Ký Tế,
Nhà thơ Bùi Giáng xuất hiện trong nền thơ ca Việt Nam như một
hiện tượng kỳ lạ và độc đáo. Suốt trong mấy mươi năm nhiều tác giả trong và
ngoài nước viết bình thơ Bùi Giáng. Những chuyện đời của Bùi Giáng đôi khi trở
thành giai thoại. Bùi Giáng sống những năm tháng ngao du, lang thang trên các
đường phố Sài Gòn. Người ta từng gặp Bùi Giáng với hình hài người điên, quần áo
đủ màu sắc, đôi khi say ngất ngưởng, ngủ bên lề đường dưới bóng cây xanh
Các anh trong Nhóm Thi Ca München hâm mộ Bùi Giáng như một thần
tượng, cách đây mấy năm trong dịp về Sài Gòn, có anh đến thăm nhà Bùi Giáng
nhưng ông đã qua đời. Cháu Bùi Giáng đưa các anh đi viếng mộ, đốt nén nhang
thơm tưởng niệm người thi sĩ tài ba. Ai đã đọc thơ Bùi Giáng hoặc nghe những
chuyện về con người kỳ dị này chắc chắn sẽ bị cuốn hút. Một hiện tượng độc đáo
đến hy hữu trong đời sống Văn Học Việt Nam. (mộ Bùi Giáng)
Nhóm Thi Ca yêu cầu tôi nói về thơ Bùi Giáng để góp mặt vào đêm
thơ nhạc. Thưa quý vị tôi cùng quê hương Quảng Nam, nhưng chưa hiểu Bùi Giáng
bằng những người đã yêu thơ của ông. Tôi từng gặp Bùi Giáng một vài lần, trước
ngày 30.4 nhiều người vội vã bỏ quê hương chạy trốn CS, Bùi Giáng lang thang
trên đường Phố Sài Gòn rối loạn, thân hình Bùi Giáng ốm yếu nhưng ông cõng trên
lưng một viên đá, ông không muốn rời bỏ quê hương, nhưng viên đá biểu tượng cái
khổ cực sẽ đè lên dân tộc Việt Nam. Sau 1975 Bùi Giáng điên loạn hơn, có thể
Bùi Giáng sung sướng nhất vì điên, từng đứng trước Đại Học Vạn Hạnh chửi người
tịch thu trường nầy. „Có lần Bùi Giáng đi bụi đời rồi nằm ngủ đêm trong chợ
Trương Minh Giảng. Công an bắt Bùi Giáng phường, Bùi Giáng la to lên giữa chợ:
Cụ Hồ hồi đi làm cách mạng, ngủ dọc đường xó chợ, ngủ bờ ngủ bụi, đã không bị
ai bắt, sau này còn được tiếng dấn thân gian khổ làm cách mạng cứu nước, còn
tôi theo gương Cụ thì bị mấy ông Công an này bắt bớ làm tội làm tình. Bớ Cụ Hồ
ơi! Con cháu Cụ đã bắt tôi đây này! Bớ Cụ Hồ ơi! Cụ Hồ! Cụ Hồ ơi!”. Từ năm 1975
có nhiều người điên, điên trong cô đơn, điên trong trại cải tạo không được nhắc
tới. Ông Nhất Thanh từng luận về Bùi Giáng:
-Ồ, chẳng có ngôn từ nào thích hợp với Bùi Giáng cả. Ông chỉ là
một ông già bình thường nhất, dễ thương nhất. Nếu có điên chăng, có lẽ là tất
cả chúng ta.
Nhà văn Đào Hiếu viết:
-Cũng có thể hiểu Bùi Giáng như thế này: Ông coi đời là hữu hạn,
là phi lý, là chốn lưu đày, là cõi phù du, là cái mớ bòng bong vớ vẩn….
Chúng ta thử đi vào cõi thơ của Bùi Giáng, để có thể xác định
được cuộc đời của thi nhân một thời vang bóng trên thi đàn miền Nam trước 1975.
Nhà văn Mai Thảo đã ca tụng:
-Cõi thơ Bùi Giáng lúc bấy giờ ào ạt, vỡ bờ, bát ngát trường
giang mênh mông. Bùi Giáng ngủ ra thơ, thở ra thơ, đi ra thơ, đứng ra thơ……….
Thân thế và sự nghiệp
Bùi Giáng là tên thật, tuy nhiên cũng có vài bút hiệu nói lái
khác như Bán Dùi, Bàng Giúi. Xuất thân gia đình vọng tộc, giàu có, sinh ngày
17/12/1926 tại làng Thanh Châu xã Vĩnh Trinh, Duy Xuyên, Quảng Nam. Bùi Giáng
là con thứ 5, thân phụ là ông Bùi Thuyên, mẹ Huỳnh Thị Kiền. Bùi Giáng bà con
với Bác sĩ Bùi Kiến Tín là người bào chế dầu khuynh diệp với nhãn hiệu Khuynh
Diệp BS Tín trước 1975. Trong thời gian kháng chiến chống Pháp, Bùi Giáng cũng
theo kháng chiến trên khắp nẻo đường quê hương. Năm 1945, ông cưới vợ trẻ đẹp
nhưng bạc mệnh là bà Phạm thị Ninh, sinh trưởng trong một gia đình công chức
khá giả, con gái của ông bà Phán Trai, ở gần Chùa Cầu, Hội An
Theo dư luận khoảng năm 1948, Bùi Giáng dọn nhà, lên Trung Phước
vùng thung lũng đồi núi chăn dê, ông nuôi dê để chơi thôi không bán, cũng không
làm thịt dê để nhậu. Ông rất yêu những con dê, ông đặt cho mỗi con một cái tên,
rất kỳ lạ (người em vợ kể lại). Bùi Giáng rất thương vợ, sáng nào ông cũng vắt
một bát sữa dê đem chưng cho vợ uống. Đinh mệnh an bài không tránh khỏi kiếp
hồng nhan bạc mệnh, năm 1948 bà Ninh bị bệnh sanh non nên cả mẹ con đều qua
đời. Từ đó ông không lập gia đình. Sau này Bùi Giáng xuất bản Thi Tập Mưa Nguồn
có bài Nỗi lòng Tô Vũ dài 60 câu, nhắc lại kỷ niệm khoảng thời gian chăn dê:
Thôi từ nay tha hồ em mặc
sức
Nhảy múa tung sườn núi
vút giòng khe
Thôi từ nay em tha hồ mặc
sức
Vang vang lên đồi núi
giọng be be
Em nhớ hay không hồn hoa
dại cỏ
Những ngậm ngùi đầu núi
canh khuya
Vàng cao gót nai đầu
buông hãi sợ
Gió cây rung trút lá mộng
tan lìa…
Anh nằm xuống để nhìn lên
cho thỏa
Anh thấy lòng mở rộng đón
trời xanh
Chìm ngây ngất vào trong
đôi mắt lả
Anh lim dim cho chết lịm
hồn mình,
Cây lá bốn bên song song
từng lứa
Sánh đôi nhau như ứa lệ
ngàn ngàn
Hạnh phúc trời với đất
mang mang
Bùi Giáng chăn dê thời gian ngắn, không giống như Tô Vũ bên
Trung Hoa 100 năm trước công nguyên vua Hán Vũ Đế sai Tô Vũ đi sứ sang Hung Nô,
vì sự bất hoà giữa hai nước Tô Vũ sứ thần nhà Hán bị Hung Nô giam giữ đưa đi
chăn dê ở vùng Bắc Hải nay là hồ Baykal. Những ngày Bùi Giáng lặng lẽ lùa dê
vào núi, vui chơi thiên nhiên suối nước, Bùi Giáng gửi đàn dê lại cho “chuồn
chuồn, châu chấu”……
Bùi Giáng vào Sài Gòn, người miền Nam gọi ông là Sáu
Giáng.(người Nam gọi người con đầu là anh chị thứ hai) Bùi Giáng cũng tỏ ra
thích thú với tên gọi này. Bùi Giáng ghi danh học Đại học Văn Khoa Sài Gòn, một
thời gian thì chán không đến trường, ở nhà tự học nghiên cứu dịch sách, dạy
Pháp Văn và Việt Văn cho nhiều trường Tư Thục và làm thơ đăng báo. Thời gian
dạy học, ông đã soạn sách giáo khoa, do nhà Tân Việt ấn hành,
Năm 1956: Bà Huyện Thanh Quan, Lục vân Tiên, Chinh phụ Ngâm, Quan
Âm Thị Kính
Năm 1957: Truyện Kiều, Truyện Phan Trần, Cung Oán Ngâm Khúc,
Nguyễn Công Trứ
Năm 1958: Tản Đà, Chu Mạnh Trinh, Tôn Thọ Tường và Phan Văn Trị…
vv
Bùi Giáng thông thạo các ngôn ngữ Pháp, Anh, Hán văn, và tự học
tiếng Đức 6 tháng, đọc và dịch sách của triết gia Martin Heidegger. Bùi Giáng
là một thiên tài, chúng ta sống lâu năm ở Đức chưa chắc dịch được tác phẩm lưu
loát như Bùi Giáng. Văn nghiệp của ông thật đồ sộ và đa dạng. Tác phẩm của ông
có thể chia làm 5 loại:
-Giảng luận văn chương
-Triết học
-Dịch văn chương (Pháp-Anh- Hán Văn)
-Thơ văn biên khảo
-Thêm một số tác phẩm hội hoạ dù không nổi bật.
Con người tài hoa của Bùi Giáng có những cảm xúc tuôn trào như
một dòng suối chảy, ông đã sống cho riêng mình một cõi mộng. Bùi Giáng rong
chơi, cứ phiêu bồng lãng du mà vẫn có ngay nghìn câu một buổi. Ðúng là ngủ ra
thơ, thở ra thơ, uống bia hút thuốc lá ra thơ. Mà thơ không ai sánh bằng, thơ
không ai đuổi kịp. Trong thời gian dạy các trường tư thục, có nhiều chuyện thật
của Bùi Giáng xảy ra trong giờ giảng dạy. Bùi Giáng rất yêu quý truyện Kiều của
Nguyễn Du. Thông cảm tâm trạng của nàng Kiều tài sắc vẹn toàn, nhưng không
tránh được thuyết tài mệnh tương đố „Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen„ hay
“chữ tài liền với chữ tai một vần“. Khi giảng đến đoạn nàng Kiều phải bán mình
chuộc cha để rồi phải mất 15 năm lưu lạc, Bùi Giáng đã khóc nức nở ngay giữa
lớp học. Có lẽ nước mắt cũng không làm ông nguôi bớt, nỗi cảm thương người con
gái tài hoa bạc mệnh Thúy Kiều. Từ đó không trường nào dám mời Bùi Giáng dạy
học…Cuộc đời của Bùi Giáng đã tạo ra khá nhiều huyền thoại và giai nhân…
Thời gian trôi qua, bão giông đời lắng dịu, giờ đây nghe lại một
chút tâm tình, với tiếng nói thiết tha lời thơ trong tập Mưa Nguồn xuất bản
1964, là tiếng thơ thiết tha với hoa đồng cỏ nội
Én đầu xuân, tuyết đầu đông
Rừng cô tịch ngóng nội đồng trổ hoa
Bùi Giáng ở miền trung du xứ Quảng, hàng năm thường xảy ra những
cơn nước lũ trên thượng nguồn chảy về xuôi. Những dòng nước đục tràn ngập ruộng
vườn làm cảnh vật thêm tiêu điều
Một bờ dương xếp bến sau
Nước vần vũ đục nghe đau lá vườn
hay
Em về ở lại đây thôi
Nghe mùa nước lũ nguồn trôi phăng đồng
Một trăm cây lá bên rừng
Gửi trong tiếng vọng xa chừng ngàn mây
Mười con xóm nhỏ bên này
Nhắc nhau nhớ lại cái ngày bên kia
(Tiếng vọng)
Nhớ lại những ngày nước lênh đênh, trôi dạt qua làng bên tránh
nước ngập cùng cô thôn nữ, như mênh mông của rừng suối, huyền bí của sương mây?
Người xuống theo dòng trôi nước lũ
Màu sim màu móc núi sương mây
Suối đá gập ghềnh hôm sớm tụ
khói mù mịt thổi xuống đồi cây
(Người xuống)
Người dân quê Việt Nam, nhất là người Quảng Nam, luôn chịu khó
làm việc không quản ngại nắng mưa đổi mùa, sống trọn vẹn vui buồn cùng thiên
nhiên, mồ hôi đổ xuống luống cày và kết tinh thành những lời ca dao tha thiết.
Tâm hồn Bùi Giáng vẫn là tâm hồn của người nông dân chân chất, nên lời thơ ông
vẫn mênh mang như ca dao trên đồng lúa quê hương
Một tiếng nói một nụ cười chợt tắt
hết mấy phen buồn trở lại bên đời
đồng ruộng cũ màu trôi trong cỏ nhặt
Dưới bình minh rạ xám gốc trơ phơi
(Người đi đâu)
Thi tập Mưa Nguồn với nhiều hình ảnh đẹp, là một tác phẩm tuyệt
mỹ giai nhân
Những nhành mai sớm sương bên lá
Những nhành liễu chiều gió bên cây
Cũng lay lất bởi đời xuân em ạ
Thế nên chi anh cũng viết dòng này
…………….
Muà xuân hẹn thu về em trở lại
Ta nhìn nhau trong bóng nước mơ màng
Nước chảy mãi bởi vì xuân trở lại
với dòng trong em hẹn ở bên đường
Ta sẽ đợi nghe đời em kể lại
Thưở xưa kia..bờ nước ấy xưa kia
Ta sẽ đợi nghe đời em nói mãi
Bên đời đi còn giữ mãi hay không
Giòng bất tuyệt xanh ngần xuân thơ dại
Sầu hoang vu vĩnh hạ vọng non hồng
(Mưa nguồn)
Bùi Giáng nhìn không gian, thời gian hòa tan trong viễn tượng
mênh mang. Theo dư luận, Bùi Giáng một thời đã yêu nữ nghệ sĩ Kim Cương, được
Kim Cương tặng cái kính lão, suốt ngày lang thang Bùi Giáng làm bể một mặt kính
nhưng vẫn đeo để khóc người một con mắt.
Bỏ người yêu bỏ bóng ma
Bỏ hình hài của tiên nga trên trời
Bây giờ riêng đối diện tôi
Còn hai con mắt khóc người một con…
……………
Những nhịp bước bên đường còn dội mãi
Vang về đâu không vọng lại hồi âm
Của réo rắt riêng một lần mãi mãi
Gió phương trời ủ mộng giữa hoa tâm
………….
Mù sa thấp rừng mai xưa lỡ hẹn
Xuống thôn làng ngó lá rụng ven khe
Mùa tháng chạp chim trời xa lỡ hẹn
Với sông Thu từ một buổi bay về
Bùi Giáng đón nhận mọi viễn tượng kỳ diệu của thiên nhiên trở
thành lẽ sống trong cô đơn, thơ ông có cái thăng hoa đơn giản và cũng lắm triết
lý cao xa vời vợi. Bùi Giáng với quan niệm: “Nếu ta không thực hiện nổi cội
nguồn trường mộng ở nội tâm, thì triết học không thể nào tiếp xúc được với căn
cơ chân chính của nó, dù ta có líu lo trong học hiệu phù hoa“ (M.Heidegger và
Tư tưởng hiện đại, tập 1).
Mây đứng lại chân trời phủ khói
Dòng sông đi đò bến đợi ngu ngơ
Chiều trời đẹp tâm tình em không nói
Đất với trời chung một nghĩa bơ vơ
(Không đủ gọi một lần)
Bờ mây trắng dựng cuối trời bóng dáng
Của ban sơ hoài vọng giữa nhân gian
Lòng vạn vật mơ màng chiều qua sáng
Em về nhanh cho mây trắng buông màn
(Bờ mây)
Mưa Nguồn là tập thơ đầu tay và giá trị nhất của Bùi Giáng. Liên
tiếp, năm sau là 4 thi phẩm: Lá Hoa Cồn, Ngàn Thu Rớt Hột, Màu Hoa Trên Ngàn,
Sa Mạc Trường Ca. Từ năm 1966, Bùi Giáng dịch rất nhiều tác phẩm Văn Học của
các nhà văn nổi tiếng, các tác phẩm của Saint Exupéry, Shakespear, Albert
Camus, André Gide. Nhà văn Nguyễn Quyết Thắng đã liệt kê theo thứ tự các sách
được in tới năm 1972 có tất cả 55 tác phẩm. Hiện nay còn khoảng 10 tập thơ và
nhiều văn bản dịch, chưa in..Nói về số lượng, ông là một tác giả có tác phẩm in
ra đứng vào hàng kỷ lục ở miền Nam. Năm 1972 ông in khá nhiều sách: Đường đi
trong rừng; Lời cố quận; Lễ hội tháng ba; Con đường ngã ba; Bước đi của tư
tưởng; Bài ca quần đảo; Hoàng tử Bé; Mùi hương xuân sắc.
Le petit Prince, một trong những cuốn tiểu thuyết bất hủ Saint
Exupéry, Bùi Giáng dịch với tên Hoàng tử bé. Làm cho độc giả qua nhiều thế hệ,
đã yêu mến Hoàng tử bé qua lời dịch lả lướt của Bùi Giáng. Trong Ngày Tháng
Ngao Du, ông kể: “Hồi nhỏ, tôi được sanh ra và lớn lên trong miền quê hẻo lánh.
Chung quanh có ruộng đồng sông núi trùng điệp, những đám cỏ chạy suốt tuổi thơ.
Làng tôi xưa kia có nhiều cỏ mọc, cỏ mọc từ trong làng ra ngoài ruộng, tới
những cồn, gò, đồi núi thật xanh. Từ đó về sau, tôi tìm kiếm mãi một màu xanh
không còn nữa vì những trái bom và hòn đạn khổng lồ………(Hình trắng đen của Kim
Cương & Biù Giáng)
Cuộc chiến kéo dài hơn 20 năm ngày trở về quê không còn lối. Bùi
Giáng thuê nhà ở Sài Gòn, trong ngõ hẻm đường Phan Thanh Giản chẳng may tai nạn
hỏa hoạn thiêu rụi căn gác mất nhiều tài liệu sách, Pháp, Anh, Đức…và nhiều bản
thảo. Hỏa hoạn đó làm cho Bùi Giáng đau khổ, nổi cơn điên được gia đình đưa vào
dưỡng trí viện Biên Hòa đầu tháng 5.1969. Theo các bác sĩ của viện: “Người cầm
bút cô độc này, bịnh đã chuyển từ cuồng nhẹ sang cuồng nặng” Bùi Giáng sống
không cần đời. Có tiền nhuận bút, ông ra chợ Cũ ở đường Hàm Nghi mua khỉ, chó
nuôi từng đàn. Có người đã phê bình sách dịch của Bùi Giáng rất lả lướt, nhưng
cũng có lúc lạc đề; thay vì của tác giả, ông viết về quan niệm sống của chính
mình?
Ra khỏi dưỡng trí viện, Bùi Giáng sống lang thang nay đây mai
đó. Từ đầu năm 1973, ông dọn đến Đại Học Vạn Hạnh, đường Trương Minh Giảng, có
phòng riêng ở lầu 3. Ăn ngủ đó, ngao du trên hè phố bất kể nắng mưa. Thân hữu
và gia đình xuất bản sách cho ông. Sau 1975 bệnh điên trầm trọng thêm, không
được phép ở trong nội xá Đại Học Vạn Hạnh. Sống nhờ bạn bè thân nhân, có lúc ở
nhờ Chùa Già Lam, xóm Gà Gia Định. Từ 1985 về ở với người cháu rể gọi ông bằng
bác là anh Nguyễn Thanh Hoài giúp Bùi Giáng an dưỡng và sáng tác, đến ngày cuối
đời. Năm 1976 Ông về thăm lại Quảng Nam mảnh đất của “tình biển nghĩa sông“ khi
ông đã 71 tuổi với bài tâm sự.
Non nửa thế kỷ xa quê
Mà chưa có dịp về quê một lần
Bảy mươi mốt tuổi tần ngần
Về Trung biết chốn nào tìm
Lại ngôi nhà cũ láng giềng đã qua?
Giật mình lúc chợt nghĩ ra
Rằng toàn thân thuộc đã qua đời rồi!
Cuộc đời rong chơi bất tận, dù ở lại trên cõi đời nầy hay đi về
bên kia thế giới, nhà thơ Bùi Giáng cảm thấy đủ vui buồn. Năm 1995, 15 tác phẩm
của Bùi Giáng được phép in và tái bản các sách dịch.
Ngày sẽ hết tôi sẽ không ở lại
Tôi sẽ đi và chưa biết đi đâu
Tôi sẽ tiếc thương trần gian mãi mãi
Vì nơi đây tôi sống đủ vui sầu….
Em sẽ khóc khi nhìn trong khóe mắt
Thấy một mình người đi lại lang thang
Còn ghi giữ ân tình trong cỏ nhặt
Múa vi vu vì hẹn với trăng ngàn.
Ngày 7 tháng 10 năm 1998 (21/8 năm Mậu Dần). Bùi Giáng mất tại
bệnh viện Chợ Rẩy Sài Gòn vì bị tai biến mạch máu não, hưởng thọ 73 tuổi. Tường
Linh với bốn câu thơ tiễn biệt
Bùi huynh Trung phước đợi anh về
Đồi cũ mong người thuở „giữ dê“
Giọt „mưa nguồn“ rơi chẳng ngớt
Sài Gòn xa vọng tiếng mưa quê.
Nói về thơ văn Bùi Giáng rất sâu rộng, bao la như biển cả, thời
gian không cho phép, xin ngừng lại nơi đây. Thành thật cảm ơn quý vị đã theo
dõi về đề tài thi nhân Bùi Giáng
Nguyễn Quý Đại 2007
mời bạn đọc vào các trang thơ Bùi Giáng
Di Cảo Đồ Sộ
Có lẽ nhờ thế mà ngoài 60 tác phẩm đủ các thể loại từ thơ, văn
xuôi, bình giảng, dịch thuật, nghiên cứu… đã xuất bản trong ngoài nước thì
trước tác của Bùi Giáng để lại sau khi mất khá đồ sộ. Bắt đầu từ 1995, anh Hoài
cùng nhà sách Cảo Thơm (Đà Nẵng) đã in mới Rong rêu, Mười hai con mắt, Thơ vô
tận vui… và tái bản Cõi người ta – Saint Exupéry, Nhà sư vướng lụy – Tô Mạn
Thù, Khung cửa hẹp – André Gide…, tất cả khoảng 15 đầu sách của Bùi Giáng. Tuy
nhiên, anh cho biết: “Mỗi năm, chúng tôi gắng ra một cuốn di cảo thơ của ông
thì cũng phải mất 10 năm nữa mới in hết”. Đó là nói về những tập thơ đã được
chính Bùi Giáng hoàn chỉnh bản thảo. Còn thơ lẻ cũng khá nhiều. “Chúng tôi đang
cố gắng sưu tầm từ nhiều nguồn, bạn bè, thư tịch để tập hợp lại. Làm sao để có
một chân dung Bùi Giáng rõ nét nhất”. Ở các thể loại khác như văn học dịch, anh
Hoài cho chúng tôi xem bản thảo hai cuốn Thục nữ học đường (L”École des Femmes)
và Dưỡng chất trần gian (Les Nourritures Terrestres) của André Gide, nhà văn
Pháp mà ông vốn rất yêu thích, đã dịch xong. Bình giảng có Tuyển tập luận đề.
Tạp văn, ghi chép, tạp bút… cũng đang tiến hành phân bố theo từng thể loại. Đặc
biệt, anh Hoài mong muốn tập hợp Bùi Giáng trong mắt bạn bè qua nhiều thập kỷ
nhà thơ sống. Như ước nguyện của anh Hoài thì “xúc tiến dần dần để có thể làm
được toàn tập Bùi Giáng cho bạn bè người đọc yêu quý ông. Những gì hôm nay có
thể làm, nếu không cố gắng thực hiện sẽ bị mai một. Bình luận về cái hay của
mỗi tác phẩm thuộc về bạn đọc. Nhất là những nhà thơ lớn – như Bùi Giáng – đã
thuộc về lịch sử”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét