăng cường tin cậy
chiến lược, làm sâu sắc thêm hợp tác cùng có lợi trên các lĩnh vực, xử lý thỏa
đáng các vấn đề còn tồn tại, tăng cường điều phối và phối hợp trong các vấn đề
quốc tế và khu vực, thúc đẩy quan hệ Việt-Trung phát triển lành mạnh, ổn định
lâu dài.
3. Việt Nam và Trung Quốc đều đang ở trong
thời kỳ then chốt của công cuộc phát triển kinh tế-xã hội. Hai bên coi sự phát
triển của nước kia là cơ hội phát triển của nước mình, nhất trí làm sâu sắc
thêm hợp tác chiến lược toàn diện với trọng tâm là các lĩnh vực dưới đây:
(i) Duy trì tiếp xúc cấp cao thông qua các
hình thức linh hoạt, đa dạng như thăm song phương, điện đàm qua đường dây nóng,
gặp gỡ bên lề các diễn đàn đa phương... để tăng cường trao đổi chiến lược, nắm
vững phương hướng đúng đắn phát triển quan hệ hai nước. Phía Việt Nam hoan
nghênh lãnh đạo Trung Quốc sớm sang thăm Việt Nam, phía Trung Quốc hoan nghênh
Lãnh đạo Việt Nam sang thăm và tham dự các Hội nghị tại Trung Quốc.
(ii) Hai bên đánh giá tích cực kết quả Phiên
họp lần 6 Ủy ban Chỉ đạo hợp tác song phương Việt Nam-Trung Quốc, nhất trí tiếp
tục sử dụng tốt cơ chế quan trọng này, thúc đẩy tổng thể hợp tác cùng có lợi
trên các lĩnh vực, mang lại nhiều lợi ích hơn cho nhân dân hai nước. Hai bên
nhất trí cùng nhau thực hiện tốt “Chương trình hành động triển khai Quan hệ đối
tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc” được ký kết trong chuyến
thăm này, thúc đẩy hợp tác thực chất giữa hai nước đạt được tiến triển mới.
(iii) Hai bên hài lòng trước sự phát triển của
quan hệ hai Đảng trong những năm qua, nhất trí làm sâu sắc thêm hợp tác giữa
hai Đảng, thúc đẩy cơ chế giao lưu hợp tác giữa hai Ban Đối ngoại và Ban Tuyên
giáo, Tuyên truyền của hai Đảng vận hành thuận lợi, tăng cường hợp tác trong
lĩnh vực đào tạo cán bộ Đảng và Nhà nước. Hai bên nhất trí phối hợp chặt chẽ,
cùng nhau tổ chức tốt Hội thảo lý luận hai Đảng lần thứ 9, tăng cường hơn nữa
trao đổi kinh nghiệm về xây dựng Đảng và quản lý đất nước, thúc đẩy xây dựng Đảng
và đất nước ở mỗi nước.
(iv) Hai bên nhất trí tăng cường hợp tác giữa
Bộ Ngoại giao hai nước, thực hiện tốt Nghị định thư hợp tác giữa hai Bộ Ngoại
giao, duy trì trao đổi thường xuyên giữa lãnh đạo hai Bộ Ngoại giao, tổ chức
Tham vấn Ngoại giao thường niên và tăng cường giao lưu cấp Cục, Vụ giữa hai Bộ
Ngoại giao.
(v) Hai bên đánh giá tích cực kết quả Đối
thoại chiến lược quốc phòng cấp Thứ trưởng Bộ Quốc phòng lần thứ 4, nhất trí
duy trì tiếp xúc cấp cao giữa quân đội hai nước, phát huy tốt vai trò của cơ
chế Đối thoại chiến lược quốc phòng và đường dây điện thoại trực tiếp giữa hai
Bộ Quốc phòng để tăng cường tin cậy lẫn nhau. Đi sâu trao đổi kinh nghiệm công
tác Đảng và chính trị trong quân đội, tăng cường đào tạo cán bộ và giao lưu sĩ
quan trẻ. Thực hiện tốt “Thỏa thuận hợp tác biên phòng giữa Bộ Quốc phòng hai
nước Việt Nam-Trung Quốc” (sửa đổi) ký kết trong chuyến thăm này, tiếp tục
triển khai tuần tra chung biên giới trên đất liền. Làm sâu sắc thêm hợp tác
biên phòng trên đất liền và trên biển, trong năm nay triển khai hai đợt tuần
tra chung giữa hải quân hai nước trong Vịnh Bắc Bộ. Tăng cường trao đổi và điều
phối trong các vấn đề an ninh đa phương khu vực. Trao đổi nghiên cứu hình thức
mới, nội dung mới trong triển khai hợp tác quốc phòng, làm sâu sắc thêm hợp tác
giữa quân đội hai nước.
(vi) Hai bên nhất trí làm sâu sắc thêm hợp tác
trong lĩnh vực thực thi pháp luật và an ninh, phát huy đầy đủ vai trò của cơ
chế Hội nghị hợp tác phòng chống tội phạm giữa Bộ Công an hai nước, tăng cường
các chuyến thăm cấp cao và đơn vị nghiệp vụ của cơ quan thực thi pháp luật hai
bên, thúc đẩy hợp tác thực chất trong các lĩnh vực như phòng chống tội phạm
xuyên biên giới, giữ gìn trật tự trị an xã hội cũng như xây dựng năng lực thực
thi pháp luật, sớm triển khai các hoạt động thực thi pháp luật chung trên các
lĩnh vực, duy trì an ninh và ổn định khu vực biên giới hai nước. Hai bên nhất
trí thúc đẩy triển khai giao lưu hợp tác giữa cơ quan cảnh sát biển hai nước.
Hai bên nhất trí sớm khởi động đàm phán về “Hiệp định dẫn độ Việt-Trung” trong
nửa cuối năm nay.
(vii) Hai bên nhất trí tăng cường điều phối
chiến lược về phát triển kinh tế, thực hiện tốt “Quy hoạch phát triển 5 năm hợp
tác kinh tế thương mại Việt-Trung giai đoạn 2012-2016” và Danh mục các dự án
hợp tác trọng điểm, thúc đẩy hơn nữa hợp tác trong các lĩnh vực như nông
nghiệp, ngư nghiệp, giao thông vận tải, năng lượng, khoáng sản, công nghiệp chế
tạo và phụ trợ, dịch vụ cũng như hợp tác khu vực “Hai hành lang, một vành đai.”
Hai bên sẽ sử dụng tốt cơ chế Ủy ban Hợp tác
kinh tế-thương mại song phương, thực hiện tốt “Bản ghi nhớ hợp tác song phương
trong lĩnh vực thương mại hàng nông sản giữa Bộ Công Thương Việt Nam với Bộ
Thương mại Trung Quốc”; hai bên nhất trí tích cực áp dụng các biện pháp hữu hiệu,
quyết liệt để thúc đẩy cân bằng thương mại song phương trên cơ sở đảm bảo
thương mại song phương tăng trưởng ổn định, cố gắng hoàn thành trước thời hạn
mục tiêu đến năm 2015 kim ngạch thương mại hai chiều đạt 60 tỷ USD. Tiếp tục
thúc đẩy xây dựng các dự án hợp tác kinh tế - thương mại quan trọng trong các
lĩnh vực năng lượng, khu công nghiệp, kết nối giao thông trên bộ, trong đó ưu
tiên thúc đẩy xây dựng các dự án đường bộ và đường sắt kết nối khu vực biên
giới trên bộ hai nước như tuyến đường bộ cao tốc Lạng Sơn-Hà Nội...
Hai bên nhất trí tăng cường hợp tác trong lĩnh
vực tài chính, tích cực tạo điều kiện và khuyến khích các tổ chức tài chính hai
bên hỗ trợ dịch vụ tài chính cho các dự án hợp tác song phương. Tiếp tục thúc
đẩy tiện lợi hóa thương mại và đầu tư song phương, bao gồm khuyến khích thanh
quyết toán bằng đồng bản tệ trong trao đổi mậu dịch tại khu vực biên giới.
Khuyến khích doanh nghiệp nước mình sang nước kia đầu tư, tạo điều kiện an toàn
và thuận lợi cho các doanh nghiệp đầu tư.
(viii) Hai bên nhất trí tiếp tục làm sâu sắc
thêm hợp tác trong lĩnh vực nông nghiệp, hoàn thiện cơ chế hợp tác song phương
về nông nghiệp, tăng cường giao lưu khoa học kỹ thuật nông nghiệp và nâng cao
năng lực trong lĩnh vực nông nghiệp, nhân rộng các loại giống cây trồng nông
nghiệp sản lượng cao và chất lượng tốt, bao gồm các loại giống lúa lai, thúc
đẩy ngành chế biến và thương mại hàng nông sản phát triển, tập trung thúc đẩy
xây dựng hệ thống phòng chống dịch bệnh động thực vật xuyên biên giới và an toàn
thực phẩm xuất nhập khẩu, nâng cao khả năng dự báo và mức độ chia sẻ thông tin.
(ix) Tăng cường giao lưu và hợp tác trong lĩnh
vực văn hóa, thực hiện tốt “Thỏa thuận hợp tác giáo dục giai đoạn 2011 - 2015”,
“Kế hoạch hành động thực hiện Hiệp định Văn hóa Việt-Trung giai đoạn
2013-2015”, sớm hoàn thành việc xây dựng Trung tâm văn hóa của nước này ở nước
kia, tăng cường hợp tác trong các lĩnh vực sản nghiệp văn hóa, nguồn nhân lực.
Hai bên nhất trí tổ chức Liên hoan Thanh niên Việt-Trung lần thứ 2 vào nửa cuối
năm nay tại Trung Quốc, đồng thời tiếp tục tổ chức tốt các hoạt động như Gặp gỡ
hữu nghị thanh niên Việt-Trung, Diễn đàn nhân dân Việt-Trung…, tăng cường tuyên
truyền về tình hữu nghị Việt-Trung để gia tăng tình hữu nghị giữa nhân dân hai
nước.
(x) Hai bên nhất trí làm sâu sắc thêm giao lưu
hợp tác trong lĩnh vực khoa học công nghệ, phát huy hơn nữa vai trò của Ủy ban
hợp tác về khoa học công nghệ giữa Chính phủ hai nước, khuyến khích và ủng hộ
giới nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ hai nước triển khai hợp tác với
nhiều hình thức như cùng nghiên cứu và phát triển, cùng xây dựng phòng thí
nghiệm chung, chuyển giao công nghệ… trong các lĩnh vực hai bên quan tâm như
nông nghiệp, công nghệ thông tin, năng lượng mới, bảo vệ môi trường, quản lý, sử
dụng và bảo vệ tài nguyên nước…
(xi) Hai bên nhất trí tăng cường hơn nữa hợp
tác giữa các tỉnh, khu tự trị biên giới hai nước, nhất là giữa 7 tỉnh của Việt
Nam gồm Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh
với 4 tỉnh (khu tự trị) của Trung Quốc gồm Quảng Đông, Quảng Tây, Hải Nam, Vân
Nam; phát huy vai trò của cơ chế hợp tác liên quan giữa địa phương hai nước;
tập trung thúc đẩy hợp tác trong các lĩnh vực kinh tế - thương mại, cơ sở hạ
tầng giao thông, khoa học, giáo dục, văn hóa, y tế…; thúc đẩy các tỉnh, khu tự
trị biên giới hai nước cùng phát triển.
(xii) Hai bên nhất trí thực hiện nghiêm túc Kế
hoạch công tác năm 2013 của Ủy ban Liên hợp biên giới trên đất liền hai nước;
đánh giá tích cực việc hai nước thành lập Ủy ban hợp tác quản lý cửa khẩu biên
giới trong chuyến thăm lần này; đồng ý thúc đẩy việc mở và nâng cấp các cửa
khẩu biên giới giữa hai nước; tăng cường xây dựng và quản lý cơ sở hạ tầng của
các cửa khẩu biên giới, cải thiện điều kiện và nâng cao hiệu quả thông hành cho
người, hàng hóa, phương tiện qua cửa khẩu nhằm phục vụ việc qua lại và phát
triển kinh tế - thương mại giữa hai nước. Sớm khởi động việc xây dựng cầu Bắc
Luân II Việt-Trung. Hai bên nhất trí tổ chức vòng đàm phán mới “Hiệp định về
quy chế tàu thuyền đi lại tự do tại khu vực cửa sông Bắc Luân” và “Hiệp định về
hợp tác và khai thác phát triển du lịch khu vực thác Bản Giốc” vào nửa cuối năm
nay, cố gắng sớm đạt được tiến triển thực chất. Hai bên sẽ tăng cường trao đổi
và hợp tác kỹ thuật trong các lĩnh vực quản lý sông suối biên giới, phòng chống
thiên tai lũ lụt, sử dụng và bảo vệ tài nguyên nước trên sông suối xuyên biên
giới.
(xiii) Hai bên sẽ tiếp tục thực hiện tốt “Hiệp
định hợp tác nghề cá trong Vịnh Bắc Bộ”; tích cực nghiên cứu phương thức kiểm
tra liên hợp mới tại khu vực đánh cá chung ở Vịnh Bắc Bộ. Hai bên đánh giá cao
“Thỏa thuận giữa Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam và Bộ Nông
nghiệp Trung Quốc về việc thiết lập đường dây nóng về các vụ việc phát sinh đột
xuất của hoạt động nghề cá trên biển” được ký kết trong chuyến thăm lần này, xử
lý thỏa đáng các vụ việc phát sinh đột xuất của hoạt động nghề cá trên biển
giữa hai nước phù hợp với quan hệ hai nước.
4. Hai bên trao đổi ý kiến chân thành, thẳng
thắn về vấn đề trên biển, nhất trí việc Lãnh đạo hai Đảng, hai nước duy trì
trao đổi và đối thoại thường xuyên về vấn đề trên biển Việt Nam-Trung Quốc, chỉ
đạo và thúc đẩy giải quyết ổn thỏa vấn đề trên biển xuất phát từ tầm cao chiến
lược và đại cục quan hệ hai nước. Hai bên sẽ nghiêm túc thực hiện “Thỏa thuận
về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam-Trung
Quốc”, sử dụng tốt các cơ chế như đàm phán biên giới lãnh thổ cấp Chính phủ...,
kiên trì thông qua hiệp thương và đàm phán hữu nghị, tìm kiếm giải pháp cơ bản
và lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được, tích cực nghiên cứu giải pháp
mang tính quá độ không ảnh hưởng đến lập trường và chủ trương của mỗi bên, bao
gồm tích cực nghiên cứu và bàn bạc vấn đề hợp tác cùng phát triển.
Hai bên nhất trí dựa trên nguyên tắc dễ trước
khó sau, tuần tự tiệm tiến, gia tăng cường độ đàm phán của Nhóm công tác về
vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ, vững bước thúc đẩy đàm phán phân định vùng
biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ và tích cực thúc đẩy hợp tác cùng phát triển tại vùng
biển này, trong năm nay khởi động khảo sát chung tại vùng biển ngoài cửa Vịnh
Bắc Bộ, sớm xác định khu vực và lĩnh vực hợp tác để thực hiện nhiệm vụ đàm phán
của Nhóm công tác về vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ. Hai bên hoan nghênh Thỏa
thuận sửa đổi liên quan tới Thỏa thuận thăm dò chung trong khu vực thỏa thuận
ngoài khơi trong Vịnh Bắc Bộ được ký kết giữa doanh nghiệp hữu quan hai nước,
nhất trí mở rộng diện tích khu vực thỏa thuận, kéo dài thời hạn thỏa thuận,
cùng nhau thúc đẩy hoạt động thăm dò chung đối với cấu tạo dầu khí vắt ngang
đường phân định trong Vịnh Bắc Bộ sớm đạt được tiến triển tích cực.
Hai bên nhất trí gia tăng mật độ đàm phán của
Nhóm công tác chuyên viên về hợp tác trong các lĩnh vực ít nhạy cảm trên biển
Việt-Trung, trong năm nay thực hiện một đến hai dự án hợp tác trong số ba dự án
đã thỏa thuận, bao gồm Dự án về phối hợp tìm kiếm cứu nạn trên biển giữa Việt
Nam và Trung Quốc, Dự án hợp tác nghiên cứu quản lý môi trường biển và hải đảo
vùng Vịnh Bắc Bộ và Dự án nghiên cứu so sánh trầm tích thời kỳ Holocenne khu
vực châu thổ sông Hồng và châu thổ sông Trường Giang; tiếp tục thúc đẩy hợp tác
trong các lĩnh vực bảo vệ môi trường biển, nghiên cứu khoa học biển, tìm kiếm
cứu nạn trên biển, phòng chống thiên tai và kết nối giao thông trên biển.
Trước khi tranh chấp trên biển được giải quyết
dứt điểm, hai bên nhất trí giữ bình tĩnh và kiềm chế, không có hành động làm
phức tạp, mở rộng tranh chấp, đồng thời sử dụng tốt đường dây nóng quản lý,
kiểm soát khủng hoảng trên biển giữa Bộ Ngoại giao hai nước, xử lý thỏa đáng
các vấn đề nảy sinh với thái độ xây dựng, không để các vấn đề này ảnh hưởng đến
đại cục quan hệ Việt-Trung cũng như hòa bình, ổn định tại Biển Đông. Hai bên
nhất trí thực hiện toàn diện, có hiệu quả “Tuyên bố về cách ứng xử của các bên
ở Biển Đông” (DOC), cùng nhau duy trì hòa bình và ổn định ở Biển Đông.
5. Phía Việt Nam khẳng định kiên trì thực hiện
chính sách một nước Trung Quốc, ủng hộ quan hệ hai bờ eo biển Đài Loan phát
triển hòa bình và sự nghiệp lớn thống nhất Trung Quốc, kiên quyết phản đối hành
động chia rẽ “Đài Loan độc lập” dưới mọi hình thức. Việt Nam không phát triển
bất cứ quan hệ chính thức nào với Đài Loan. Phía Trung Quốc hoan nghênh lập
trường trên của Việt Nam.
6. Hai bên cho rằng, Việt Nam và Trung Quốc
cùng là hai nước đang phát triển, có lập trường tương tự và gần nhau trong
nhiều vấn đề quốc tế và khu vực cùng quan tâm. Hai bên nhất trí tăng cường điều
phối và phối hợp tại các diễn đàn đa phương như Liên Hợp Quốc, Tổ chức Thương
mại Thế giới, Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương, Diễn đàn hợp
tác Á-Âu, Diễn đàn khu vực ASEAN, Hội nghị cấp cao ASEAN và Trung Quốc, Hội
nghị cấp cao ASEAN và Trung-Nhật-Hàn, Hội nghị cấp cao Đông Á..., cùng nhau duy
trì hòa bình, ổn định và thịnh vượng của thế giới.
Hai bên nhất trí lấy năm nay - năm kỷ niệm 10
năm ASEAN và Trung Quốc thiết lập quan hệ đối tác chiến lược, làm cơ hội để
thực hiện toàn diện nhận thức chung mà Lãnh đạo các nước ASEAN và Lãnh đạo
Trung Quốc đã đạt được, tổ chức tốt các hoạt động kỷ niệm 10 năm, không ngừng
mở rộng và làm sâu sắc thêm hợp tác giữa ASEAN và Trung Quốc trong các lĩnh vực
kinh tế-thương mại, kết nối giao thông, hải dương, xã hội nhân văn..., đóng góp
nhiều hơn nữa cho hòa bình, ổn định và thịnh vượng của khu vực.
7. Trong thời gian chuyến thăm, hai bên đã ký
“Chương trình hành động giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Trung Quốc về việc
triển khai quan hệ Đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Trung Quốc”,
“Thỏa thuận hợp tác biên phòng giữa Bộ Quốc phòng hai nước Việt Nam - Trung
Quốc” (sửa đổi), “Thỏa thuận giữa Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thông Việt
Nam và Bộ Nông nghiệp Trung Quốc về việc thiết lập đường dây nóng về các vụ
việc phát sinh đột xuất của hoạt động nghề cá trên biển”, “Thỏa thuận giữa Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam và Tổng cục giám sát chất lượng,
kiểm nghiệm, kiểm dịch Trung Quốc về hợp tác trong lĩnh vực kiểm nghiệm, kiểm
dịch động thực vật xuất nhập khẩu”, “Điều lệ công tác của Ủy ban hợp tác quản
lý cửa khẩu biên giới đất liền Việt Nam-Trung Quốc”, “Bản ghi nhớ giữa Chính
phủ Việt Nam và Chính phủ Trung Quốc về việc thành lập Trung tâm văn hóa tại
hai nước”, “Bản ghi nhớ về kế hoạch hợp tác giai đoạn 2013-2017 giữa Liên hiệp
các tổ chức hữu nghị Việt Nam và Hội hữu nghị đối ngoại nhân dân Trung Quốc”,
“Thỏa thuận sửa đổi lần thứ 4 giữa Tập đoàn dầu khí Việt Nam và Tổng công ty
dầu khí ngoài khơi quốc gia Trung Quốc liên quan tới Thỏa thuận thăm dò chung
trong khu vực thỏa thuận ngoài khơi trong Vịnh Bắc Bộ” và nhiều văn kiện hợp
tác kinh tế khác.
8. Hai bên hài lòng trước những kết quả đạt
được trong chuyến thăm Trung Quốc của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, nhất trí
cho rằng chuyến thăm có ý nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy quan hệ hai nước
phát triển. Chủ tịch nước Trương Tấn Sang cảm ơn sự đón tiếp nhiệt tình, hữu
nghị của phía Trung Quốc và mời Chủ tịch nước Tập Cận Bình thăm Việt Nam. Chủ
tịch nước Tập Cận Bình bày tỏ cảm ơn.
Bắc Kinh, ngày 21 tháng 6 năm 2013
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét