Luận văn cao học “Thơ Bùi Giáng dưới lăng kính phê bình cổ
mẫu” của HVCH Trần Nữ Phượng Nhi (PGS.TS Nguyễn Thị Thanh Xuân hướng dẫn) được
Hội đồng nhất trí cho 10 điểm, là một trong những luận văn xuất sắc thuộc
chuyên ngành Văn học Việt Nam mới được bảo vệ thành công trong tháng 4/ 2011 tại
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – ĐHQG TP.HCM. VH-NN xin giới thiệu
mục 2.1 Tiếng gọi ngàn xưa của luận văn này.
Bùi Giáng (1926-1998)
2.1 Tiếng gọi ngàn xưa
“Cũng như thân thể người ta là một tập hợp đầy đủ những bộ
phận, mỗi bộ phận là kết quả của một cuộc tiến hóa qua các thời kì tiền sử, ta
phải nghĩ rằng tinh thần của ta cũng có một tổ chức tương tự thế. Tinh thần
cũng như thể chất của ta, không thể là một cái gì không có quá khứ, lịch sử của
nó” [80; tr.96]. Lời khẳng định trên của Jung đã nhấn mạnh đến tính lịch
sử, tính di truyền của vô thức. Tinh thần con người chúng ta hôm nay có nền
móng từ những yếu tố “phi ý thức thời tiền sử”, những “vết tích bàn cổ” trong
quá khứ xa thẳm loài người. Đặt cái nhìn đó vào thơ Bùi Giáng, ta thấy những yếu
tố nguyên thủy, “vết tích bàn cổ” hãy còn ăn sâu trong tiềm thức con người hiện
đại. Và hiện thân của Đất, Nước trong thơ Bùi Giáng chính là tiếng
nói ngàn xưa đã được bảo chứng.
Thật vậy, Đất từ rất lâu đời đã trở thành một
biểu tượng lớn trong văn hóa nhân loại tinh khôn (homo sapiens). Không biết tự
bao giờ nơi chúng ta sinh được gọi là Trái Đất. Quả đất tròn như bầu sữa mẹ,
như chiếc nôi đưa nhân loại lớn khôn từng ngày. Và Nước cũng vậy, là
một biểu tượng thiêng kỳ mỹ từng tạo nên những nền văn minh vĩ đại sông Nin,
sông Ấn, sông Hằng… Nước cũng đồng thời gắn bó song hành cùng Đất tạo
thành cặp đôi khắng khít Đất Nước. Nói chung, Đất vàNước hay Đất
Nước mỗi khi nhắc đến luôn gợi lên những khái niệm chung, lớn lao, cổ xưa
hay truyền thống. Đặt chân lênĐất, chạm tay vào Nước hay đứng giữa
lòng Đất Nước là chúng ta đang đón lấy ký ức hàng ngàn năm của dân tộc,
dòng giống. Nên tìm hiểu về Đất, Nước cũng đồng nghĩa chúng ta
tìm hiểu, lắng nghe tiếng nói ngàn xưa của tổ tiên, nguồn cội.
v Cổ mẫu Đất:
(…)
v Cổ mẫu Nước:
Nước là một đặc tính thơ Bùi Giáng. Thơ ông tràn ngập Nước,
ở bất cứ nơi nào ta cũng có thể tìm thấy: biển, sông, giòng, nguồn, suối,
khe, mưa, sương… Tên những tập thơ cũng đã âm vang lời củaNước: Mưa
nguồn, Ngàn thu rớt hột, Như sương, Rớt hột phiêu bồng hoặc gợi liên hệ đến Nước:
Bài ca quần đảo, Lá hoa cồn, Tuyết băng vô tận xứ, Rong rêu.
Nước, cũng như Đất, là bản nguyên vũ trụ (Prakriti),
là một trong bốn yếu tố vật chất khởi thủy (materia prima): Đất, Nước, Lửa,
Khí tạo nên sự sống loài người. Nhưng khác với Đất ở tính thô rắn, ổn
định, bền vững, Nước tỏ ra mềm mại, tùy biến và luân chuyển (chạy dọc,
uốn lượn, bao quanh Đất hay tràn xuống, luồn sâu, phân tỏa). Khác với Lửa khô
nóng, trực tính, Nước bẩm sinh đã ẩm ướt, dung hòa (làm dịu Lửa, cũng
như có thể làm dịu các hợp chất khác trở nên bớt nóng, bớt lạnh, bớt nồng, bớt
đậm…). VàNước (H2O) cũng mang trong lòng nó dưỡng Khí oxi - hơi
thở sự sống. Có thể thấy, trước hết Nước là một khối vật chất khổng lồ
chưa phân hóa với “số lượng vô cùng lớn của những khả năng diễn biến” [6;
tr.709] và sau là vô vàn hình thức, trạng thái tồn tại đi cùng những thuộc tính
phức tạp của nó. Biển, Sông, Hồ, Đầm, Giếng, Mương, Rạch,… là những hình thức tồn
tại tự nhiên của Nước. (Bên cạnh là những hình thức tồn tại nhân tạo do
con người thiết kế chứa nước như ao, kênh, ruộng, bể…). Và các trạng thái phẳng
lặng, êm ái, lặng lẽ, lững lờ, chảy tương đối, chảy mạnh, chảy xiết, cuộn xoáy,
bao vây, nhấn chìm, nuốt chửng, dâng cao, hạ thấp, xuôi dòng, ngược dòng, bào
mòn, bồi đắp…, tất cả đều thể hiện tính cách và tính khí của nước. Một cách
khái quát, Nước có tính dương tính âm, tính nam tính nữ và
cả lưỡng tính. Bởi có khi Nước mạnh mẽ, hung bạo như Lũ Lụt,
có khi hiền hòa như Sương và cũng có lúc trung tính như Mưa.Nước cũng
có nước mặn, nước ngọt và nước lợ. Và có lúc Nước thuần khiết, trong
trẻo, mát lành (nước giếng), có lúc vẫn đục, đen xỉn (nước tự ô nhiễm), có lúc
nóng bỏng (nước ở khu vực thỗ nhưỡng đặc biệt tạo ra nước nóng) hay băng giá
(nước đóng băng). Cũng như có nơi Nước ở thể lỏng (chiếm đa số),
có nơi sệt đặc (đầm lầy) hoặc đông cứng (hai cực trái đất)… Nhưng dù Nước có
muôn hình vạn trạng sao đi chăng nữa, ý nghĩa tượng trưng về Nước trong
đời sống nhân loại vẫn quy về ba chủ đề lớn: nguồn sống, phương tiện thanh
tẩy và trung tâm tái sinh (theo Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới,
tr.709). Thậtvậy, “quả trứng” Trái Đất chúng ta hai phần ba đã là nước. Cơ thể
chúng ta và các loài có sự sống khác cũng vậy, nước chiếm ưu thế trong sinh thể. Nước chính
là mầm sống của mọi mầm sống. Từ trong sâu xa, chính Nước đã làm
nên vũ trụ bởi chức năng duy trì sự sống và vai trò tạo ra mùa màng, phúc lộc
sinh sôi nảy nở cho muôn loài trên mặt đất. Con người tìm về với Nước cũng
đồng nghĩa tìm về nguồn cội:
Đầm mình trong nước để rồi đi ra mà không tự hòa tan hết
vào trong đó, trừ khi do một cái chết tượng trưng, đó là trở về cội nguồn, tự tiếp
nguồn cho mình trong kho dự trữ tiềm năng rộng mênh mông và lấy ở đó một sức
mạnh mới: là một bước thoái lui và tan rã nhất thời, tạo tiền đề cho một bước
tiến lên để tái thống hợp và tái sinh [6; tr.709].
Nước vì thế còn là phương tiện thanh tẩy, trung
tâm tái sinh. Ví như việc tắm hay rửa tội, thụ pháp của con
người là những minh chứng sống động cho điều đó. Tắm để bắt đầu một cuộc đời mới
cho trẻ sơ sinh và tắm khi chết, trước khi chôn cất để có thể tái sinh một cuộc
đời mới mai sau. Trẻ em Kitô giáo cũng được làm lễ rửa tội để xóa tội tổ tông
(tội của Adam và Eva không nghe lời Thiên Chúa) và bắt đầu làm một con
chiên ngoan đạo của Chúa. Người sắp thụ pháp (teleutai) cũng cần phải tắm
để tẩy trần, chuẩn bị tâm hồn cho một cõi sống mới. Nói cách khác, người được
thụ pháp phải chết đi (teleutai có nghĩa là làm chết) ở cõi này và
tái sinh ở cõi khác, trong đó động thái tắm là tự dìm chết mình, quay
về trạng thái ban đầu như cái thai nằm trong tử cung người mẹ… Có thể nói, câu
chuyện của Nước hay liên quan Nước còn vô vàn trong lịch sử
nhân loại: nước phán xét (đại hồng thủy dìm chết người có tội và những người
lương thiện được con tàu Noel cứu sống; một số bộ lạc, bộ tộc trừng phạt tội lỗi
bằng cách thả người trôi sông hoặc cột đá vào người quăng xuống nước), nước trừ
tà, nước chữa bệnh, nước trường thọ…; nước còn liên quan đến rượu (rượu giao
bôi, tiễn biệt), liên quan đến máu (rượu nho là máu Thánh dưỡng nuôi tâm hồn
người Kitô giáo)… Nói chung Nước với muôn khả năng đáng trọng và đáng
sợ trong tâm thức con người đã khiến người ta vừa quý vừa nghi ngại, cảnh giác
cao với nước. Tính chất nước đôi của Nước có lẽ là sự lý giải
hợp lý cho sự đối nghịch này.
Trong văn hóa, văn học Việt Nam, Nước có mặt khắp
nơi, phong phú và đa dạng. Từ trận Lụt dữ dội trong huyền thoại Quả
bầu mẹ và pho sử thi Mường Đẻ đất đẻ nước, nhân loại được tái tạo qua
biểu tượng quả bầu mẹ và cây si. Tiếp đến,Nước tạo mầm sống
thụ thai cho những nhân vật phi thường, dị biệt (Thánh Gióng, Sọ Dừa… được sinh
ra sau khi người Mẹ uống hoặc giẫm nguồn nước lạ), Nước làm con người
cải lão hoàn đồng (ông bà lão tiều phu uống nước tiên vào trẻ lại – chuyện dân
gian Việt Nam), Nước tăng sức mạnh cho người anh hùng chiến đấu (Đam
săn uống nước suối trước khi giao chiến để tăng thể lực - sử thi Êđê)… Nước còn
gắn với các yếu tố khác: núi non, con sông, chiếc cầu… tạo nên khung cảnh
thơ mộng, đậm tình: “Đường vô xứ Nghệ quanh quanh. Non xanh nước biếc như
tranh họa đồ” (ca dao), “Lòng quê dờn dợn vời con nước. Không khói hoàng
hôn cũng nhớ nhà” (Huy Cận), “Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha”(Nguyễn
Du)… Nước cũng là nguồn cảm hứng bất tận cho những ngành nghệ thuật
khác như âm nhạc, hội họa. Chúng ta khó mà kể hết vô số nhạc phẩm có hình bóng
nước trong đó: Chảy đi sông ơi (Phó Đức Phương), Trở về dòng
sông tuổi thơ (Hoàng Hiệp), Sông quê (Đinh Trầm Ca)… Và những
cơn mưa, dòng sông, bến nước, con đò… cũng là mỹ cảnh phổ biến cho tranh nghệ
thuật Việt Nam… Song ở một bình diện nào đó, Nước trong văn học Việt
Nam vẫn đượm buồn. Đối với người Việt chúng ta, chưa cần ra đến biển thì sông
cũng đã để lại quá nhiều buồn bã và đau đớn (như Bờ đã nói). Có lẽ vì
vậy mà Nước trong thơ ca dù có đẹp vẫn buồn man mác:
Mưa có tạnh nhưng chân trời còn mãi
Những giọt sương là lệ ở trong mây
Giòng sông đi cho nước nói ngàn ngày
Rằng bể rộng không bến bờ em ạ
(Không thể gọi – Mưa nguồn)
Khảo sát Nước trong thơ Bùi Giáng, trên bình diện
chung, Nước mang nét mặt nguyên thủy: Cội nguồn sự sống nhưng
thấm đẫm nỗi buồn. Ám ảnh trực diện nhất là biểu tượng Mưa, bởi Mưa trong
thơ Bùi Giáng không bình thường như bất kì cơn mưa nào xưa nay. Đó là: Ngàn
thu rớt hột, Rớt hột phiêu bồng, Bây giờ mưa dứt hột, Rớt hột bây giờ, Trời xa
rớt hột, Trang mờ rớt hột, thân em như hột mưa sa, tự trời rớt hột quan san, tự
trời rớt hột lim dim, tự trời rớt hột mù sa… “Hột”mưa chứ không phải “hạt”
mưa, “rớt” chứ không phải “rơi” và “hột” mưa gắn liền
các hình ảnh, từ ngữ gợi lên cái buồn:ngàn thu, trời xa, trang mờ, phiêu bồng,
mưa sa… Có thể thấy, Mưa trong thơ Bùi Giáng là sự đan xen cả vui
lẫn buồn, cả hài lẫn bi với môtíp chủ đạo “hột”mưa, tần số xuất hiện: 145
lần. Về loại từ, “hột” là từ bình dân (trang trọng: hạt) và là từ
địa phương (miền Trung và Nam). Về âm, hột tượng hình hơn, mang lại một hình ảnh
tròn đầy. Về nghĩa, hột là cái lõi bên trong của quả, có thể ươm
thành mầm sống mới. Dân gian hay nói bóc trần, bóc cho lòi hột ra… nên hột cũng
có nghĩatrần trụi, bản chất thật. Người Nam bộ còn dùng hột thay cho trứng
(hột gà, hột vịt, hột vịt lộn). Ngôn ngữ thơ Bùi Giáng vẫn thường trần trụi và rất
thật như thế, kiểu như “Em vốn xưa kia là/ Ngồi hè em đi tiểu/ Em vốn
xưa kia là/ Trong lúc đó thấy anh” (Vốn xưa kia là – Màu hoa trên ngàn). Những
người vui tính cũng thường hay đùa: “vũ khí hột nhân”, “con cá lợn”,
còn Bùi Giáng là hột mưa. Cách nói “bóc trần” và có vẻ “ngược đời”
này vừa mang tính nghịch đùa vừa thể hiện cái lắt léo, trớ trêu trong thơ Bùi
Giáng. Sinh thời, nhà thơ từng tự nhận mình là đứa trẻ thích đùa, trong tiểu sử
tự ghi ông viết: 1971-75-93 “rong chơi như hài nhi (con nít)” [76;
tr.165]. Nên nhà thơ dường như cũng mang cái khí chất tinh nghịch, táo bạo của
cha ông ta ngày xưa khi qua giữa đàng trêu ghẹo con gái: “Cô kia cắt cỏ
bên sông/ Có muốn ăn nhãn thì lồng sang đây”- ca dao).
Nhưng sự tinh nghịch của người đời và cha ông ta làm nên nụ cười và duyên tình,
còn Bùi Giáng thì đùa ra nước mắt và cảnh báo về mất mát:
Bây giờ mưa dứt hột sa
Ngớt tầm tã gội tuôn hoa trôi nguồn
Rừng ong gấu lạnh ghê hồn
Một lần đối diện là khôn gắn hàn
(Bây giờ mưa dứt hột – Ngàn thu rớt hột)
Ngàn thu rớt hột bây giờ
Ngẩng nghe gái núi bước hờ hững sương
Hùm voi rồng ngục tù mương
Khe nào hang hở dồn hương xuống đời
(Rớt hột bây giờ – Màu hoa trên ngàn)
Âm hưởng đọng lại của những dòng thơ trên là: hoài vọng
và nuối tiếc, nghẹn ngào và đắng lòng. Bây giờmưa mới dứt hột sa, bây
giờ ngàn thu mới rớt hột về… thì tất cả đã tuôn hoa trôi
nguồn, gái núi đãbước đi hờ hững và rừng thiêng trở nên lạnh
giá, cho những khe hang hở dồn hương xuống đời… Hướng về quá khứ, Cội
nguồn vẫn là tiếng nói chủ đạo trong thơ Bùi Giáng: “Tôi vốn xưa kia
là/ Ngàn thu tôi rớt hột/ Tôi vốn xưa kia là/ Mưa nguồn cồn lá hoa”, “Tôi vốn
xưa kia là/ Sợ mất hột sương hoa”, “Tôi vốn xưa kia là/ Mò mẫm giữa đêm khuya/
Tôi vốn xưa kia là/ Mơ cái hột xiêm mềm” (Vốn xưa kia là – Màu hoa trên ngàn). Giọng
thơ cứ nửa đùa nửa thật như trạng thái nửa mơ nửa tỉnh của nhà thơ. Giữa
đêm khuya, nhà thơ “mò mẫm” đường về quá khứ tìm “cái hột xiêm mềm”,
lý do “sợ mất” (sợ mất hột sương hoa). “Chàng” Đười Ươi đã thõng đôi
tay dài của mình vào quá khứ để cố níu về một chân trời hồng khiết: “Chân
trời nảy hột hồng tô/ Đầu khe suối chảy nước vô trong rừng” (Chết trong
hang – Lá hoa cồn). “Hột hồng tô” là hột gì, chỉ biết loại hột lạ
lùng này chỉ có trong thơ Bùi Giáng. “Hột mưa” đã đành nhưng còn hột
hồng tô, hột xiêm mềm, hột sương hoa? Ở đây có những ám ảnh về sex (rất gần với
biểu tượng Khe được trình bày ở sau), Bùi Giáng đã nói sáng tạo về một
loại "hột…" có ở bộ phận kín của người phụ nữ. Bởi những từ hồng
tô, xiêm mềm, sương hoa đã đưa lại cho ta một loạt liên hệ gần gũi khác gắn
liền các thuộc tính nữ yểu điệu, nhẹ nhàng, trinh trắng, cao quý: bóng hồng,
gót hồng, áo xiêm mềmmại, đóa hồng nhan đẹp như hoa và mong
manh như sương... Giọng thơ Bùi Giáng vẫn thường vẫn lấp lửng hai mặt và
thuần nhiên như thế. Bằng sự lấp lửng tự nhiên cá biệt đó, ta nhận ra hai ý
nghĩa lớn của biểu tượng hột trong thơ Bùi Giáng: tinh thần Mưa
nguồn bừng toát và chủ nghĩa tự nhiên (mà chúng tôi gọi làtriết lý phồn thực về
sau) mở đường bộc phát. Rõ ràng hơn, đi liền những loại hột trên là
những dòng thơ hai nghĩa của Bùi Giáng: "Mò mẫm giữa đêm khuya",
“Đầu khe suối chảy nước vô trong rừng”… Mưachính là suối nguồn nước
truông quý giá (“Còn ghì giữ ân tình trong cỏ nhặt/ Múa vi vu vì hẹn với
truông ngàn”; “Anh quên mất bò đang gặm cỏ/ Anh chỉ nghe tiếng cọ rì rào (…)
Hay là đây tiếng suối lao xao/ Giữa giòng cỏ xuôi ghềnh chảy xuống”; “Bỏ hai
chân xuống một vùng/ Nước truông là lá thu rừng xuống khe” - Xuân thu trang phượng,
Anh lùa bò vào đồi sim trái chín, Bỏ hai chân, tríchMưa nguồn…), nhưng đồng
thời gợi ra một "dòng khác", "hột khác". (Nghĩa thứ hai gắn
liền triết lý phồn thực, xin bàn sau). Còn nghĩa thứ nhất gắn liền biểu tượng Mưa thuần
khiết, mát trong. Bởi Mưa vốn sinh ra từ Nước. Ai cũng biết Nước bốc
hơi tạo mây và sinh ra Mưa thông qua điều kiện không khí thuận lợi.
Nên Mưa cũng là con của mây và giông, và là tinh dịch của
Trời gieo cho Đất để tạo sự sống. Tính chất của Mưa là thuần khiết
(vì nước ở lưng chừng trời, người ta thường hứng nước mưa để uống) và bản chất
của Mưa là ban phúc (nhân gian có cụm từ “ơn mưa móc”). Mưa làm
sạch bầu không khí, làm mát dịu sự oi bức và làm cho mặt đất phong nhiêu. Mưa chính
là sữa trời giúp sự sống sinh sôi nảy nở, giúp cho vũ trụ trở nên bất tử. “Hỡi
các thần Mitra và Varuna. Mưa của trời làm trời căng phồng chất mật ngọt của
mình… Chúng tôi cầu xin các thần cho mưa, cho sự sống, cho sự bất tử… Hỡi
các vị chú tể, hãy gội tắm chúng tôi bằng sữa trời! Các thần làm trời mưa xuống,
đỏ chót, trong ngần” (Kinh Rig-Véda) [6, tr.609]. Và Mưatrong
thơ Bùi Giáng cũng chuyển tải chức năng sự sống đó. Nhà thơ đã nhìn cuộc sống với
quy luật sinh sôi nảy nở đẹp đẽ qua lăng kính của hột mưa rơi: “Ôi
một người con gái/ Là đúng một bầu trời/ Là sinh con đẻ cái/ Đẹp bằng hột mưa
rơi” (Ôi một người con gái, Lá hoa cồn). Mưa còn là thể điệu ban
sơ vui sống thanh nhàn: “Ban sơ thể điệu phiêu bồng/ Về sau rớt hột chùm bông
quê nhà/ Bây giờ một lúc uống trà/ Ăn qua loa chút gọi là tái sinh” (Tặng cố
nhân – Thơ Bùi Giáng).
Có thể thấy thơ Bùi Giáng có sức nén rất chặt. Nhà thơ đã
đẩy cả chu kỳ, quy luật sinh sôi nảy nở viên mãn của Trời Đất và Con Người vào
trong bốn câu thơ và bốn câu thơ lại dồn cả vào một hình ảnh nhỏ bé ở câu cuối:
“Đẹp bằng hột mưa rơi”. Kỳ thực, chỉ một hột mưa cũng đã nói đầy đủ
cái tinh thần, chu kỳ luân chuyển của vũ trụ và sự sống. Ở bài sau cũng vậy, thời
gian và không gian dài rộng khôn cùng của một kiếp người được khái quát chỉ qua
bốn câu thơ. Mỗi câu là một không gian, thời gian khác nhau từ quá khứ ban
sơ của cõi phiêu bồng (câu 1) đến quá khứ cận hiện nơi quê
nhà (câu 2), xuyên qua thời điểm hiện tại với không gian uống trà (câu 3)
và cuối cùng là vị lai tái sinh ở cõi khác (câu 4). Sức nặng của cả
bài thơ dường như rơi vào câu 2 bởi hai từ “rớt hột” và hình ảnh tâm
điểm sinh động chùm bông quê nhà. Bài thơ với tựa đề Tặng cố nhân nhưng
hoàn toàn không thấy bóng người xưa chỉ thấy chùm bông quê nhà lay động
bởi mưa “rớt hột”. Phải chăng ở đây, từ trong tiềm thức, quan năng thơ Bùi
Giáng hãy còn ảnh hưởng ý thơ nổi tiếng của Thôi Hộ hàng chục thế kỷ trước:
“Nhân diện bất tri hà xứ khứ/ Đào hoa y cựu tiếu đông phong” - Đề đô thành Nam
Trang (Gương mặt người xưa giờ không biết chốn nào. (Chỉ thấy) hoa đào năm
ngoái còn cười gió đông)… Không cần biết chính xác về điều đó, chỉ biết một điều
chắc chắn rằng, tiếng thơ của Bùi Giáng luôn là hoài cổ, vọng sơ thông qua Mưa.
Hay nói cách khác Bùi Giáng đã vực dậy được những biểu tượng từ văn hóa và văn
học quá khứ. Ông không chỉ múc biểu tượng từ giếng vô thức tập thể dân gian mà
còn lấy chúng từ hồ vô thức tập thể bác học và thả chúng một cách tự nhiên vào
thơ mình, làm thành những hột mưa “độc nhất vô nhị”. Nên “hột
mưa” ấy vừa mang tinh thần hiện đại, vừa điển hình cho tiếng nói Cội
nguồn ban sơ, cho tiếng nói vui buồn thăng trầm hàng ngàn năm của Nước.
Và cùng với Mưa, người em gái Sương, tuy nhỏ bé và mong manh hơn
nhưng đã đồng hành, chia sẻ hành trình của người Mẹ Nước trong thơ
Bùi Giáng.
Sương thật vậy, cũng giống Mưa nhưng tinh
tế nhiều hơn, là hiện thân cho thiên ân hồi phục sự sống. “Nước tuôn
ra từ tim, làm toàn bộ con người bên trong tràn ngập sương thần thánh” – Calliste
II Xanthopoulos [6; tr.840]. Những giọt Sương đó được Người Kitô giáo
xem là mồ hôi hòa máu Đấng cứu thế làm nở những bông hồng. Cũng theo Từ điển
biểu tượng văn hóa thế giới, Sương còn là mồ hôicủa trời đất, là nước
bọt của các thiên thể (Pline), là sương trời trả lại cuộc sống
cho những hài cốt (người Do Thái), là sương trăng làm sáng mắt và đạt
tới sự bất tử (người Trung Hoa – những tiên ông ở đảo Ho-tcheou đã nuôi dưỡng
mình bằng không khí và sương, Hoàng đế Vũ nhà Hán hứng sương vào cốc ngọc thạch
để uống). Sự rơi sương dịu ngọt là dấu hiệu kết hợp hài hòa của Trời
và Đất (Lão Tử). Và sau hết, đặc biệt trong ngôn ngữ nhà Phật, thế giới Sương gắn
liền với sự Chân ngộ triết lý đạo.
Tiếp nguồn ý nghĩa đó, Sương trong thơ Bùi
Giáng là tinh thể Nước ấp ủ linh hồn bản nguyên vũ trụ:
Hai tay vốc nước suối ngàn
Rắc lên cành dại giọt ngần như sương
(Xuân thôn nữ - Mưa nguồn)
Ý thơ sáng đẹp, đầy hình ảnh. Những giọt nước trong ngần
như sương đọng trên cành cây hoang dại tựu trưng cả sự sống núi rừng, suối ngàn
(giống như hạt muối bé bỏng nhưng chất chứa hồn đại dương mặn mà). Vẻ đẹp bản
nhiên của sự sống đã được nhà thơ nâng niu, quý trọng đón khẽ trên hai
tay. Trong giây phút đó, người và vật như hòa hợp đỉnh điểm, con người
bản nhiên đón lấy sự sống bản nhiên trong một khung cảnh bản
nhiên. Bùi Giáng vẫn luôn thích để nhiên giới tiếp xúc trực tiếp tại thể mình
như thế (giống kiểu cọ xát thiên nhiên của “Người con gái lội qua khe/ Bàn chân
với nước lạnh đè lên nhau/ Nỗi niềm tưởng lại xưa sau/ Bàn chân với nước cùng
nhau lại đè” (Đè nhau - Bàn chân với nước – Lá hoa cồn). Nên ông không bao giờ
dừng chân đứng yên mà luôn chủ động tiến về phía nhiên giới và Sương là
chính làtinh thể cội nguồn: “Ngày nào trùng ngộ bước ra/ Trùng sinh sương
sớm đầu hoa cuối cùng”, “Chú buồn bã chú đi xa/ Tìm hoa kiếm lá sương sa đầu rừng” (Uống
rượu yêu đời, Đèo bồng đến chết - Như sương).
Có thể thấy, môtíp Sương có mặt khắp nơi trong
không gian thơ của Bùi Giáng: Sương bình nguyên (tập khảo luận), Như sương
(tập thơ), sương sớm, sương sa, giọt sương buồn, sương đồng, sương khói,
sương mù, sáng sớm tinh sương…Sương xuất hiện với tần số cao nhất so với
các cổ mẫu khác 745 lần. Với biểu tượng thuần khiết và tần số xuất hiện đó, tiếng
thơ Bùi Giáng trở nên đặc biệt, vừa gắn bó thiết tha Cội nguồn sự sống,
vừa long lanh, thấm đẫm tâm hồn Việt, nhất là hình ảnh “bóng sương đồng” dưới
đêm trăng bàng bạc:
Ngàn trăng ngậm bóng sương đồng
Ngày mai cá sóng phiêu bồng vẫn bay[1]
(Lời tựa tập Như
sương)
Hai câu thơ này trở đi
trở lại nhiều lần trong các tập thơ: Thơ vô tận vui (lời tựa, tr.24,
tr.78), Ngắm trăng (tr.171), Màu hoa trên ngàn (tr.38), Ngàn
thu rớt hột (tr.38), Trúc mai (tr.59)… Câu thơ đầy ấn tượng bởi
nếu nhân loại thường miêu tả giọt sương dưới ánh mặt trời thì ở đây, Bùi Giáng
vẽ lại hình ảnh giọt sương qua ánh trăng, mà độc đáo hơn là “bóng sương”in
trên cánh đồng tràn ngập ánh trăng. Bức tranh lại càng trở nên bất tuyệt khi
chuyển từ trạng thái tĩnh sang động với hình ảnh “cá sóng phiêu bồng”. Chỉ cần
một từ “sóng” (lướt sóng, vượt sóng, vỗ sóng), tĩnh cảnh thành động cảnh,
ngụy ảnh thành chân ảnh, như bút pháp kì tài của Mã Lương chỉ cần hạ một chấm
đen vào mắt hổ, lập tức thành hổ thật. Nhưng quan trọng hơn, bức tranh đẹp nhờ “bóng
sương đồng”. Vì nếu giả sử cắt đi hoặc thay vào “bóng sương đồng” bằng
một hình ảnh khác, một cụm từ khác như “nhánh ngô đồng”, “bóng lúa đồng” hay
“bóng sương ruộng”, câu thơ sẽ không còn giá trị và nét đẹp dù cảnh động hay
tĩnh. Bởi một từ Sương thôi cũng đã mang vẻ đẹp gợi cảm, thanh trong,
thuần khiết của tự nhiên. Càng tuyệt vời hơn khi Sương là sương đồng, bóng
sương đồng. Vì “cánh đồng” từ lâu đã là biểu tượng mang giá trị thẩm
mỹ và biểu cảm cao cho nét đẹp thuần Việt (Ruộng gắn liền vẻ đẹp cần lao).
Và “bóng sương” càng làm tăng nét đẹp gợi cảm của Sương cũng
như vẻ đẹp tự nhiên lên bội phần. “Đồng” đã tiếp thêm mỹ tính cho Sương,
biến ảnh qua nước tạo “bóng” thành “bóng - sương - đồng” nâng
câu thơ đạt đến trình độ vi tế. Hóa ra không phải Trăng mà “Sương” mới
là hình ảnh chủ đạo của câu thơ. Và thơ Bùi Giáng có rất nhiều câu đạt đến độ
vi tế bất ngờ như thế, càng đặc biệt hơn khi nói đến việc nhà thơ bị “thơ làm” chứ
không phải làm thơ. Chính bản chất tinh khởi của Sương (từ Cội
nguồn vô thức chung) cùng bản chất thuần nông (từ Cội nguồn vô
thức riêng nước Việt) đã kết tinh thành “bóng sương đồng” bất tuyệt trong
thơ Bùi Giáng.
Tiếng gọi ngàn xưa, sức
sống Cội nguồn cứ thế ngân dài bất tận chưa bao giờ thôi trong thơ
“người nhà quê” Bùi Giáng. Đi theo tiếng gọi của Đất và Nước,
nhà thơ đã bỏ phố thị – nơi ông đang sống – vềLàng quê, vượt Bờ bãi,
xuyên Rừng thẳm, lênh đênh trên Nước và giờ đây thẩm thấu
trong Sương. Hình hài nhà thơ chừng như tan biến và mất dạng một cách tự
do, phiêu lãng trong nhiên giới. Thử đọc lại hai câu thơ ta sẽ thấy: “Ngàn
trăng ngậm bóng sương đồng/ Ngày mai cá sóng phiêu bồng vẫn bay”. Mang trong
lòng hình bóng nguồn cội (có vẻ gì đó giống Hàn Mặc Tử ngậm Một miệng
trăng chăng?), tâm hồn nhà thơ đã cất cánh phiêu bồng, bay bổng. Như
chim về tổ, như ong về rừng, như cá về biển,Thiên Nhiên Nguồn cội mới thật
sự là mái nhà của nhà thơ. Đó là ngôi nhà không nóc, không cửa để nhà thơ có thể
thả hồn đi rong hoặc thăng thiên bất cứ lúc nào, cũng như để những giọt
nhiên giới có thể thấm sâu vào thân xác nhà thơ tùy mọi lúc. Với tất cả ý
nghĩa đó, thơ Bùi Giáng luôn vang vọng tiếng gọi Trở vềvà một kiểu sống Tận
tuyệt. Ở ông, chỉ có khái niệm hết mình, đã đời, triệt để chứ không
có nửa vời với cuộc sống: “Đã đi đi đến cuối trời/ Đã về như vẫn
muôn đời đã đi” (Đã đi, Mùa màng tháng tư). “Sài Gòn Chợ Lớn rong chơi/ Đi lên
đi xuống đã đời du côn”[2]. Thế nên đã đi dưới Mưa, hòa trong Sươngthì
nhà thơ cũng có thể tìm đến tận cùng của Nước. Và cái Khe đã trở
thành một biểu tượng đặc biệt tràn đầy mỹ lực trong thế giới Nước của
Bùi Giáng: Lạc về đầu rú khe truông, Nước truông là lá thu rừng xuống khe
(Phượng, Bỏ hai chân – Mưa nguồn), Xuống khe tìm biển hội đàm (Ở trong hang –
Bài ca quần đảo), “Tôi sẽ ra khe bắt cá về” (Tôi sẽ ra khe – Ngàn thu rớt hột),
“Đầu khe suối chảy nước vô trong rừng”, “Trong tấm lòng thu động rú truông
khe”, “Non ngàn lũng tạ nước đầu khe truông”, “Nước trong khe cũ đó là cá
trôi”, “Buổi trời trở lại bên khe” (Chết trong hang, Chân trời, Sa mạc phát tiết,
Điệu cười trăm năm, Buổi trời trở lại – Lá hoa cồn)...
Xuất hiện không nhiều
như những cổ mẫu khác, 196 lần, nhưng Khe trong thơ Bùi Giáng đã gợi
lên những ám ảnh đặc biệt. Trước hết đó là khe nước, khe suối, (đầu
rú) khe truông. Khe luôn gắn liền với Nước. Có thể hiểu, Khe là
kẽ hở của vách đá, hang núi, nơi có mạch nước chảy ra. Đó là mạch sống ngọt
mát, quý hiếm không bao giờ cạn. Đó là tinh nguồn của núi rừng từng nuôi sống tổ
tiên, cha ông của chúng ta. Nên Nước Khe hay nói khác đi là nước
mạch, nước nguồn, suối nguồn… chính là biểu trưng của sự sống bất tận,
của những gì tinh túy, thuần khiết nhất. Trong tiềm thức nhân loại xưa nay, người
ta vẫn thường hay nói về nguồn nước vĩnh cửu. Con người tin rằng trên Thiên Đường
có một mạch nước phun ra giữa vườn, chảy đi bốn phương mang lại sự bất
tử, thanh xuân cho con người, ai uống nước đó sẽ trường thọ, thành thần tiên.
Người ta cũng tin nơi các vị Thánh, Tiên, Phật, Chúa… tọa lạc đều có nguồn
nước thiêng ở đó nên nước Thánh, nước Tiên, nước Phật, nước Chúa… đều có
khả năng chữa bệnh và dưỡng nuôi phần hồn con người. Bởi vậy không phải ngẫu
nhiên tôn giáo nào cũng có những nghi thức đặc biệt liên quan đến Nước. Nước là
một trong những căn nguyên lí giải các hiện thực tín ngưỡng phong phú của loài
người. Ví như hằng năm, vào dịp lễ Phục sinh, các cha xứ Thiên Chúa giáo thường
làm phép nước (còn gọi là phép thánh thủy) ở nhà thờ, sau đó cho
mỗi gia đình trong họ đạo mang nước về để trên bàn thờ nhà mình. Sự hiện diện của nước
thánh đó trong nhà là một “liều thuốc bình an” cho thân thể và linh hồn họ…
Sau tất cả, có lẽ do tính chất quan trọng, thiêng liêng không thể thiếu đối với
sự sống của nguồn nước, mạch nước mà khái niệm Nước được
chuyển thành một khái niệm khác có giá trị như một địa điểm, nơi chốn: nước
tôi, nước bạn (đất nước tôi, đất nước bạn)… hay nước Trời, nước Phật (cõi Trời,
cõi Phật)… hoặc nơi bất tử muôn đời của con người sau khi chết: “chín suối”,
“suối vàng”… Nói chung, suối nguồn, nước mạch, theo nghiên cứu của
Jung, là một cổ mẫu, “là một hình ảnh của linh hồn, như là cội nguồn của
cuộc sống nội tâm và của năng lượng tinh thần” [6; tr.651]. Khe (nước) là hiện
thân của nước nguồn, là biến thể của cổ mẫu suối, mạch. Trong
thơ Bùi Giáng, Khe cũng mang tính chất Cội nguồn nội
tâm và năng lượng tinh thần đó. Thừa hưởng một cách tự nhiên vô thức nhân
loại, nhà thơ bị ám ảnh và đầy quý trọng nước Khe:
Xin mọi người hãy uống
Nước từ hở hang khe
Trong bóng tối đêm
khuya
(Hoặc trong ánh sáng
ban ngày cũng được)
(Ôi người con gái, Lá
hoa cồn)
Nước Khe, trong
đôi mắt nhà thơ là dưỡng chất trần gian hấp thụ tinh khí trời đất có
thể mang đến sức mạnh thể xác và tinh thần cho con người. Đêm khuya chính là thời
điểm thuận lợi, đó là lúc núi rừng thiêng liêng bừng tỉnh, căng tràn nhựa sống
và chiết xuất tinh khí dồi dào nhất. Trong đời thật cũng như phim, truyện, ta
thường thấy những con người của Núi Rừng luôn là hình tượng của sức mạnh hoang
nhiên và vẻ đẹp nguyên sơ, thuần chất. Chính nhờ họ đã tiếp thu năng lượng,
sinh khí thiên nhiên thuần khiết mà trong đó nước Khe, suối nguồn là
một yếu tố quan trọng. Và nếu có phải chiến đấu với con người hiện đại, những
con người tự cho mình tối tân, thủ lĩnh thế giới thì họ vẫn luôn là người chiến
thắng. Bởi tinh cốt Núi Rừng hàng ngàn triệu năm qua đã hun đúc nên thiên tính
anh hùng vĩ đại bẩm sinh trong họ (bộ phim ứng dụng công nghệ 3D tốn kém nhất
thế giới hiện nay Avatar là một ví dụ). Thiên Nhiên luôn tiềm ẩn sức
mạnh lớn lao đối với đời sống nhân loại, giống như dòng máu nóng luôn lưu chuyển
trong cơ thể ta mà ta không biết. Chỉ khi mất đi, chúng ta mới thấy mình khó thở,
thoi thóp. Người hiện đại chúng ta đang phải đối diện với thực trạng mất mát và
suy kiệt đó. Còn Bùi Giáng, cứ ngỡ “người nhà quê” như ông là đi sau thời đại,
đi sau chúng ta (khi ông mãi quẩn quanh với Cội nguồn quá khứ), nhưng
không, ông đã đi trước chúng ta cả chặng đường dài xa tắp, ít nhất là gần nửa
thế kỷ. Ông đã nhìn thấy trước hình ảnh và tình cảnh của chúng ta hôm nay: “Ngày
mai bưng mặt khóa òa/ Xóa hai lớp bụi và ba chân trời” (Nam Đình nghe động – Lá
hoa cồn). Và vì thế giờ đây chúng ta mới cảm nhận được hết lời mời gọi thiết
tha, thành khẩn của ông: “Xin mọi người hãy uống…”, đồng thời hiểu sâu sắc
hơn tiếng gọi ngàn xưa trong thơ ông còn là nỗi đau của Thiên
Nhiên bị “ruồng rẫy”. Sống giữa Sài thành náo nhiệt, khi con người chạy đua cật
lực với văn minh thì chỉ duy ông thong dong quay về với Rừng Núi, Suối Khe. Tiếng
nước ngàn năm không ngừng trôi chảy như tiếng lòng nhà thơ vẫn mải miết với Cội
nguồn xứ sở. Bằng những cảm nhận tinh tế và sâu thẳm đó, ông còn nhìn thấy
sức sống nhiên giới đã và đang trỗi dậy mạnh mẽ trong từng ngóc ngách của Núi Rừng:
Lạc về trong cõi thanh
âm
Mù sương quấn cỏ khe
ngầm trổ hoa”
(L’Être -Le-Là – Lá
hoa cồn).
Bùi Giáng quả là có khả
năng thấu thị siêu phàm. Ông không những nhìn thấy mà còn chụp được những bức ảnh
đẹp từ nhiên giới cho dù đang ở đâu. Bức tranh đúng là lạc cõi, lạc vào
cõi thần tiên và lạc xa cõi trần: có thanh âm của thiên nhiên, có mù
sương lãng đãng quấn quanh cây cỏ, có hoa trổ sắc bất tuyệt
nơi các khe đá. Một từ “ngầm” (sức sống ngầm, duyên ngầm…)
đã tựu trưng hết vẻ đẹp của những đóa hoa đang trổ và toàn cảnh Núi Rừng thơ mộng.
Bao giờ cũng vậy, cái gì ẩn ngầm, thầm lặng cũng đầy sức hút và quyến rũ. Chính nước
Khe đã dẫn nguồn sức sống ngầm đó về cho hoa cỏ, muôn vật. Người
trong sáng nhìn đời cũng trong sáng. Bùi Giáng có lẽ là người luôn nhìn thấy cả
tờ giấy trắng trinh nguyên thay vì như bao người chỉ tập trung nhìn vào chấm
đen ở giữa[3]. Suối nguồn, nước Khe đã làm sáng mắt sáng
lòng nhà thơ. Cội nguồn nội tâm và năng lượng tinh thần từ
đấy được cởi mở, cởi mở đến khôn cùng. Khe đã chuyển thành một biểu
tượng đặc biệt tràn đầy mỹ lực, biểu tượng phồn thực mang tín ngưỡng
dân gian của nền văn hóa nông nghiệp trù phú với tục thờ sinh thực khí (sinh:
đẻ, thực: nảy nở, khí: công cụ). Ngay trong đoạn thơ trên trong bài “Ôi một
người con gái”, hai từ “hở hang” (Nước từ hở hang khe) cũng đã “nhuốm
màu” phồn thực. Và sự thật không chút nghi ngờ khi ta kiểm chứng lại những
dòng thơ trước đó: “Ôi một người con gái/ Dù là gái đốt than/ Cũng đẹp như
suối ngàn/ Chảy từ trên núi xuống”. Khe như thế đã không còn là Khe
nước mà gợi ra một Khe khác: bộ phận kín của phụ nữ (cũng như hột
mưa ở trên đã chuyển thành một loại hột khác có ở phần kín cơ thể
người phụ nữ). Thật vậy, cái Khe thứ hai ấy xuất hiện rất nhiều trong
thơ Bùi Giáng: “Đầu khe nguyệt bạch trần truồng/ Hồng nhan em nhớ về
truông mặt quần” (Nam Đình nghe động – Lá hoa cồn). Câu thơ vừa ngụ ý vừa chơi
chữ: khe nguyệt bạch, trần truồng – truông quần đã tạo nên sự lấp lửng
hai mặt cho Khe, khêu gợi trí tưởng tượng người đọc. Cũng có lúc ý thơ lộ
liễu, thuần nhiên: “Mỗi về thôn ổ ở truồng tắm khe/ Thương cô gánh củi nặng
nề/ Rủ cô cùng tắm nước khe với mình”(Mỗi xuân mỗi mỗi – Ngắm trăng). Lúc khác,
trong bài Chém cha cái số - Màu hoa trên ngàn, Khe lại là là khe
mương: “Một ngàn cái hố giữa khe mương/ Mình liễu bâng quơ lục nhạc hường/ Mỏi
gối phù kiều ngang thể bắc/ Mệt lòng dát ngọc dọc kim tương”, hoặc có khi là khe
rỗng: “Chiêm bao sờ khe rỗng/ Giường trống trải tay quờ” (Trang mờ rớt hột
- Màu hoa trên ngàn)…
Có thể thấy, thơ Bùi Giáng ít nhiều mang hơi thở Xuân
Hương. Tựa đề Chém cha cái số trên là một ví dụ (Chém cha cái kiếp lấy
chồng chung – Làm lẽ, Hồ Xuân Hương). Ta còn có thể bắt gặp những hình ảnh
quen thuộc khác: “Ngủ yên thùy liễu xanh trời/ Khép sương bồng đảo qua lời
biển dâu” (Thế tượng – Màu hoa trên ngàn) – “Đôi gò Bồng Đảo sương còn ngậm” (Thiếu
nữ ngủ ngày, Hồ Xuân Hương); “Đi về trong gió đóng khung/ Mở hai cánh khép
một vùng rì xanh” (Chút nghĩa – Màu hoa trên ngàn) – “Trời đất
sinh ra đá một chòm/ Nứt ra đôi mảnh hỏm hòm hom/ Kẽ hầm rêu móc trơ toen toẻn/
Luồng gió thông reo vỗ phập phòm” (Hang Cắc Cớ, Hồ Xuân Hương); “Tôi
vốn xưa kia là/ Con gái của chửa hoang”, “Tôi vốn xưa kia là/ Nhớ dọc đổi
thương ngang”, “Tôi vốn xưa kia là/ Đề nghị gái chửa hoang”, “Em vốn xưa kia
là/ Nở nụ dọc chồi ngang”, “Em vốn xưa kia là/ Chưa dạ chửa bụng mang” (Vốn xưa
kia là – Màu hoa trên ngàn) – “Duyên thiên chưa thấy nhô đầu dọc/ Phận liễu sao
đà nảy nét ngang”, “Quản bao miệng thế đời chênh lệch/ Không có, nhưng mà có, mới
ngoan”(Không chồng mà chửa – Hồ Xuân Hương)… Tuy cách xa nhau cả hai thế kỷ
nhưng hai nhà thơ lại gặp nhau đầy ngẫu hứng và tinh tướng trong dòng chảy văn
hóa phồn thực. Nói cách khác, từ trong tiềm thức, thơ Bùi Giáng cũng như
thơ Hồ Xuân Hương được thừa hưởng cái tinh hoa của tín ngưỡng văn hóa dân gian
sống động này. Nhưng nếu Xuân Hương là bà Chúa thơ Nôm với thể thất ngôn thì
Bùi Giáng cũng có thể được xem là ông Hoàng thơ Việt với thể lục bát. Và nếu
thơ Xuân Hương ám ảnh người đọc bởi một hệ thống biểu tượng phồn thực phong
phú triển khai theo trục ngang: âm vật (hang, động, giếng…) , dương vật (sừng,
cọc, đầu…) và hành động tính giao (đánh du, dệt cửi…) thì Bùi Giáng gây ấn tượng
mạnh về sự táo bạo thể hiện biểu tượng âm vật theo trục dọc: chỉ một
biểu tượng Khe nhưng Khe gắn liền không rời với đa dạng
hình ảnh liên tạo: cồn, môi, vành cong, cái lá, cỏ…
“Quan san chết đuối giang hà/ Trời hôn cái lá đã ba lần rồi/
Lần thứ tư chết lịm thôi/ Ba lần cái lá bị trời ghì hôn/ Một hai hai một bồn chồn/
Trời hôn cái lá trên cồn của em/ Hai lần ba một lần thêm/ Lần khân tứ khỉ là
tên ông trời”; “Lá cồn thu nhặt chia trôi/ Chắp làm hai mảnh rạc rời cả
hai/ Vành cong hiển hiện hiên ngoài/ Hít hôn chưa thỏa còn môi móc gì/ Càn khôn
chết lịm li bì/ Một hai ba bốn năm quỳ khuynh soi/ Trường đình giục ngựa ra
roi/ Nằm nghiêng mở ngửa cửa choai gái cồn”; “Vành cong hiển hiện phương rừng”;
“Môi cong cong mở khép vòng khuỷu tay”; “Sương hoàng hậu đẹp vì hoa/ Cỏ hoàng hậu
đẹp vì ta mơ mòng/ Chân hoàng hậu khép cong cong/ Gót hoàng hậu giẫm giữa lòng
chiêm bao/ Gái ơi bờ cỏ phương nào/ Về nhanh gái nhé hoàng chào hậu hoa/ Ngủ
yên tơ liễu trong tòa/ Khép hang hố thẳm sau tà hồng xiêm”(Lần thứ tư trời hôn
cái lá, Hẹn lần thứ năm, Tặng Henri Heine, Em về ra sao, Ngủ yên bên lá – Màu
hoa trên ngàn).
Không gợi liên tưởng như lối vịnh cảnh (Đèo Ba Dội,
Hang Cắc Cớ, Động Hương Tích…), vịnh vật (Bánh trôi nước, Cái giếng, Cái
quạt…), vịnh việc (Đánh đu, Dệt cửi, Tát nước…), vịnh người (Thiếu nữ
ngủ ngày, Kiếp tu hành, Sư bị ong châm…) của Hồ Xuân Hương, Bùi Giáng tả
trực tiếp bằng lối trực ngôn và chơi chữ. Những khả năng từ loại (danh từ, động
từ, tính từ, lượng từ…) bị nhà thơ lôi kéo vào cuộc mây mưa ngôn ngữ: chết
đuối, chết lịm, trần truồng, mặc quần, hôn, ghì hôn, hít hôn, moi móc, nằm
nghiêng, khép, cong cong, mơ mòng, một hai, hai một, ba lần, lần thứ tư,… Và
lối chơi chữ cũng thật tài tình: bồn chồn, cồn, lá cồn… cùng vần với một
chữ khác chỉ bộ phận kín của phụ nữ. Ngay tên tập thơ Lá hoa cồn có lẽ
cũng không nằm ngoài sự ám gợi đó. Điều này không là suy diễn bởi trong Mùa
thu thi ca, sau khi hay người đẹp Marilyn Monroe tự tử bên trời Tây, nhà
thơ có viết một đoạn cũng dùng lối chơi chữ tương tự thế, chỉ khác ở trên là đồng
âm còn ở đây là nói láy:
Mọi Nhỏ – Tại sao em tự tử?
Monroe – Tại vì chị là người da trắng. Huống hồ nữa là …
Mọi Nhỏ – Là sao huống nữa?
Monroe – Huống nữa là màu da trắng của chị còn trắng hơn
tất cả màu da của mọi người da trắng khác.
Mọi Nhỏ – Thế nghĩa là màu da trắng của chị đã đạt quai
nhai cảnh giới của lô hỏa thuần thanh thánh thần thiên tiên liên tồn tố bạch?
Monroe – Nhiên
Mọi Nhỏ – Sao gọi là liên tồn tố bạch?
Monroe – Tố bạch là tách bộ.
Mọi Nhỏ – Còn liên tồn? Cũng đồng nghĩa với tồn liên
chăng?
Monroe – Nhiên.
“Liên tồn”, nói láy cũng cho ra kết quả tương tự như bồn
chồn, cồn… ở trên. Bùi Giáng quả là táo bạo. Sự táo bạo này có thể lý giải vì
nhà thơ là nam giới, lại ở thời hiện đại nên có phần “bạo miệng” hơn Hồ Xuân
Hương chăng. Chỉ biết nhà thơ chưa dừng lại, ông còn cả gan dám đảo lộn Càn Khôn
bằng cách “người hóa” ông Trời, bà Trăng: “Trời hôn cái lá trên cồn của
em”, “Đầu khe nguyệt bạch trần truồng”,“Hoàng hoa vân nguyệt vén xiêm ngồi”
(Moira Alêthéia – Màu hoa trên ngàn). Thi sĩ lại còn “tày trời” hạ bệ một cách
gọn gàng “đấng thượng thiên”: “Lần khân tứ khỉ là tên ông trời”. Nếu xưa
kia người ta hoa mặt vì thái độ hạ bệ ông “thần” thái thú Sầm Nghi Đống của nữ
sĩ Xuân Hương (Đề đền Sầm công) thì giờ đây người ta phải choáng váng, xiêu đổ
vì sự hạ bệ Trời cao của Bùi Giáng. Rõ ràng ở đây, không còn cái nhẹ nhàng, tao
nhã vừa thanh vừa tục như trong thơ Xuân Hương mà cao hơn, kịch tính
hơn, cái thiêng và cái phàm đã hòa quyện nhất thể thông qua biểu
tượng phồn thực Khe trong thơ Bùi Giáng. Henry Miller từng phát biểu: “Nói
về bản chất và ý nghĩa của cái tục cũng khó như nói về Thượng đế”(theo Đỗ Lai
Thúy, [114; tr.57]). Nhưng với Bùi Giáng, việc đó dường như không khó, bởi vịn
vào ngàn xưa, nương theo hiện tại và bám lấy nhiên giới, kho ngôn ngữ của Bùi
Giáng tưởng chừng như vô tận và điều quan trọng hơn là với ông, Thượng đế
cũng là con người. Thật vậy, các bậc thần thánh trước khi hóa giới cũng là phàm
nhân, Đức Phật trước khi thành chân quả cũng trải qua kiếp sống lụy phiền, sắc
dục nhân gian. Nên cái “quyết định luận” cho sự tồn tại của con người không phải
là việc đặt ra và dựa vào những phép tắc, nội quy, thước đo, sự phân biệt, ràng
buộc nào để sống mà quan trọng hơn là sự nhìn nhận ra quy luật tự nhiên của
vạn vật, thế giới để biến ứng sinh tồn. Người xưa nói: “Thiên chi đại đức
viết sinh”(Đức lớn của trời đất là sinh sôi) (Trình Hạo). Văn hóa, tín ngưỡng phồn
thực nói một cách ngắn gọn nhất là ngợi ca bản chất tự nhiên sự sống,
như chính Bùi Giáng đã đề cao, trân trọng vẻ đẹp tự nhiên cuộc sống, vẻ đẹp con
người, vẻ đẹp phụ nữ trong tác phẩm của mình:
Gái lội qua khe/ Nước tự rừng về/ Chân gái có gót/ Và năm
ngón chân/ Và một đầu gối/ Và trên nữa rất tròn/ Đầu tôi có mắt/ Nhìn với hai
con/ Tên là con mắt/ Đầu tôi có tóc/ Thờ phượng tổ tiên/ Vấn khăn quanh tóc/ (Mỗi
khi khấn vái tổ tiên)/ Gái lội qua khe/ Tấm quần gái ướt/ Hãy ngồi bờ khe/ Vắt
quần phơi khóm trúc/ Tôi cho gái mượn/ Khăn tóc trên đầu/ Gái lau cho khô/ Lau
chân ngón gót/ Lau hai đầu gối/ (Lau bất cứ chỗ nào tùy ý)/ Tôi nhắm con mắt/
Gái cứ tự nhiên/ Tùy nghi sử dụng/ Tôi nghe Tổ Tiên/ Ở dưới mồ thức dậy/ Lại gần
bảo rằng:/ Gái cứ tự nhiên/ Tùy nghi sử dụng/ Gái cứ tự nhiên/ Lau bất cứ chỗ
nào cũng được (Gái lội qua khe - Lá hoa cồn).
Ở đây, cũng biểu tượng Khe với cái nhìn lưỡng hợp
(vừa là khe nước vừa khe “kín đáo”), cũng biểu tượng phồn
thực với cái nhìn yếu tính (nhũ hoa - “Và trên nữa rất tròn”, âm vật
- khe), Bùi Giáng đã nhân danh Tổ Tiên và làm “hài lòng” Tổ
Tiênngàn đời dưới mồ trong việc thờ phụng cái đẹp, ca ngợi bản chất tự nhiên của
sự sống. Thế ra vô tình trong giấc “mơ mòng”, Bùi Giáng lại hữu duyên trở thành
người phát ngôn cho triết lý tự nhiên của dòng chảy văn hóa quá khứ : tín
ngưỡng phồn thực. Bùi Giáng như nói với chúng ta rằng: hãy sống như bản
chất tự nhiên con người vốn có, đừng che đậy, đừng đeo mặt nạ, đừng gò ép
mình theo những nguyên tắc, luật lệ, tất cả chỉ làm cuộc sống bị kìm nén, nghẹt
thở và kiệt quệ. Hãy trở về Nguồn cùng tổ tiên để được thỏa thích trần trụi, được
vô tư ngao du và tự do phiêu bồng vui sống. Đó cũng chính là quan niệm và cách
sống cả đời của nhà thơ.
Một lần nữa, Bùi Giáng đưa chúng ta về lại Cội nguồn,
nơi cuộc sống và bản chất tự nhiên, thuần khiết con người được lưu giữ, nơi tiếng
cười nói hàng ngàn năm vẫn trong trẻo, vang đọng. Cổ mẫu Đất và Nước trong
nhiều hình thái Làng quê, Bờ, Rừng, Mưa, Sương, Khe đã thể hiện được
sức mạnh biểu tượng của mình trong hành trình nối dài vạn lý ngàn xưa của
thơ Bùi Giáng. Theo đó, quá khứ xa xăm của dân tộc và nhân loại, thế giới
nguyên khởi và tinh mật của vũ trụ, vạn vật rộng cánh ùa về. Thơ Bùi Giáng trở
thành dòng chảy không ngừng nghỉ tìm về Cội nguồn bản chất sự sống và “Ngàn
xưa” mãi là xứ sở cổ tích, huyền thoại tuyệt diệu muôn đời trong thơ Bùi
Giáng.
Chốn lâm tuyền ,nghe đâu đó như tiếng suối reo hòa cùng tràng cười khanh khách mãn nguyện của thánh thi Bùi Giáng.
Trả lờiXóaRồi mọi người cũng sẽ cảm nhận được sự tinh túy trong chất thơ của ông liên thông qua bàì luận văn mà học viên cao học Trần Nữ Phương Nhi đã lĩnh hội thấu đáo toàn bích dẫn giãi không ngoài chủ ý trong từng thi phẩm tuyệt vời mà ông đã trọn một đời trước tác.
Trân trọng cảm ơn HVCH Trần nữ Phương Nhi về bài luân văn xuất sắc của em .
Tác giả bỏ sót bài "Cái gì ẩn dưới" của Bùi Giáng. Trong đó có 2 câu thơ "Em đi bên ấy chân tròn khép. Hai ống mơ hồ mỏi một hang". Đây là 2 câu thơ mang một triết lý nhân sinh nghĩ về người phụ nữ rất tuyệt vời. Tôi đã suy nghĩ trong nhiều năm mới hiểu. Và tôi đang viết bài bình 2 thơ đó. Tôi đã bình bài thơ "Mai sau em về". Tự đề bài văn cũng lấy tựa "Mai sau em về". Với 2 câu thơ "Em về mấy thế kỷ sau. Nhìn trăng có thấy nguyên màu ấy không" Vô google bấm bài đó với tên Trang Y Hạ.Bài luận văn khá thành công. Tuy nhiên với chừng đó trong bài "Luận Văn" thì chưa thấu hiểu hết văn thơ của ông. Bùi Giáng để lại cho nền văn học Việt trên 60 đầu sách... và hàng chục Biên Khảo. Cảm ơn và chúc sức khỏe cô Trần Nữ Phương Nhi. Trang Y Hạ
Trả lờiXóa