Trịnh Công Sơn và Bùi Giáng |
TKĐ
Huế là kinh đô của vương triều nhà Nguyễn, nên Huế phải khác thường. Tâm lý
"Đế đô" là tâm lý sang cả, đài các. Ăn thì phải ăn nhiều món, chuẩn bị
cầu kỳ -- Dẫu là muối bảy món -- Mặc thì phải áo dài lượt là khi ra đường; dẫu
là gánh chè bán dạo, áo vá bạc màu. Nói thì phải nói cho sang, chữ nghĩa thưa bẩm
đúng trật tự, không cong đuôi cụp đầu, dẫu có mắng nhiếc ai nặng lời thì cũng
phải có vần có điệu phù hợp với bài bản.
Cách
biểu hiện tình cảm cũng phải đượm mầu quý phái. Có nghịch ngợm thì cũng phải
chòng ghẹo "rím rím". Nghĩa là phải kín đáo, dẫu "có hoang chẳng
giống người thường". Không nói toạc móng heo những ý tưởng riêng tư thầm
kín mà nói ra nửa kín nửa hở. Khi cái trạng thái hư hư, thự thực, nói năng bóng
bẩy, lời lẽ bốn phương, hiểu phương nào cũng đúng, nầy mà đạt đến trạng thái
thăng hoa nghệ thuật thì sẽ trở thành siêu sao "tửng tửng" điển hình
của Huế. Đây là cách kiểu nói ra hay biểu hiện thái độ một cách tự nhiên và tỉnh
táo như đùa như thật; như nghiêm như trêu; như theo như chống, như vui như buồn.
Trong
thơ ca, nhất là thi văn xướng họa thì sự trêu ghẹo nhau bằng chữ nghĩa thường
trở thành những màn chơi chữ đầy nghệ thuật thú vị. Kiểu nói tửng tửng nầy thật
không ngờ lại chưa hẳn là sở trường của Huế. Một người bạn Huế, phóng một câu
tuyệt tác tửng tửng đến nước nầy thì con dân văn bút nhà Huế chỉ còn nước sắp
hàng một vỗ tay hoan hô:
Dạ
thưa xứ Huế bây giờ
Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương
Dạ
thưa, đó là Bùi Giáng, anh học trò trong Quảng ra thi của một thời Quốc Học...
chỉ cần hai câu lục bát thì cũng đủ lên ngay cái hàng siêu sao tửng tửng.
Mới nghe qua hai câu thơ đệ nhất tửng tửng nầy đã có người lên tiếng:
- Nói chi lạ rứa hè! Sông Hương núi Ngự thì muôn năm vẫn là sông núi cũ chứ có
bò đi mô mà phải tìm kiếm! Nói theo kiểu ni thì có khác chi nói lại rằng:
Dạ
thưa cái cổ bây giờ
Vẫn còn dính với trên bờ hai vai
Có
những chân lý thị hiện hằng ngày chẳng cần tìm kiếm đâu xa. Nhưng sự nghịch lý
của đời nầy là càng hiện rõ chừng nào, càng khó thấy chừng đó. Như lý thuyết
nhà Phật thường nhấn mạnh chân tâm Phật tánh ở ngay trong mỗi con người, nhưng
có được bao nhiêu người tìm ra được. Sông Hương Núi Ngự đi qua ngày hai buổi
nhưng mấy người chịu lắng lòng để nghe câu chuyện dâu bể của dòng sông; mấy người
nghiêng mình vào cõi vô trú để nhìn ra dáng vẻ đầy uy vũ muôn trùng của ngọn
núi.
Cái
nhìn của Hàn Mặc Tử là cái nhìn quá tĩnh lặng và xuyên suốt bản chất mới thấy
được "Nắng hàng cau" nơi thôn Vỹ Dạ. Cái nhìn của Bùi Giáng là cái
nhìn bão nổi trong cảm xúc và uyên thông trong trí tuệ mới thấy được trái tim của
Huế. Bao nhiêu thế hệ đã đi qua. bao nhiêu nguy biến đã dập vùi mà "Vẫn
Còn". Căn tính chưa lụi tàn, thể tính chưa phôi pha nên vẫn còn, vẫn còn
và vẫn còn... Vẫn còn Núi Ngự bên dòng sông Hương. Huế vẫn còn là Huế.
Một
thời, có ai nói đến thơ xưa, thơ mới, thơ siêu thực, thơ tượng trưng, thơ
nguyên tử... tôi lại lan man nghĩ đến Bùi Giáng với Mưa Nguồn và những bài thơ
đăng rải tác đâu đó trên các sách báo miền Nam thời đi học. Có lẽ tại tôi mê
chuyện kiếm hiệp nên thích những mẫu người kỳ lạ hơn là nghiêm túc nghĩ đến văn
chương.
Điều
tôi thích nhất ở Bùi Giáng không phải là những vòng hào quang cũng như gai góc
mà người đời đã không ngớt mang tặng cho ông. Tôi thích nhất ở Bùi Giáng là
thái độ rong chơi của ông trong thi ca tư tưởng. Ông nói chuyện triết học cao
siêu dễ dàng và cà rỡn như nói chuyện Tấm Cám và nói chuyện Tấm Cám xa vời như
tư tưởng của Kant, Nietzsche, Heidegger. Đọc sách của ông rất khó phân biệt được
biên giới giữa thi ca và triết học. Ông bàn về chuyện triết học như làm thơ và
làm thơ như chuyện đùa giỡn. Bùi Giáng là người làm xiếc trong ngôn ngữ với một
“bút-pháp-không-bút pháp”. Thơ ông đầy những từ đẹp như hoa gấm, những câu tuyệt
bút, nhưng cũng không thiếu những chữ đệm “tầm ruồng” (chữ của chính Bùi
Giáng), những câu khó hiểu, những ý mờ mờ nhân ảnh, nên rất dễ làm hoa mắt những
đầu óc quá thông thái mà thiếu cái Tâm thoáng đạt, hồn nhiên, chất phác; thậm
chí... quê mùa!
Khái
niệm cổ điển lập ngôn, lập thuyết hay “văn dĩ tải đạo” trong sáng tạo văn
chương có vẻ không hợp như những chiếc áo thụng xanh đỏ rộng thùng thình trên tấm
thân gầy guộc của Bùi Giáng. Ông đã bứt phá những vòng trói buộc nghìn năm của
những thước đo, những “râu mép” (Road Map) làm khuôn vàng thước ngọc cho đường
bay sáng tác thi ca: “Thơ tôi làm... là một cách dìu ba đào về chân trời khác.
Đi vào trung tâm bão giông một lúc thì lập thời xô ngôn ngữ thóat ra phá vòng
vây...”
Bởi
vậy, trong Thi Ca Tư Tưởng ông đã “báo động” cho các bậc học giả và giả học rằng:
“Thơ
tôi làm ra là để tặng chuồn chuồn châu chấu, xin các ngài học giả hãy xa lánh
thơ tôi.”
Trong
suốt nửa chiều dài của thế kỷ nầy, cả trong nước lẫn ngoài nước, đã có quá nhiều
bài viết về Bùi Giáng. Hay ho cũng lắm mà tào-lao-luận ba hoa chích chòe cũng
nhiều. Dường như ai cũng cố vẽ ra một Bùi Giáng, muốn biết một Bùi Giáng thật sự,
nhưng hầu như tất cả các cây bút đều ngại ngùng, lúng túng trước một khối lượng
tác phẩm “khó tiêu hóa” quá lớn và một bút pháp lắt léo, quanh co, bay lượn của
một “tay phù thủy ngôn ngữ” như ông. Thế nhưng, sau những trận mưa tắm gội ngôn
ngữ của người đời dành cho Bùi Giáng, người ta đành chào thua trong cố gắng nhằm
phân tích “phức liệu Bùi Giáng” để trả Bùi Giáng về lại Mưa Nguồn của chính
ông. Khổ nổi là chưa bao giờ thấy Bùi Giáng lên tiếng phân bua hay cãi chính về
những khen chê của người khác dành cho mình. Và càng im lặng, ông càng nổi tiếng.
Xung quanh Bùi Giáng nổi lên quá nhiều giai thoại. Những giai thoại cứ xoắn riết
ông từ lớp nầy đến lớp nọ; trong khi Bùi Giáng vẫn tiếp tục sống lang thang lây
lất, ăn bụi, ngủ hè, bị gậy, áo rách quần xài, khi ẳm chó, khi ôm mèo, đánh bạn
với thú vật, muông cầm, cây cỏ, loanh quanh các nẽo đường gió bụi Sài gòn.
Có
thể nói Bùi Giáng là một hiện tuợng thi ca, văn học lạ lùng nhất của Việt Nam
thời cận đại. Lạ lùng như một dấu hỏi - vẫn còn mãi là một dấu hỏi nơi ông:
Hỏi
tên rằng biển xanh dâu
Hỏi quê rằng mộng ban đầu đã xa
Gọi tên rằng một hai ba
Đếm là diệu tưởng đo là nghi tâm
Bùi
Giáng đã trải qua một cuộc rong chơi tận tình, chất ngất trong tư tưởng và giữa
cuộc đời. Ông sinh năm 1925 tại Quế Sơn, Quảng Nam, đã từng đặt cho mình nhiều
bút hiêu khác nhau: Báng Giùi, Bùi Báng Giúi, Búi Bàng Giùi, Vân Mồng, Trung
Niên Bùi Thi Sĩ, Thi Sĩ Đười Ươi, Bùi Brigitte...
Bùi
Giáng học trường Quốc Học Huế và đột nhiên bỏ học vì lý do, theo lời ông trong
tác phẩm Đi Vào Cõi Thơ, là bị “chấn động dị thường” bởi vì tập thơ Lửa Thiêng
của Huy Cận. Ông bỏ học về quê chăn dê và đọc sách. Từ đó, ông trở thành một học
giả uyên bác hầu như “vô sư tự ngộ”, tự đọc sách , tự học hỏi mà khai phá trí
tuệ giống như thiền sư Huyền Giác ngày xưa đọc kinh Duy Ma Cật mà “phát sinh
tâm địa”. Đây cũng là khởi điểm cho Bùi Giáng suốt đời âm thầm đi trên con đường
tư tưởng đôc đáo và riêng biệt của mình.
Tập
thơ đầu tay của Bùi Giáng là tập Mưa Nguồn xuất bản tại Sài gòn năm 1962 và tập
thơ cuối cùng là tập Đêm Ngắm Trăng xuất bản năm 1997. Trong cuộc hành trình 35
năm đó, Bùi Giáng đãcàng ngày càng chứng tỏ ông là một người nghệ sĩ với dáng dấp
tàng tàng, lọt tọt (chữ của Nguyễn Hàn Thư) đi rong chơi khắp muôn vạn nẽo
trong cõi thơ.
Thơ
của Bùi Giáng thường không dễ hiểu, nhưng rất dễ ngấm mà những đầu óc "ngầu"
chữ nghĩa thích gọi là “trực cảm nguyên ngôn” hay gì gì đó... Thử đọc và “ngấm”
một khúc “Ly Tao” của ông:
Giờ
ngẫu nhĩ như hồng bay em ạ
Và yêu thương như lá ở bên hoa
Và luyến ái như tơ vàng bốn ngã
Bủa vi vu như thoáng mộng la đà
Lần
đi từ điểm khởi phát của Mưa Nguồn và của Ly Tao là một gã trai quê chăn bò
trên vùng quê hẻo lánh xứ Quảng. Thuở đó, tâm hồn Bùi Giáng đầy cây lá và những
cảm xúc nhân ái, chân thành. Tâm thức ông tan loãng, hòa nhập với thiên nhiên cỏ
nội hoa đồng:
Anh
lùa bò vào đồi sim trái chín
Cho bò ăn cỏ giữa rừng sim
Anh nhìn lên trời xanh đỏ chín
Anh ngó bốn bề cây lá gió rung rinh
Anh nằm xuống để nhìn lên cho thỏa
Anh thấy lòng mở rộng đón trời xanh
Chìm ngây ngất vào trong đôi mắt lã
Anh lim dim cho chết lịm hồn mình
(Anh lùa bò... Mưa Nguồn, tr153)
Và
có chăng tình yêu ngày đó với cô gái quê bên bờ cỏ mượt thì cũng chỉ là những
xao xuyến buổi đầu đời. Rồi tình yêu đó cũng chỉ là những cảm xúc rất vi vu và
hư ảo, không đậu lại trên một thân xác nào có thật màrong chơi theo ông, rồi
“tan đi trong hố thẳm chôn vùi”:
Nhìn
em nhé bên kia bờ gió thổi
Lá xanh vườn theo cỏ mượt ngân nga
Tơ vi vút một đời thương nhớ tuổi
Của trăng rằm xuống dọ dẫm bên hoa
Khung cảnh ấy nằm sâu trong đáy mắt
Có lệ buồn khóc với lệ hòa vui
Để tràn ngập hương mùa lên ngan ngát
Rồi tan đi trong hố thẳm chôn vùi
(Bờ nước cũ. MN, tr 49)
Hình
như giữa cuộc rong chơi, Bùi tiên sinh có lúc dừng lại để ngắm cái đẹp, chiêm
nghiệm cái đẹp, cảm thụ cái đẹp một cách rất chi là não nùng trang trọng:
Anh
quỳ xuống giơ hai tay bệ vệ
Chỉ xin nâng một giọt lệ êm đềm
(Tự hỏi vì sao)
Em
đi đắm đuối tấm lòng
Có bao giờ biết người trăm năm buồn
(Tỉnh mê)
Anh
sẽ khóc suốt thiên thu tình lụy
Của vấn vương tình nghĩa nặng muôn nghìn
(Vì có lẽ)
Tuổi
thơ em có buồn nhiều
Hãy xin cứ để bóng chiều bay qua
Mưa có lạnh nhưng chân trời còn mãi
Những giọt suơng là lệ ở trong mây
Giòng sông đi cho nước nói ngàn ngày
Bằng biển rộng không bến bờ em ạ
Rồi Bùi Giáng tiếp nối cuộc rong chơi. Trái tim ông cũng rất “lăng loàn” khởi
phát từ bản chất đa tình nghệ sĩ. Đa tình nhưng lại không đa lụy vì ông vẫn mãi
sống một cuộc đời độc thân rong ruổi. Nhưng ông vẫn sống miên man trong cái đẹp
thác ngàn của Thúy Kiều, của Kim Cương, của Marilyn Monroe, của Brigitte
Bardot, của cô Mọi Nhỏ bên rừng Phi Châu... Nàng thơ, nàng Ly Tao trong thơ Bùi
Giáng thường có một vẻ rờn rợn liêu trai, toàn là cõi mộng, cõi tưởng, cõi vi
vu đầy mê hoặc:
Em
đã lại với đời về nắng ấm
Thắm không gian thương nhớ bóng hình em
Anh đã đợi chờ em từ lâu lắm
Ngày đi không để lại lạnh trăng rằm
Em có nụ cười buồn buồn môi mọng
Em có làn mi khép lá cây rung
Em có đôi mắt như sầu xanh soi bóng
Hồ gương ơi! Sao sóng lục vô chừng
Em ở lại với đời ta em nhé
Em đừng đi. Cho ta nắm tay em
Ta muốn nói bằng thơ bay nhẹ nhẹ
Vào trong mơ em mộng giấc êm đềm
Từ
tập thơ đầu, Mưa Nguồn, đến những tập thơ sau như Lá Hoa Cồn, Mùa Thu Thi Ca,
Ngày Tháng Ngao Du, Sương Bình Nguyên, Trăng Châu Thổ... là cả một đoạn đường
dài rong chơi, đùa cợt, cù cưa bất tận của Bùi Giáng với ngôn ngữ thi ca. Đến
Đêm Ngắm Trăng với 227 bài thơ, phần lớn là lục bát, sau cùng trong cuộc rong
chơi của Bùi Giáng thì rõ ràng Lão Thi Sĩ đang “nói lục bát” một cách tự nhiên,
dễ dàng, khề khà, “tồn hoạt chịu chơi” như những ông già đang ngồi vuốt râu
nhâm nhi vài xị đế. Ông nói về “dzách” (thùng cù lũ?):
Nỗi
buồn nỗi khổ đời xưa
Nỗi sung sướng đến móc mưa bất ngờ
Đời xưa đất đá cằn khô
Đời này đất đá đều đờ đẫn điên
Điên duỗi dọc, điên ngửa nghiêng
Điên là hạnh phúc thần tiên ở đời
Điên rồi rốt cuộc hỡi ôi
Cũng đành chấm dứt lìa đời hết điên
(Dzách. Đêm Ngắm Trăng, tr139)
Càng
điên điên ông càng “chịu chơi” tới cái mức “thần thông du hí”. Đã có hơn một đầu
óc uyên bác đem cái lý thuyết biểu tượng, tinh thể và phá chấp ra để xào nấu những
vần thơ sau đây. Nhưng riêng tôi thì lý thuyết nào cũng không thể áp dụng vừa vặên
vào đây bằng lý thuyết “chịu chơi!”:
Ông
gieo vần điệu dã man
Tờ điên hoa giậy lang thang lên mùa
Ông buồn- quýt ngọt chanh chua?
Còn cam còn bưởi còn xoài riêng đâu?
Ông tìm kiếm suốt hương màu
Thời gian tinh thể đi đâu mất rồi
Ông ngồi suốt những canh thâu
Nêu từng nghi vấn trình tâu với người
Nguời từ vô tận chịu chơi
Thần thông du hý chốn nơi nào là
(Con vui vô tận. ĐNT, tr 145)
Thật
ra thì ngay giữa cuộc hồng trần nầy, Bùi Giáng sống cùng tận trong cái mơ mơ,
màng màng thuần lý mang tính “đồng nam hiển thánh” (chữ của ĐS); nhưng chưa đến
mức dám bức phá những hàng rào trói buộc hay những quy ước rất thường tình của
con người trong cái hệ lụy nhân sinh:
Anh
uống rượu tới mê man khôn dọ
Duỗi tay chân tại tâm điểm bụi đời
Chiêm bao về ứng mộng giữa tuyệt vời
Quần phong nhụy bất thình lình giũ trút
Ôi mật ngọt ôi thiên đường bất chợt
Hiện huy hoàng hiện thể suốt tâm linh
Anh chào em từ ảo mộng một mình
Và dám chắc nhận nhìn rằng: anh hổng dám
...Anh bình tĩnh thưa rằng: anh hổng dám!
Hổng dám đâu! Đâu hổng dám là đâu...
(Hổng dám đâu. ĐNT, tr 149)
Càng
đọc thơ Bùi Giáng, tôi càng cảm thấy muốn khóc khi ông cười; và muốn ôm bụng cười
khi ông khóc... có lẽ vì tôi chưa có một tí ti “chất nghệ sĩ Bùi Giáng” nào
trong mình. Đọc bài thơ tự trào hết sức độc đáo và lạ lẫm của ông, tôi cứ ước
chi mình có được một phần trăm cái “điên”và một phần mười cái “ngu sy” của Bùi
Giáng để có thể có chút nào đồng cảm với ông chăng:
Cuộc
đời tẻ nhạt hôm qua
Tới hôm nay nữa gọi là hôm mai
Ba hôm cả thảy than dài
Thấy thằng bùi giáng đêm ngày ngu sy
Tháng tròn năm méo tý ty
Tồn sinh lả tả từ ly cuộc đời
Nó về tồn hoạt chịu chơi
Nó đi suốt cõi chơi vơi hồng trần
Nó từ vô tận mông lung
Nó đi suốt kiếp trùng phùng thiên thai
Giữa đêm thở vắn than dài
Khóc hu hu nó khóc hoài trăm năm
(Hôm Hôm. ĐNT, tr 150)
Đến đây tưởng cũng nên làm sáng tỏ tại sao sẽ có rất nhiều người mơ ước có được
một phần cái “ngu sy” của Bùi Giáng. Tôi xin được liệt kê lại một phần cuộc
rong chơi của Bùi Giáng qua những tác phẩm đã được xuất bản của ông. Ngoài ra,
tôi cũng như nhiều người có thể tin; mà cũng có thể không tin, những điều do
người khác đã viết trên giấy trắng mực đen rằng, Bùi Giáng đã từng viết ra cả
ngàn câu thơ trong một đêm...
Tác
phẩm đã được xuất bản của Bùi Giáng
THƠ:
- Mưa nguồn
- Lá hoa cồn
- Mùa thu thi ca
- Ngày tháng ngao du
- Sương bình nguyên
- Trăng châu thổ
- Đường đi trong rừng
- Đêm ngắm trăng
DỊCH
Từ
tiếng Pháp:
- Người nổi loạn của Albert Camus
- Khung cửa hẹp của André Gide
- Ngộ nhận của Camus
- Hoàng tử bé của Saint Exupéry
- Cõi người ta của Saint Exupéry
- Thơ của René Char
Từ
tiếng Anh:
- Sương Tỳ Hải của William Shakespeare
Từ tiếng Đức :
Tư tưởng hiện đại của Martin Heidegger
TRIẾT:
- Tư tưởng hiện đại
- Thi ca tư tưởng
- Thế nào là siêu thực
- Đặt lại từ Othello đến Test of the D’urbervilles
- Heidegger và Husseri
- Hình ảnh Jean Paul Sartre
- Hình ảnh Malreaux
- Hình ảnh Francoise Sagan
- Heidegger và Hoelderlin Sophocle
- Heidegger và tư tưởng hiện đại
- Khổng Tử, Lão Tử
- Nguyễn Du
- Gandhi
- Dương Qúy Phi
KHẢO
LUẬN
- Nhận xét về truyện Kiều
- Bà Huyện Thanh Quan
- Lục Vân Tiên
- Giảng luận về Nguyễn Khắc Hiếu
- Giảng luận về Chu Mạnh Trinh
- Giảng luận về Tôn Thọ Tường
- Malreaux và Nguyên Công Trứ
- Từ Parménide đến Nguyễn Du
...
Sự rong chơi của Bùi Giáng trong ngôn ngữ và giữa cuộc đời vừa thâm trầm, vừa
vui nhộn, vừa “bi... khoái” là vì ông không dè dặt, giữ gìn mà cố tình buông thả
đi về lẫn lộn giữa những câu thơ khóc cười đầy uyên bác, trang đài, cổ kính xen
với những từ, những câu đầy ngôn từ dân giã, bụi đời có khi đến mức giang hồ ngỗ
ngáo, trần trụi. Vừa nói đến tâm sự mình một cách quý phái:
Hồn
du mục cỏ hoa mòn mõi
Rừng đêm xanh trăng tạ không lời
Vì hơi thở cũng sầu như lá úa
Rớt lưng đèo bối rối lách theo lau
...
ông “chuyển hệ” mượn lời người khác nói về cái điên của mình một cách thống
khoái đầy “sáu Giáng”:
Vợ
chồng tôi lúc nào cũng nhớ anh
Anh điên mà dzui – dzẻ thập thành
Chúng tôi tỉnh táo mà đành buồn hiu
Sự
đùa bỡn với ngôn ngữ thi ca bằng cách sử dụng kiểu nói lái tinh quái của quê
hương ông nhiều khi thô thiển một cách cụ thể chứ không bóng bẩy kiểu Hồ Xuân
Hương. Người đọc rất thường gặp trong sách ông những cụm từ như: tồn lưu, tồn
liên, liên tồn, lưu tồn, tồn lí tí ngọ, tồn lập tập trung, tồn lập tập họp... để
đùa nghịch với triết học, nghịch với thi ca, nghịch với cuộc đời và nghịch ngay
với chính bản thân ông:
Lọt
cồn trận gió đi hoang
Tồn liên ở lại xin làn dồn ra...
(Mưa Nguồn)
Thời
kỳ ông được coi là điên nặng nhất với lối sống kỳ dị thì cũng là lúc ông bơi
trong “đại dương thi ca” để cho ra đời tập thơ Bài Ca Quần Đảo. Bùi Giáng làm
thơ dễ dàng đến độ nhà văn Huỳnh Ngọc Chiến phải kêu lên rằng, “Đôi lúc chúng
tôi có cảm tưởng rằng ông có thể đọc ngẫu hứng thơ lục bát từ sáng đến chiều mà
không vấp... Ông làm thơ bằng tiếng Việt, tiếng Hán, thỉnh thoảng bằng tiếng
Anh và tiếng Pháp. Ngôn ngữ đã nhập điệu trong ông như cây đàn trong tay người
nghệ sĩ kiệt xuất. Chỉ ấn tay là thành giai điệu. Tự nhiên như nước chảy, mây
bay mà chẳng có chút dụng công nào. (Thời Văn 19, tr 66)
Cuối
cùng của cuộc rong chơi, Bùi Giáng đã lặng lẽ bỏ mùa xuân của trần gian đi về
cõi miên trường phía sau:
Xin
chào nhau giữa con đường
Mùa xuân phía trước miên trường phía sau
...và
bỏ tất cả lại cho đời:
Bỏ
trăng gió lại cho đời
Bỏ ngang ngữa sóng giữa lời hẹn hoa
Bỏ người yêu bỏ bóng ma
Bỏ hình hài của tiên nga trên trời
Bây giờ riêng đối diện tôi
Còn hai con mắt khóc người một con
Và,
con mắt trần gian cuối cùng đó giờ cũng đã vĩnh viễn khép lại.
Sáng
hôm sau, tôi bâng khuâng kêu một người bạn thân báo tin Bùi Giáng đã ra đi và tự
nhiên đọc cho người bạn đó nghe hai câu thơ của Bùi Giáng đã làm tôi xúc động
miên man trong những tháng ngày viết lách đùa nghịch với bạn bè:
Ta
cứ ngỡ đùa vui trong chốc lát
Nào ngờ đâu đùa mãi đến điêu linh
Một
buổi tối thứ Tư trên xứ Mỹ, tôi đang ngon trớn rong chơi với vườn thơ “tập cười”
qua câu chuyện sinh điếu của cụ Thảo Am Nguyễn Khoa Vy thì nhận được I-meo của
Tà Thư báo tin Bùi Giáng vừa qua đời chiều hôm qua (7-10-98) tại Việt Nam. Tôi
bỗng chững lại, quên hết chuyện cười, nhìn xuống thật buồn và cảm thấy một
thoáng trống vắng. Những mệ, những ôn, những hoàng thân, tôn nữ một thời của Huế
lần lượt vắng bóng, mang theo cái "tửng tửng" truyền đời như tiếng
chèo đập nước trên sông lụi tàn sau tiếng máy dầu xình xịch.
Tự
nhiên tôi rơm rớm nước mắt... Phía bên kia đầu dây, người bạn cũng lặng im đến
nỗi tôi nghe cả tiếng sôi mơ hồ trong đường dây điện thoại. Trong một thoáng
phù du đó, tôi biết là người bạn cũng đang rơm rớm nước mắt như tôi. Trên quê
hương yêu dấu cái tửng tửng của Quảng đã gặp cái tửng tửng của Huế. Nơi quê người,
nếu không không có cái tửng tửng mang theo, tiếng nói yêu thương của ngày xưa
quê mẹ cũng sẽ chìm dần trong cổ tích.
Nhận xét này đã bị tác giả xóa.
Trả lờiXóaLâu ngày đọc lại thơ " Tô Vũ ".
XóaHồn thơ khoáng đạt như xứ Đà .
Hẩm hiu xa xót đời cô quạnh.
Rượu ,thơ đôi bạn của nhà thơ.
Hao Nguyen18:41 Ngày 27 tháng 8 năm 2013
XóaCó dạo ký giả nọ ,tình cờ gặp nhà thơ Bùi Giáng đang ngồi ăn đậu hủ ở ven đường bên hẻm.
Tính xuề xòa ông buông lời mời bạn ấy cùng ăn.
"Hãy ăn đi mời bạn cùng thưởng thức.
Rồi sẽ nhớ hương vị đậu hủ thôi .".
Thơ nhập tâm nên khi nói ra lời.
Nay ghép lại thấy tình thơ trong chữ.
Em kia bán đậu tới đây nào.
Thêm một chén nữa hãy đến trao.
Mấy ai thưởng thức hương đậu hủ.
Nhớ chăng người bán chỉ riêng ta.
( Xin thứ lỗi đã lạm dụng phần nhận xét mà cảm tác đôi vần kính tưởng nhớ cố thi sỹ BÙI GIÁNG ).
Chữ vàng kén sợi kề khung cửi.
Trả lờiXóaDệt thơ như thể gấm lụa nhung.
Trần gian đừng mặc mà chiêm ngưỡng.
Sắc màu phai nhạt kệ thời gian.