Thứ Hai, 26 tháng 8, 2013

TỔNG HỢP NHỮNG BÀI VIẾT VỀ NHÀ THƠ BÙI GIÁNG - PHẦN 4

Trịnh Công Sơn và Bùi Giáng
Chương 17: ÁM ẢNH NGUYỄN DU VÀ HEIDEGGER

Ở Bùi Giáng có hiện tượng là một số người được ông nhắc đi nhắc lại mãi trong những trang viết của mình. Đó là sự ám ảnh. Hình bóng họ đã ăn sâu vào tiềm thức ông do những ấn tượng mạnh mẽ lúc ban đầu. Khi bệnh tình bộc phát, những hình bóng đó sẽ xuất hiện trở lại trong văn thơ ông theo những cách khác nhau. Xem xét những tác phẩm của ông, ta sẽ thấy nổi lên hai nhóm đối tượng. Nhóm thứ nhất bao gồm những người mà ông coi như thần tượng của mình trong lĩnh vực tri thức. Trong nhóm này, đứng đầu là đại thi hào Nguyễn Du và triết gia người Đức Martin Heidegger.

Khi bước vào con đường nghiên cứu, Bùi Giáng quan tâm đến Nguyễn Du đầu tiên cùng với một số tác giả cổ điển khác. Chúng ta nhớ lại, cuốn Một vài nhận xét về Truyện Kiều và Truyện Phan Trần được ông viết vào năm 1957 thật là xuất sắc. Kể từ đó, thiên tài Nguyễn Du bắt dầu “nhập hồn” Bùi Giáng. Ước tính có đến cả ngàn lần Bùi Giáng nhắc tên Nguyễn Du. Trong thơ, trong văn, trong giới thiệu tư tưởng và triết học, thậm chí cả trong những bản dịch tiểu thuyết nước ngoài… Đâu đâu ta cũng bắt gặp hình bóng Nguyễn Du. Bùi Giáng còn sáng tác nhiều bài thơ về Nguyễn Du. Một số bài thơ khác không liên quan, thì ông lại đề tặng Nguyễn Du.


Tuy nhiên, không phải như thế là Bùi Giáng sẽ dành những câu chữ hay ho nhất để viết về “cố nhân” của mình. Ngược lại, phần lớn những bài thơ viết về Nguyễn Du đều rất cà rỡn. Ta hãy đọc vài đoạn thơ Bùi Giáng viết về Nguyễn Du. Đây là một đoạn trong bài Nhớ ông:



Nhớ hoài ông Nguyễn ông Du



Ông Như ông Tố Điếu Đồ biển Nam



Hồng Sơn Liệp Hộ hội đàm



Hồng Sơn sơn nguyệt minh quang một mình



Hoặc một đoạn khác trong bài Tố Như nhớ quê:



Tôi nay lão nhược hơn ông



Tôi ngoài bảy chục thong dong một mười



Ông chưa tới tuổi sáu mươi



Lìa đời lúc mới tuổi ngoài năm lăm.



Vì thơ thì không phải lúc nào cũng đưa được một người nào đó vào mãi nên sự xuất hiện của Nguyễn Du cũng có giới hạn. Nhưng trong văn xuôi thì Bùi Giáng liên tục đưa Nguyễn Du vào. Đi sâu vào các trang sách của Bùi Giáng, ta thấy Nguyễn Du xuất hiện dày đặc. Khen thơ Hồ Dzếnh, Bùi Giáng viết: “Cũng may cho ông Nguyễn Du sinh ra ở thế kỷ trước. Nếu sinh ra đồng thời với Hồ Dzếnh, ắt ông Nguyễn Du không còn chịu viết Đoạn Trường Tân Thanh làm gì”. Viết về một câu chuyện không đâu vào đâu, Bùi Giáng cũng lại nói về Nguyễn Du:“Lại cũng như ông Nguyễn Du ham có hơn ba trăm năm sau có kẻ khóc mình. Có một mẫu thân Phùng Khánh cho con bú trong hiện tại đã đủ rồi, hà tất phải dỗ con nín khóc ba trăm năm sau”. 
Viết về Albert Camus, Bùi Giáng cũng không quên Nguyễn Du: “Rồi những điều Nguyễn Du nói với ma, thì quỷ lại tưởng là nói với quỷ. Những điều Nguyễn Du nói với quỷ, thì thần thánh lại tưởng là nói với thánh thần. Những ngộ giải chạy tràn lan. Quỷ không hài lòng về Nguyễn Du, thần thánh bực bội vì Nguyễn Du”. 
Trong những cuốn sách như Mùa thu trong thi ca, Thi ca tư tưởng, Đường đi trong rừng…cứ một đôi trang là ta bắt gặp hình ảnh Nguyễn Du hiện lên qua cái lăng kính hài hước của Bùi Giáng: “Nguyễn Du không kinh hoàng nhảy lui. Cũng không bị tẩu hỏa nhập ma, vùng vẫy rú lên một tiếng như Zarathustra also sprach. Ông điềm nhiên làm Nam Hải Điếu Đồ. Kẻ câu ấy câu cái gì tại Nam Hải?”, “Và đó cũng là duyên do kỳ dị thiên biến vạn hóa đã khiến Nguyễn Du mở một trận Ẩn Tàng kỳ bí cổ kim bằng cách: cả hư không đặt để nên lời, cả nỗi đêm khép mở nỗi ngày riêng chung của song trùng tịch hạp thượng thừa huyền môn tâm pháp – Nguyễn Du đều đem gán vào môi miệng Bạc Hà Tú Bà”…



Bùi Giáng còn có cái thú làm thơ giả Kiều để ký tên chung Bùi Giáng – Nguyễn Du hoặc Bùi Giáng – Tố Như. Đó là những đoạn lục bát chen vào giữa những đoạn văn xuôi, có tí chút “chất Kiều”. Trong cuốn Martin Heidegger và tư tưởng hiện đại có nhiều đoạn giả Kiều rất dài. Những câu giả Kiều ấy có khi sai cả vần sáu tám hoặc thiếu hẳn cả một câu sáu, nên hai câu tám liên tiếp nhau.



Theo sau Nguyễn Du là Heidegger. Ông này cũng xuất hiện rất nhiều trong các trang viết, không kém gì Nguyễn Du. Đây là một triết gia người Đức, không rõ “nhập hồn” Bùi Giáng lúc nào mà đến năm 1963, khi Bùi Giáng viết bộ sách hai tập Martin Hedegger và tư tưởng hiện đại thì đã thấy ông bị tẩu hỏa bởi triết gia này rồi. Bùi Giáng đã viết đến năm sáu cuốn sách liên quan đến Heidegger. Nhưng như thế vẫn chưa thỏa mãn, ông lại đưa triết gia này vào trong rất nhiều cuốn sách khác. Tuy nhiên khác với Nguyễn Du, Bùi Giáng ít dám “sờ cằm vuốt râu” Heidegger hơn, dù đôi lúc cũng cà rỡn kiểu như: “Ông Cụ Già Nua Nước Đức Heidegger”, “Heidegger Đức Quốc Nua Già”. Có lẽ Heidegger thì ông kính nể như một người thầy còn Nguyễn Du thì ông mến yêu như một người ông của mình vậy.



Tác giả: Trần Đình Thu

Chương 18: CÁI ĐẸP THOÁT TRẦN TRONG VĂN THƠ BÙI GIÁNG


Nhóm đối tượng thứ hai luôn xuất hiện trong văn thơ Bùi Giáng là những người phụ nữ. Mỗi người một vẻ, họ hiện ra trong nhiều màu sắc kỳ bí khác nhau. Đó không phải là những nàng thơ theo nghĩa thông thường mà là hiện thân của cái đẹp. Một cách vô thức, Bùi Giáng phân biệt họ theo những tiêu chí khác nhau. Những người đầu tiên có thể kể đến là hoàng hậu Nam Phương và ni cô Trí Hải. Hai người này thuộc về thế giới của cái đẹp thoát trần. Ngược lại, nghệ sĩ Kim Cương và cô đào rực lửa người Mỹ Monroe Marilyn là hiện thân của cái đẹp xác thịt.



Một ngày nọ, Bùi Giáng nhận được một phong bì gửi đến, trên có dán con tem in hình hoàng hậu Nam Phương. Sự kiện nhỏ nhoi ấy lập tức gây xúc động lớn với ông. Từ lúc đó, hoàng hậu Nam Phương trở thành một hình bóng ám ảnh ông. Bà bắt đầu xuất hiện trong các trang viết của thi sĩ. Trong cuốn Mùa thu trong thi ca Bùi Giáng viết: “Suốt bao năm dài tại hạ làm thơ, chung quy chỉ vì cái màu xuân xanh bất tuyệt ban sơ của Dương Hoàng Hậu. Màu xuân ấy đã một lần tái sinh cách đây ba mươi năm trong hình hài máu me Nam Phương Hoàng Hậu. Tại hạ yêu Dương Quý Phi bao nhiêu thì cũng yêu Nam Phương Hoàng Hậu bấy nhiêu”.



Hoàng hậu Nam Phương luôn được ông tôn kính, nhưng bởi ông phải hài hước, phải cà rỡn, phải lan man nên hình ảnh vị hoàng hậu cũng phải hiện lên qua lăng kính đó. Tuy vậy, Bùi Giáng cố gắng giữ “chuẩn mực”, không đi quá đà. Một đôi khi ngẫu hứng quá thì ông cũng chỉ viết như thế này: “Chiêm bao anh thấy Hoàng Hậu Nam Phương dắt tay Marilyn Kim Cương nương tử tới gõ cửa xin vào thăm viếng anh thì anh bảo rằng anh đang bận viết lá thư cho em nên không thể nào đón tiếp Hoàng Hậu được thì cảm phiền Hoàng Hậu hãy lui gót chờ qua ngày mai anh sẽ ân cần chiếu cố”.



Bùi Giáng cũng có sáng tác một đôi bài thơ về hoàng hậu Nam Phương. Trong bài Chiêm bao Nam Phương Hoàng Hậu, dù là một bài thơ thuộc loại Thơ điên thứ thiệt nhưng ông vẫn đủ “tỉnh táo” để ngòi bút không chệch qua chỗ thiếu đứng đắn:



Kê bô tí xí đêm đà



Ki ba ri xí i à xán da



Xã dan xoàng xĩnh giang hà



Ồ mô pha cố cồ ri xa ì



Tử tì mỉm tí tì ti



Miệng vàng hợp nhất nhu mì nhị biên



Ra sông ngồi ngó diện tiền



Ngần sương sái diện uy quyền nữ vương



Bên cạnh hoàng hậu Nam Phương, ni cô Trí Hải xuất hiện trong các trang sách Bùi Giáng một cách khá dày. Bà là một người có trình độ uyên thâm, tác giả của một số đầu sách. Có lúc Bùi Giáng gọi bà là Trí Hải Ni Cô, có lúc gọi là mẫu thân Phùng Khánh. Bùi Giáng làm rất nhiều bài thơ về bà. Có thể kể tên một số bài như Mẹ Phùng Khánh, Kính tặng Phùng mẫu thân, Mẹ Phùng Thăng Khánh, Phùng Khánh Mẫu Thân…



Rất nhiều người thắc mắc vì sao Bùi Giáng gọi người này là mẹ, là mẫu thân. Bùi Giáng cũng từng “giải thích” chuyện đó trong Thi ca tư tưởng như sau: “Phùng Khánh vốn là bà mẹ Việt Nam. Tôi lại là con dân Việt Nam. Vậy thì tất nhiên Phùng Khánh là mẹ của tôi vậy. Nếu tôi không nhận Phùng Khánh là mẹ, thì chẳng ra tôi là người Lào? Hoặc là người Cao Miên? Hoặc con dân Âu Mỹ ư. Huống nữa là: Phùng Khánh là bà mẹ loài người. Vậy Phùng Khánh là mẹ của tôi. Nếu tôi không phải là con của Phùng Khánh, thì chẳng ra tôi chẳng phải con người? Chẳng ra tôi là con vật?”.



Vì sao Bùi Giáng lại viết như vậy? Có phải do tuổi thơ của ông thiếu vắng tình mẫu tử và điều đó đã ám ảnh ông cho đến khi gặp một người nữ tu có diện mạo đoan trang như một người mẹ hiền trong các câu chuyện cổ tích thuở nhỏ ông từng đọc? Hay là tấm lòng nhân ái của vị nữ tu này đã làm ông cảm động? Hay là trí tuệ mẫn tiệp của bà khiến ông nể phục? Vì một trong những lý do nào đó mà ta không thể đoan chắc được, thi sĩ bật ra tiếng gọi mẹ trong vô thức một cách da diết. Những bài thơ của ông vì thế đọc lên thấy vừa tức cười vừa đau xót:



“Mẹ còn nhớ nữa con chăng



Mẫu thân Phùng Khánh con hằng chẳng quên



Tuy đôi phen chết nếp nền



Cung vang lừng bậc điệu đền bù xoang



Mẹ về ngõ vắng vườn hoang



Thừa thiên sông lạnh kéo sang khu rừng”





“Mẹ nhìn con nữa còn chăng



Mẹ đi đứng gót mẹ hằng hằng qua



Lúc vui buồn mẹ nhớ nhà



Quận châu xứ sở con đà lãng quên



Phùng thăng mẹ chớ xui nên



Từng cơn điên dại khôn đền cho con”





“Nghe tin con chết giữa đường



Mẫu thân Phùng Khánh càng thương con nhiều



Con bèn tái điệp giấn liều



Chết thêm một trận hoang liêu song trùng



Mẹ càng bất tuyệt nhớ nhung



Ngày đêm mẹ khóc vô cùng vì con”





“Con thương phùng khánh vô ngần



Phùng thăng thân mẫu cũng gần như nhiên



Nguyệt rừng lộng lẫy man nhiên



Trăng ngàn thơ dại ngậm nghiêng nghiêng vành”…



Những câu thơ này, dù không được bình thường, nhưng nó lại gieo vào lòng ta một nỗi niềm man mác. Ta nhận ra trong tiếng gọi mẹ thiêng liêng ấy của ông một sự cô độc dữ dội tận sâu thẳm hồn người. Và tự nhiên ta cũng thấy yếu đuối trong tâm hồn mình.



Tác giả: Trần Đình Thu

Chương 19: HAI NGƯỜI ĐẸP KIM CƯƠNG VÀ MARILYN MONROE



Với Kim Cương và Marilyn Monroe, Bùi Giáng mạnh dạn nói năng mà không hề e ngại điều gì. Bởi trong tâm thức ông, họ là hiện thân của cái đẹp trần tục. Hiện có rất nhiều giai thoại mà người đời truyền tụng về chuyện Bùi Giáng chọc ghẹo Kim Cương, nhưng có lẽ ta cũng không cần tìm hiểu rằng chúng thật giả bao nhiêu phần trăm, bởi điều đó không mấy quan trọng. Vì như trường hợp Marilyn Monroe, một người ở tận bên trời Tây mà vẫn nhập vào hồn ông được, huống gì là Kim Cương tài sắc ở ngay tại Việt Nam.



Kim Cương là đối tượng số một của Bùi Giáng. Hình bóng của người đẹp này dường như thường trú trong vô thức của ông chứ không phải thỉnh thoảng mới hiện ra như một số người khác. Bùi Giáng đã dùng mọi cách biểu đạt kỳ quái nhất để nói về Kim Cương. Bài thơ sau đây cho thấy sự ám ảnh kinh khủng của người đẹp Kim Cương đối với ông. Đó là bài Cô Kim Cương ơi, in trong tập Sa mạc phát tiết, nguyên văn như sau:



Nếu ngày sau tôi chết đi, mà cô không thể giỏ cho một giọt nước mắt



Thì cô có thể giỏ cho một giọt nước tiểu cũng được



(Nhớ giỏ ngay trên nấm mồ)



Ở dưới suối vàng tôi sẽ ngậm cười mà đón nhận



(Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây)



Thật là một bài thơ không thể nào tưởng tuợng nổi.



Nhưng không chỉ có vậy. Trong cuốn sách Con đường ngã ba, Bùi Giáng còn bị ám ảnh dữ dội hơn nhiều. Suốt mấy trang liền, ông nhắc đi nhắc lại “lời đề nghị khiếm nhã” ở trên:



Cô Kim Cương hãy đi tiểu trên nấm mồ tại hạ. Thiên tài buổi Hoàng Hôn thốt một lời như thế. Nhưng Vũ Lâm Xuân của Thệ Đa Lâm vẫn không thể trùng sinh trên đống xương tơi tả của mình…



Cô Kim Cương hãy đi tiểu trên nấm mồ tại hạ. Đó quyết nhiên là lời rốt ráo tối hậu. Không cách gì nói khác. Nấm mồ tại hạ. Không thể đổi tiếng đó ra làm một tiếng nào khác. Hãy đi tiểu. Có thể nào đổi tiếng đi tiểu ra làm một tiếng khác…



Cô Kim Cương hãy đi tiểu trên nấm mồ tại hạ vẫn vĩnh viễn là ngôn ngữ tuyệt trù bất tận thi nhiên. Vì chỉ nói như vậy thì ngàn vạn năm sau riêng hình ảnh cô Kim Cương sẽ vĩnh viễn đi về Trong Tháng Ba Lễ Hội để giải oan cho Tượng Vương hồi xứ Hoa Nghiêm Kinh…



Cô Kim Cương hãy đi tiểu trên nấm mồ tại hạ là sự vụ cần yếu ban sơ cho cuộc tối sơ đi về hủy thân giữa trần thổ. Cô Kim Cương vén xiêm đi tiểu xong rồi, thì từ nấm mồ của trần thổ hủy thân đó sẽ nảy nở ra cuộc đầu thai nơi núi đá…”.



Cứ một ý như vậy mà Bùi Giáng nói dông nói dài mãi. Nhưng sau đó, cách khoảng mấy trang, Bùi Giáng lại đổi ý, không muốn giữ lời đề nghị trên nữa:



Hỡi mẫu thân Kim Cương! Mẫu thân hãy dừng cuộc đi tiểu trong một thời gian để suy gẫm trở lại xem có thể tạo ra một vũ trụ khác để đi tiểu



Chúng ta không cần quan tâm đến ý nghĩa của từng câu chữ, vì chắc chắn là chúng vô nghĩa. Nhưng chúng mang cái ý nghĩa tổng quát, đó là sự ứng xử của vô thức đối với từng khái niệm. Ở đây là sự ứng xử với cái đẹp khác giới tính của thi sĩ đang trong trạng thái điên loạn.



Theo sau Kim Cương, Marilyn Monroe cũng được Bùi Giáng quan tâm kỹ. Ông đã sáng tác một số bài thơ về người đẹp này. Ta hãy đọc bài Trời khóc Marilyn để xem Bùi Giáng viết về người đẹp này như thế nào:



Trời xanh úp mặt nghe tin



Thôi rồi! Em Má Ri Lyn đi rồi



Từ đây ta bỏ ngai trời



Thu thời gian đập tơi bời càn khôn



Giữa hư vô nếu em còn



Nhớ ta em gửi cái hồn cho ta



Úp môi ôm mặt khóc òa



Cồn lê lên miệng là ba bốn lần.



Đó là bài thơ ông in trong tập Hoa lá cồn, xuất bản năm 1963. Sau đó trong phần Mưa nguồn hòa âm, toàn là thơ điên mà chúng ta đã biết, ông lại viết một bài thơ với cái tựa cũ là Trời khóc Marilyn. Bài thơ có mấy chục câu bắt đầu từ chữ Luống, một loạt câu khác bắt đầu từ chữ Một. Bài thơ này, vì thuộc thể điên loạn nên có một số câu chữ đi vượt quá giới hạn “đố tục giảng thanh”, chúng ta không thể trích dẫn vào đây được. Nhưng nó cho thấy rõ cái cách mà Bùi Giáng trình bày về cái đẹp trần tục theo cảm hứng của ông.



Có lẽ nói mãi cũng không hết được chuyện Bùi Giáng làm thơ về những người đẹp. Cho nên ta hãy đọc mấy câu thơ mà ông “phân loại đánh giá người đẹp” trong bài Quốc sắc Việt Nam sau đây:



Nam Phương Hoàng Hậu đẹp một cách thong dong



Kim Cương Nương Tử đẹp một cách thoải mái



Hà Thanh Công Chúa đẹp một cách cởi mở



Trí Hải Ni Cô đẹp một cách không lời



Bài thơ này còn dài nhưng chỉ trích dẫn chừng này câu thôi cũng đủ cho thấy Bùi Giáng vẫn có con mắt thật tinh đời trong khi sáng tác những bài thơ không tỉnh táo.



Tác giả: Trần Đình Thu

Chương 20: NGÀY THÁNG NGAO DU



Năm 1970 Bùi Giáng được các bác sĩ ở Bệnh viện tâm thần Biên Hòa cho xuất viện. Ngay trong năm đó, ông đã in hai cuốn sách là Biển Đông xe cátvà Mùa thu trong thi ca. Qua năm 1971 ông in Ngày tháng ngao du. Lúc này ông cũng đã bắt đầu ngao du thực sự trên khắp những nẻo đường Sài thành chứ không chỉ ngao du trong các trang sách. 
Phạm Xuân Đài kể: “Bây giờ anh ít làm thơ lắm, còn các cơn điên thì viếng anh gần như định kỳ. Những lúc ấy anh đi nhiều nơi, nhưng thường xuất hiện vùng chợ Trương Minh Giảng, chỗ Đại học Vạn Hạnh là nơi ngày xưa anh từng trú ngụ, đứng giữa đường vung tay điều khiển xe cộ, cử chỉ rất linh động, đặc biệt đôi mắt sáng quắc bừng bừng. Anh đang thể hiện một năng lực nào đấy đang đầy ắp trong người anh. Có khi anh múa may trong một lớp áo lòe loẹt, động tác mạnh mẽ chính xác gần như múa võ, miệng hò hét như đang nạt nộ với một đối tượng vô hình đang hiện diện ngay trước mặt mình. Đêm khuya một hai giờ sáng người ta nghe thấy một người đi vừa tranh luận với chính mình, lời lẽ khó hiểu, thì ai nấy đều biết đó là Bùi Giáng.”



Năm 1972 ông in khá nhiều sách: Đường đi trong rừng, Lời cố quận, Lễ hội tháng ba, Con đường ngã ba – Bước đi của tư tưởng. Năm 1973 in Bài ca quần đảo. Năm 1974 in Mùi hương xuân sắc.



Khi không làm gì, ông lại ngao du nhiều hơn. Nguyễn Văn Thức kể lại như sau: “ Có một lần gặp một người bạn, người bạn đó đã nói với tôi: Bùi Giáng dạo này điên lắm. Tôi bán tín bán nghi tự hỏi không biết có thật không. Nhưng một hôm, Nguyễn Văn Thức đã tận mắt chứng kiến những gì xảy ra trước mắt mình, mới tin lời người bạn nói lúc trước: “Một ông lão ăn mặc thời thượng đang nhảy múa trên đường Duy Tân, nay là đường Phạm Ngọc Thạch. Quần áo lếch thếch, dơ dáy, màu sắc lung tung. Tay cầm một ống sáo, đầu đội khăn có cắm lông gà lua tua. Râu ria xồm xoàm. Ống sáo trên đầu bịt một chiếc bong bóng đỏ, mỗi lần thổi bung lên tóp xuống, không phát ra một thứ âm thanh nào. Đang từ ở một mé đường ông lại chạy tông ra giữa đường nhảy múa. Chiếc bong bóng cứ liên tiếp phùng ra tóp vào. Lũ trẻ chạy theo bu quanh hò reo thích chí. Cứ thế ông diễu hành dọc theo đường Duy Tân lên đường Hiền Vương, nay là đường Võ Thị Sáu. Đám trẻ cứ bu theo ông chọc ghẹo. Ông rượt đuổi chúng chửi rủa thậm tệ và miệng lẩm nhẩm những gì không ai hiểu nổi. Đứng ngoài nhìn ông diễu hành, tôi thấy cám cảnh nên đã trờ xe đến gần gọi ông, nhưng ông không hề nghe vẫn tiếp tục nhảy múa. Vài đứa trẻ nhìn tôi lấy làm lạ. Tôi tiếp tục gọi ông. Lần này ông quay lại nhìn và nhận ra tôi rồi nhờ tôi chở đến nhà Đinh Cường. Khi ngồi ở sau xe tôi, Bùi Giáng trở nên hiền khô. Tôi thấy hai đòn bánh treo tòn teng ở cổ kỳ kỳ. Bùi Giáng hiểu và cho tôi hay là mẹ Trịnh Công Sơn vừa mới cho”.



Và đây là một cảnh tượng khác xảy ra trên đường phố Sài thành mà “diễn viên chính” không ai khác hơn ngoài thi sĩ của chúng ta: “ Bùi Giáng nhảy múa trước bệnh viện Nhân Dân Gia Định đường Nơ Trang Long quận Bình Thạnh. Ông cầm một cây đu đủ khô queo dài cỡ hơn hai mét. Lúc nào cũng vung cây đu đủ lên nhảy múa, quần áo vẫn lôi thôi, chằng vá đơn kép, màu sắc linh tinh. Đám trẻ con, người lớn bu vào. Giữa đám đông ấy tôi đến gần Bùi Giáng, vỗ vai ông: Nhảy múa gì mãi vậy, ông?. Nghe hỏi, ông quay phắt lại phía tôi, nhếch cặp mắt trắng dã, dữ tợn với dáng vẻ thủ thế. Tôi mỉm cười cầu hòa. Khi nhận ra tôi vẫn một tên trung niên ông đã từng gặp: À, mày, mày cho tao về xóm gà đi. Vào nhà tao chơi. Không cần gì phản ứng của tôi, ông nhảy phóc lên yên sau xe đạp. Lúc này xe gắn máy của tôi đã mất nên chở ông rất khó khăn, vả lại trên tay ông đang cầm một cây đu đủ dài hơn hai mét. Bùi Giáng và tôi đang là trò cười cho đám đông. Tôi nói là bận không thể chở được. Ông nói như phán: Cứ đi đi, chở cây này về dùm tao. Bùi Giáng cứ gác gốc cây đu đủ lên tay lái xe đạp, ngọn thì ông đặt lên vai. Ông lại phán: Đi mày. Giây phút này tôi bỗng trở nên một gã hề, rất hề. Giá ông đọc vài câu thơ Pháp lên giọng rồi xuống giọng thì tuyệt. Nhất định là một sân khấu ngoài trời. Hình ảnh này tôi đã gặp nhiều lần ở quán cà phê Huy Tưởng. Tôi cố sức đạp đi mà không nổi, vì lỉnh kỉnh quá. Vài người trong đám đông đề nghị, đi xích lô thôi. Tôi đồng ý ngay. Bùi Giáng thì lưỡng lự. Nhưng trời xui đất khiến ông cũng nhảy xuống. Tôi đưa ông ít tiền để ông đi xe, nhưng ông chỉ lấy một nửa trước sự ngạc nhiên của tôi và nhiều người...”



Nói về chuyện ngao du của Bùi Giáng, Phạm Xuân Đài kinh ngạc: “Cái ông già gầy gò ngoài sáu mươi ấy lấy đâu ra sức lực để trải qua các cơn điên dữ dội của mình? Đấy là một điều bí ẩn. Đi lang thang hàng chục cây số bất kể nắng mưa, múa may la hét suốt mấy ngày liền, kẻ lực sĩ chưa chắc đã làm được”.



Tác giả: Trần Đình Thu

Chương 21: NHỮNG BÀI THƠ NGỘ NGHĨNH


Với thơ của những tác giả khác, người ta thường phân biệt theo tập, hoặc theo giai đoạn sáng tác để nghiên cứu tìm hiểu, còn với thơ Bùi Giáng, có lẽ chúng ta nên phân ra thành từng loại. Trước đây ta đã chọn ra những bài thơ điên thứ thiệt mà trong đó có nhiều trò chơi nói lái, vờn chữ, kéo dắt dây từ ngữ… Bên cạnh những bài thơ này, có những bài thơ không có những yếu tố trò chơi như trên nhưng cũng không phải là loại thơ bình thường mà chúng ta vẫn đọc hàng ngày trên sách báo. Những bài thơ này rất nhiều. Và thật thú vị, một số trong chúng đọc thấy hay một cách ngộ nghĩnh.




Bài Trẫm một mình nhớ nhung hoàng hậu của trẫm nằm trong chùm thơ mà trong đó Bùi Giáng luôn dùng đại từ nhân xưng là trẫm. Ta hãy đọc bài thơ có cái tựa dài thườn thượt này:



Trẫm ở bên trời



Trẫm nhớ em



Trên trời trẫm nhớ



Trẫm thương thêm



Trẫm buồn như thể



Trời buồn thảm



Trẫm khóc vô ngần



Trẫm nhớ em



Trẫm nhớ đêm nay



Trẫm một mình



Trẫm sầu ủ rũ



Trẫm nín thinh



Trẫm không dám gọi



Trẫm buồn ngủ



Trẫm sẽ chiêm bao



Trẫm một mình.



Một bài thơ khác, nằm trong chùm thơ mà trong đó Bùi Giáng đối thoại với một “nhân vật” mà xưa nay không ai nghĩ đến chuyện phải đối thoại với “anh ta”, là tử thần. Bài thơ này cũng không kém phần thú vị. Bài thơ có tựa là Tái tặng tử thần:



Tử thần ạ quả nhiên tao chẳng muốn



Chết làm gì cho lạnh cóng tấm thân



Nhưng nếu mày cứ liên miên gõ cửa



Đòi hội đàm một trận thiết như thân



Thì tao cũng thử một phen hội điệu



Với mày xem chút ít một thành phần



Và chút nhiều dù rất mực phân vân



Mày mấy tuổi tử thần ôi thế hử



Tao trung niên mày chẳng nể nang gì



Làm thi sĩ suốt bình sinh xuôi ngược



Gieo lộn vần sầu não thật lâm ly



Tử thần ạ! Tao không bằng lòng thế



Bài thơ còn dang dở một hoạt sinh



Một biển dâu cũng dơ dáng dại hình



Tử thần ạ! Tao không bằng lòng thế



Ở đây ta chú ý thêm một điều, Bùi Giáng rất hay làm thơ theo từng chùm. Và những bài thơ ngộ nghĩnh thường hiện ra trong các chùm thơ này. Ta hãy đọc thêm một bài thơ nữa nằm trong chùm thơ Bùi Giáng viết về “bà mẹ Phùng Khánh” của ông, bài Phùng Khánh mẫu thân:



Mẹ về trong cõi người ta



Một hôm mẹ gọi con ra bảo rằng



Trần gian thơ mộng lắm chăng



Hay là đau đớn hử thằng chiêm bao



Vì sao lại có những bài thơ hay một cách ngộ nghĩnh như vậy? Bình phẩm như thế nào về chúng? Trước hết ta thấy khác với những bài thơ điên thứ thiệt trước đây hoàn toàn không có ý nghĩa gì, những bài thơ này ngược lại chúng có ý nghĩa. Hơn nữa chúng hay. Nhưng có điều là chúng không như những bài thơ bình thường khác trong cách biểu đạt. Đối thoại với tử thần, xưng trẫm, gọi một người phụ nữ ít hơn mình đến mười lăm tuổi là mẹ…Đấy cũng là triệu chứng của tâm bệnh. Nhưng đây là những lúc cơn bệnh không căng thẳng quá, vô thức không lấn át ý thức nên tài hoa trỗi dậy, làm ra những bài thơ dễ thương ngồ ngộ như thế. Những bài thơ mờ mờ ảo ảo, ẩn ẩn hiện hiện, đem đến cho ta một hương vị kỳ lạ. Có lẽ ta cũng không cần và không nên phân tích quá sâu về nó làm gì mà hãy để cho cái hương vị kỳ lạ đó lan tỏa mơ hồ trong ta.



Thuộc loại thơ này còn có những bài thơ rất tinh nghịch dí dỏm. Chẳng hạn như bài Trời hỏi:



Hỏi rằng: giờ có chịu đi



Về thiên đường ngắm mấy dì tiên nga



Thưa rằng thà sống với ma



Miễn là được thấy lại tòa Mông Rô



Tòa Mông Rô, ấy là cách nói của Bùi Giáng để chỉ người đẹp rực lửa Marilyn Monroe. Có một điều cần lưu ý, là những bài thơ kiểu này thường rất ngắn chứ không dài lê thê như những bài thơ điên và chúng nằm cùng chung trong những phần có thơ điên. Phải chăng là những lúc ấy, nếu viết ngắn ngắn như thế này thì Bùi Giáng giữ được ngòi bút của mình không bị vô thức lấn lướt hoàn toàn?



Bài thơ Ở trong rừng sau đây đạt đến đỉnh cao của sự dí dỏm tinh nghịch:



Đây là ở trong rừng



Chẳng có con ma nào ngó thấy đâu



Xin hoàng hậu



Hãy cởi áo quần ra tắm khe nước



Có con ma nào đâu mà sợ



Sao hoàng hậu thẹn đỏ mặt



Có tôi?



Nhưng tôi đâu phải là con ma



Thật là may. Ông đã dừng lại được ngay cái ranh giới cuối cùng, nhích qua một ly nữa là đụng đến sự thô tục. Thêm một chú giải cho bạn đọc rõ, ở đây, Bùi Giáng dùng danh xưng hoàng hậu là bởi vì lúc này ông thường hay xưng trẫm chứ nó không liên quan đến một người cụ thể nào.



Có lẽ bạn đọc còn thòm thèm muốn được đọc thêm một vài bài nữa về thứ thơ lạ này chăng? Thì đây, xin hãy đọc bài thơ này, bài Nhớ Chế Mân:



Bây giờ tôi rất yêu ngài



Bởi vì ngài rất yêu nàng Huyền Trân



Yêu từ cổ xuống tới chân



Suốt miền thân thể như gần như xa



Quận thành đem đổi làn da



Hỏi sao lạ rứa? – Hào hoa thưa rằng



Có chi mô



Có chi mô



Nàng tuy nhỏ bé mà to bằng trời



Ô Ri tuy rứa mà rồi



Gẫm ra cũng thể như tôi đó mà



Trăm năm trong cõi người ta



Thân còn chẳng tiếc lọ là Ô Ri



Riêng công chúa nọ Ly Kỳ



Là tôi tiếc suốt ly bì càn khôn



Bài thơ này thật là quá thâm thúy. Thâm thúy theo cái kiểu tinh nghịch của ông.



Tác giả: Trần Đình Thu

Chương 22: NHỮNG BÀI THƠ BÍ HIỂM



Ta có thể tìm thấy thêm hai loại thơ nữa để bổ sung vào danh mục phân loại thơ Bùi Giáng. Loại thứ nhất là những bài thơ hay và bình thường. Loại thứ hai là những bài thơ hay và bí hiểm. Cả hai loại này Bùi Giáng đều sáng tác từ trước năm 1962, thời kỳ mà trạng thái tâm thần của ông còn bình ổn nhiều. Ta hãy xem xét loại thơ bí hiểm trước.



Những bài thơ loại này mang một màu sắc rất lạ, đọc lên ta cảm thấy có điều gì ẩn hiện mơ hồ khó cắt nghĩa. Ta hãy đọc bài thơ Hươu sau đây:



Những con hươu đói ở trong rừng



Ngó núi nhìn khe thấy mây trôi



Trên núi rạc rời chân hươu nhỏ



Cây rừng cây rú rậm cây rơi





Con hươu từ đó lại bên người



Kể lể lông vàng rụng hết đuôi



Bốn cẳng từ đây xin bó lại



Quỳ chân trên gối khóc không lời



Bài thơ sử dụng những hình ảnh mà ta chưa từng thấy từng gặp trong thi ca bao giờ. Những con hươu đói tận trong rừng sâu bị rụng lông rụng lá, chạy đến than thở với con người. Chúng quỳ chân trên gối, khóc lóc thảm thiết nhưng không có những giọt nước mắt, không ai nghe thấy tiếng khóc. Những hình ảnh ấy như là một bức tranh siêu thực. Hoặc như một giấc mơ lạ. Hoặc là một câu chuyện ngụ ngôn kỳ bí.



Về mặt câu chữ cũng có những nét đặc biệt. Ta thấy trong hai câu thơ “Trên núi rạc rời chân hươu nhỏ / Cây rừng cây rú rậm cây rơi” có một cách luyến láy hết sức đặc biệt. Toàn là vần r. Tuy nhiên ở đây nó không vượt qua ranh giới của sự lạm dụng như những bài thơ điên mà kịp dừng lại đúng chỗ, tạo ra được một hiệu ứng bất ngờ là đặc tả bước chân con thú luồn lách qua suối qua khe qua rừng với một tốc độ nhanh vùn vụt.



Bài thơ Hươu nói lên điều gì? Có lẽ chúng ta không nên giải thích theo cách bình thường đối với bài thơ này. Nó rất dễ đưa chúng ta đi vào sự ngộ nhận.



Tương tự như bài Hươu, Bùi Giáng có bài Người điên:



Người yêu mù của tôi



Người yêu câm của tôi



Một đời chàng không nói



Một đời chàng khô môi





Chàng nghe thấy ở đâu



Nơi nào chàng bắt gặp



Bên bờ cỏ bụi dâu



Một mùa xuân hấp tấp





Từ khô se cồn nội



Xuống ruộng trổ đòng đòng



Lúa mùa lên phơi phới



Bờ nước đục cong cong





Vì sao chàng nhắm mắt



Đi kiếm mãi một mình



Để trời mưa lên mặt



Một cồn lá phiêu linh.



Bài thơ phác họa một chân dung lạ lùng. Tựa thơ là người điên nhưng thật ra không hẳn là một người điên. Đó là một người không nghe thấy gì và không muốn nói gì. Một người mù và câm đang yêu. Người mù và câm ấy nhắm mắt lại, đi giữa trời mưa gió bão bùng để kiếm tìm một thứ gì mơ hồ mà ta không rõ.



Người con gái trong bài thơ lại càng khó hiểu hơn nữa. Nàng như hình ảnh một vọng phu, lặng lẽ ngồi đó, trên bậc cửa im lìm nhìn người yêu mình, một người mù và câm, đang mải miết đi về phương trời vô định. Nàng không khóc lóc, không buồn khổ mà chỉ băn khoăn tự hỏi không biết chàng đi tìm cái gì giữa cõi nhân gian này.



Người điên ấy là ai? Người con gái ấy là ai? Ta ngạc nhiên khi thấy Bùi Giáng vẽ một bức tranh về hai người yêu nhau như thế. Ta cũng ngạc nhiên hơn nữa vì sao Bùi Giáng lại nêu ra vấn đề người điên từ cái thời ông còn tỉnh táo.



Bài thơ Tượng số cũng kỳ bí không kém. Toàn bài thơ chỉ có bốn câu:



Những nàng tiên nữ ở trên cao



Bỏ xuống cho ta những trái đào



Ù té ra sân ta chộp lấy



Gà con sợ hãi chui vô rào



Những hình ảnh ở đây lại có vẻ khá hài hước. Như một hoạt cảnh sân khấu. Vì sao Bùi Giáng lại dùng những hình ảnh này để minh họa cho khái niệm tượng số? Trong tập Mưa nguồn, Bùi Giáng còn sáng tác thêm vài bài thơ có tựa đề liên quan đến tượng số nữa.



Còn có một số bài thơ thuộc loại bí hiểm này nữa như bài Người về, bài Chỗ này..Trong bài Người về, ông tả một ngôi nhà bí ẩn giữa rừng xanh trong đó có một hình bóng mơ hồ là chủ nhân của ngôi nhà này, đã trò chuyện, đã cầm tay ông dắt vào ngôi nhà khi ông lỡ lạc bước trong rừng sâu. Còn trong bài Chỗ này, bóng hình đó chỉ là dấu chân để lại trên bãi cỏ bị giẫm nát…



Những bài thơ nói trên có vẻ như là loại thơ chuyển tiếp giữa những bài thơ hay, tỉnh táo của Bùi Giáng với những bài thơ không tỉnh táo của ông. Đây là một sản phẩm đặc biệt. Là những viên ngọc phát ra thứ ánh sáng lạ lùng.



Tác giả: Trần Đình Thu

Chương 23: NHỮNG BÀI THƠ HAY VÀ TỈNH TÁO 



Thơ hay và tỉnh táo của Bùi Giáng có không nhiều lắm. Nhưng những bài thơ này thực sự có giá trị văn học. Một số bài đạt đến mức tuyệt tác mà đỉnh cao là bài Phụng Hiến. Bài thơ này có thể xếp vào danh mục những bài thơ hay nhất của Việt Nam.



Có lẽ ta chưa từng gặp một bài thơ nào có phần nhập đề bất ngờ như thế:



Ngày sẽ hết tôi sẽ không ở lại



Tôi sẽ đi và chưa biết đi đâu



Tôi sẽ tiếc thương trần gian mãi mãi



Vì nơi đây tôi sống đủ vui sầu



Cái độc đáo trước tiên của khổ thơ này là tác giả đã lấy cái chết để mở đầu cho một bài thơ viết về sự sống. Một kiểu mở phản đề mà ít có thi sĩ nào làm thành công được như thế. 



Sự độc đáo tiếp theo nằm ở chỗ thi sĩ diễn đạt về cái chết. Ta hãy trở lại câu thơ đầu tiên để tìm sự thần diệu.



Ngày sẽ hết tôi sẽ không ở lại



Tôi sẽ đi và chưa biết đi đâu



Ta hãy chú ý đến cái chữ ngày. Chết, theo như thi sĩ thì đó là lúc thời gian của ngày đã hết, chúng ta phải ra đi. Xưa nay người đời vẫn nói nhiều đến lẽ sống chết như vậy nhưng không ai dùng được cái chữ ngày thần tình như Bùi Giáng.



Với Bùi Giáng, lẽ sống chết cũng bình thường như chuyện đi, ở của cõi trần gian này vậy. Ngày hết thì ra đi. Nhẹ nhàng đơn giản. Viết đến đây chợt nhớ đến câu chuyện rất vui của ông Nguyễn Đình Phương kể về việc thi sĩ chúng ta đi thuê nhà trọ. Đó là dạo Bùi Giáng mới đến Sài Gòn, thường đi thuê nhà trọ để ở. Thuê nhà trọ thì hiển nhiên phải thay đổi chỗ ở luôn. Với chúng ta, nếu bị lấy lại nhà thì sẽ đi tìm một chỗ trọ mới rồi chuyển đồ đạc đến. Nhưng với Bùi Giáng thì không như thế. Nhà trọ hết hạn hợp đồng thì ông kêu xích lô chất đồ đạc sách vở lên rồi đi khắp các hang cùng ngõ hẻm để kiếm nhà mới, bao giờ thuê được nhà thì bỏ đồ đạc xuống. Y như cái cách thi sĩ nói về lẽ sống chết ngày sẽ hết tôi sẽ không ở lại tôi sẽ đi nhưng chưa biết đi đâu trong Phụng Hiến vậy.



Về mặt nghệ thuật, bài thơ có một điểm đặc biệt khác rất đáng quan tâm. Đó là những điệp từ ở đầu câu:



Những giòng lệ tuôn mấy lần khắc khoải



Những nụ cười tròn mấy bận hân hoan



Những ngoảnh mặt im lìm trong ái ngại



Những bắt tay xao động với muôn vàn



Chúng ta lưu ý, đây là bài thơ duy nhất Bùi Giáng sử dụng thành công biện pháp tu từ này mà không rơi vào tình trạng vờn chữ như trong thơ điên về sau này, tạo nên những khổ thơ dồn dập:



Tôi ngẩng mặt ngó ngàn mây cao rộng



Tôi cúi đầu nhìn mặt đất thấp đen



Tôi chấp thuận trăm lần trong thổn thức



Tôi bàng hoàng hốt hoảng những đêm đen



Phụng Hiến là bài thơ Bùi Giáng viết lúc còn rất trẻ. Khoảng ba tư ba lăm tuổi hoặc có thể còn trẻ hơn nữa. Nhưng không hiểu sao ông lại than thở về những người bạn của mình như thế này:



Những người bạn xem tôi như ruột thịt



Những người em dâng hết dạ cho tôi



Những người bạn xem tôi là cà gật



Những người em không vẹn nghĩa mất rồi



Tại sao lại như vậy? Hay là lúc này ông đã thể hiện cái bất bình thường của mình rồi nên bạn bè mới xem ông là cà gật? Có lẽ là thế thật. Nhưng ta thấy, ngay cả chuyện buồn bực anh em bạn bè mình như thế, ông cũng diễn đạt bằng những câu thơ thật tuyệt vời.



Tuy nhiên lúc này ông vừa bước chân vào trường văn trận bút. Sức trẻ còn hăng hái. Thế nên bài thơ thể hiện một tình yêu cuộc sống dâng trào:



Còn ở lại một ngày còn yêu mãi



Còn một đêm còn thở dưới trăng sao



Thì cánh mộng còn tung lên không ngại



Níu trời xanh tay với kiểng chân cao 



Vì tình yêu cuộc sống nên ông chấp nhận bỏ qua mọi chuyện, không cần chấp nhặt:



Tôi chấp thuận trăm lần trong thổn thức



Tôi bàng hoàng hốt hoảng những đêm đêm



Tôi xin chịu cuồng si để sáng suốt



Tôi đui mù cho thỏa dạ yêu em



Phải nói rằng, Bùi Giáng có cách thể hiện cảm xúc bằng lời thật mãnh liệt: Xin chịu cuồng si để được sáng suốt, xin chịu đui mù để được yêu hết mình. Nhờ cách cường điệu hóa đó, cảm xúc được nhân lên gấp trăm lần. 



Tuy vậy cái tình yêu cuộc sống của ông cũng có đôi chút khác với chúng ta. Nó trải rộng vô bờ bến, không gói gọn trong phạm vi anh em, bạn bè, người thân quen:



Xin yêu mãi yêu và yêu nhau mãi



Trần gian ôi! Cánh bướm cánh chuồn chuồn



Con kiến bé cùng hoa hoang cỏ dại



Con vi trùng cùng sâu bọ cũng yêu luôn



Bài thơ Phụng Hiến đã làm nhiều thế hệ độc giả say mê. Bởi nó như là một lời tâm sự cuộc đời, chỉ mấy chục câu thơ mà nói được hết thảy tâm can. Buồn, vui, sầu khổ, sung sướng đều có cả. Đọc nó, lòng người ta cảm thấy lắng lại dù đang trải qua những thất vọng ngập tràn:



Ta gửi lại đây những lời áo não



Những lời yêu thương phụng hiến cho em



Rồi ta gục đầu trên trang giấy hão



Em bảo rằng



-Đừng tuyệt vọng nghe không



Còn trang thơ thắm lại với trời hồng



Bài thơ kết lại, ta còn nghe rõ tiếng lòng thổn thức của tác giả bên trang giấy đã đầy kín chữ, trong căn phòng nhỏ nào đó thuê ở Xóm Gà, nơi ngày xưa Tản Đà cũng từng ở trọ, với chai rượu đã vơi mất một nửa. Ngoài kia, bóng chiều đi qua, ngày đã hết, để lại người thi sĩ một mình thật cô đơn.



Ngoài bài thơ đỉnh cao này, còn có nhiều bài thơ khác cũng rất hay. Đó là những bài thơ tâm trạng. Ta nhận ra sự khắc khoải triền miên trong tâm hồn thi sĩ qua những câu thơ:



Chiều chiều tôi ngắm nắng chiều



Chiều qua cũng đẹp như chiều hôm nay



Chiều mai tôi sẽ thở dài



Nhớ bao chiều đẹp thương ngày qua mau



Đổi hương đổi sắc đổi màu



Đổi bao nhiêu đẹp dạt dào phồn vinh



Vỉa hè ngồi xuống một mình



Nhìn xe qua lại đinh ninh rằng là



Những bài thơ hay và tỉnh táo phần nhiều tập trung trong tập Mưa nguồn. Có thể kể thêm một số bài thơ hay nữa như Giã từ Đà Lạt, Người đi đâu…Chính những bài thơ này mới làm cho Bùi Giáng có được một vị trí trong nền thi ca Việt Nam chứ không phải là những bài thơ kỳ dị mà nhiều người vẫn ngợi ca quá lời.



Như vậy ta có thể phân thơ Bùi Giáng ra làm bốn loại: loại thơ điên loạn thực sự hoàn toàn không có ý nghĩa gì, loại thơ ngộ nghĩnh có một ý nghĩa nhất định nhưng vẫn thuộc loại thơ không tỉnh táo, loại thơ viết trong thời kỳ tỉnh táo nhưng rất bí hiểm không ai hiểu nổi, loại thơ hoàn toàn tỉnh táo.



Tác giả: Trần Đình Thu

Chương 24: BÙI GIÁNG BỐN MÙA


Sau năm 1975, Bùi Giáng vẫn không ngừng bước chân ngao du. Thời kỳ này, cũng như nhiều tác giả khác, việc in sách của Bùi Giáng không thể thực hiện được. Có lẽ ông cũng trở nên trầm uất hơn vì không được cầm ngòi bút để sáng tạo. Đến năm 1990, thơ ông được thân nhân in ở nước ngoài, đánh dấu sự trở lại của tác phẩm Bùi Giáng. Năm 1993, tập Mưa Nguồn được Nhà xuất bản Hội nhà văn tái bản. Nhiều người động viên, ông bắt đầu dịch và sáng tác lại.



Năm 1994, ông cùng Trịnh Công Sơn xuất bản cuốn sách có tên gọi Hán Tự Hào Cú. Năm 1996 ông in tập thơ Rong Rêu. Năm 1997 in Đêm Ngắm Trăng…



Có một điều cần lưu ý là giai đoạn sau này, những biểu hiện bên ngoài cho thấy ông vẫn còn bệnh nặng thế nhưng về mặt ngôn ngữ thì ông có vẻ bớt rối loạn hơn. Vào năm 1973, khi tạp chí Văn thực hiện số chuyên đề về ông, có gửi một số câu hỏi phỏng vấn, hầu như ông không trả lời được gì mà chỉ nói loanh quanh. Thế nhưng đến năm 1997, tuyển tập Thời Văn cũng làm số chuyên đề như vậy thì ông lại trả lời phỏng vấn khá rành mạch.



Trong đặc san Tưởng nhớ thi sĩ Bùi Giáng, Phạm Mạnh Hiên kể: “Sau năm 1975, anh Bùi Giáng lang thang đây đó nhiều nơi, một vài ngôi chùa đã mời anh trú ngụ, nhưng cuối cùng anh về nhà người bà con trong một con hẻm sâu trên đường Lê Quang Định. Nơi đây anh có riêng một cái cốc nhỏ nằm khuất trong góc vườn tĩnh lặng. Tôi có đến thăm anh đôi lần. Thấy anh sức khỏe yếu đi vì tuổi già. Với Bùi Giáng tôi nghiệm ra một điều, khi nào anh ăn mặc có vẻ tươm tất chút chút là lúc đó tôi thấy anh nằm ủ rũ, buồn bã lắm. Ngược lại, lúc anh nhảy múa, hý lộng, tôi lại bắt gặp trên khuôn mặt anh niềm vui vô hạn, đúng cái chất Bùi Giáng muôn đời muôn thuở!”.



Phạm Xuân Đài cũng kể: “Từ sau năm 1975, cuộc sống của Bùi Giáng suy sụp xuống một bực, các cơn điên có vẻ mạnh và thường xuyên hơn. Trong vòng đùm bọc của bà con, anh được cư ngụ trong một căn lều nhỏ làm riêng cho anh giữa một khu vườn đầy cây lá. Chỗ ở thích hợp với anh lạ lùng. Nó như một cái am của ẩn sĩ, như túp lều lý tưởng cho một nhà thơ, lại cũng là nơi nương náu đầy may mắn của một kẻ không vợ không con không sản nghiệp. Ở đấy anh được yên tĩnh và tự do. Cái góc xanh tươi kín đáo ấy giữa đất Sài Gòn hỗn độn sau 75 là một món quà đặc biệt mà số phận dành cho một kẻ tài hoa lận đận nhưng rõ ràng là cũng có phước có phần”.



Có một chi tiết thú vị được một người bạn nhỏ của Bùi Giáng là Quang Huy kể lại, cho thấy trong con người Bùi Giáng lúc nào cũng đầy ứ thơ, sẵn sàng tuôn trào. Đó là chuyện ông làm thơ trong cuốn sổ ghi nợ. Số là ông thường qua lại mua rượu, thuốc lá ở cô chủ quán bên cạnh nhà ông đang ở, khi thì xị rượu, khi thì con khô mực, và chủ quán đã dành riêng cho ông một cuốn tập để ghi lại các khoản còn thiếu, thế là ông dùng thơ để ghi luôn. Khi mấy người bạn đến thăm ông, ông nhờ đi mua rượu giúp thì họ mới biết. Những người bạn ông đã trả hết số nợ để xin cuốn sổ mang về làm kỷ niệm. Ta hãy đọc vài câu “thơ nợ” của ông trong cuốn sổ có một không hai đó:



“Hai ngàn rất mực hôm nay



Ra ba rất mực đầu dây nhì nhằng”





“Nợ thêm nợ nữa bây giờ



Một ngàn bất tận bất ngờ tương lai”.



Không chỉ ngạc nhiên về chuyện ông làm thơ ghi nợ mà những người bạn của ông còn ngạc nhiên hơn khi ông không chịu dùng số mà chỉ dùng toàn chữ để thay cho số. Những chữ như đợt một, đợt hai, đợt ba…đáng lẽ viết số thì ông đều viết chữ:



“Đợt nhì: Lại thêm hai hột ba ngàn



Trăm năm sau nữa nghìn vàng tương lai.



Đợt tam: Đợt tam muôn một một lần



Một nghìn vô tận tử phần tình thương.



Đợt tứ: Bình minh rượu đế một ngàn



Còn thêm gói bánh một ngàn là hai.



Đợt năm: Chịu chơi vô tận bao dong



Ba gói kem sữa thong dong ba ngàn.



Đợt sáu (Sáu Giáng): Nợ này có một không hai



Có hai không một đeo dai thượng thừa



Ông ngồi uống rượu đong đưa



Đong đầy đổ ụp móc mưa giậy thừa.



Đợt bảy: Bất ngờ ngẫu nhĩ nhận ra



Một ngàn hụt hẫng từ ta nợ người.



Đợt tám: Chín mươi chín tuổi ở đời



Ở điên uống loạn ăn rồi nói lông bông”,





“Tối hậu: Hai bịch trời ơi



Hai ngàn cả thảy



Thiên thâu tử hình”





“Tái tối hậu: Một nghìn cả thảy hôm nay



Mai sau sẽ nợ mai này sẽ tính sau”



Có một chỗ, ông không tiện gieo vần ngàn nên ông phải gieo vần triệu:



Hôm nay bất chợt trùng phùng



Rượu ngon vô tận đáng mừng rõ thay



Thưa anh trời đất sâu dày



Ba mươi chục triệu có là bao nhiêu



Hôm sau ông lại “đính chính” bằng một câu thơ khá hài hước và thâm thúy:



Té ra dữ tợn lẽ đời



Ấy là lầm một lẽ trời là muôn



Ông điên đảo xiết bao buồn



Nợ nần bốn chục nghìn trùng mai sau



Quả thật Bùi Giáng là một con người suốt một đời sống vì thơ, sống cho thơ, dù tỉnh táo hay không.



Nhưng cuộc đời rong chơi mãi rồi cũng có lúc phải dừng lại, giã từ cuộc chơi. Nói như câu thơ ngày trước của ông “Ngày sẽ hết tôi sẽ không ở lại. Tôi sẽ đi và chưa biết đi đâu”. Đó là cái ngày 7.10.1998. Trước đó từ giữa tháng 9-1998, sức khỏe Bùi Giáng đột ngột suy giảm nhanh chóng. Đêm 23-9-1998, trong lúc làm việc thì Bùi Giáng bị ngã quỵ tại nhà. Ông được người em ruột Bùi Văn Ký đưa vào bệnh viện trong tình trạng bất tỉnh. Khám lâm sàng cho biết có nhiều điểm máu tụ trong não do bị té, tình trạng rất nguy kịch. Bệnh viện Chợ Rẫy chụp Sanner và phát hiện ông bị đứt mạch máu não, tụ huyết dẫn đến hôn mê sâu. Ca mổ đã tiến hành xong và ông vẫn hôn mê. Lúc 14 giờ ngày 7.10.1998 nhằm ngày 17 tháng 8 Mậu Dần, ông trút hơi thở cuối cùng tại bệnh viện, hưởng thọ 72 tuổi. Thi hài ông được đưa về quàn ở chùa Vĩnh Nghiêm, TP.HCM sau đó an táng tại nghĩa trang Gò Dưa, Thủ Đức vào ngày 11.10.1998, nhằm ngày 20.8 năm Mậu Dần.



Trước lúc mất, Bùi Giáng đã để lại một số lượng thơ chưa in rất lớn. Số thơ này chủ yếu được sáng tác từ năm 1993 trở về sau. Chúng đều được Bùi Giáng phân thành tập và được ông đặt tên cẩn thận. Năm 1998, thân nhân và bạn bè ông đã cho xuất bản tập Như Sương, năm 2001 xuất bản tập Mười Hai Con Mắt, năm 2004 xuất bản tập Thơ vô tận vui...



Tổng kết cuộc đời Bùi Giáng, nhà thơ Phạm Thiên Thư có bài thơ Bùi Giáng bốn mùa nguyên văn như sau:



Ta thấy anh là – con dế điên



Cả mùa Xuân – hát giữa thanh thiên



Mùa Xuân hoa cỏ vương đầy sách



Anh ném thơ ca – xuống võng thiền





Ta thấy anh – là con dế què



Suốt mùa Hạ thầm – hát còn nghe



Anh chưa nhảy khỏi bờ nhân ngã



Lại ném tồn sinh tím vỉa hè





Ta thấy anh – là dế sương mù



Hát ca âm ỉ suốt mùa Thu



Anh mơ hồ cỏ đêm xác nguyệt



Vàng chuỗi Kim Cương mở lối tu





Ta thấy anh là dế nội đồng



Lẫn vào hương cỏ hát mùa Đông



Anh sai ngôn ngữ như phù thủy



Ngôn ngữ đè anh xuống cõi không





Ta với anh – cùng Dế đá trời



Thượng Đế cầm râu ngoáy ngoáy chơi



Chọi với hư vô – đầu trụi tóc



Tìm trong đá tảng – cái chơi vơi.



Tác giả: Trần Đình Thu

Chương 25: ĐÁNH GIÁ NHƯ THẾ NÀO VỀ CON NGƯỜI VÀ SỰ NGHIỆP VĂN CHƯƠNG BÙI GIÁNG?


Hiện tượng Bùi Giáng là một hiện tượng đặc biệt. Vì thế, việc đánh giá về con người và sự nghiệp văn chương Bùi Giáng phải dựa trên cơ sở khoa học. Ta cần tránh sự thổi phồng quá đáng cũng như sự cố tình hạ thấp ông.



Trước hết nói về con người Bùi Giáng. Có rất nhiều người cho rằng Bùi Giáng là một thiên tài. Nói như vậy có được không?



Một cách chính xác, ta có thể nói ngay rằng, Bùi Giáng là một thiên tài từ trong máu thịt. Không ai có được một năng lực sáng tạo phi thường như Bùi Giáng. Viết hàng trăm cuốn sách trong tình trạng cuộc sống như ông, nghiên cứu từ đông sang tây trong một thời gian ngắn như ông, chỉ có bậc thiên tài mới làm nổi. Đó là về năng lực sáng tạo. Còn nói về khả năng tiếp thu tri thức, Bùi Giáng cũng là một người siêu phàm. Lấy một dẫn chứng về việc tự học ngoại ngữ của ông. Vào năm 1960, khi viết cuốn Tư tưởng hiện đại, ông tự nhận mình không đọc được tiếng Đức, nhưng chỉ vài năm sau đó người ta thấy ông đã sử dụng thứ ngôn ngữ phức tạp này một cách rất nhuần nhuyễn. Bùi Giáng tinh thông đến bốn ngoại ngữ bao gồm Anh, Pháp, Đức và Hán văn, do đó ông có thể tiếp cận với nhiều nguồn tri thức khác nhau. Chắc chắn là Bùi Giáng có một khả năng dung nạp thông tin rất đặc biệt mà ít người có được, nên trong một thời gian không dài lắm kể từ khi đặt chân đến Sài Gòn, ông đã thu nhận được một lượng kiến thức khổng lồ.



Tuy nhiên, đồng thời ta cũng phải nói thêm cho đầy đủ rằng, Bùi Giáng là một thiên tài điên loạn cho nên những sản phẩm được tạo ra từ bộ óc vĩ đại đó của ông trong những lúc vô thức lấn át hết ý thức đã trở nên biến dạng. Những sản phẩm đó không phải là những tác phẩm văn chương đúng nghĩa. Chỉ có thời kỳ đầu tiên, khi ông còn tỉnh táo thì các tác phẩm của ông mới có giá trị.



Trước hết nói về thơ của ông. Đây là lĩnh vực gây ra nhiều tranh cãi nhất. Bùi Giáng có một khối lượng thơ nhiều hơn bất cứ tác giả nào khác. Nếu đem tất cả thơ Bùi Giáng in thành tổng tập thì sẽ vô cùng đồ sộ. Nhưng nếu chọn những bài thơ bình thường, đúng nghĩa là thơ như những nhà thơ khác để làm thành một tuyển tập thì e rằng nó sẽ khá mỏng. Chỗ này, hẳn nhiều người sẽ phản đối. Bởi họ quá yêu mến thi sĩ nên muốn thừa nhận tất cả thơ ông. Điều ấy chỉ có hại cho sự nghiệp thi ca của ông mà thôi.



Nhưng một tập thơ mỏng cũng có thể sẽ làm nên diện mạo của một nhà thơ lớn. Chế Lan Viên chỉ có gần bốn mươi bài trong Điêu Tàn nhưng nó đã đưa ông lên đỉnh cao vòi vọi. Tuyển tập Hàn Mặc cũng chỉ dày chưa đến một trăm trang mà thôi.



Với văn xuôi của Bùi Giáng, tình hình có lẽ cũng tương tự như thế. Những bài tùy bút, bài phê bình văn học hay và hoàn chỉnh của ông, nếu gộp lại cũng chỉ được một tập chừng vài ba trăm trang. Còn lại là những bài vở ông viết rất ngẫu hứng. Có thể trong những bài vở đó, vẫn có những đoạn rất hay xen lẫn vào nhưng ta không thể lọc ra được. Và những cuốn sách như Lễ hội tháng ba, Con đường ngã ba…nhan nhản những sản phẩm của vô thức. Ta không thể xếp những cuốn sách này lên trên kệ sách phê bình văn học.



Với sách dịch văn học nước ngoài, ông có khoảng gần hai mươi đầu sách. Ta cũng chỉ nên lựa ra một số bản dịch đứng đắn như Ngộ nhận, Cõi người ta... Những cuốn ông đùa rỡn ở trong đó, ta không thể xem giống như những bản dịch bình thường khác.



Cuối cùng, những cuốn tư tưởng triết học của ông cũng như vậy. Có lẽ ta chỉ nên chấp nhận mỗi một cuốn Tư tưởng hiện đại thôi. Những cuốn khác ta đành phải xếp riêng ra. Tới đây, xin nhắc đến chuyện tái bản sách của Bùi Giáng. Năm 2001, cuốn Heidegger và tư tưởng hiện đại được tái bản. Ông Bùi Văn Nam Sơn đã viết một bài giới thiệu cuốn sách thật dài như là giới thiệu một tác phẩm lớn, đã trường tồn qua thử thách thời gian bốn mươi năm. Ông khuyên độc giả: “Không có được người như Kim Thánh Thán chỉ cho ta phép đọc Thủy Hử, ta hãy đến với Bùi Giáng bằng tấm lòng rộng mở. Ta có thể bắt đầu từ đâu cũng được. Hoặc đi ngay vào phần giới thiệu tư tưởng Heidegger để từ đó tỏa rộng ra. Hoặc tại sao không lần giở những trang kể chuyện thần thoại Hy Lạp hồn nhiên, thơ mộng rồi vui vẻ bước vào những chương bay bỗng tuyệt vời giới thiệu Kierkegaard, G. Marcel…”.



Đành rằng trong cuốn sách của Bùi Giáng có những đoạn ông viết rất hay, rất uyên bác, nhưng nhìn tổng thể, nó không phải là một cuốn sách nghiên cứu đúng nghĩa. Có lẽ cuốn sách này ông viết qua nhiều giai đoạn khác nhau. Một số chỗ văn chương tỉnh táo, nhiều chỗ khác vô thức trỗi dậy quá mạnh, tạo ra những đoạn văn dị thường. Không nên coi những cuốn sách như thế này là loại sách nghiên cứu khảo luận để giới thiệu với độc giả theo một tinh thần như vậy. Những cuốn sách này, có lẽ ta chỉ dùng để đọc cho vui mà thôi.



Đánh giá như thế, liệu có hẹp hòi quá chăng? Thật ra, nhẩm tính lại ta thấy, cái gia tài văn chương còn lại của ông sau khi đã loại đi những thứ “bê bối lai rai”, cũng đâu có ít ỏi gì. Một tuyển tập thơ hay, một tuyển tập phê bình văn học đặc sắc, một số cuốn văn học dịch tài hoa, một cuốn sách giới thiệu tư tưởng triết học uyên bác...Gia tài văn chương này, còn giàu có hơn rất nhiều tác giả lớn khác của Việt Nam nữa kia mà. 



Ở chỗ này, có lẽ có người sẽ thắc mắc, vì sao không thể chọn thêm nhiều hơn. Sự thắc mắc này cần được giải tỏa. Vì sao lại không chọn nhiều hơn? Ta cần thấy một điều rằng, cuộc đời của mỗi văn thi nhân có thể rất khác nhau, nhưng khi chọn lựa tác phẩm, ta không thể nào chấp nhận những điều dị biệt. Một cuốn sách dịch thật bay bướm của Bùi Giáng như cuốn Hoàng tử bé mà nhiều người khen ngợi, ta cũng không nên để y nguyên như thế mà sử dụng vì trong cuốn sách này có những đoạn “bê bối lai rai” cần phải cắt bỏ đi. Nếu cắt bỏ không được, thì phải bỏ luôn cả cuốn sách. Không thể nào chấp nhận một cuốn sách luận về triết học, sách dịch tác phẩm văn học nước ngoài, sách phê bình văn học…mà lẫn lộn những đoạn đùa giỡn như thế vào được.

Chương 26: VÌ SAO BÙI GIÁNG SÁNG TÁC ĐƯỢC NHIỀU VÀ NHANH?


Đó là câu hỏi được đặt ra từ những chương trước nhưng chưa có lời giải đáp. Vì sao Bùi Giáng có thể viết được một số lượng sách quá nhiều trong một thời gian ngắn? Vì sao Bùi Giáng có thể làm ra được hàng mấy ngàn bài thơ một cách dễ dàng trong tình trạng bệnh tật? Rõ ràng là ông phải có cách viết khác với người bình thường thì mới có thể được như vậy.



Qua những tác phẩm của ông, cả văn xuôi lẫn thơ, ta nhận ra một điều: dường như Bùi Giáng không viết đi viết lại bản thảo nhiều lần như những người khác. Trong thời kỳ còn tỉnh táo, có thể ông có sửa chữa đôi chút nhưng về sau này, khi căn bệnh đã phát mạnh, rất có thể ông chỉ viết một lần, thậm chí không cần đọc lại.



Trong các cuốn sách “Một vài nhận xét…”, “Giảng luận về…”, dù văn chương rất bay bỗng nhưng ta vẫn thấy vài đoạn lẽ ra phải được lược bỏ đi nhưng đã không được lược bỏ. Những đoạn này, nếu ông có đọc lại đôi lần, chắc chắn ông sẽ không để lại. Cần nói thêm, vào thời kỳ trước, việc xuất bản những loại sách như thế khá dễ dãi, có thể không cần đến công tác biên tập nên những chỗ nói trên vẫn có thể được in ra.



Với những cuốn sách ông viết trong thời kỳ bệnh phát nặng, ta thấy những đoạn hay và tỉnh táo nằm lẫn vào những đoạn dị thường. Điều này thể hiện rất rõ việc ông không đọc lại để sửa chữa. Vì nếu ông có đọc lại bản thảo, thì những lúc tinh thần tỉnh táo chắc chắn ông phải loại bỏ những đoạn dị thường mà ông viết trong lúc không tỉnh táo ấy đi.



Văn xuôi thì vậy, còn thơ thì sao? Nghiên cứu nhiều bài thơ của ông, ta thấy rằng, có vẻ như khi đã viết ra một câu thơ rồi, ông không muốn đổi lại dù việc gieo vần của câu tiếp theo không được thuận lợi lắm. Khi đó dường như ông cố gắng tìm cho bằng được một từ nào đó hợp vần để gieo cho câu tiếp theo. Dĩ nhiên là việc tìm từ đối với ông rất dễ dàng. Nhưng dù sao, nó vẫn để lại “dấu tích” trong tác phẩm. Và điều này xảy ra trong tất cả các loại thơ của ông nhưng nhiều nhất là trong loại thơ không tỉnh táo. Do cách làm này mà nhiều khi ông đưa vào thơ những từ rất lạ, khiến nhiều nhà nghiên cứu ngỡ ngàng.



Ta hãy đọc mấy câu thơ này:



Một hôm tháng chạp ra giêng



Rừng cây ra trái sầu riêng ra đời



Dừng chân con lộ giữa môi



Vành trăng giữa phố nối ngôi từ từ



Ngậm sương ngôn ngữ lúc ừ



Lúc vâng ạ lúc lừ đừ không vâng



Ta chú ý đến những cụm từ mà ông dùng để tạo vần: con lộ giữa môi, ngôn ngữ lúc ừ… Nó rất lạ. Thế nhưng ngoài cái nhiệm vụ làm điệp vần trong câu, tuân thủ đúng bằng trắc, còn lại chúng chẳng có nghĩa gì. 



Hãy xem xét thêm một ví dụ nữa:



Que diêm que lửa que lời



Cõi trăm năm cũng một đời em que



Tan tành mộng đỏ la de



Cái tồn sinh khóc lóc về Hậu Giang



Mộng đỏ la de, cụm từ này hoàn toàn không có một ý nghĩa gì, được ông đưa vào câu thơ như một cách giải quyết tức thời vấn đề vướng mắc về vần.



Rõ ràng đối với ông, việc làm thơ như là một sự sắp xếp rất mau lẹ các từ ngữ. Cách nào ông cũng có thể sắp xếp được. Thành ra ông không cần phải sửa đi sửa lại thơ. Động tác này phần lớn tạo ra những vần thơ vô bổ nhưng đôi lúc cũng tạo ra những vần thơ hay. Chẳng hạn như hai câu thơ thuộc loại “giải quyết vướng mắc về vần” nằm trong bài Chào nguyên xuân sau đây:



Xin chào nhau giữa con đường



Mùa xuân phía trước miên trường phía sau



Nhiều người cảm thấy ngỡ ngàng ở chỗ thi sĩ đưa vào câu thơ từ miên trường. Nó quá lạ. Ai cũng khen hay nhưng không thấy chỉ ra hay ở chỗ nào.



Thật ra, ta thấy lạ là vì miên trường không phải là một từ thuần Việt, cũng không phải là một từ Hán Việt. Nó là một từ nguyên Hán. Miên là giấc ngủ, trường miên là một giấc ngủ dài. Nếu “Việt hóa” cả câu thơ thì sẽ là:



Xin chào nhau giữa con đường



Mùa xuân phía trước một giấc ngủ dài phía sau



Một câu thơ rất tuyệt. Tuy nhiên có điều ông không dùng trường miên mà theo thói quen đảo lại thành miên trường, thành ra câu trên trở thành:



Xin chào nhau giữa con đường



Mùa xuân phía trước dài một giấc ngủ phía sau



Về mặt ngữ nghĩa thì hay như thế, nhưng về mặt hình thức thì từ miên trường lại không tương thích với câu thơ. Bởi mùa xuân không phải là một từ nguyên Hán để có thể đối với miên trường. Vậy thì tại sao Bùi Giáng lại sử dụng? Ta thấy rõ sở dĩ ông dùng từ tây ta lẫn lộn như thế là vì ông cần phải giải quyết sự vướng mắc về vần. Nếu là người khác, có thể sẽ phải xóa câu thơ trên để gieo vần lại, nhưng với ông thì luôn tìm được từ để đưa vào theo cách riêng của ông. 



Câu chuyện sau đây cho thấy rất rõ nét quá trình tư duy ngôn ngữ thơ của Bùi Giáng. Một ngày nọ, Bùi Giáng đến thắp nhang cho đám tang của nhà báo Huỳnh Bá Thành. Như nhiều người khác, ông lật cuốn sổ tang ra để ghi vào đó vài dòng. Hiển nhiên là ông phải dùng thơ để ghi. Câu thơ đầu tiên của Bùi Giáng viết ra là:



Đến thăm anh Nguyễn Bá Thành.



Tôi là Bùi Giáng rành rành bấy nay



Đọc câu thơ này, ai cũng phải giật mình cho rằng Bùi Giáng đã “bé cái nhầm”. Thế nhưng hoàn toàn không phải vậy. Sở dĩ có chuyện đó là vì khi cầm cây bút lên, Bùi Giáng đã lỡ nhập đề bằng ba chữ “đến thăm anh”. Tiếp theo, ông không thể nào đưa từ Huỳnh vào vì nó không đúng bằng trắc. Nhưng chẳng lẽ ông lại dùng Huỹnh? Vì thế buộc ông phải chọn “giải pháp” đổi họ cho nhà báo Huỳnh Bá Thành ra họ Nguyễn để khỏi phải xóa đi sáng tác lại.



Thông qua những gì đã phân tích, ta thấy rằng quả thật Bùi Giáng có cách sáng tác không giống ai.



Tác giả Nguyễn Đình Thu

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét