Thứ Tư, 21 tháng 8, 2013

VIỆT NAM ĐIÊU TÀN-BẤT HẠNH (Phần Một, Giai Đoạn Bốn/I)

Nguyễn Thuyên
PHẦN MỘT
SỰ XUẤT HIỆN CỦA HỒ CHÍ MINH
Giai Đoạn 4 : Từ Năm 1954 – 1969
Hồ Chí Minh Thỏa Hiệp Với Pháp Chia Đôi Đất Nước.
Miền Bắc Gánh Chịu Chính Sách Vô Nhân Đạo Của Hổ
Nhìn lại các hành động từ ngày Hồ Chí Minh xuất hiện đến ngày chết (1890-1969). Hồ Chí Minh đã gây ra Ðiêu tàn cho đất nước và Bất hạnh cho dân tộc Việt Nam.
Chỉ vì Hồ Chí Minh hận đời ! Bỏ dở việc học hành vì thân sinh của Hồ bị bãi chức Tri huyện nên rời bỏ quê cha, đất tổ, tha hương cầu thực. Càng thêm hận đời, khi Hồ Chí Minh xin vào học Trường Thuộc địa tại Pháp và bị Pháp từ chối. Hận đời hơn nữa vì phải sống lang thang trên xứ người rày đây mai đó, không có một nghề nghiệp gì, cũng không có một việc làm nhất định.
Thế chiến thứ nhất (1914-1918) kết thúc, cách mạng vô sản Nga thắng lợi, Chủ nghĩa Cộng sản bành trướng khắp nơi, nhất là tại Pháp. Hồ Chí Minh chớp thời cơ hoạt động. Trong Ðại hội Ðảng Xã Hội tại Tours vào năm 1920, Hồ Chí Minh tán đồng theo Ðệ Tam Quốc Tế Cộng sản và từ đó trường Staline đón nhận Hồ Chí Minh. Tại trường Staline Hồ Chí Minh học tập theo Chủ nghĩa Marx Lenine và chiến thuật Bôn Xê Vích.
Từ đó, năm 1924 Hồ Chí Minh được phái qua Trung Quốc hoạt động. Ðây là thời điểm các Tổ chức chống Pháp của Người Việt không chấp nhận Cộng sản bắt đầu gặp khó khăn qua sự tuyên truyền, tổ chức các cơ sở Cộng sản. Nhà cách mạng Phạn Bội Châu bị Pháp bắt cùng nằm trong thời gian này. Tiếp theo là Ðảng Cộng sản Ðông Dương được thành lập năm 1930.
Giai đoạn khó khăn nhất của các Tổ chức, Ðảng phái của người Việt không chấp nhận Cộng sản hoạt động tại Trung Quốc bị lũng đoạn, phá hoại khi Hồ Chí Minh từ Mạc Tư Khoa trở lại Trung Quốc theo chỉ thị của Staline (xem Giai đoạn 1931-1945 đã nói rõ)
Các Tổ chức, Ðảng phái của người Việt không chấp nhận Cộng sản bị hai kẻ thù đánh phá. Ðó là Cộng sản (Hồ Chí Minh) và Thực dân Pháp, điển hình là cuộc khởi nghĩa của Việt Nam Quốc Dân Ðảng tại Miền Bắc năm 1930. Thực dân Pháp đã xử chém đầu các Chiến sĩ Quốc gia.
Bị hai kẻ thù nguy hiểm (thực dân và cộng sản) nên biến cố năm 1945, các Tổ chức, Ðảng phái Quốc gia đã bị Hồ Chí Minh phỏng tay trên, bằng xảo thuật Chính phủ Liên Hiệp và Hồ Chí Minh chiếm luôn chức Chủ tịch Chính phủ Liên Hiệp. Hồ Chí Minh thấy các Tổ chức, Ðảng phái Quốc gia chống đối vì biết rõ chân tướng Hồ là tay sai của Cộng sản Quốc tế. Hồ Chí Minh liền dùng vàng bạc mua chuộc các Tướng Tàu để làm ngơ cho Việt Minh (Cộng sản) hoạt động.
Ðến khi Thực dân Pháp trở lại Việt Nam do sự thỏa thuận của đồng minh Anh, Trung Hoa… Hồ Chí Minh liền xoay qua bắt tay với Thực dân Pháp ký Hiệp định sơ bộ ngày 6 tháng 3 năm 1946. Rồi Hồ Chí Minh thân hành đến Pháp để thương thuyết, điều đình trực tiếp.
Ðiều này chứng tỏ Hồ Chí Minh luôn luôn thỏa hiệp với các thế lực để duy trì sự cai trị của Cộng sản.
Vì bản chất và tham vọng của Thực dân Pháp muốn trở lại cai trị xứ Ðông Dương. Thực dân Pháp không thi hành Hiệp định sơ bộ, đã ngang nhiên đem quân tấn công và chiếm đóng Hà Nội. Hồ Chí Minh yếu thế phải rời bỏ Hà Nội và kêu gọi toàn dân tham gia kháng chiến chống Pháp. Bắt tay với Pháp, rồi kêu gọi chống Pháp.
Vì bản chất Thực dân, Pháp lùng bắt Việt Minh, bất kỳ người dân lương thiện nào, Pháp cũng có thể ghép vào Việt Minh. Lính Lê Dương của Pháp càn quét các vùng thôn quê, đốt nhà cướp của và hãm hiếp phụ nữ…
Toàn dân Việt Nam đồng lòng chống Pháp, nhờ đó Hồ Chí Minh được dân chúng ủng hộ.
Hồ Chí Minh biết khai thác khát vọng của toàn dân là không còn con đường nào khác hơn là đánh Pháp giành Ðộc lập. Hồ Chí Minh biết khai thác nhược điểm của toàn dân nên công cuộc kháng chiến chống Pháp ngày càng phát triển mạnh thêm.
Nhưng từ năm 1950, Hồ Chí Minh gặp thuận lợi sau khi Mao Trạch Ðông chiếm lục địa Trung Hoa năm 1949 và ra sức viện trợ cho Hồ chí Minh.
Từ đó, Hồ Chí Minh theo lệnh của Trung Cộng thi hành các chính sách: Giảm tô, Thuế nông nghiệp, Công thương nghiệp, Phản phong (phong kiến), Ðấu tố chính trị, Rèn cán, chỉnh quân, chuẩn bị cho công cuộc “Cải cách ruộng đất, đấu tố địa chủ”.
Chính các chủ trương, chính sách đó gây bất mãn trong mọi tầng lớp nhân dân, vì người dân hiểu ra rằng: “Cộng sản còn tàn ác hơn Thực dân Pháp”.
Hồ Chí Minh khai thác nhân lực, vật lực phục vụ trong chiến dịch Ðiện Biên Phủ quá sức của người dân.
Ðến lúc này Hồ Chí Minh nhận thấy, tuy là chiến thắng trận Ðiện Biên Phủ, nhưng nhân lực, vật lực đã cạn kiệt, đặc biệt là sự âm thầm chống đối của nhân dân.
Chính vì lẽ đó, Hồ Chí Minh đã thỏa hiệp với Thực dân Pháp để chia đôi đất nước.
Sau khi Khối Cộng sản Liên xô tan rã, các tài liệu được bạch hóa công khai qua Hồi ký của các lãnh tụ Cộng sản Quốc tế và các Sử gia ghi nhận.
Kể từ tháng 7 năm 1954 đến tháng 4 năm 1975, người Việt ở Miền Nam vẫn gọi ngày 20 Tháng Bảy là Ngày Quốc Hận. Ðó là mối hận đất nước bị chia đôi, tái diễn tấm bi kịch “huynh đệ tương tàn Trịnh Nguyễn phân tranh gần 300 năm trước” Chế độ Cộng sản miền Bắc không coi ngày đó mang một niềm ân hận, ngược lại họ còn cho đó là một sự thắng lợi.
Người quốc gia ở Miền Nam thì vẫn đa cảm, các lãnh tụ Cộng sản sắt đá hơn vì họ tin tưởng ở một chủ nghĩa “siêu việt” và một phong trào vô sản toàn thế giới. Ở Miền Nam nhiều người cũng than thở:
Ðây sông Gianh, đây biên cương thống khổ”
“Ðây sa trường, đây nấm mộ người Nam”.
Ngoài Bắc, các lãnh tụ Cộng sản còn đang lo hô hào cán bộ đẩy mạnh các cuộc đấu tố để tiêu diệt giai cấp địa chủ, thực hiện tư tưởng Mao Trạch Ðông. Hồ Chí Minh ký đạo luật “cải cách ruộng đất” vào Tháng Mười Hai năm 1953, một “bước tiến” trong cuộc cách mạng quốc tế mà Hồ Chí Minh theo đuổi. Khi một người tin mình nắm chân lý tuyệt đối trong tay thì họ dám làm bất cứ cái gì để thực hiện chân lý đó, một cuộc nội chiến giết hàng triệu người chỉ là một chi tiết nhỏ trong vở tuồng lịch sử vĩ đại mà họ coi là tất yếu.
Nửa thế kỷ nhìn lại, bây giờ nhiều người Việt Nam sống ở miền Bắc cũng công nhận việc chia đôi đất nước năm 1954 là một mối đau nhục nhã, gây nên cảnh “nồi da xáo thịt, huynh đệ tương tàn” vô ích kể từ khi ký Hiệp định Genève, ngày 20 Tháng Bảy năm 1954. Từ nửa thế kỷ nay, nhiều Sử gia vẫn đặt câu hỏi:
Sau khi Việt Minh chiếm được căn cứ Ðiện Biên Phủ của Pháp, tại sao Hồ Chí Minh không thừa thắng xông lên, tiếp tục tấn công để chiếm lấy tất cả nước Việt Nam mà lại chịu ký Hiệp định chia đôi đất nước ? Mỗi Sử gia có thể nhấn mạnh vào một lý do nào đó, không biết chắc ai đúng ai sai. Nhiều người cho là Cộng sản Việt Nam đã chịu áp lực của Liên Xô và Trung Cộng. Các đàn anh Cộng sản này muốn kết thúc cuộc chiến ở Ðông Dương, sau khi họ đã ký kết chấm dứt chiến tranh ở Hàn Quốc. Nghĩ như vậy tức là Cộng sản Việt Nam bị ép buộc nên phải cắt đôi đất nước. Ðể làm áp lực, hai nước Cộng sản đàn anh hứa tiếp tục viện trợ với điều kiện Cộng sản Việt Nam chịu đến bàn hội nghị ở Genève.
Có Sử gia lại nói chính Cộng sản Việt Nam muốn ký hiệp ước vì sợ đằng sau nước Pháp còn có Mỹ, phải ngưng chiến để không cho Mỹ có lý do can thiệp vào Việt Nam. Ông William J. Duiker, trong cuốn “The Communist Road to Power in Vietnam” kể rằng: “Hồ Chí Minh đã mất công thuyết phục cánh chủ chiến trong đảng Cộng sản, trong phiên họp Trung ương Ðảng vào Tháng Bảy năm 1954”. Hồ Chí Minh nói rằng: “Những người trong Trung ương Ðảng muốn tiếp tục chiến tranh không nhìn thấy mối nguy là quân Mỹ có thể sẽ nhảy vào Việt Nam giúp Chính phủ Quốc Gia của Bảo Ðại, thay chỗ của Pháp”. Lúc đó sẽ gặp nhiều khó khăn.
Trong thời gian chiến cuộc Ðiện Biên Phủ, chính phủ Pháp đã yêu cầu Mỹ hỗ trợ bằng cách ném bom chung quanh thung lũng này để tiêu diệt quân Việt Nam đang tấn công. Không khí “chiến tranh lạnh” bao trùm thế giới từ sau Ðại Chiến Thứ Hai, cả Nga lẫn Mỹ đang nghi ngờ nhau. Bộ Quốc Phòng Mỹ vẫn nghĩ rằng: “Sớm muộn gì Nga xô cũng sẽ đánh Âu Châu và Trung Cộng sẽ lấn chiếm các nước
Ðông Nam Á. Bởi vì trong vùng đó đều có đảng Cộng sản địa phương đang nổi dậy hoạt động, làm nội ứng. Trong lúc đó Mỹ đã rảnh tay ở Cao Ly mà lực lượng máy bay, bom đạn của Mỹ vẫn sẵn sàng ở Nhật Bản và Ðài Loan. Nhưng chính phủ Mỹ đã từ chối không giúp Pháp ở Ðiện Biên Phủ. Nếu sau đó chính phủ Pháp chấp thuận những điều kiện của Mỹ, thí dụ, trả lại nhiều quyền tự quyết về quân sự và ngoại giaocho Chính phủ Quốc Gia Việt Nam hơn, sau khi Bảo Ðại đã phong nhậm một ông Thủ tướng thân Mỹ, thì việc tham dự của Mỹ có thể thành sự thật. Ðó là mối lo chính đáng của Hồ Chí Minh, con người có kinh nghiệm, biết dự đoán các biến chuyển của thời cuộc hơn các lãnh tụ khác”.
Ông Duiker cũng cho là vì lo ngại Mỹ sẽ nhúng tay trực tiếp nên Hồ Chí Minh đã lựa chọn giải pháp chia đôi Việt Nam, thay vì giải pháp ngưng bắn tại chỗ, mỗi bên giữ phần đất mình đang kiểm soát. Trong trường hợp ngưng bắn tại chỗ, Mỹ vẫn có thể chờ một biến cố nào đó để lấy cớ mà viện trợ trực tiếp cho Chính phủ Ngô Ðình Diệm đánh nhau với Việt Minh trở lại. Khi chính phủ Mỹ không ký vào Hiệp định Genève chia đôi Việt Nam, chúng ta có thể hiểu là Mỹ nghiêng về giải pháp ngưng bắn tại chỗ, vì nó thích hợp với mưu đồ của Mỹ hơn. Ðúng như Hồ Chí Minh lo ngại. Mặt khác, nếu chia đất theo lối “da beo” thì Hồ Chí Minh khó thi hành được chương trình đấu tố trong “cải cách ruộng đất” mà Hồ Chí Minh đã bắt đầu, dưới sự cố vấn của các đồng chí Trung Quốc.
Nhưng một câu hỏi thực tế là lúc đó Việt Minh có đủ sức tiến đánh tới toàn thắng, nếu Mỹ không can thiệp hay chăng ? Tướng Navarre, người chỉ huy quân Pháp thời đó, cho biết rằng trong năm 1954, lực lượng Việt Minh đã cạn sức vì dồn hết sức vào chiến dịch Ðiện Biên Phủ. Ðể chiếm lấy một cứ điểm có 16.000 quân Pháp, Việt cộng áp dụng chiến thuật “biển người” của Trung Cộng, đã huy động gần 50,000 quân chủ lực, 55.000 quân phụ lực và 100.000 dân công tiếp tế cho chiến trường. Ðiện Biên Phủ thất thủ, kết quả phía Pháp chết khoảng 1.500 quân, 4.000 bị thương; trong khi phía Việt Minh mất 25.000 người, trong đó có 10.000 người chết. Nhiều người bên phía Việt Minh thì cho là sau khi thắng trận ở Ðiện Biên Phủ, họ đủ sức sẵn sang mở ra những cuộc hành quân ở vùng Châu Thổ sông Hồng Hà để tiêu diệt lực lượng Pháp và Quân Ðội Quốc Gia. Tất nhiên họ không dự trù việc tham dự của Mỹ có thể xảy ra và cũng không biết các điều kiện viện trợ của Liên Xô và Trung Cộng cho cuộc chiến tranh chống Pháp.
Tướng Navarre thì nói sau trận Ðiện Biên Phủ các hoạt động tấn công của Việt Minh đã giảm hẳn đi, nhưng khi ông ta xin thêm 2 Sư Ðoàn viện binh thì chính phủ Pháp từ chối.Mặt khác, Thủ tướng Pháp lúc đó, ông Mendès France, đã hứa trước Quốc Hội khi nhậm chức là sẽ giải quyết chiến tranh Ðông Dương trước ngày 21 tháng Bảy, cho nên có ký Hiệp định đình chiến thì ngôi Thủ tướng của ông mới tồn tại.
Bên cạnh các giả thuyết của các Sử gia, có một tài liệu có thể coi là khách quan đối với tình hình quân sự tại Việt Nam lúc đó. Trong cuốn Hồi Ký của Khrushchev (Khrushchev Remembers), người lãnh đạo Liên bang Xô Viết năm 1954, thay Staline chết (bản dịch cuốn sách này xuất bản năm 1971 ở Mỹ). Gọi là khách quan, vì ông Nikita Khrushchev rất có cảm tình với Hồ Chí Minh. Hơn nữa, lúc đó Khrushchev nắm đủ các tin tức mà người ngoài không biết, do guồng máy ở các cố vấn Nga Xô bên cạnh Việt Minh cũng như ở Trung Quốc cung cấp.
Khrushchev kể rằng, đầu năm 1954 Chu Ân Lai, Hồ Chí Minh đến Mát-Cơ-Va họp để bàn một lập trường chung tại Hội nghi Genève, “dựa trên tình hình ở Việt Nam”. Khrushchev mô tả: “Tình hình rất nghiêm trọng. Phong trào kháng chiến ở Việt Nam đang trên đà sụp đổ. Các dân quân hy vọng Hội nghị Genève sẽ dẫn tới một thỏa hiệp ngưng bắn để củng cố lực lượng hầu có thể tiếp tục cuộc chiến đấu chống Pháp…” Ðó là nhận xét của Khrushchev. Ông còn thuật lại lời Chu Ân Lai, sau một phiên họp chung, có lúc Chu Ân Lai kéo Khrushchev vào một góc, nói: “Ðồng chí Hồ Chí Minh đã nói với tôi rằng tình hình ở Việt Nam đang tuyệt vọng, và nếu chúng ta không tiến đến một cuộc ngừng bắn sớm, thì người Việt Nam không thể đứng vững chống lại quân Pháp. Do đó, Hồ Chí Minh đã quyết định nếu cần sẽ rút lui về biên giới Trung Quốc và Hồ Chí Minh xin Trung Quốc sẵn sàng tiến quân sang Việt Nam, như chúng tôi đã làm ở Triều Tiên. Nói cách khác, người Việt Nam muốn chúng tôi đánh đuổi quân Pháp giúp họ. Chúng tôi không thể nào đáp ứng yêu cầu của đồng chí Hồ Chí Minh. Chúng tôi đã tổn thất quá nhiều ở Triều Tiên, cuộc chiến đó tốn kém quá đối với chúng tôi. Chúng tôi không thể nào dự vào một cuộc chiến tranh khác trong lúc này”.
Nghe Chu Ân Lai xong, Khrushchev đã tìm cách thuyết phục Chu Ân Lai đừng từ chối ngay: “Ðồng chí không thể nào nói với ông Hồ là đồng chí sẽ không giúp đỡ khi ông ta bị Pháp đánh phải rút quân về biên giới Trung Quốc. Tại sao đồng chí không cứ nói dối một cách vô hại đi ? Cứ để cho người Việt Nam họ tin là đồng chí sẽ giúp họ nếu cần, cái đó sẽ khích lệ họ chiến đấu chống quân Pháp hăng hái hơn”. Chu Ân Lai đã nghe lời khuyên đó, Khrushchev kể, ông ta “không nói với ông Hồ là Trung Quốc sẽ không đánh nhau với Pháp trên lãnh thổ Việt Nam”.
Chúng ta có thể tin những lời Khrushchev thuật lại là đúng, vì ông ta tỏ ra rất hâm mộ Hồ Chí Minh. Lần đầu Khrushchev gặp Hồ Chí Minh là vào Tháng Hai năm 1950, khi Hồ Chí Minh sang Mát-cơ-va xin Staline viện trợ. Khrushchev mô tả Hồ Chí Minh là một con người “thành thật, nhân từ, trong sáng” và nói rằng: “Ông ta có thể chinh phục tất cả mọi người với tấm lòng chân thành và niềm tin tưởng không thể nào lay chuyển của ông rằng Chủ nghĩa Cộng sản là tốt nhất cho dân tộc ông và cho cả loài người”. Khrushchev tả: “Hồ Chí Minh có đôi mắt chân thành, trông thơ ngây như trẻ em”. Khrushchev ca ngợi Hồ Chí Minh là “một người Cộng sản trung kiên”
Trái lại, cáo già Staline thì không nhận xét như Khrushchev, nên trong cuộc gặp gỡ đầu năm 1950, Hồ Chí Minh đã rút ra một tờ báo hình ảnh của Liên Xô, có hình Staline, rồi xin ông ta ký tên vào đó làm kỷ niệm. Staline vui vẻ ký, nhưng sau đó đã ra lệnh mật vụ tới phòng Hồ Chí Minh lén thu hồi lại, vì Staline cũng sợ Hồ Chí Minh sẽ lợi dụng, theo lời Khrushchev thuật. Mọi người đều biết hồi Hồ Chí Minh ở bên Trung Quốc và làm việc cho OSS, tổ chức Tình Báo Mỹ, Hồ Chí Minh có xin Tướng Chennault, Chỉ huy Phi đoàn Cọp Bay của Mỹ ở Trung Quốc, ký tặng Hồ Chí Minh một bức hình. Sau đó Hồ Chí Minh mang bức hình về Việt Nam, rồi khi họp hội nghị Tân Trào thì đem bức hình đó trưng bày để mọi người nghĩ rằng Hồ Chí Minh đã được Mỹ ủng hộ, mà Mỹ thì đang thắng Nhật. Chưa chắc Staline biết câu chuyện này, nhưng một lãnh tụ Cộng sản như ông ta thì chắc cũng hiểu là không nên tin tưởng những lãnh tụ Cộng sản khác như Hồ Chí Minh, mà trước đây Staline cho áp dụng kỷ luật vào năm 1935.
Câu chuyện Khrushchev kể trong cuốn Hồi ký về cuộc đối thoại với Chu Ân Lai có thể hoàn toàn là thật. Vì ông ta không có lý do nào để nói dối. Chu Ân Lai chắc cũng không cần bịa chuyện ra nói với Khrushchev. Năm 1954 là lúc bang giao giữa hai nước Nga-Hoa còn rất thân thiện, mà nếu Chu Ân Lai nói dối thì Khrushchev có thể kiểm tra lại, biết liền. Cho nên chúng ta có thể tin rằng Hồ Chí Minh quả thật đã thú nhận với cả hai lãnh tụ Nga và Trung Quốc về tình hình và lực lượng Việt Minh đang lo bị thua tới mức có thể phải rút sang biên giớiTrung Quốc. Cũng có thể tin được là năm 1954, Hồ Chí Minh đã xin Trung Cộng đem quân vào Việt Nam.
Khi Chu Ân Lai nói với Khrushchev rằng Trung Cộng không thể tham dự một cuộc chiến nữa, sau khi đã tiêu hao lực lượng ở Cao Ly, điều này cũng đúng thôi. Nhiều người vẫn nghĩ là chính Staline thúc đẩy Trung Cộng đem quân sang Cao Ly để làm tiêu mòn lực lượng nước Cộng sản anh em này, vì ai cũng biết chính Staline bật đèn xanh cho Kim Nhật Thành gây chiến. Nhưng sau khi ký Hiệp ước đình chiến ở Cao Ly, Trung Cộng đã thấy sự thiệt hại của họ quá lớn, cho nên không muốn dính vào một cuộc chiến khác.
Theo William Duiker thì vào Mùa Thu năm 1953, Ngoại trưởng Mỹ Foster Dulles đã cảnh cáo nếu Trung Cộng dính vào Chiến Tranh Ðông Dương thì sẽ “có hậu quả nghiêm trọng”, khiến Bắc Kinh chấp nhận chính sách tỏ dấu hiệu ôn hòa của Nga Xô trong cuộc ganh đua với Mỹ, sau khi ông Staline qua đời.
Như vậy thì việc ký Hiệp định Genève một phần là do Hồ Chí Minh lo sợ nếu tiếp tục chiến tranh thì Mỹ sẽ can thiệp, mà sức lực Việt Minh lúc đó đang yếu; một phần khác cũng vì chủ trương ôn hòa của Nga Xô khiến cho Hồ Chí Minh lo ngại nếu không theo thì sẽ không còn được Nga và Trung Quốc viện trợ như trước nữa. Bản hiệp định chia đôi đất nước đó dẫn tới cuộc chiến tranh Nam Bắc làm chết mấy triệu người Việt Nam, cũng vì Hồ Chí Minh là một người Cộng sản kiên cường, đúng như ông Khrushchev ca ngợi. Hồ Chí Minh muốn cả hai miền Nam Bắc đều phải sống dưới chế độ Cộng sản để tiến hành việc “giải phóng” luôn vùng Ðông Nam Á.
Qua các sự kiện cho chúng ta thấy Hồ Chí Minh không bao giờ quan tâm đến quốc gia, dân tộc Việt Nam.
Hồ Chí Minh chỉ quan tâm đến sự bành trướng của Chủ nghĩa Cộng sản. Chính tham vọng điên cuồng của Hồ Chí Minh mà dân tộc Việt Nam phải gánh chịu mọi hậu quả chiến tranh, “huynh đệ tương tàn, nồi da xáo thịt”. Các thanh thiếu niên có lòng ưu tư về đất nước Việt Nam đã chết một cách vô nghĩa. Bom đạn ngoại bang tàn phá, cày nát quê hương Việt Nam. Hồ Chí Minh đã tạo ra hai cuộc tỵ nạn đầy máu và nước mắt để đi tìm tự do :
Năm 1954, trên 1 triệu người đã bỏ miền Bắc, tỵ nạn vào Miền Nam để tìm tự do và được sống yên lành trên phần đất Miền Nam Việt Nam.
Năm 1975, hàng triệu người dân rời bỏ Việt Nam tìm tự do nơi đất khách quê người và cũng có hàng triệu người chết trong biển cả, trong rừng sâu…
Chỉ vì tham vọng điên cuồng của Tập đoàn Cộng sản, đào tạo bởi tên Cộng sản kiên cường Hồ Chí Minh.
Cải Cách Ruộng Đất
Cải cách ruộng đất, đầy kinh hoàng ở miền Bắc Việt Nam, thảm họa khủng khiếp chưa từng thấy trong lịch sử dân tộc.
Cuộc “Cải Cách Ruộng Ðất” đã thực sự bắt đầu diễn ra từ năm 1953 và kết thúc năm 1956. Những dư âm và hậu họa của nó vẫn còn mãi cho đến tận ngày nay. “Cải Cách Ruộng Ðất” chẳng khác nào một trận động đất kinh hoàng, bão táp ác liệt đổ ập xuống miền Bắc Việt Nam gây ra biết bao tàn phá đảo lộn ghê rợn, biết bao tang tóc, đau thương cho người dân lương thiện.
Xuất phát từ đâu mà trận bão táp ghê rợn đó đã tràn đến cái xứ sở đau thương này ? Nguyên nhân là do chuyến đi bí mật của Hồ Chí Minh vào năm 1950, từ chiến khu Việt Bắc đến Moscow, Liên xô. Hồ Chí Minh đã gặp Staline, lúc đó Mao Trạch Ðông cũng có mặt tại Moscow. Staline, Mao Trạch Ðông đã nhận xét là Việt Nam coi nhẹ nhiệm vụ phản phong (ý nói hữu khuynh), và chỉ thị phải tiến hành cuộc cách mạng phản phong để “bồi dưỡng động lực cách mạng là nông dân lao động”, nói cụ thể là phải làm “Cải Cách Ruộng Ðất” ở các vùng do Việt cộng kiểm soát gọi là vùng “giải phóng”. Lời cảnh cáo của Staline, Mao Trạch Ðông, về lập trường “hữu khuynh” đã làm cho Hồ Chí Minh rùng mình nhớ lại trong thời gian bị giam lỏng tại Liên xô (1935). Lần này Hồ Chí Minh không thi hành “lệnh” của Staline, Mao Trạch Ðông thì khó mà tồn tại trong vai trò lãnh đạo. Nên sau khi về nước, đã cùng Ban Thường vụ Trung ương Ðảng Cộng sản (Bộ Chính trị) trong hai năm trời bí mật và tích cực chuẩn bị tiến hành cuộc “Cải Cách Ruộng Ðất”. Chuẩn bị cả về mặt tư tưởng, cả về mặt chính sách, đường lối, lẫn về mặt tổ chức.
Theo sự phân công của Staline, Trung Quốc sẽ giúp đỡ cho Việt Nam, nên Hồ Chí Minh đã mời các đoàn cố vấn Trung Quốc đến miền Bắc Việt Nam. Cố vấn trưởng là La Quý Ba, đồng thời là Ðại sứ Bắc Kinh tại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Vi Quốc Thanh Trưởng đoàn cố vấn quân sự, còn Trưởng đoàn cố vấn “Cải Cách Ruộng Ðất” là Kiều Hiểu Quang, vốn là Phó Bí thư Tỉnh ủy Quảng Tây. Ðó là chưa kể đủ loại cố vấn khác, như cố vấn Chỉnh huấn, cố vấn Công an, cố vấn Tổ chức, cố vấn Tuyên truyền… Ðể chuẩn bị về mặt tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và quân đội, năm 1952, Bộ chính trị, Trung ương Ðảng thực hiện cuộc “chỉnh huấn” trong Ðảng và cuộc “chỉnh quân” trong quân đội, theo đúng mẫu mã cuộc “chỉnh phong” của Ðảng Cộng sản Trung Quốc, chỉ có cái tên hơi khác một chút mà thôi.
Chuẩn bị về mặt tổ chức, Bộ chính trị Trung ương Ðảng đã thành lập Ủy ban Cải cách Ruộng đất Trung ương gồm có:
* Chủ Nhiệm : Trường Chinh, Tổng Bí thư Ðảng Lao động Việt Nam
* Phó Chủ nhiệm 1 : Hoàng Quốc Việt, Ủy viên Bộ Chính trị Trung ương Ðảng Lao Ðộng Việt Nam.
* Phó Chủ nhiệm 2 : Lê Văn Lương, Ủy viên Bộ Chính trị Trung ương Ðảng Lao Ðộng Việt Nam.
* Ủy viên Thường trực : Hồ Viết Thắng, Ủy viên Trung ương Ðảng Lao Ðộng Việt Nam.
Hồ Viết Thắng đã theo học tại Trung Cộng về phương pháp kích động quần chúng trong chính sách “Cải Cách Ruộng Ðất”. Sau khi học tập tại Trung Cộng, Hồ Viết Thắng trở về Bắc Việt và được Hồ Chí Minh giao trọng trách thành lập “Trung tâm Ðào tạo Cán bộ Cái cách Ruộng đất”. Trung tâm này được tổ chức bí mật tại vùng Cao Bắc Lạng.
- Dưới Ủy ban Cải cách Ruộng đất Trung ương là các Ðoàn Cải cách Ruộng đất.
- Dưới các Ðoàn là các Ðội Cải cách Ruộng đất.
Cả một đạo quân hùng hậu để làm “chiến dịch” với chiêu bài đánh phong kiến !
Ðảng Cộng sản coi “Cải cách Ruộng đất” là một cuộc “cách mạng long trời lở đất”, cho nên cần phải “phóng tay phát động quần chúng” để thực hiện. Có nghĩa là phải làm hết sức mãnh liệt, thẳng tay, không khoan nhượng, không thương xót, cho dù có những hành động quá trớn, quá tệ cũng không đáng quan tâm.
Các lãnh tụ Cộng sản thường nhấn mạnh Ðảng Cộng sản là đảng cách mạng thì nhất định phải làm “Cải Cách Ruộng Ðất” theo tinh thần “cách mạng”, “cách mạng long trời lở đất” ! Họ cao ngạo phê phán các cuộc “Cải Cách Ruộng Ðất” hòa bình ở nhiều nước là cải lương chủ nghĩa, tư sản và phản cách mạng: Vì tại các nước đó, chính quyền hạn định mức ruộng đất tối đa cho điền chủ được có, còphần thừa thì nhà nước mua lại để chia cho người ít hay không có ruộng đất. Còn khi giải thích cho cán bộ mấy chữ “phóng tay phát động quần chúng” khó hiểu này, Hồ Chí Minh đã dùng hình ảnh dễ hiểu sau: Khi uốn thanh tre cong cho nó thẳng ra, phải uốn quá đi một tí và giữ lâu lâu, rồi thả tay ra thì nó mới thẳng được. Hình như Hồ Chí Minh cũng khoái cái lối giải thích hóm hỉnh ấy, không nghĩ rằng cái tinh thần “quá đi một tí” sau nầy chính là mối họa lớn cho dân lành ! Các đoàn, các đội “Cải Cách Ruộng Ðất” được tung về nông thôn. Họ tung hoành gần như với quyền hạn không hạn chế, họ cảm thấy mình nắm trong tay quyền sinh, quyền sát. Cấp trên đã “phóng tay” cho họ và họ cũng tự “phóng tay”… Vì thế, trong dân chúng thường nói “nhất đội, nhì Trời” và các “anh đội” cũng khoái tai khi nghe như thế! Nên không chừa một ai, theo lệnh của Hồ Chí Minh thi hành triệt để. Ngay cả Thiếu tướng Vương Thừa Vũ, Chủ tịch Ủy ban Quân quản thành phố Hà Nội, về quê thăm nhà ở làng Tó (Thanh Oai) thuộc ngoại thành Hà Nội. Ông bị đội “Cải Cách Ruộng Ðất” bắt giữ cùng với anh cần vụ (lính hầu) và xe ô tô. Van xin gì cũng không được thả ra. Về sau do một sự tình cờ, chính quyền Hà Nội biết được mới cho người đến nhận ông Thiếu tướng Chủ tịch Ủy ban Quân quản về Hà Nội. Ðại thần của chế độ mà còn bị như thế huống hồ người dân đen !
Trong năm 1952, Bộ chính trị Trung ương Ðảng Lao động Việt Nam, tức là Ðảng Cộng sản khoác cái tên mới từ năm 1951, cho làm thí điểm “Cải Cách Ruộng Ðất” ở 6 xã thuộc huyện Ðại Từ, tỉnh Thái Nguyên. Trong thí điểm lần này có một sự kiện “động trời” : Tòa án “Cải Cách Ruộng Ðất” xử tử hình Bà Nguyễn Thị Năm, tức là Cát Thành Long, người mà thời trước cách mạng, đã từng che giấu, nuôi ăn, giúp đỡ các Ông như: Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Lê Ðức Thọ, Phạm Văn Ðồng, Lê Thanh Nghị, Lê Giản… Còn trong Tuần Lễ Vàng, gia đình Bà Nguyễn Thị Năm đã hiến 100 lạng vàng cho chính quyền mới. Bà đã hoạt động trong Hội Phụ Nữ, lại có con trai đi Bộ Ðội, làm Trung Ðoàn Trưởng. Thế mà Bà đã bị quy tội là Ðịa Chủ Cường Hào Ác Bá, bị đoàn “Cải Cách Ruộng Ðất” xử án tử hình, Ủy Ban Cải Cách Ruộng Ðất Trung Ương duyệt y và Bộ Chính Trị Trung Ương Ðảng Lao Ðộng Việt Nam cũng đồng thuận.
Những người lãnh đạo Cộng sản trong Bộ Chính Trị, nhất là những người đứng đầu trong Chính Phủ đã từng được Bà che giấu, nuôi ăn, tặng vàng… Nay Hồ Chí Minh đang làm Chủ tịch nước, Tổng bí thư, Ủy viên Bộ chính trị, Thủ tướng, Phó Thủ tướng, Chủ tịch Quốc Hội, Tổng Bộ trưởng, Tướng lãnh… đã lạnh lùng chuẩn y án tử hình một người đàn bà có công từ đầu !!!
Phát súng đầu tiên của “Cải Cách Ruộng Ðất” nổ vào đầu một người phụ nữ yêu nước đã từng giúp đỡ cho những người Cộng sản ! Chính phát súng đó tự nó đã nói lên nhiều điều về các lãnh tụ Cộng sản ! Nó báo hiệu trước những tai họa khôn lường cho dân tộc Việt Nam !
Năm 1953, thực tế là năm bắt đầu tiến hành “Cải Cách Ruộng Ðất”, cũng là năm Ðảng Cộng sản chuẩn bị toàn bộ đường lối, chính sách và “luật pháp hóa” các chính sách của Ðảng bằng quyết nghị của Quốc hội, sắc lệnh và nghị định của Chính phủ, thông tư của các Bộ. Dựa trên tài liệu chính thức của Ðảng Cộng sản, xin ghi lại những cái mốc lịch sử đau thương của dân tộc ta trong cuộc “Cải Cách
Ruộng Ðất”, đẫm máu và nước mắt này:
- Tháng 1 năm 1953, Hội nghị lần thứ Tư của Trung ương Ðảng Lao động Việt Nam để thông qua bản Dự thảo cương lĩnh Ðảng về chính sách ruộng đất. Tại hội nghị, Hồ Chí Minh đọc báo cáo đề ra nhiệm vụ triệt để giảm tô, tiến tới “Cải Cách Ruộng Ðất”.
- Tháng 3 năm 1953, Hội đồng Chính phủ họp thảo luận báo cáo của Phó Thủ tướng Phạm Văn Ðồng về mục đích, phương châm, kế hoạch phát động quần chúng. Hội đồng Chính phủ đã thông qua các văn bản về chính sách ruộng đất và phát động quần chúng, tức là đã “luật pháp hóa” nghị quyết của Ðảng.
Từ ngày 01 – 05 tháng 03 năm 1953, báo Nhân Dân đăng tải bài “Chỉnh đốn Chi Bộ” của Ủy viên Bộ chính trị Ðảng Lao động Việt Nam, Trưởng ban tổ chức Trung ương Lê Văn Lương, người trực tiếp phụ trách cuộc Chỉnh đốn tổ chức trong “Cải Cách Ruộng Ðất”.
Ngày 16 tháng 03 năm 1953, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra thông thư về việc chỉnh đốn chính quyền cấp xã qua việc phát động quần chúng. Ðây là những hướng dẫn cho việc gắn liền cuộc Chỉnh đốn tổ chức với “Cải Cách Ruộng Ðất”, với tinh thần “Không dựa vào Tổ chức cũ đã có như các Ủy ban kháng chiến, Chi bộ Ðảng… mà lập nên Tổ chức mới” ở nông thôn !
Qua các khóa huấn luyện gọi là “Cán bộ Cải cách Ruộng đất”, với danh xưng là “Ðoàn”. Chức vụ Ðoàn trưởng tương đương như Bí thư Tỉnh ủy, đặc biệt Ðoàn
trưởng nhận lệnh từ Trung ương và báo cáo thẳng về Trung ương (không qua trung gian bộ máy nhà nước hay Ðảng ở cấp địa phương).
Mỗi Ðoàn gồm có nhiều “Ðội” tùy theo nhu cầu.
Mỗi Ðội gồm có 6 hay 7 Ðội viên. Ðội trưởng được chọn lựa trong số “bần cố nông” hoặc bần nông. Những người này đều đã tham gia vào các cuộc “Cải Cách Ruộng Ðất”, trước đây (1952-1953).
Ðội “Cải Cách Ruộng Ðất” có quyền hành tuyệt đối nên lúc bấy giờ tại miền Bắc có câu “nhất Ðội nhì Trời”.
Ngày 12 tháng 04 năm 1953, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra 3 sắc lệnh:
1. Sắc lệnh quy định chính sách ruộng đất, trong đó có việc tịch thu, trưng thu, trưng mua ruộng đất chia cho nông dân.
2. Sắc lệnh quy định việc thành lập Tòa án nhân dân ở những nơi phát động quần chúng.
3. Sắc lệnh quy định việc trừng trị những địa chủ ở những nơi phát động quần chúng tiến hành “Cải Cách Ruộng Ðất”.
- Ngày 01 tháng 6 năm 1953, báo Nhân dân đăng bài về Chương trình “Cải Cách Ruộng Ðất”.
- Tháng 6 năm 1953, Ðảng Lao động Việt Nam tổ chức cái gọi là “đợt chỉnh huấn chính trị” để nâng cao lập trường giai cấp cho Cán bộ Ðảng viên trong cuộc đấu tranh “Cải Cách Ruộng Ðất”.
- Ngày 14 tháng 11 năm 1953, Hội nghị lần thứ 5 Trung ương Ðảng và Hội nghị toàn quốc của Ðảng Lao động Việt Nam để quyết định tiến hành chính sách “Cải Cách Ruộng Ðất”.
Hồ Chí Minh đã phát biểu ý kiến tại hội nghị và nhấn mạnh: “Phải phóng tay phát động quần chúng tiến hành “Cải Cách Ruộng Ðất””
- Từ ngày 01 – 04 tháng 12 năm 1953, kỳ họp thứ 3 của Quốc hội Khóa 1, Hồ Chí Minh với tư cách Chủ tịch nhà nước, đọc báo cáo “Tình hình trước mắt và nhiệm vụ “Cải Cách Ruộng Ðất”.
- Ngày 04 tháng 12 năm 1953, Quốc hội (bù nhìn) nhất trí thông qua Luật “Cải Cách Ruộng Ðất”. Sau đó Hồ Chí Minh đã ra sắc lệnh ban hành Luật “Cải Cách Ruộng Ðất” do Quốc hội thông qua. Từ đó, bắt đầu các đợt “Cải Cách Ruộng Ðất”, mà đợt đầu tiến hành ở 47 xã tỉnh Thái Nguyên và 6 xã tỉnh Thanh Hóa, sau đó lan tràn trên khắp miền Bắc, trừ các vùng miền núi. Ðợt 5 là đợt cuối cùng, phần lớn diễn ra ở các xã đồng bằng Bắc bộ và các vùng bị Pháp chiếm trước đây. May mắn cho đồng bào miền núi, vì Ðảng Lao động Việt Nam chủ trương sau khi hoàn thành “Cải Cách Ruộng Ðất” ở vùng đồng bằng mới làm ở miền núi. Do sự phẫn nộ của quần chúng đã bùng lên dữ dội, nhiều cuộc nổi dậy của nông dân, nhất là cuộc nổi dậy ở Quỳnh Lưu, Phát Diệm… gây nên cảnh điêu tàn và bất hạnh cho người dân lượng thiện, nên Trung ương Ðảng Lao động Việt Nam chỉ tiến hành cái gọi là “Cải Cách Dân Chủ” ở miền núi, nghĩa là dẹp bỏ phong kiến địa phương, không dùng bạo lực quá mạnh vì sợ dân chúng chạy sang Trung Quốc, Lào… Còn ở huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị, vì nằm sát giới tuyến, tiếp giáp Miền Nam Việt Nam, nên cũng được chiếu cố, nghĩa là dùng bạo lực vừa phải “để không gây ảnh hưởng xấu đến Miền Nam…”
- Tháng 09 năm 1956, Hội nghị lần thứ 10 của Trung ương Ðảng Lao động Việt Nam kiểm điểm tình hình “CảCách Ruộng Ðất”.
Qua ảnh hưởng của Ðại hội lần thứ 20 của Ðảng Cộng sản Liên Xô vạch trần những tội ác của Staline, do sự bất mãn trong quần chúng, cộng thêm sự phản ứng khá mạnh của Cán bộ Trung ương Ðảng, buộc phải thừa nhận những sai lầm nghiêm trọng trong “Cải Cách Ruộng Ðất” và chủtrương sửa sai.
Tại hội nghị, Trung ương đã thi hành kỷ luật như sau:
- Trường Chinh mất chức Tổng bí thư, nhưng vẫn còn là Ủy viên Bộ chính trị.
- Hoàng Quốc Việt mất chức Ủy viên Bộ chính trị.
- Lê Văn Lương mất chức Ủy viên Bộ chính trị.
- Hồ Viết Thắng bị đưa ra khỏi Trung ương Ðảng Lao động Việt Nam.
- Hồ Chí Minh kiêm nhiệm Tổng bí thư Ðảng Lao động Việt Nam.
- Lê Duẫn làm Bí thư thường trực cho Bộ chính trị Trung ương Ðảng Lao động Việt Nam.
Ngày 29 tháng 10 năm 1956, Mít tinh lớn tại Nhà Hát Nhân dân Hà Nội, Ðại tướng Võ Nguyên Giáp, Ủy viên Bộ chính trị Trung ương Ðảng thay mặt Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Ðảng Lao động Việt Nam, chính thức công nhận những sai lầm nghiêm trọng trong “Cải Cách Ruộng Ðất”.
Nhân đây, xin nói rõ sự gian manh, xảo trá của Hồ Chí Minh trong cuộc “Cải Cách Ruộng Ðất” do chính Hồ Chí Minh nhận lệnh từ Staline, Mao Trạch Ðông tại Liên xô. Tất cả đều do Hồ Chí Minh chủ động, vì Hồ Chí Minh nắm giữ tất cả những chức vụ quan trọng như:
- Chủ tịch Ðảng Lao động Việt Nam.
- Chủ tịch Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
- Lãnh tụ tối cao của Ðảng và Chính phủ.
Thế mà khi bị quần chúng phản đối chính sách “Cải Cách Ruộng Ðất” do chính Hồ Chí Minh chủ xướng, thì Hồ Chí Minh lại trốn tránh trách nhiệm và viện lẽ: “Bác đến không tiện”, rồi Hồ Chí Minh đưa Ðại tướng Võ Nguyên Giáp ra “chịu trận” thay mình. Nếu thành công Hồ Chí Minh hưởng trọn, mà thất bại thì đưa người khác ra chịu thay cho mình. Như vậy có xứng đáng là người lãnh đạo hay không ?
Chính vì lý do đó, ở trong nước cho đến nay chưa ai viết về thảm họa của công cuộc “Cải Cách Ruộng Ðất”. Tại sao ? Dễ hiểu là sau khi bị bắt buộc phải thừa nhận những sai lầm trong “Cải Cách Ruộng Ðất”, Hồ Chí Minh,Bộ chính trị Trung ương Ðảng ra lệnh miệng: “Tuyệt đối cấm không được nói đến đề tài này”. Người đầu tiên “vi phạm lời cấm kỵ thiêng liêng đó” là nhà văn Hà Minh Trân, anh đã viết lướt qua rất nhẹ nhàng đến đề tài cấm kỵ đó trong tác phẩm “Vào Ðời”. Tức thì Nguyễn Chí Thanh hô hoán lên là “tư tưởng địa chủ ngóc đầu dậy”, và bị hành hạ một cách tàn nhẫn.
Ngay cả những người phát hiện ra sai lầm trong “Cải Cách Ruộng Ðất” như :
- Vũ Ðình Hòe, Bộ trưởng Tư pháp.
- Luật sư Nguyễn Mạnh Tường, Chủ tịch Hội Luật gia, Ủy viên Trung ương Mặt Trận Liên Việt.
- Ðỗ Ðức Dục, Thứ trưởng Văn hóa…
Tất cả những người này đều bị Hồ Chí Minh trừng trị thẳng tay như sau:
- Vũ Ðình Hòe bị giáng chức Bộ trưởng và xóa bỏ luôn Bộ Tư pháp.
- Luật sư Nguyễn Mạnh Tường bị thải hồi.
- Ðỗ Ðức Dục bị giáng chức.
Từ đó mọi người ai cũng im lặng, “lo giữ cái mạng sống của mình”… Hy vọng rồi đây sẽ có nhiều nhà văn, nhà nghiên cứu trong nước vượt qua nỗi sợ “truyền kiếp”, đề cập đến đề tài đau thương này để các thế hệ sau ghi nhớ tội ác của Hồ Chí Minh.
Nói về những tội ác trong “Cải Cách Ruộng Ðất”, thì không có giấy bút nào để trình bày cho hết và nếu có giấy bút cũng không thể tả hết được sự đau đớn, khổ nhục, tàn ác giữa con người với con người qua cái gọi là “Cải Cách Ruộng Ðất”. Lịch sử Việt Nam kể từ ngày dựng nước và các giai đoạn bị Tàu, Tây đô hộ cũng không có cảnh tượng nào xảy ra như thảm cảnh “Cải Cách Ruộng Ðất” do Hồ Chí Minh chủ xướng.
Ở đây, chỉ lược kê các điểm chính như sau:
1. Hồ Chí Minh sát hại người dân lương thiện rồi bày trò hề sửa sai.
Người nông dân Việt Nam hiền hòa, chất phác, đang làm ăn sinh sống và hết lòng đóng góp vào cuộc kháng chiến chống Pháp. Bỗng dưng Hồ Chí Minh giáng cho họ một đòn chí mạng. Hồ Chí Minh nói rằng “Cải Cách Ruộng Ðất” là một cuộc cách mạng để thực hiện ước mơ muôn đời của nông dân: “Người cày có ruộng”.
Nhưng thực tế thì không phải như vậy, sự thật là nông dân bị đánh một đòn chí mạng ! Tầng lớp người siêng năng, giỏi giang biết làm ăn nhất ở nông thôn thì bị quy là địa chủ, phú nông, thậm chí còn cho là cường hào ác bá, bị triệt hạ hết đường sinh sống và còn một loại cán bộ ở nông thôn đã từng chịu đựng gian khổ, làm nhiệm vụ lãnh đạo kháng chiến, sản xuất… thì bỗng nhiên bị quy là phản động, gián điệp, Việt gian, v.v… bị trừng trị. Nhiều người bị bắn giết vô cùng man rợ.
Ngay cả nhiều người trung nông, thậm chí người nuôi vịt, chăn vịt cũng “bị kích lên” làm địa chủ cho đủ cái tỷ lệ quái gở 5% địa chủ (so với dân số thôn xã!) và họ phải cam chịu cái số phận mà Ðảng Cộng sản dành cho địa chủ. Cái tỷ lệ quái gở 5% đó lại kèm thêm những “kết luận” quái đản khác: Ðã có địa chủ, tất phải có cường hào ác bá ! Thế là người dân chịu chết ! Biết bao nỗi oan khuất không thể nào kể hết. Cái phương châm “thà giết lầm hơn là bỏ sót”, cộng thêm với việc “thi đua lập thành tích đánh phong kiến” đã gây ra tình trạng “kích thành phần”, “nống thành tích” cố tìm ra địa chủ phản động, xử tử nhiều cường hào ác bá… để có được bằng khen, huân chương, hầu ngoi lên địa vị cao hơn… càng làm cho nỗi khổ đau của người dân tăng lên nhiều gấp bội !
Xin dẫn chứng một vài câu chuyện như sau:
Một anh đi làm công tác “Cải Cách Ruộng Ðất” ở Khu 4 kể lại: Hồi đó ai cũng biết danh Chu Văn Biên, Bí thư Khu ủy và Ðặng Thí, Phó Bí thư Khu ủy khét tiếng là người hiếu sát trong “Cải Cách Ruộng Ðất”, họ đều là Trưởng và Phó Ðoàn “Cải Cách Ruộng Ðất”. Thậm chí trong dân gian đã lưu truyền bài vè, trong đó có câu: “Giết người nổi tiếng làThí Biên”.
Anh còn kể thêm chuyện Ðặng Thí đã ký 2 án tử hình trên ghi đong (guidon) xe đạp, như sau:
Một Ðội tới làm công tác “Cải Cách Ruộng Ðất” tại một xã nghèo ở Nghệ An, quê hương của Hồ Chí Minh và Hồ Viết Thắng. Cả Ðội tìm kiếm mãi mà không thể quy cho ai là địa chủ được. Những ai đã từng đến tỉnh này đều biết rõ cảnh nghèo khổ cùng cực của người dân ở đây. Phó Bí thư Ðặng Thí “đả thông tư tưởng” do cố vấn Trung Quốc đã chỉ thị là phải có 5% địa chủ. Ðội “Cải Cách Ruộng Ðất” này sợ bị cấp trên khiển trách, tính ra cả làng từng này hộ, từng ấy nhân khẩu, thì cũng phải kiếm ra được 5 địa chủ. Tưởng thế là xong, nào ngờ khi báo cáo lên cho Ðặng Thí, thì… ông ta liếc mắt qua không thấy có danh sách “lên thớt”, tức là giết . Tiếp đó, ông liền quát mắng cho anh Ðội trưởng một trận nên thân: “Có địa chủ mà không bắn thằng nào cả à ?” Sau đó ném cả tập hồ sơ vào mặt anh Ðội trưởng. Cuối cùng thì Ðội cũng lọc ra được “Hai địa chủ để bắn” và vội vã chạy lên Ðoàn để báo cáo. Giữa đường gặp Ðăng Thí đang đi xe đạp, anh Ðội trưởng liền đưa báo cáo và danh sách xử bắn hai địa chủ. Ðặng Thí vẫn ngồi trên yên xe đạp, chẳng thèm đọc hết nội dụng, đặt đề nghị “xử bắn hai địa chủ” lên ghi đong xe đạp, mở vội xà cột (sacoche), rút bút ký toẹt vào danh sách xử bắn. Xong rồi Ðặng Thí tiếp tục đạp xe đi thẳng.
Một nhân viên làm việc ở Viện khoa học Việt Nam đã đi làm công tác “Cải Cách Ruộng Ðất” kể lại câu chuyện thương tâm dưới đây: Ðội “Cải Cách Ruộng Ðất” mà anh đã tham gia công tác về một làng nghèo ở Thái Bình, không thể nào tìm đâu ra đủ số địa chủ, cũng như không thể có được số 5% cường hào ác bá để bắn. Cả Ðội đều lo sợ ! Thế rồi họ đưa một ông “chăn vịt” vào danh sách xử bắn ! Làng nào cũng giống như nhau, mấy ông “gột vịt” (ấp trứng nuôi vịt con), chẳng bao giờ được dân làng ưa cả, vì lùa vịt con xơi thóc lúa của dân làng mà lại hay to mồm cãi lại, gây gổ… Thế là “đủ yếu tố cấu thành tội phạm”, trong đó có tội “bị dân làng ghét cay ghét đắng”. Ðịa chủ bóc lột thóc của nông dân, vịt cũng ăn cướp thóc lúa của người dân. Nhưng vịt không thể bắn được thì chủ nó phải chịu thay ! Ai ai cũng vui vẻ cả ! Anh bạn ấy cũng biết là sai nhưng không dám mở miệng ra khi “cái máy nghiền thịt“ của Ðảng đang khởi động !
Cho đến nay, không ai biết số người bị quy tội oan, bị tù oan và bị giết oan là bao nhiêu, vì Ðảng Cộng sản giấu tịt đi ! Những con số mà nhiều người đưa ra chỉ là ước đoán. Hồi cuối năm 1956, khi được biết, tôi (Nguyễn Minh Cần, Ủy viên Thường vụ Hà Nội) được Thành ủy Hà Nội giao cho trách nhiệm sửa sai công tác “Cải Cách Ruộng Ðất” ở ngoại thành Hà Nội.
Vì tính cách quan trọng của việc làm đó ở thủ đô, nên ông Võ Nguyên Giáp được Bộ chính trị phân công giúp đỡ phần việc sửa sai ở Hà Nội. Vì thế, thỉnh thoảng theo ông Cần cho biết: Có đến nhà ông Giáp làm việc. Ðôi khi chúng tôi cũng có nói chuyện với nhau về những vấn đề chung chung.
Một hôm tôi hỏi thẳng ông Giáp:
- Trong “Cải Cách Ruộng Ðất” có bao nhiêu người bị oan?
Ông Giáp nói: “Hai vạn” (20.000 người)
Lúc đó tôi không dám hỏi cụ thể hơn. Thế thì bao nhiêu người bị chết oan ? Tôi biết là mình đã đụng đến vấn đề cấm kỵ nhất của Ðảng.
Cho đến nay, tôi không biết con số mà ông Giáp nói với tôi có thật hay không ? Nhưng hôm đó ông trả lời câu hỏ của tôi ngay lập tức, không do dự, không nghĩ ngợi gì cả. Do đó, tôi cũng tin tưởng nơi câu trả lời của ông Giáp là thật.
Còn số người bị hành quyết trong “Cải Cách Ruộng Ðất và Chỉnh đốn Tổ chức” thì tôi ước đoán là chừng năm hay sáu nghìn người. Ðó là chưa kể nhiều người bị chết vì các lý do khác như: tự tử trước khi xét xử, chết vì bị tra khảo, đánh đập khi còn giam cầm ở các thôn xã, chết trong tù, người nhà địa chủ chết đói do bị bao vậy, cô lập trong nhiều ngày không được ăn uống…
Tại cuộc mít tinh tối 29-10-1956, ông Võ Nguyên Giáp chỉ cho biết con số 12 ngàn (12.000) cán bộ và đảng viên đã được trả tự do mà thôi ! Con số đó đúng hay không, ai mà biết được !
Tóm lại, những con số về người bị chết trong “Cải Cách Ruộng Ðất” vẫn chưa xác định được. Dù thế chăng nữa, với những con số ước tính đã cho thấy đây là một tội
ác tày trời. Tội ác này chính là tội chống nhân loại, chẳng kém gì tội diệt chủng !
Còn chuyện “sửa sai” thì cũng chỉ là một lối “tung hỏa mù”, chủ yếu để làm dịu đi phần nào nỗi công phẫn dữ dội của dân chúng, tránh những cuộc bùng nổ bất lợi cho Ðảng mà thôi. Những người đã từng đi làm công tác sửa sai cho biết khá rõ trong vấn đề này. Có nhiều cái sai không thể nào “sửa” được. Bắn giết người ta, làm què quặt thân thể , làm tổn hại tâm thần người ta (có không ít người bị điên, bị
mất trí, bị lẩn thẩn), làm cho gia đình người ta tan vỡ… thì chỉ có Trời chưa chắc sửa được !
Ngay cả những việc tưởng chừng như không khó sửa lắm, nhưng cũng không thể nào sửa nổi. Chẳng hạn, gia đình bị quy là địa chủ, nhà cửa bị tịch thu chia cho mấy hộ nông dân, khi được xét là quy tội oan, phải trả lại nhà cho người chủ cũ. Nhưng, khi biết là phải trả lại nhà, các ông bà nông dân bèn cạy gạch, cạy cửa, dỡ ngói, rút rui mè, cất giấu hết những thứ cần thiết, phá phách gần như tan nát cả
ngôi nhà họ đang chiếm ngụ. Nên cái nhà được trả lại đâcòn nguyên vẹn như trước. Chỉ còn cái xác , ở cũng không được.
Còn các “quả thực” khác khi đã chia rồi thì sửa sai làm sao được ! Thóc lúa, nông dân ăn hết, bán hết rồi (họ khai như thế), nông cụ bị tiêu tán hết (hoặc khai hư hỏng rồi), thìlấy gì mà trả lại cho người chủ cũ. Ðó là không nói đến những quan hệ tình cảm đã bị tổn thương, giữa vợ chồng, giữa anh em, giữa họ hàng, giữa thầy trò, giữa hàng xóm, láng giềng thì chẳng làm gì được. Mọi người đều câm lặng với sự uất hận, căm thù…
Trong sửa sai chỉ có việc trả tự do cho những người bị tù oan. Còn việc khôi phục lại chức vụ cho một số cán bộ đã bị đấu tố, cũng không đơn giản vì quan hệ khá phức tạp giữa cán bộ mới với cán bộ cũ, ân oán còn chồng chất.
Ðể thấy rõ sự gian xảo của Hồ Chí Minh qua hội nghị lần thứ 10 của Trung ương Ðảng Lao động Việt Nam tháng 09 năm 1956, Trung ương Ðảng phải thừa nhận những sai lầm nghiêm trọng trong công tác “Cải Cách Ruộng Ðất”. Nhưng Ðảng đổ lỗi cho cấp dưới đã thi hành sai, chứ Trung ương Ðảng không nghiêm khắc tự phê phán mình. Ðảng vẫn coi “đường lối của Trung ương Ðảng về cơ bản là đúng”, chỉ có “việc tổ chức thực hiện không đúng” mà thôi. Ðảng vẫn khư khư khẳng định: “Cải Cách Ruộng Ðất” dù có sai lầm “nhưng về cơ bản vẫn giành được thắng lợi lớn”. Ðiều đó nói lên sự gian xảo, giả đối, ngụy biện, không thự lòng hối hận của Ðảngï. Như thế thì làm sao mà Ðảng sửa sai cho được ?!
Còn cái gọi là thi hành kỷ luật với các người lãnh đạo “Cải Cách Ruộng Ðất” cũng chỉ là trò hề “giơ cao đánh khẽ” để lừa dối dư luận mà thôi. Như trường hợp Trường Chinh mất ghế Tổng bí thư, nhưng lại vẫn là Ủy viên Bộ chính trị Trung ương Ðảng và được chuyển sang ngồi ghế Chủ tịch Quốc hội, lại phụ trách công tác tư tưởng… Trường Chinh cùng với Tố Hữu bày ra vụ “Nhân Văn Giai Phẩm”
đàn áp quyết liệt anh chị em trí thức ưu tú, khao khát tự do, làm cho bao văn nghệ sĩ tài ba bị tù đày, bị đàn áp, bị treo bút trong hàng mấy chục năm trời… Cũng chính Trường Chinh đã đánh một đòn nặng nề vào nền văn học miền Bắc, làm cho nền Văn học bị thui chột trong nhiều thập niên.
Hoàng Quốc Việt (một người nổi tiếng “ác liệt nhất”, chẳng những trong “Cải Cách Ruộng Ðất” mà trong nhiều vụ trước nữa, chẳng hạn vụ H122 xảy ra trong kháng chiến chống Pháp, Hoàng Quốc Việt phụ trách xét vụ này, đã ra lệnh bắt giam nhiều cán bộ, phần đông là cán bộ quân đội, và làm chết oan nhiều người), bị đưa ra khỏi Bộ chính trị mà lại được giao cho chứcvụ Viện trưởng Viện Kiểm sát Tối cao (đây là chức vụ nắm quyền sinh quyền sát con người).
Lê Văn Lương chịu trách nhiệm về chỉnh đốn tổ chức đã làm cho nhiều cán bộ đảng viên ở xã bị bắn giết, bị tù đày ra khỏi Bộ chính trị thì sau này lại được đưa về làm Bí thư Thành ủy Hà Nội. Một chức vụ quan trọng tại Thủ đô Hà Nội.
Hồ Viết Thắng bị đưa ra khỏi Trung ương Ðảng thì lại cho làm Ủy viên Thường trực Ủy ban Kế hoạch Nhà nước !
Trái lại, người ngoài Ðảng mà dám thẳng thắn phát biểu ý kiến với Ðảng Cộng sản, cho dù nhẹ nhàng chăng nữa, như trường hợp Luật sư Nguyễn Mạnh Tường đọc bài tham luận tại hội nghị Mặt trận Tổ quốc phê phán cuộc “Cải Cách Ruộng Ðất” và đưa ra những đề nghị hợp lý thì bị Ðảng trù dập ông, dồn ông vào cảnh khốn cùng cho đến chết !
Thử hỏi có bao giờ Trung ương Ðảng thành thật hối lỗi về những sai lầm, về những tội ác của mình hay không ? Hồ Chí Minh khéo bày những trò hề !
Chẳng những không biết hối lỗi mà cả cho đến ngày nay, Ðảng Cộng sản vẫn cứ nói lấy được là “Cải Cách Ruộng Ðất” đã giành được thắng lợi lớn: “Thực hiện ước mơ nghìn đời” của nông dân là đem lại ruộng đất cho người cày. Ðây là một sự dối trá trắng trợn. Vì ruộng đất mà nông dân được chia thì một phần đáng kể là của những người bị quy tội oan, khi sửa sai cuối cùng rồi phải trả lại.
Phần ruộng đất chia còn trong tay nông dân, họ chưa kịp được hưởng gì trên mảnh đất được chia đó thì năm 1957- 1958, Hồ Chí Minh và Ðảng Cộng sản đã bắt đầu lùa họ vào hợp tác xã để tập thể hóa nông nghiệp, nghĩa là họ không còn làm chủ ruộng đất của của mình nữa ! Vả lại, xét cho cùng, “đem lại ruộng đất cho người cày” đâu có phải là mối quan tâm chính yếu hay là mục đích tối hậu của Hồ Chí Minh và Ðảng Cộng sản đội lốt (Lao Ðộng). Cho nên đến khi sửa đổi Hiến pháp. Ðảng Cộng sản đã đưa một điều khoản mới trong Hiến pháp, nhẹ nhàng ra lệnh quốc hữu hóa toàn bộ ruộng đất trong cả nước ! Thế thì làm sao có thể nói Hồ Chí Minh và Ðảng Cộng sản “đem lại ruộng đất cho người cày” được?! Quả thật là người nông dân chịu bao nhiêu đau thương, tang tóc để rồi cuối cùng chẳng được gì cả !
2. Hồ Chí Minh phá hoại truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.
Truyền thống hiếu hòa, thương yêu, đùm bọc lẫn nhau ở nông thôn Việt Nam được dân tộc ta xây dựng hàng nghìn năm, đã bị Hồ Chí Minh và Ðảng Cộng sản phá vỡ trong vòng ba, bốn năm “Cải Cách Ruộng Ðất”. Nếu ai đã từng sống ở nông thôn Việt Nam trước “khi Hồ Chí Minh xuất hiện”, trước “Cải Cách Ruộng Ðất” đều cảm nhận cái tinh thần “đùm bọc nhau”, “lá lành đùm lá rách” còn khá đậm đà trong mối quan hệ giữa người với người, nên có câu:
“Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng”.
Cố nhiên, không ai nói là ở các làng quê không có những kẻ bóc lột, nhưng tinh thần chung ở nông thôn ta là như vậy. Với cái chính sách “phân định thành phần giai cấp”, Ðảng Cộng sản chia cư dân nông thôn thành:
- Cố nông, bần nông, trung nông (có ba loại: trung nông yếu, trung nông vừa, trung nông cứng).
- Phú nông (có hai loại: phú nông thường, phú nông ngấp nghé địa chủ).
* Ðây là “sáng kiến” của người chấp hành để khi cần thì dễ “kích” họ lên hàng địa chủ, cho đủ số quy định 5%.
- Ðịa chủ (có mấy loại: địa chủ yêu nước và kháng chiến, địa chủ thường, địa chủ cường hào ác bá, địa chủ phản động).
Sự phân chia có vẻ “khoa học” lắm, nhưng khi thực hiện thì tất cả đều do cảm tính chủ quan, do nhu cầu của “đội” (khi thượng cấp bắt phải đủ số 5% địa chủ, bắt phải có cường hào ác bá, phản động để bắn, thì cứ phải kích “kích” lên cho đủ số), do ý muốn chủ quan của “ông đội” (nhiều khi ý muốn đó rất quái đản, thấy thái độ của đương sự có vẻ ngang bướng thì cứ “kích” lên cho bõ ghét). Về nguyên tắc, muốn phân định thành phần thì phải “tố khổ”, phải “tố” nhau, vạch nhau ra để “xếp” thành phần. Với lối xúi giục, cưỡng ép người dân tố giác lẫn nhau rất phổ biến trong “Cải Cách Ruộng Ðất”, nên từ đó họ chia rẽ nhau, thù ghét nhau, oán hận nhau.
Cũng có nhiều người lúc đầu không muốn “tố” ai hết vì không muốn làm trái lương tâm, nhưng ai không chịu “tố” thì bị Ðội “Cải Cách Ruộng Ðất” coi là chưa “dứt khoát”, có liên quan”, v.v… cuối cùng thì ai cũng phải tham gia vào cuộc “tố” lẫn nhau để giữ mạng mình.
Ðây là số đông. Nhưng cũng có không ít những kẻ hoặc vì tư thù, hoặc vì muốn trục lợi, “tố điêu”, “tố láo” để ngoi lên làm “rễ”, làm “cốt cán”, làm “cán bộ”, để được chia “quả thực” nhiều hơn. Mà thường cái đám người này nghèo túng vì lười biếng, vì rượu chè, cờ bạc, có khi là những phần tử lưu manh, nhưng thường lại được “Ðội Cải Cách” coi như là bần cố nông để dựa, o bế, sử dụng nhằm… hoàn thành nhiệm vụ của Ðội.
Một điều kỳ quái cần nêu lên là: Mọi lời “tố” của nông dân đều không cần bằng chứng, hơn nữa mọi lời “tố” của họ đều được coi là bằng chứng, đều được ghi vào hồ sơ tội trạng! Không cần có bất cứ một sự kiểm chứng nào hết ! “Lý luận” của Ðảng là “phải tin tưởng ở quần chúng”, “nông dân lao động đã nói là đúng”.
Thế là không còn ai cãi được nữa ! Chính vì thế, khi Ðội cần “đánh vào” Bí thư hay Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến trước ở vùng tạm bị chiếm, nay bị coi là tổ chức cũ, mà có một ai đó “tố” là “chúng nó họp Quốc Dân Ðảng” thì bị “lên hồ sơ” ngay là “Bí thư Quốc Dân Ðảng”, và người đó khó tránh khỏi cái án tử hình !
Một nông dân “tố” một người bị “kích” lên địa chủ là “hồi kháng chiến, khi máy bay địch tới, tôi thấy hắn nhìn lên trời và chỉ trỏ cái gì đó”, tức thì bị quy tội ngay là “gián điệp” và số phận người đó coi như là “đi đứt” !
Có thể là thế hệ mới lớn lên, nhất là những người đang sống ở các nước dân chủ tiên tiến, thì khó mà tin là đã có những chuyện như thế. Khốn thay đó lại là sự thật đắng cay đã từng xảy ra trong thời kỳ Hồ Chí Minh xuất hiện cầm quyền ở Việt Nam.
Tóm lại, “Cải Cách Ruộng Ðất” làm cho nội bộ nông dân chia rẽ trầm trọng, làng xóm đảo lộn lung tung ! Ðến khi Ðảng Cộng sản tuyên bố sửa sai thì tình hình nông thôn lại cực kỳ hỗn loạn: Những vụ ấu đả, đâm chém, trả thù nhau giữa những người bị “tố oan” với những kẻ “tố điêu”, giữa những người bị tước đoạt tài sản với những người được hưởng “quả thực”, giữa cán bộ cũ bị quy kết tội phản động và bị tù tội với cán bộ mới “ngoi lên” trong “Cải Cách Ruộng Ðất”…
Di sản nghìn năm rất đáng quý mà cha ông ta để lại là tinh thần đùm bọc, hòa hiếu nhau của người dân nông thôn miền Bắc đã bị phá hủy từ ngày “Cải Cách Ruộng Ðất”. Ðó là tội ác của Hồ Chí Minh (Cộng sản). 
3. Hồ Chí Minh đảo lộn luân thường đạo lý của dân tộc Việt Nam.
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam chưa bao giờ luân thường đạo lý làm người bị đảo điên một cách quái đản như trong “Cải Cách Ruộng Ðất”.
Các Ðội “Cải Cách Ruộng Ðất” không từ bỏ một thủ đoạn độc ác nào cả để “tìm ra địa chủ”, “tìm ra phản động”, “tìm ra của chìm, của nổi”. Họ ép buộc con cái “đấu tố” cha mẹ, con dâu “đấu tố” cha mẹ chồng, con rể “đấu tố” cha mẹ vợ, vợ “đấu tố” chồng, anh em “đấu tố” lẫn nhau, trò “đấu tố” thầy, kẻ hàm ơn “đấu tố” người đã làm ơn, láng giềng hàng xóm “đấu tố” lẫn nhau… Thật là một thảm cảnh bi kịch hãi hùng !
“Cải Cách Ruộng Ðất” Hồ Chí Minh (Cộng sản) đã đảo lộn luân thường đạo lý của dân tộc Việt Nam. Một bài thơ diển hình về “Cải Cách Ruộng Ðất” đã cho thấy được cái cảnh con tố cha, vợ tố chồng như thế nào. Ðây là lời của một người ở ngoại thành Hà Nội bị đấu tố, tên ông ta là Bảy Dân ở Thái Hà, Thi Sĩ Vô Danh chứng kiến cuộc đấu tố đó vào năm 1955, sau đó được ghi lại thành thơ. Dù bị cấm, nhưng trong cuốn sách về Kinh Tế Việt Nam từ 1950 đến năm 2000, in tại Hà Nội. Cộng sản thú nhận số nạn nhân bị bắn chết, bị tù đầy chết trong “Cải Cách Ruộng Ðất” là 170,005 người.
Số 170.005 người ! Ðây chỉ là con số chính thức do Hà Nội thú nhận. Nhân đây, xin ghi lại nội dung bài thơ của người Cha bị con gái đấu tố :
Ðược nghe bà kể khổ
Con thấy đời con thực là đáng chết !
Con đi bóc lột để nuôi bà
Con bây giờ không dám nhận là cha
Dù bà là do con đẻ ra
Con, thành phần địa chủ thối tha
Trước Nhân dân, trước Ðảng, trước Bà
Xin thành khẩn cúi đầu chịu tội !”
Ðó là lời một cụ đồ ở ngoại thành Hà Nội
Trước đấu trường giăng giối với con.
Còn có lời giăng giối nào thấm thiết, cay chua đến như thế không ? Một ông đồ, biểu tượng của đạo đức xã hội Việt Nam, mà phải làm một cái việc vô luân, phải xưng con với con mình. Ðó là cái thảm cảnh mà người dân miền Bắc đã trải qua trong “Cải Cách Ruộng Ðất”.
Những người bị quy là địa chủ ngay lập tức bị tước mọi quyền làm người, bị hạ nhục, bị chà đạp, ngay lập tức phải thay đổi cách xưng hô trước nông dân, phải cúi đầu lễ phép “thưa các ông, các bà nông dân”, phải xưng “con” trước mặt nông dân, dù đó chỉ là một đứa trẻ con. Còn nông dân thì tha hồ gọi người kia là “thằng kia”, “mụ kia”, “con kia”, là “mày”, “chúng bay” và tự xưng là “tao”, “chúng tao”,
thậm chí có thể chửi mắng, xỉ vả…
Chẳng ai dám làm trái lại cái “lệ mới” đó. Ðội tuyên bố phải đối xử như thế mới “nâng cao uy thế nông dân”, mới “đánh gục giai cấp địa chủ” được ! Không làm thế là “binh địa chủ”, “mất lập trường giai cấp”, thậm chí “có liên quan với địa chủ” ! Ngay cả đứa bé con cũng có thể mắng mỏ, sỉ nhục người lớn đã bị quy là địa chủ.
Những người này, dù là thứ bậc thế nào trong họ tộc, cũng đều bị bà con họ tộc xa lánh, để không “bị liên quan” mong tìm sự sống cho bản thân.
Còn khi hành quyết người bị án tử hình thì những người thân thích, ruột thịt của người ấy, từ già cả cho đến trẻ con, đều bắt buộc phải có mặt để chứng kiến tận mắt cảnh tượng đó ! Ðúng là sự khủng bố tinh thần cực kỳ vô nhân đạo !
Một tình trạng thương tâm nữa là nhiều gia đình ở nông thôn (và cả ở thành phố có liên hệ với nông thôn) đã tan vỡ, con cái bơ vơ, vì khi một trong hai người có gia đình bị quy (hoặc bị kích lên) thành phần địa chủ, bị gán tội phản động, thì bên kia, tức là vợ hay chồng, sợ liên lụy phải bỏ nhau. Nhiều người đi lập gia đình khác, có con hoặc chưa có con với chồng hay vợ mới. Ðến sau này thấy sai, người bị bắt đi
tù nay được trở về, thế là bao nhiêu chuyện rắc rối xảy ra đến nỗi Bộ tư pháp Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải ra thông tư ngày 19-04-1956 để “giải quyết những vụ vợ chồng bỏ nhau”. Thật là mỉa mai, người ta cho rằng có thể hàn gắn được tình cảm yêu thương trong gia đình đã bị thương tổn nặng nề bằng một tờ thông tư vô hồn của Bộ tư pháp ! Tình yêu của nam nữ cũng bị xâm phạm nghiêm trọng giống hệtnhư thế. Ðể giữ lập trường giai cấp ai cũng phải cắt đứt với người yêu thuộc thành phần địa chủ, phản động !
Một tai họa, một vết nhơ về đạo đức cần phải nói đến. Chưa bao giờ sự giả dối trắng trợn được đề cao như trong “Cải Cách Ruộng Ðất”.
Chẳng cần phải nói tới việc các “anh Ðội”, “chị Ðội” báo cáo láo cho Ðoàn, vì nó quá thường, mà cái cần vạch ra ở đây chính là người ta ép buộc, khuyến khích người nông dân nói dối, làm láo. Dần dà rồi người nông dân cũng thấy cần phải nói dối, làm láo để “qua khỏi cái tai họa trong Cải Cách Ruộng Ðất”, họ cũng “tố bậy”, “tố điêu” dù trong thâm tâm biết mình đang nói dối, vu khống. Cũng có người cố giữ lương tâm trong sạch, nhưng thường họ phải trả giá đắt cho điều đó. Cho nên cơn dịch dối trá cứ lan tràn. Ðội cũng dạy thêm cho nông dân quen làm những việc giả đối, chẳng hạn như dặn họ:
Khi thấy trên màn ảnh xuất hiện hình địa chủ thì phải hô “đả đảo”, hay vừa hô vừa ném đá vào hình địa chủ để tỏ sự uất hận của mình. Thế là nông dân cũng làm theo. Tất nhiên, cũng không loại trừ cái hiện tượng gọi là “tâm lý đám đông”, khi người ta hành động như trong một cơn lên đồng tập thể. Chẳng hạn, mỗi lần chiếu phim “Bạch Mao Nữ” của Trung Quốc, thì có nhiều người khóc nức nở, và khi xuất hiện hình địa chủ là bên dưới ào ào ném đá vào màn ảnh. Chính vì thế, các diễn viên kịch thường từ chối lên sân khấu đóng vai địa chủ vì sợ vỡ đầu sứt trán.
Chủ trương của Hồ Chí Minh qua Ủy ban Cải cách Ruộng đất Trung ương là trong các cuộc đấu tố địa chủ, nhất là địa chủ cường hào ác bá đều phải chuẩn bị rất chu đáo để ra “đấu trường” không được vấp váp. Thế là trước ngày đấu, mọi “rễ”, “chuỗi”, Dân quân, Công an, Tòa án, Chủ tịch Ðoàn… đều phải “diễn tập” như thật, ai lên “đấu” trước, ai lên “đấu” sau, “tố” thế nào, xỉa xói ra sao, nói gì, khi nào người “tố” phải cảm động khóc lóc, khi nào người dân phải hô “đả đảo” (khi người bị “tố” không nhận tội…), lúc nào thì bắt địa chủ quỳ (quỳ là biểu hiện của sự “bị đánh gục”!), lúc nào thì “hoan hô” (khi tòa tuyên án tử hình, tịch thu tài sản…).
Chủ tịch Ðoàn, những cuộc đấu lớn đều là “rễ”, “chuỗi”, cốt cán mới đào tạo trong vài tháng, nói năng ngượng nghịu, không rõ ràng, lúng túng, điều khiển không được, nên khi ra “đấu trường”, thường “anh Ðội”, “chị Ðội” phải ngồi sau lưng
nhắc, như người nhắc tuồng (souffleur) ở rạp hát ! Cũng có khi nhắc mãi không được, Chủ tịch Ðoàn cuống lên, thì “anh Ðội” giật micro và điều khiển luôn cuộc đấu tố.
Tóm lại, một sự diễn kịch, một trò giả dối lố bịch, trắng trợn, mà không hề không biết ngượng ! Nhưng cái nguy hại chính là sự giả dối đó cứ thấm dần vào tiềm thức cán bộ và người dân, tạo nên một nếp sống giả dối vô đạo đức của nhiều người trong xã hội miền Bắc
Nguyễn Thuyên

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét