Thứ Sáu, 23 tháng 8, 2013

BÙI GIÁNG - THƠ TIÊN HAY THƠ ĐIÊN? - PHẦN 2

Bùi Tiên Sinh
Bùi Giáng là Tiên, là Bụt? Khi ai chửi ông cũng ừ, mà ai khen ông cũng ứ ư… Chẳng thèm phản ứng lại người đời với những ngôn từ như hòn đá ném vào ông.

Ông chỉ là ‘người bình thường’, bình thường đến nỗi ông không ý thức được sự bình thường đó và cũng không đòi hỏi phải thế này, phải thế kia mới bình thường. Ấy cũng chính là ý nghĩa của công án “Bình thường tâm thị đạo”.

Ông là Tiên, là Bụt vì ông không thách thức, không ham muốn chinh phục cuộc đời, ông chỉ là một đứa trẻ con mơ mộng bay đến cung trăng hay bay lên đỉnh Everest để đùa vui với non nước trong ngần, phiêu bồng trăng mọc non ngàn lá sương.
Ông là ‘người cõi trên’ vì dám chửi cha bọn nho hương nguyện đầu xanh còn chưa ráo máu mà chuyên gùn ghè bám riết, nhe răng hút máu xương tinh thể tài hoa, thị hiện trong sát na thống ẩm cuồng ca và thậm chí, nếu cần thí mạng mình để đổi lại.

Máu xương tinh thể thiên tài,
Da xương làm chiếc quan tài chôn thây,
Lũ người trước tớ sau thầy,
Nhai văn nhá chữ miệng đầy máu xương

Nhưng ông cũng là quỷ sứ khi ông chửi bới, rượt đuổi những đứa trẻ trêu chọc ông bằng những lời không ai hiểu được của kẻ điên. Ông là quỷ khi ông mơ mộng được làm tình với Nương Tử Kim Cương. Phan Nhiên Hạo viết trong bài đã dẫn:

“Ông dùng ngón trỏ và ngón giữa móc vào nhau tạo thành một dấu hiệu tục tĩu mà trẻ con hay làm. Tay kia cầm một quả chanh, không biết kiếm đâu ra. Ông cố nhét quả chanh vào giữa cái hình ô van tạo nên bởi hai ngón tay, miệng lẩm bẩm: “Ðây là con cặc nhét vô cái lồn Kim Cương. Con cặc to quá nhét vô không được (!)”.

Ông là ma trong dáng vẻ khùng điên si cuồng đến nỗi người ta hay lấy ông làm biểu tượng để hù dọa con nít. Con ma Giàng Búi lúi húi loanh quanh dạo khắp nẻo phố phường, sẵn sàng đốp chát đến cùng với con mẹ hàng tôm hàng cá.


Lê Bích Sơn có cả một ký ức về Bùi Giáng qua bài viết “Bùi Giáng & Trò chơi bán dùi”:

Khác với những gì người ta nói về Bùi Giáng, cái tên Bùi Giáng đến với hắn [Lê Bích Sơn] bằng tất cả những cảm giác rùng rợn và lo sợ… mỗi khi phạm phải một sai lầm. Bùi Giáng trong hắn đích thực là “Ông Ba Bị”, nhân vật đen đủi, gớm ghiếc với chiếc bị lớn trong tay chuyên bắt con nít bỏ bao, trong những câu chuyện răn đe của người lớn…

Năm bảy, tám tuổi gì đó, lần đầu tiên hắn “diện kiến” Bùi Giáng trong một lần tan học. Bùi Giáng mặc áo quần rách tả tơi, gầy đen, tay cầm một cây gậy quấn vải có cột vài chai lọ trên đó, và dĩ nhiên không cầm chiếc bị nào để bắt cóc con nít… Ông Ba Bị Bùi Giáng hiền hơn những gì hắn nghe người ta kể!

…Sau đó, hắn tham gia cùng lũ trẻ trong vùng “chơi trò Bùi Giáng”. Trò chơi vừa thích thú, vừa lo âu sợ hãi lạ lùng. Bọn trẻ thi nhau tìm đến gần ông rồi bất chợt hô to: “Bùi Giáng…bán dùi, Bùi Giáng…bán dùi…” rồi xô nhau mà chạy… Không biết ông có đuổi theo phía sau hay không, nhưng “chơi trò Bùi Giáng” quả là một điều thích thú của lũ trẻ ngày đó.

Thời gian sau, bọn trẻ không còn thấy hình bóng Bùi Giáng nữa. Đoạn đường từ cầu Diêu Trì đến Ngã Ba Phú Tài vắng bóng ông. Người ta thay nhau truyền những “bản tin”, đại loại như: “Bùi Giáng do C.I.A cài lại, và đã được “bốc” đi Mỹ tháng trước…”, hoặc “Bùi Giáng đã được một nhóm người vượt biên “tóm cổ” lên một chiếc tàu ra đi từ cảng Quy Nhơn…để thông dịch”; v.v… Nói chung, Bùi Giáng đã rời khỏi Quy Nhơn để… đi Mỹ.

Bùi Giáng không đi Mỹ như người ta đồn. Bùi Giáng vẫn còn sống và sống rất mãnh liệt ngay trên mảnh đất Sài Gòn vừa đổi chủ. Thỉnh thoảng, người ta nhìn thấy Bùi Giáng "làm cảnh sát giao thông" giữa cầu Trương Minh Giảng; có lúc ông trú mưa dưới mái hiên Trung tâm Ngoại ngữ Đại học Sư phạm (Đại học Vạn Hạnh trước 1975); đôi khi ông đến thăm chư tăng ni và các thiền viện qua những câu chuyện kể của quý thầy… Bùi Giáng bụi bặm, gầy gò, nghêu ngao, tự tại:

“…Sài Gòn Chợ Lớn rong chơi,
Đi lên, đi xuống đã đời du côn…”

Xét cho cùng ông chẳng hề ‘du côn’ chút nào! Phần ‘du côn’ ông đã ‘khiêm tốn’ ‘nhường lại’ kẻ khác...

Ở đời sáng uống cà phê
Quán trong hẻm nhỏ như quê quán nhà
Ngoại ô thành phố phồn hoa
Ấy Sài Gòn ấy thiết tha bấy chầy.


Thơ ông không thiếu những từ ‘lạ’ như ‘hạ quyết tâm’, ‘bốc lột’... chỉ xuất hiện sau ngày Sài Gòn sụp đổ:

Ngày nay hạ quyết tâm rồi
Về trần thế bốc lột người thế gian
Tình yêu đã lỗi muôn vàn
Chỉ còn bốc lột vạn ngàn máu tim…
Mỗi năm mồng một ra giêng
Con dẫn ông dạo suốt miền vực khu
Khu này Bình Thạnh quận khu
Khu trên Gò Vấp tuyệt trù lưu phong
Dưới kia Bà Chiểu Lăng Ông
Lên xe buýt thẳng dông chơi Sài Gòn.

Sau khi Sài Gòn thất thủ, người ta cũng bắt gặp một Bùi Giáng quẩy trên vai bó củi, đầu kia thì loảng xoảng nồi niêu soong chảo… Một hình ảnh khiến ta liên tưởng đến những người từ vùng Kinh tế mới trở lại đô thành. Bao hình ảnh chợt thoáng qua như một đoạn phim ngắn về cuộc sống của người Sài Gòn. Đời trở nên chật vật, trật tự xáo trộn, kinh tế khó khăn. La Toàn Vinh viết về Bùi Giáng sau 1975:

Đến những ngày sau 1975, Bùi Giáng vẫn cứ làm con người Bùi Giáng. Con người nhân chứng cho cảnh đời, cho bao bể dâu biến đổi và nếu như cuộc đời ví như một vở kịch thì người thắng cuộc lại là những người đóng trọn vai tuồng một cách xuất sắc.

Cuộc đời Bùi Giáng, về cuối, rất ngang tàng. Đã có rất nhiều giai thoại về ông. Người ta kể, có lần nhà thơ Huy Cận từ miền Bắc vào Nam, nói chuyện ở Cao đẳng Mỹ Thuật, Bùi Giáng xuất hiện, đi tới đi lui ở trước cổng trường và chửi đổng: "Mẹ mày Huy Cận, mẹ mày Huy Cận." Sinh viên vào báo cho ban giám hiệu, nhưng tất cả đều im lặng.

Họa sĩ đồng hương Hồ Thành Đức, phu quân họa sĩ Bé Ký, có lẽ là người biết rất nhiều về Bùi Giáng trong giai đoạn ‘hậu giải phóng’. Đại khái chuyện như sau:

Huy Cận, Thứ Trưởng bộ văn hóa, có bài thơ được Bùi Giáng sửa lại khi mang ra giảng dạy. Huy Cận biết được, phục tài sửa thơ của họ Bùi nên lúc vào miền Nam đã cho người tìm Bùi Giáng để thăm. Nhưng, sau 75 Bùi Giáng đã thành ‘Chủ Cái Bang’, biết đâu mà tìm. Nhân viên ông Thứ Trưởng tìm đến nhờ họa sĩ Hồ Thành Đức, bởi sau 75 nơi ở của họa sĩ xem như chỗ vãng lai của nhiều nhân vật văn nghệ miền Bắc.

Anh Đức chạy kiếm nhà thơ và khuyên ông: “Anh à, đến thăm ông Thứ Trưởng, anh phải ăn mặc cho đàng hoàng, về nhà em tắm rửa rồi lấy áo quần em thay”. Bùi Giáng không nghe cứ mặc nguyên áo quần rách rưới hôi hám, ai đời quần xà lỏn mà thắt cà vạt, lại tòn ten trên người lon hũ linh tinh.

… Huy Cận ra tận cửa đón Bùi Giáng, nhưng thoạt nhìn đã phải quay đi vì không thể nhịn được cười. Huy Cận gọi nhà thơ là Tiên Sinh, chuyện vãn thân mật. Cuối cùng ông hỏi Bùi Giáng:

- Tiên Sinh có cần giúp đỡ gì không xin cho biết?
Bùi Giáng nói như thật:
- Ông Thứ Trưởng giúp cho mấy chữ để tôi trình công an chớ họ gặp là đánh tôi bầm mình bầm mẩy.

Huy Cận viết cho Bùi Giáng mảnh giấy đại ý: Nhà thơ Bùi Giáng, bạn tôi, ông ta có tính hay đi lang thang, các anh em công lực thông cảm giúp đỡ.

Mảnh giấy như lá bùa hộ mệnh, anh Đức bảo đưa photo để cất bản chính, nhưng Bùi Giáng không chịu. Mấy bữa sau, gặp lại, anh Đức hỏi:

- Sao công an còn khó dễ với anh không?
- Nó vẫn đánh tao học máu.
- Sao không trình giấy cho họ?
- Thì tao chưa kịp lấy giấy ra nó đã đánh rồi.

Lai có chuyện đồn một hôm nhà thơ lang thang trên đường Lê Lợi, gặp một phụ nữ người Âu, ông thản nhiên… bóp vú cô đầm. Công an can thiệp, ông nói tỉnh bơ: “Tôi chỉ muốn thử xem hai bầu vú Liên Sô có còn nuôi nổi Việt Nam không”.

Một lần khác trong chợ An Đông, ông giật một chiếc xe đạp của bà bán dạo trên đường. Bà hàng đuổi theo, ông trả lại và nói: “Mất cả nước thì không la, mất cái xe đạp lại la oai oái”!


Thơ lục bát của Bùi Giáng cũng gần gũi như lục bát của Đoạn Trường Tân Thanh, và gần như ca dao, có cả thơ đùa cợt kiểu ca dao. Nhiều bài thơ của Bùi Giáng có giọng thơ của thơ Lãng Mạn 1930-1945. Cảm hứng chính của thơ Bùi Giáng là cảm hứng lãng mạn có màu sắc Thiền. Bùi Giáng có rất ít bài thơ nói về thực tại bằng ngôn ngữ đời thường:

Tôi gọi Bình Dương là Bình Dưỡng
Dượng dì ơi thương nhớ cháu nhiều không
Tôi gọi Cần Thơ là Cần Thở
Cần Thơ ơi… cần thở đến bao giờ?
Bỏ trăng gió lại cho đời
Bỏ ngang ngửa sóng giữa lời hẹn hoa
Bỏ người yêu, bỏ bóng ma
Bỏ hình hài của tiên nga trên trời
Bây giờ riêng đối diện tôi
Còn hai con mắt khóc người một con
(Mắt buồn)

Chính câu cuối cùng trong bài Mắt buồn đã gợi ý cho nhạc Trịnh Công Sơn: “Còn hai con mắt khóc người một con/ Còn hai con mắt một con khóc người/Con mắt còn lại nhìn một thành hai/ Nhìn em yêu thương nhìn em thú dữ/ Con mắt còn lại ngờ vực tình tôi/ Cuồng điên yêu thương cuồng điên nỗi nhớ...” (Con mắt còn lại).

Điều thú vị là năm 1992 thi sĩ Bùi Giáng không hề có ý tranh giành về chuyện bản quyền với người bạn của mình, khi có người thắc mắc vì sao nhạc sĩ Trịnh Công Sơn không đề bản nhạc được sáng tác theo ý thơ của ông. Có lẽ với tính cách bất cần của thi sĩ họ Bùi thì ông cũng chẳng coi đó là sự xúc phạm. Và hơn nữa, bài thơ Mắt buồn của ông đã quá nổi tiếng, vậy thêm một lần đề tên mình lên bản nhạc thì cũng chỉ là thêm được ‘tiền rượu’ mà thôi.

Hai nghệ sĩ Trịnh Công Sơn và Bùi Giáng, lúc sống cũng là chỗ giao du thâm tình, trong nhạc của người này có thơ của người kia:

Anh Sơn vô tận bấy chầy
Tôi từ lẽo đẽo tháng ngày trải qua
Niềm thống khổ đứt ruột rà
Còn chăng? chỉ một ấy là là chi

Ngày Bùi Giáng qua đời Trịnh Công Sơn có ghi vào sổ tang của Bùi Giáng tại chùa Vĩnh Nghiêm:

Bùi Giang Bàng Dúi Bùi Giáng
Ô hay trăm ngõ bàng hoàng lỗ không
Lỗ không trời đất ngỡ ngàng
Nhớ thương vô cùng là từ
Là từ vô tận ứ ừ viển vông
Bùi Giáng và Trịnh Công Sơn
Ta hãy nghe chính Bùi Giáng bàn về thơ: "Thơ là cái gì không thể bàn tới, không thể dịch, diễn gì được. Người ta có thể diễn tả một trận mưa rào bằng lời thơ. Thì có lẽ muốn diễn tả một bài thơ, người ta chỉ có thể phát động một trận mưa rào, hoặc một cơn gió thu. Mà muốn thực hiện sự đó, thì ngoài việc làm thơ ra, con người không còn phép gì khác. Thế có nghĩa là: muốn bàn tới thơ, diễn dịch thơ, người ta chỉ có thể làm một bài thơ khác. Người xưa am hiểu sự đó, nên họ chỉ vịnh thơ, chứ không bao giờ điên rồ gì mà luận bàn về thơ. Người đời nay trái lại, họ buộc phải luận thơ có mạch lạc luân lý, không được "bốc đồng" vịnh lăng nhăng. Cái chỗ ngu si đó là điều bất khả tư nghị vậy.

"Thơ tôi làm (...) trong mấy cuốn thơ của tôi chỉ là một cách dìu ba đào về chân trời khác. Đi vào giữa trung tâm bão dông một lúc thì lập thời xô ngôn ngữ thoát ra, phá vòng vây áp bức. Tôi gạ gẫm với châu chấu, chuồn chuồn, đem phó thác thảm hoạ trần gian cho chuồn chuồn mang trên hai cách tay mỏng bay đi. Bay về Tử Trúc Lâm bay về Sương Hy Lạp, nghé Calvaire viếng thăm một vong hồn bát ngát, rồi quay trở về đồng rộng, làm mục tử chăn trâu. Làm mục tử không xong bỏ trâu bò chạy lạc, phá phách mùa màng, khoai sắn, thì tôi chạy về bẩm báo với ni cô cho phép con chuồn chuồn của tôi cư lưu một phút giây trong linh hồn bao dung phương trượng. Ni cô xua đuổi tôi thì tôi ra bờ sông nằm ngủ khóc một mình thơ dại giữa chiêm bao. Trong chiêm bao thơ về lãng đãng thì từ đó vần bất tuyệt cũng lãng đãng chiêm bao...

"Hãy để yên cho tôi điên tôi dại. Đừng ai nói đến tôi. Và nhất là đừng có bàn đến thơ tôi. Tôi không dám si mê, cũng không dám hoài vọng. Một mai tôi chết. Nghĩa là tôi không còn sống. Tôi sống trong cơn dại cơn điên. Tôi làm thơ trong cơn điên cơn dại. Nghĩa là tôi chết hai ba lần trong trận sống... Người yêu đừng bén mảng đến, bạn bè hãy đi xa. Để tôi một mình tha hồ tôi điên tôi dại. Ai có đến gần thì hãy thử điên dại như tôi...

"...Ông Whitman ôi. Tại hạ làm thơ nửa phần giống thơ ông, nửa phần giống thơ ông Dylan Thomas, nhưng giống theo một thể thái bê bối đười ươi, chứ không có được cái phong độ tiên thiên cốt cách. Vậy bây giờ tôi cố gắng làm một bài thơ rất mực cốt cách tiên thiên để tặng ông chơi một trận. Tuy nhiên càng hì hục bắt chước tiên thiên càng lộ ra cái nết na đười ươi phong thói. Vậy tôi xin ngậm ngùi dừng bút, chẳng dám ký tên dưới tờ thư cay đắng." 

Xin hãy đọc một trong những bài thơ sau cùng của ông:
Uống xong ly rượu cuối cùng
Bỗng nhiên chợt nhớ đã từng đầu tiên.
Uống như uống nước ngọc tuyền
Từ đầu tiên mộng tới phiền muộn sau
Uống xong ly rượu cùng nhau
Hẹn rằng mai sẽ quên nhau muôn đời
Em còn ở lại vui chơi
Suốt năm suốt tháng suốt nơi lan tràn
Riêng anh về suốt suối vàng
Trùng phùng Lý Bạch nghênh ngang Tản Ðà
Em còn ở với sơn hà
Anh còn mất hút gần xa mất hoài
(Uống rượu)

Tin Bùi Giáng ‘vĩnh viễn ra đi’ lại một lần nữa “chấn động” giới cầm bút. Lần này người ta không những chạy đi tìm mua các tờ báo in, mà gần như hiệu sách nào cũng được khách hàng hỏi: “Ở đây có thơ Bùi Giáng?”. Tin, tùy bút, phóng sự, truyện tự kể, bình luận, sách và thư pháp “Bùi Giáng” được người ta thi nhau phát hành, bày bán… Người ta thay nhau kể công, viết lách, phô trương trên những trang viết về những mối “thâm tình” cùng Bùi Giáng… khi nhục thân ông được đưa từ chùa Vĩnh Nghiêm đến nghĩa trang Gò Dưa - Thủ Đức và mộ phần ông chưa xanh cỏ.

Tượng chân dung trên mộ Bùi Giáng
Xin được kết thúc bài viết này với Nguyễn Viện trong Nhìn thấy Bùi Giáng lần cuối:

Lúc đó, tôi đang làm ở báo Thanh Niên. Sếp tôi, tổng thư ký tòa soạn Nguyễn Khắc Nhượng, bảo ông Bùi Giáng đang nằm cấp cứu trong bệnh viện Chợ Rẫy, ông vào xem thế nào. Tôi vào, cùng với một phóng viên ảnh. Lẽ ra, không một ai được phép vào gặp ông ấy trong thời điểm đó, nhưng nể tôi là nhà báo, bác sĩ trưởng khoa cấp cứu Tề Văn Tiếng đã đồng ý cho chúng tôi vào.

Ở Sài Gòn, không mấy ai (trong giới văn nghệ) lại đã không từng gặp Bùi Giáng. Bình thường ông ăn mặc kiểu "Cái bang", múa may ngoài đường, bất cứ ai có vài đồng lẻ cũng có thể mời ông uống một ly cà phê, nói dăm ba câu, hoặc được ông tặng vài câu thơ viết trên một tờ giấy vụn. Bảo ông điên cũng được, bảo tỉnh cũng không sai.

Cái con người rất "bụi" ấy, giờ đây, trước mắt tôi, đang nằm trên chiếc giường sắt của bệnh viện, chuẩn bị giải phẫu. Toàn bộ thân thể ông đã được cạo trắng, sạch sẽ. Trần truồng. Ðược đắp trên người tấm drap trắng. Trông ông nhỏ bé và thơ dại, dù khuôn mặt hóm hém. Phóng viên ảnh nháy máy.

Bác sĩ Châu, người phụ trách mổ cho Bùi Giáng, nói với tôi không hy vọng lắm, nhưng sẽ cố gắng. Bác sĩ Châu cũng cho tôi biết, ngoài gia đình nhà thơ, người đầu tiên và có lẽ cũng là người cuối cùng đến với Bùi Giáng trong bệnh viện là nghệ sĩ "mẫu thân" Kim Cương.

Tôi cũng còn biết vài chuyện xung quanh chuyện hậu sự của ông, như có một số anh em văn nghệ đã tự vận động để ông được mai táng trong nghĩa trang thành phố. Thành ủy chấp thuận. Nhưng gia đình ông đã từ chối ân huệ ấy. Ông vốn sống là nhân dân, chết cũng là nhân dân, nên chôn ở nghĩa trang nhân dân Gò Dưa. Tôi cũng biết rất nhiều anh em tranh nhau để được đọc "đít cua" trước quan tài ông.

Tôi muốn viết những dòng này, vì tôi không thể nào quên được, không phải hình ảnh một nhà thơ điên nhảy múa hồn nhiên rất tuồng chèo trên đường phố, mà một hình hài thơ dại trước cái chết. Trần truồng.

***
Tác phẩm của Bùi Giáng

Tập thơ

Mưa nguồn (1962)
Lá hoa cồn (1963)
Màu hoa trên ngàn (1963)
Ngàn thu rớt hột (1963)
Bài ca quần đảo (1963)
Sa mạc trường ca (1963)
Mười hai con mắt (1964)
Rong rêu (1972)
Thơ vô tận vui (1987)
Mùa màng tháng tư (1987)
Mùi Hương Xuân Sắc (1987)
Đêm ngắm trăng (1997)
Thơ Bùi Giáng (Montréal, 1994)
Thơ Bùi Giáng (California, 1994)…



Nhận định (Tất cả đều được xuất bản năm 1957)

Nhận xét về Bà Huyện Thanh Quan
Nhận xét về Lục Vân Tiên
Nhận xét về Chinh Phụ Ngâm và Quan Âm Thị Kính.
Nhận xét về truyện Kiều và truyện Phan Trần.


Giảng luận (Tất cả đều được xuất bản năm 1957-1959)

Giảng luận về Nguyễn Công Trứ
Giảng luận về Cung oán ngâm khúc
Giảng luận về Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu.
Giảng luận về Phan Bội Châu
Giảng luận về Chu Mạnh Trinh
Giảng luận về Tôn Thọ Tường
Giảng luận về Phan Văn Trị



Triết học

Tư tưởng hiện đại (1962)
Martin Heidgger và tư tưởng hiện đại I và II (1963)
Sao gọi là không có triết học Heidgger? (1963)
Dialoque (viết chung, 1965)


Tạp văn
Đi vào cõi thơ (1969)
Thi ca tư tưởng (1969)
Sa mạc phát tiết (1969)
Sương bình nguyên (1969)
Trăng châu thổ (1969)
Mùa xuân trong thi ca (1969)
Thúy Vân (1969)
Biển Đông xe cát (1970)
Mùa thu trong thi ca (1970)
Ngày tháng ngao du (1971)
Đường đi trong rừng (1971)
Lời cố quận (1971)
Lễ hội tháng Ba (1971)




Sách dịch

Trăng Tỳ hải (1966)
Cõi người ta (1966)
Khung cửa hẹp (1966)
Hoa ngõ hạnh (1966)
Othello (1966)
Bạo chúa Caligula (1967)
Ngộ nhận (1967)
Kim kiếm điêu linh (1967)
Con đường phản kháng (1968)
Mùa hè sa mạc (1968)
Kẻ vô luân (1968)
Nhà sư vướng luỵ (1969)
Ophélia Hamlet (1969)
Hòa âm điền dã (1969)
Hoàng tử Bé (1973)
Mùa xuân hương sắc (1974)...

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét