Thứ Sáu, 23 tháng 8, 2013

CÕI THƠ BÙI GIÁNG


Ký Tế,

Nhà thơ Bùi Giáng xuất hiện trong nền thơ ca Việt Nam như một hiện tượng kỳ lạ và độc đáo. Suốt trong mấy mươi năm nhiều tác giả trong và ngoài nước viết bình thơ Bùi Giáng. Những chuyện đời của Bùi Giáng đôi khi trở thành giai thoại. Bùi Giáng sống những năm tháng ngao du, lang thang trên các đường phố Sài Gòn. Người ta từng gặp Bùi Giáng với hình hài người điên, quần áo đủ màu sắc, đôi khi say ngất ngưởng, ngủ bên lề đường dưới bóng cây xanh

Các anh trong Nhóm Thi Ca München hâm mộ Bùi Giáng như một thần tượng, cách đây mấy năm trong dịp về Sài Gòn, có anh đến thăm nhà Bùi Giáng nhưng ông đã qua đời. Cháu Bùi Giáng đưa các anh đi viếng mộ, đốt nén nhang thơm tưởng niệm người thi sĩ tài ba. Ai đã đọc thơ Bùi Giáng hoặc nghe những chuyện về con người kỳ dị này chắc chắn sẽ bị cuốn hút. Một hiện tượng độc đáo đến hy hữu trong đời sống Văn Học Việt Nam. (mộ Bùi Giáng)
Nhóm Thi Ca yêu cầu tôi nói về thơ Bùi Giáng để góp mặt vào đêm thơ nhạc. Thưa quý vị tôi cùng quê hương Quảng Nam, nhưng chưa hiểu Bùi Giáng bằng những người đã yêu thơ của ông. Tôi từng gặp Bùi Giáng một vài lần, trước ngày 30.4 nhiều người vội vã bỏ quê hương chạy trốn CS, Bùi Giáng lang thang trên đường Phố Sài Gòn rối loạn, thân hình Bùi Giáng ốm yếu nhưng ông cõng trên lưng một viên đá, ông không muốn rời bỏ quê hương, nhưng viên đá biểu tượng cái khổ cực sẽ đè lên dân tộc Việt Nam. Sau 1975 Bùi Giáng điên loạn hơn, có thể Bùi Giáng sung sướng nhất vì điên, từng đứng trước Đại Học Vạn Hạnh chửi người tịch thu trường nầy. „Có lần Bùi Giáng đi bụi đời rồi nằm ngủ đêm trong chợ Trương Minh Giảng. Công an bắt Bùi Giáng phường, Bùi Giáng la to lên giữa chợ: Cụ Hồ hồi đi làm cách mạng, ngủ dọc đường xó chợ, ngủ bờ ngủ bụi, đã không bị ai bắt, sau này còn được tiếng dấn thân gian khổ làm cách mạng cứu nước, còn tôi theo gương Cụ thì bị mấy ông Công an này bắt bớ làm tội làm tình. Bớ Cụ Hồ ơi! Con cháu Cụ đã bắt tôi đây này! Bớ Cụ Hồ ơi! Cụ Hồ! Cụ Hồ ơi!”. Từ năm 1975 có nhiều người điên, điên trong cô đơn, điên trong trại cải tạo không được nhắc tới. Ông Nhất Thanh từng luận về Bùi Giáng:

-Ồ, chẳng có ngôn từ nào thích hợp với Bùi Giáng cả. Ông chỉ là một ông già bình thường nhất, dễ thương nhất. Nếu có điên chăng, có lẽ là tất cả chúng ta.

 Nhà văn Đào Hiếu viết:

-Cũng có thể hiểu Bùi Giáng như thế này: Ông coi đời là hữu hạn, là phi lý, là chốn lưu đày, là cõi phù du, là cái mớ bòng bong vớ vẩn….

Chúng ta thử đi vào cõi thơ của Bùi Giáng, để có thể xác định được cuộc đời của thi nhân một thời vang bóng trên thi đàn miền Nam trước 1975. Nhà văn Mai Thảo đã ca tụng:

-Cõi thơ Bùi Giáng lúc bấy giờ ào ạt, vỡ bờ, bát ngát trường giang mênh mông. Bùi Giáng ngủ ra thơ, thở ra thơ, đi ra thơ, đứng ra thơ……….

Thân thế và sự nghiệp


Bùi Giáng là tên thật, tuy nhiên cũng có vài bút hiệu nói lái khác như Bán Dùi, Bàng Giúi. Xuất thân gia đình vọng tộc, giàu có, sinh ngày 17/12/1926 tại làng Thanh Châu xã Vĩnh Trinh, Duy Xuyên, Quảng Nam. Bùi Giáng là con thứ 5, thân phụ là ông Bùi Thuyên, mẹ Huỳnh Thị Kiền. Bùi Giáng bà con với Bác sĩ Bùi Kiến Tín là người bào chế dầu khuynh diệp với nhãn hiệu Khuynh Diệp BS Tín trước 1975. Trong thời gian kháng chiến chống Pháp, Bùi Giáng cũng theo kháng chiến trên khắp nẻo đường quê hương. Năm 1945, ông cưới vợ trẻ đẹp nhưng bạc mệnh là bà Phạm thị Ninh, sinh trưởng trong một gia đình công chức khá giả, con gái của ông bà Phán Trai, ở gần Chùa Cầu, Hội An

Theo dư luận khoảng năm 1948, Bùi Giáng dọn nhà, lên Trung Phước vùng thung lũng đồi núi chăn dê, ông nuôi dê để chơi thôi không bán, cũng không làm thịt dê để nhậu. Ông rất yêu những con dê, ông đặt cho mỗi con một cái tên, rất kỳ lạ (người em vợ kể lại). Bùi Giáng rất thương vợ, sáng nào ông cũng vắt một bát sữa dê đem chưng cho vợ uống. Đinh mệnh an bài không tránh khỏi kiếp hồng nhan bạc mệnh, năm 1948 bà Ninh bị bệnh sanh non nên cả mẹ con đều qua đời. Từ đó ông không lập gia đình. Sau này Bùi Giáng xuất bản Thi Tập Mưa Nguồn có bài Nỗi lòng Tô Vũ dài 60 câu, nhắc lại kỷ niệm khoảng thời gian chăn dê:

Thôi từ nay tha hồ em mặc sức
Nhảy múa tung sườn núi vút giòng khe
Thôi từ nay em tha hồ mặc sức
Vang vang lên đồi núi giọng be be
Em nhớ hay không hồn hoa dại cỏ 
Những ngậm ngùi đầu núi canh khuya
Vàng cao gót nai đầu buông hãi sợ 
Gió cây rung trút lá mộng tan lìa…
Anh nằm xuống để nhìn lên cho thỏa
Anh thấy lòng mở rộng đón trời xanh
Chìm ngây ngất vào trong đôi mắt lả
Anh lim dim cho chết lịm hồn mình,
Cây lá bốn bên song song từng lứa
Sánh đôi nhau như ứa lệ ngàn ngàn
Hạnh phúc trời với đất mang mang


Bùi Giáng chăn dê thời gian ngắn, không giống như Tô Vũ bên Trung Hoa 100 năm trước công nguyên vua Hán Vũ Đế sai Tô Vũ đi sứ sang Hung Nô, vì sự bất hoà giữa hai nước Tô Vũ sứ thần nhà Hán bị Hung Nô giam giữ đưa đi chăn dê ở vùng Bắc Hải nay là hồ Baykal. Những ngày Bùi Giáng lặng lẽ lùa dê vào núi, vui chơi thiên nhiên suối nước, Bùi Giáng gửi đàn dê lại cho “chuồn chuồn, châu chấu”……

Bùi Giáng vào Sài Gòn, người miền Nam gọi ông là Sáu Giáng.(người Nam gọi người con đầu là anh chị thứ hai) Bùi Giáng cũng tỏ ra thích thú với tên gọi này. Bùi Giáng ghi danh học Đại học Văn Khoa Sài Gòn, một thời gian thì chán không đến trường, ở nhà tự học nghiên cứu dịch sách, dạy Pháp Văn và Việt Văn cho nhiều trường Tư Thục và làm thơ đăng báo. Thời gian dạy học, ông đã soạn sách giáo khoa, do nhà Tân Việt ấn hành,

Năm 1956: Bà Huyện Thanh Quan, Lục vân Tiên, Chinh phụ Ngâm, Quan Âm Thị Kính
 Năm 1957: Truyện Kiều, Truyện Phan Trần, Cung Oán Ngâm Khúc, Nguyễn Công Trứ
 Năm 1958: Tản Đà, Chu Mạnh Trinh, Tôn Thọ Tường và Phan Văn Trị… vv

Bùi Giáng thông thạo các ngôn ngữ Pháp, Anh, Hán văn, và tự học tiếng Đức 6 tháng, đọc và dịch sách của triết gia Martin Heidegger. Bùi Giáng là một thiên tài, chúng ta sống lâu năm ở Đức chưa chắc dịch được tác phẩm lưu loát như Bùi Giáng. Văn nghiệp của ông thật đồ sộ và đa dạng. Tác phẩm của ông có thể chia làm 5 loại:

-Giảng luận văn chương
 -Triết học
 -Dịch văn chương (Pháp-Anh- Hán Văn)
 -Thơ văn biên khảo
 -Thêm một số tác phẩm hội hoạ dù không nổi bật.

Con người tài hoa của Bùi Giáng có những cảm xúc tuôn trào như một dòng suối chảy, ông đã sống cho riêng mình một cõi mộng. Bùi Giáng rong chơi, cứ phiêu bồng lãng du mà vẫn có ngay nghìn câu một buổi. Ðúng là ngủ ra thơ, thở ra thơ, uống bia hút thuốc lá ra thơ. Mà thơ không ai sánh bằng, thơ không ai đuổi kịp. Trong thời gian dạy các trường tư thục, có nhiều chuyện thật của Bùi Giáng xảy ra trong giờ giảng dạy. Bùi Giáng rất yêu quý truyện Kiều của Nguyễn Du. Thông cảm tâm trạng của nàng Kiều tài sắc vẹn toàn, nhưng không tránh được thuyết tài mệnh tương đố „Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen„ hay “chữ tài liền với chữ tai một vần“. Khi giảng đến đoạn nàng Kiều phải bán mình chuộc cha để rồi phải mất 15 năm lưu lạc, Bùi Giáng đã khóc nức nở ngay giữa lớp học. Có lẽ nước mắt cũng không làm ông nguôi bớt, nỗi cảm thương người con gái tài hoa bạc mệnh Thúy Kiều. Từ đó không trường nào dám mời Bùi Giáng dạy học…Cuộc đời của Bùi Giáng đã tạo ra khá nhiều huyền thoại và giai nhân…


Thời gian trôi qua, bão giông đời lắng dịu, giờ đây nghe lại một chút tâm tình, với tiếng nói thiết tha lời thơ trong tập Mưa Nguồn xuất bản 1964, là tiếng thơ thiết tha với hoa đồng cỏ nội

Én đầu xuân, tuyết đầu đông

Rừng cô tịch ngóng nội đồng trổ hoa

Bùi Giáng ở miền trung du xứ Quảng, hàng năm thường xảy ra những cơn nước lũ trên thượng nguồn chảy về xuôi. Những dòng nước đục tràn ngập ruộng vườn làm cảnh vật thêm tiêu điều

Một bờ dương xếp bến sau

Nước vần vũ đục nghe đau lá vườn

hay

Em về ở lại đây thôi
 Nghe mùa nước lũ nguồn trôi phăng đồng
 Một trăm cây lá bên rừng
 Gửi trong tiếng vọng xa chừng ngàn mây
 Mười con xóm nhỏ bên này
 Nhắc nhau nhớ lại cái ngày bên kia

(Tiếng vọng)

Nhớ lại những ngày nước lênh đênh, trôi dạt qua làng bên tránh nước ngập cùng cô thôn nữ, như mênh mông của rừng suối, huyền bí của sương mây?

Người xuống theo dòng trôi nước lũ
 Màu sim màu móc núi sương mây
 Suối đá gập ghềnh hôm sớm tụ
 khói mù mịt thổi xuống đồi cây
 (Người xuống)

Người dân quê Việt Nam, nhất là người Quảng Nam, luôn chịu khó làm việc không quản ngại nắng mưa đổi mùa, sống trọn vẹn vui buồn cùng thiên nhiên, mồ hôi đổ xuống luống cày và kết tinh thành những lời ca dao tha thiết. Tâm hồn Bùi Giáng vẫn là tâm hồn của người nông dân chân chất, nên lời thơ ông vẫn mênh mang như ca dao trên đồng lúa quê hương

Một tiếng nói một nụ cười chợt tắt
 hết mấy phen buồn trở lại bên đời
 đồng ruộng cũ màu trôi trong cỏ nhặt
 Dưới bình minh rạ xám gốc trơ phơi
 (Người đi đâu)

Thi tập Mưa Nguồn với nhiều hình ảnh đẹp, là một tác phẩm tuyệt mỹ giai nhân

Những nhành mai sớm sương bên lá
 Những nhành liễu chiều gió bên cây
 Cũng lay lất bởi đời xuân em ạ
 Thế nên chi anh cũng viết dòng này
 …………….
 Muà xuân hẹn thu về em trở lại
 Ta nhìn nhau trong bóng nước mơ màng
 Nước chảy mãi bởi vì xuân trở lại
 với dòng trong em hẹn ở bên đường
 Ta sẽ đợi nghe đời em kể lại
 Thưở xưa kia..bờ nước ấy xưa kia
 Ta sẽ đợi nghe đời em nói mãi
 Bên đời đi còn giữ mãi hay không
 Giòng bất tuyệt xanh ngần xuân thơ dại
 Sầu hoang vu vĩnh hạ vọng non hồng
 (Mưa nguồn)

Bùi Giáng nhìn không gian, thời gian hòa tan trong viễn tượng mênh mang. Theo dư luận, Bùi Giáng một thời đã yêu nữ nghệ sĩ Kim Cương, được Kim Cương tặng cái kính lão, suốt ngày lang thang Bùi Giáng làm bể một mặt kính nhưng vẫn đeo để khóc người một con mắt.

Bỏ người yêu bỏ bóng ma
 Bỏ hình hài của tiên nga trên trời
 Bây giờ riêng đối diện tôi
 Còn hai con mắt khóc người một con…

……………
Những nhịp bước bên đường còn dội mãi
 Vang về đâu không vọng lại hồi âm
 Của réo rắt riêng một lần mãi mãi
 Gió phương trời ủ mộng giữa hoa tâm

………….
 Mù sa thấp rừng mai xưa lỡ hẹn
 Xuống thôn làng ngó lá rụng ven khe
 Mùa tháng chạp chim trời xa lỡ hẹn
 Với sông Thu từ một buổi bay về

 
Bùi Giáng đón nhận mọi viễn tượng kỳ diệu của thiên nhiên trở thành lẽ sống trong cô đơn, thơ ông có cái thăng hoa đơn giản và cũng lắm triết lý cao xa vời vợi. Bùi Giáng với quan niệm: “Nếu ta không thực hiện nổi cội nguồn trường mộng ở nội tâm, thì triết học không thể nào tiếp xúc được với căn cơ chân chính của nó, dù ta có líu lo trong học hiệu phù hoa“ (M.Heidegger và Tư tưởng hiện đại, tập 1).

Mây đứng lại chân trời phủ khói
 Dòng sông đi đò bến đợi ngu ngơ
 Chiều trời đẹp tâm tình em không nói
 Đất với trời chung một nghĩa bơ vơ

 (Không đủ gọi một lần)

 Bờ mây trắng dựng cuối trời bóng dáng
 Của ban sơ hoài vọng giữa nhân gian
 Lòng vạn vật mơ màng chiều qua sáng
 Em về nhanh cho mây trắng buông màn

(Bờ mây)

Mưa Nguồn là tập thơ đầu tay và giá trị nhất của Bùi Giáng. Liên tiếp, năm sau là 4 thi phẩm: Lá Hoa Cồn, Ngàn Thu Rớt Hột, Màu Hoa Trên Ngàn, Sa Mạc Trường Ca. Từ năm 1966, Bùi Giáng dịch rất nhiều tác phẩm Văn Học của các nhà văn nổi tiếng, các tác phẩm của Saint Exupéry, Shakespear, Albert Camus, André Gide. Nhà văn Nguyễn Quyết Thắng đã liệt kê theo thứ tự các sách được in tới năm 1972 có tất cả 55 tác phẩm. Hiện nay còn khoảng 10 tập thơ và nhiều văn bản dịch, chưa in..Nói về số lượng, ông là một tác giả có tác phẩm in ra đứng vào hàng kỷ lục ở miền Nam. Năm 1972 ông in khá nhiều sách: Đường đi trong rừng; Lời cố quận; Lễ hội tháng ba; Con đường ngã ba; Bước đi của tư tưởng; Bài ca quần đảo; Hoàng tử Bé; Mùi hương xuân sắc.

Le petit Prince, một trong những cuốn tiểu thuyết bất hủ Saint Exupéry, Bùi Giáng dịch với tên Hoàng tử bé. Làm cho độc giả qua nhiều thế hệ, đã yêu mến Hoàng tử bé qua lời dịch lả lướt của Bùi Giáng. Trong Ngày Tháng Ngao Du, ông kể: “Hồi nhỏ, tôi được sanh ra và lớn lên trong miền quê hẻo lánh. Chung quanh có ruộng đồng sông núi trùng điệp, những đám cỏ chạy suốt tuổi thơ. Làng tôi xưa kia có nhiều cỏ mọc, cỏ mọc từ trong làng ra ngoài ruộng, tới những cồn, gò, đồi núi thật xanh. Từ đó về sau, tôi tìm kiếm mãi một màu xanh không còn nữa vì những trái bom và hòn đạn khổng lồ………(Hình trắng đen của Kim Cương & Biù Giáng)

Cuộc chiến kéo dài hơn 20 năm ngày trở về quê không còn lối. Bùi Giáng thuê nhà ở Sài Gòn, trong ngõ hẻm đường Phan Thanh Giản chẳng may tai nạn hỏa hoạn thiêu rụi căn gác mất nhiều tài liệu sách, Pháp, Anh, Đức…và nhiều bản thảo. Hỏa hoạn đó làm cho Bùi Giáng đau khổ, nổi cơn điên được gia đình đưa vào dưỡng trí viện Biên Hòa đầu tháng 5.1969. Theo các bác sĩ của viện: “Người cầm bút cô độc này, bịnh đã chuyển từ cuồng nhẹ sang cuồng nặng” Bùi Giáng sống không cần đời. Có tiền nhuận bút, ông ra chợ Cũ ở đường Hàm Nghi mua khỉ, chó nuôi từng đàn. Có người đã phê bình sách dịch của Bùi Giáng rất lả lướt, nhưng cũng có lúc lạc đề; thay vì của tác giả, ông viết về quan niệm sống của chính mình?

Ra khỏi dưỡng trí viện, Bùi Giáng sống lang thang nay đây mai đó. Từ đầu năm 1973, ông dọn đến Đại Học Vạn Hạnh, đường Trương Minh Giảng, có phòng riêng ở lầu 3. Ăn ngủ đó, ngao du trên hè phố bất kể nắng mưa. Thân hữu và gia đình xuất bản sách cho ông. Sau 1975 bệnh điên trầm trọng thêm, không được phép ở trong nội xá Đại Học Vạn Hạnh. Sống nhờ bạn bè thân nhân, có lúc ở nhờ Chùa Già Lam, xóm Gà Gia Định. Từ 1985 về ở với người cháu rể gọi ông bằng bác là anh Nguyễn Thanh Hoài giúp Bùi Giáng an dưỡng và sáng tác, đến ngày cuối đời. Năm 1976 Ông về thăm lại Quảng Nam mảnh đất của “tình biển nghĩa sông“ khi ông đã 71 tuổi với bài tâm sự.

Non nửa thế kỷ xa quê
 Mà chưa có dịp về quê một lần
 Bảy mươi mốt tuổi tần ngần
 Về Trung biết chốn nào tìm
 Lại ngôi nhà cũ láng giềng đã qua?
 Giật mình lúc chợt nghĩ ra
 Rằng toàn thân thuộc đã qua đời rồi!

 Cuộc đời rong chơi bất tận, dù ở lại trên cõi đời nầy hay đi về bên kia thế giới, nhà thơ Bùi Giáng cảm thấy đủ vui buồn. Năm 1995, 15 tác phẩm của Bùi Giáng được phép in và tái bản các sách dịch.

Ngày sẽ hết tôi sẽ không ở lại
 Tôi sẽ đi và chưa biết đi đâu
 Tôi sẽ tiếc thương trần gian mãi mãi
 Vì nơi đây tôi sống đủ vui sầu….
 Em sẽ khóc khi nhìn trong khóe mắt
 Thấy một mình người đi lại lang thang
 Còn ghi giữ ân tình trong cỏ nhặt
 Múa vi vu vì hẹn với trăng ngàn
 Ngày 7 tháng 10 năm 1998 (21/8 năm Mậu Dần). Bùi Giáng mất tại bệnh viện Chợ Rẩy Sài Gòn vì bị tai biến mạch máu não, hưởng thọ 73 tuổi. Tường Linh với bốn câu thơ tiễn biệt

Bùi huynh Trung phước đợi anh về
 Đồi cũ mong người thuở „giữ dê“
 Giọt „mưa nguồn“ rơi chẳng ngớt
 Sài Gòn xa vọng tiếng mưa quê.

Nói về thơ văn Bùi Giáng rất sâu rộng, bao la như biển cả, thời gian không cho phép, xin ngừng lại nơi đây. Thành thật cảm ơn quý vị đã theo dõi về đề tài thi nhân Bùi Giáng

Nguyễn Quý Đại 2007

mời bạn đọc vào các trang thơ Bùi Giáng


Di Cảo Đồ Sộ

Có lẽ nhờ thế mà ngoài 60 tác phẩm đủ các thể loại từ thơ, văn xuôi, bình giảng, dịch thuật, nghiên cứu… đã xuất bản trong ngoài nước thì trước tác của Bùi Giáng để lại sau khi mất khá đồ sộ. Bắt đầu từ 1995, anh Hoài cùng nhà sách Cảo Thơm (Đà Nẵng) đã in mới Rong rêu, Mười hai con mắt, Thơ vô tận vui… và tái bản Cõi người ta – Saint Exupéry, Nhà sư vướng lụy – Tô Mạn Thù, Khung cửa hẹp – André Gide…, tất cả khoảng 15 đầu sách của Bùi Giáng. Tuy nhiên, anh cho biết: “Mỗi năm, chúng tôi gắng ra một cuốn di cảo thơ của ông thì cũng phải mất 10 năm nữa mới in hết”. Đó là nói về những tập thơ đã được chính Bùi Giáng hoàn chỉnh bản thảo. Còn thơ lẻ cũng khá nhiều. “Chúng tôi đang cố gắng sưu tầm từ nhiều nguồn, bạn bè, thư tịch để tập hợp lại. Làm sao để có một chân dung Bùi Giáng rõ nét nhất”. Ở các thể loại khác như văn học dịch, anh Hoài cho chúng tôi xem bản thảo hai cuốn Thục nữ học đường (L”École des Femmes) và Dưỡng chất trần gian (Les Nourritures Terrestres) của André Gide, nhà văn Pháp mà ông vốn rất yêu thích, đã dịch xong. Bình giảng có Tuyển tập luận đề. Tạp văn, ghi chép, tạp bút… cũng đang tiến hành phân bố theo từng thể loại. Đặc biệt, anh Hoài mong muốn tập hợp Bùi Giáng trong mắt bạn bè qua nhiều thập kỷ nhà thơ sống. Như ước nguyện của anh Hoài thì “xúc tiến dần dần để có thể làm được toàn tập Bùi Giáng cho bạn bè người đọc yêu quý ông. Những gì hôm nay có thể làm, nếu không cố gắng thực hiện sẽ bị mai một. Bình luận về cái hay của mỗi tác phẩm thuộc về bạn đọc. Nhất là những nhà thơ lớn – như Bùi Giáng – đã thuộc về lịch sử”.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét