Chương
7: CUỘC ĐẤU TRANH BẢO VỆ NÀNG KIỀU
Nhưng với một người vừa chân ướt chân ráo đi lập nghiệp như ông, làm sao có tiền để in sách. Vì vậy ông phải xoay xở bằng nhiều cách. Một số người cho rằng Bùi Giáng đã nhờ người bà con đang làm ăn phát đạt lúc đó là bác sĩ Bùi Kiến Tín cho mượn tiền để in sách. Nhưng những người thân cận với Bùi Giáng cho biết ông đã về quê bán tất cả ruộng vườn được thừa hưởng ở Quảng Nam để lấy tiền in sách. Chi tiết này cho thấy Bùi Giáng quả là con người đáng nể phục.
Khởi đầu, Bùi Giáng tập trung vào việc nghiên cứu Truyện Kiều. Đây là tác phẩm
đã gây ấn tượng mạnh mẽ với ông trong thời kỳ còn học trung học. Năm Bùi Giáng
mười sáu tuổi, đọc những cuốn sách của Nguyễn Bách Khoa, ông cảm thấy bức xúc
vì những lời Nguyễn Bách Khoa đả phá Truyện Kiều quá nặng nề.
Lúc Bùi Giáng bắt tay vào sách vở, không khí tranh luận về Truyện Kiều khá sôi
nổi. Bùi Giáng đã hăng hái bước vào cuộc. Cuốn Một vài nhận xét về Truyện Kiều
và Truyện Phan Trần do Tân Việt xuất bản vào năm 1957 có những bài viết rất hay
về Truyện Kiều. Cùng với một vài tác giả khác, ông chống lại những quan điểm
cho rằng Truyện Kiều là một tác phẩm phản đạo đức, không mang tính nhân bản.
Song song đó, ông còn bênh vực cho cả nàng Kiều. Khi đó, tác giả Nguyễn Sĩ Tế vừa
tái bản tập sách Luận đề về Nguyễn Du, trong đó phê phán nhân vật Kiều nhu nhược,
lẩn thần, ham mê vật chất…Bùi Giáng bèn ra tay nghĩa hiệp bênh vực giai nhân.
Ông đối thoại thẳng thắn với Nguyễn Sĩ Tế, cho rằng Nguyễn Sĩ Tế hẹp hòi trong
cách nghĩ: “Sao ở mọi chốn khác ông Tế tỏ ra chu đáo là thế, mà riêng đây, ông
nỡ cứ hẹp hòi. Mười năm trước ông Nguyễn Bách Khoa từng lớn tiếng: hoàn cảnh xã
hội chi phối con người. Nhưng khi đem cái nguyên tắc ấy áp dụng trong việc phê
phán nhân vật, bao lần ông đã không chịu xét cái cảnh ngộ nào đã trực tiếp chi
phối tâm trạng con người nào”, “Ông tàn nhẫn quá. Mà chúng tôi tự lượng sức
mình không đủ để bênh vực cho giai nhân. Chúng tôi đành quay mặt đi, không dám
thấy, và chỉ xin phép yếu ớt khẽ kêu lên một tiếng xuýt xoa một đôi bận mà thôi
– những bận nào mũi dao của ông tỏ ra tàn bạo quá”. Với một giọng văn lúc thiết
tha trầm lắng, lúc sôi nổi mạnh mẽ, Bùi Giáng góp phần làm cho người đọc cảm
thương nàng Kiều hơn.
Những cuốn sách đầu tiên của Bùi Giáng có lẽ bán chạy nên các nhà xuất bản bắt
đầu chú ý đến ông. Những cuốn sau, Bùi Giáng không cần phải bỏ tiền ra in sách
để lấy tiếng nữa mà ông giao bản thảo cho các nhà xuất bản in để lấy tiền. Từ
lúc đó trở đi, Bùi Giáng kiếm được kha khá nhờ những khoản nhuận bút. Lúc này
ông đã thôi hẳn việc dạy học để chuyên tâm vào viết sách.
Thế nhưng Bùi Giáng hầu như không giữ lại cho riêng mình được cái gì. Tiền nhuận
bút sau khi chi tiêu cho việc sinh sống, còn lại ông đem mua mua chó, khỉ về
nuôi.
Vào những năm về sau, khoảng gần cuối thập niên sáu mươi, ông in được nhiều
sách, tiền nhuận bút cũng nhiều, ông càng tiêu tiền một cách lạ lùng hơn. Nhiều
người kể có lúc thấy đàn chó của ông lên đến mấy chục con. Phạm Mạnh Hiên cho
biết: “Hồi đó sách của Bùi Giáng thường in ở nhà xuất bản An Tiêm, mỗi lần thầy
Thanh Tuệ đưa tiền nhuận bút, tôi phải đi với anh Bùi Giáng. Lại lên đường ngao
du nhờ cái bộ vó thư sinh hiền lành của tôi mà nhiều lần mấy cái khách sạn ở Chợ
Lớn đã để cho chúng tôi cùng vào trú ngụ, bởi bên cạnh tôi có cái ông trung
niên kỳ dị, ăn mặc cổ quái chẳng giống ai, lại dẫn theo cả đàn chó hay vài ba
chú khỉ nhỏ”, “Ngày đó hễ có tiền là anh Giáng ra ngay khu chợ Bến Chương Dương
mua cả bầy chó, cả bầy khỉ”. Cái thú đi giang hồ đã làm cho Bùi Giáng nướng hết
những khoản nhuận bút vừa nhận. Phạm Mạnh Hiên kể tiếp: “Có lần say ngất ngưỡng,
sáng tỉnh dậy, thấy mình đang nằm ở vỉa hè”.
Một người quen khác của Bùi Giáng kể: “ Hơn 25 năm trước, tôi thấy ông nuôi một
đàn chó nhỏ, đi đâu cũng dẫn theo làm chúng sủa vang các hẻm đường, có lúc ông
cho hết vào bao bố và vác trên vai làm chúng cũng muốn ngất ngư, ngộp thở, chỉ
còn kêu hục hục trong bao. Có lần ông để quên đàn chó ở nhà bà Bé Ký cả tuần lễ
làm bà Bé Ký phải nuôi ăn và chăm sóc rất mệt, hở tay ra là chúng sủa vang nhà
không ai chịu nổi”. Khoảng năm 1974, một người em ruột của Bùi Giáng mua được
ngôi nhà ở Thị Nghè và mời ông về ở. Ông đến, dắt theo cả đàn chó khỉ khiến
hàng xóm hết sức kinh ngạc.
Tác giả: Trần Đình Thu
Chương
8: VĂN CHƯƠNG BÙI GIÁNG TRONG NHỮNG CUỐN SÁCH ĐẦU TIÊN
Nhiều người từng biết đến một thứ văn chương kỳ dị của Bùi Giáng. Nhưng thật ra
đó không phải là văn chương đích thực của ông. Ta hãy đọc một số cuốn sách của
Bùi Giáng để tìm hiểu về văn của ông. Trước hết là những cuốn ông viết ra trong
thời kỳ mới đến Sài Gòn được ít lâu. Chúng được đặt tựa một cách thật khiêm tốn
bằng cụm từ mở đầu “Một vài nhận xét về…”, được xuất bản trong khoảng thời gian
từ 1957 đến 1959. Những cuốn sách này được viết ra nhằm mục đích phục vụ cho học
sinh trung học. Trong sách có kèm theo những đề bài tập làm văn cho học sinh
luyện tập, nội dung liên quan đến các tác phẩm cổ điển của văn học Việt Nam như
Truyện Kiều, Lục Vân Tiên, Chinh Phụ Ngâm…Trên thực tế, đây là những cuốn sách
thuộc thể loại giới thiệu tác giả tác phẩm, người lớn cũng có thể đọc được và
thấy thú vị.
Thật đáng ngạc nhiên là ở những cuốn sách này, văn chương Bùi Giáng giản dị và
quá trong trẻo. Chúng khác xa với thứ ngôn ngữ kỳ dị mà ta thường thấy ở ông
sau này. Ta hãy đọc một đoạn văn Bùi Giáng mở đầu phần bài viết về Lục Vân
Tiên: “Lục Vân Tiên. Không một cuốn truyện nào đã làm xúc động tuổi nhỏ của
chúng ta nhiều bằng tác phẩm của cụ Đồ Chiểu. Ngày tôi còn nhỏ, tôi được người
vú già kể cho nghe. Kể đi kể lại mãi, và tôi cứ đòi kể lại cho nghe hoài. Dường
như mỗi lần nghe lại, lại thấy mới mãi ra. Từ đó hình ảnh nhân vật Lục Vân Tiên
cứ ám ảnh tôi luôn”, “Thế rồi ngày nay tôi lại nói chuyện Lục Vân Tiên với bà
con nghe. Tất nhiên là nói sẽ dở lắm. Vì tôi không làm sao có được cái giọng của
người vú già là một lẽ. Cái giọng trịnh trọng, chậm rãi, cảm động, lạ lùng, sau
khi đằng hắng đủ ba lần, rồi mới bắt đầu: Trước đèn xem chuyện Tây Minh.
Bao giờ cũng vậy, trước khi lựa lời kể lại, bà chậm rãi cao giọng ngâm mấy lời
thơ đầu của cụ Đồ Chiểu. Và từ đó, cái câu Ai ơi lẳng lặng mà nghe mãi mãi
trong tâm tư tôi sẽ còn vang một âm vang huyền hoặc”.
Ta thấy ở đây giọng văn của một người rất lịch thiệp. Giọng văn của một ông thầy
giáo quần áo đóng thùng tươm tất, đầu tóc chải mượt, mắt đeo kiếng trắng. Nó
quá khác biệt với những gì mà ta thường hiểu về một thứ ngôn ngữ Bùi Giáng cà
riềng cà tỏi được viết ra bởi một tác giả râu ria xồm xoàm áo quần bẩn thỉu.
Văn chương bây giờ của ông đẹp và thật mạch lạc. Không hề có những ngôn từ “lai
rai theo điệu du côn” như ông tự nhận sau này. Chúng ta hãy chú ý đến điểm này
để có cái nhìn chính xác khi tìm hiểu về Bùi Giáng. Nhưng giờ đây, ta hãy đọc
tiếp một đoạn văn thật hay nữa của Bùi Giáng để thấy rõ sự bóng bẩy trong câu
chữ của ông. Một đoạn văn trong cuốn sách viết về Chinh phụ ngâm: “Rồi những buổi
sáng, những buổi chiều, có sương, có khói, có cánh nhạn ở cuối ngàn, có mây hồng
vây ải lạnh, người sẽ trở gót ra lại bên đầu cầu, nhìn lại làn nước trong như lọc,
kể lể những gì với nước suối, tỉ tê những gì với ngàn dâu xanh. Ngàn dâu xanh
ngày kia che khuất bóng chàng, ngày nào sẽ trả lại cho ta bóng chàng về giữa những
hàng cờ bay phấp phới?”.
Không chỉ bóng bẩy và hoa mỹ. Ngòi bút Bùi Giáng lúc này còn thể hiện một sự sắc
sảo, tinh tế trong khi phân tích tác phẩm. Hãy đọc thêm một đoạn này nữa trong
cuốn sách viết về Truyện Kiều để thấy rõ điều đó: “Kiều đã sống một cuộc sống
giống chúng ta. Nàng đã đau khổ. Như mọi chúng ta thôi. Nhiều hơn một số, và ít
hơn một số. Nàng tỏ ra có thiện chí ít nhiều, và nhiều lần tội lỗi. Đời nàng tầm
thường là hình ảnh kiếp người tầm thường. Nhưng khi kể lại đời nàng cho ta
nghe, Nguyễn Du đã có một giọng điệu nhặt, khoan, trầm, bổng thế nào, và đã làm
sáng ngời bài học luân lý. Chúng ta cảm động. Khi lặng nghe Nguyễn Du chậm rãi
giọng lời, chúng ta thấy bên kia câu chuyện tầm thường, giữa cuộc sống tối tăm,
một kiếp người đương vùng vẫy. Trong tâm khảm ta, từ nay hình ảnh ấy sẽ in sâu,
rõ nét, đậm màu”, “Giá trị luân lý của Đoạn trường tân thanh không do những
hành động vụn vặt của Kiều, mà do lời thuật chuyện của thi nhân, lời đây không
phải là lời văn, mà là giọng nói của một tấm lòng. Lời nói mang nặng biết mấy
tâm tư tâm linh của người dân Việt hội tụ lại ở đây, một lần duy nhất, trong
sáng hơn ca dao, thâm thúy hơn tôn giáo, diễm tuyệt hơn văn chương, vì cái giọng
não nùng của một kiếp sống dở dang trong lòng đau thương của thế kỷ”.
Những áng văn thật là trong trẻo. Nhưng Bùi Giáng chỉ giữ được chất văn này
trong mấy cuốn sách đầu tiên ấy thôi. Những cuốn sách khác cách đó một vài năm,
là một loại văn chương hoàn toàn khác.
Sau những cuốn sách này, Bùi Giáng tập trung toàn bộ sức lực để viết cuốn Thi
ca Việt Nam. Đây là cuốn sách ông đặt rất nhiều tâm huyết, nhưng cuối cùng đành
chấp nhận ngậm ngùi cay đắng vì không được cơ quan phụ trách về văn hóa của
chính quyền cũ cho phép in ra. Lý do là vì ông đề cập đến quá nhiều văn nghệ sĩ
đang sống ở miền Bắc khi đó. Việc này đã khiến ông bị sốc một thời gian. Tiếp
theo, ông viết một số cuốn sách có tựa đề bắt đầu bằng cụm từ “Giảng luận về…”,
đề cập đến các tác giả như Tản Đà, Phan Văn Trị, Bà Huyện Thanh Quan…Những cuốn
sách này cũng rất có giá trị.
Tác giả: Trần Đình Thu
Chương
9: NHỮNG CUỐN SÁCH GIỚI THIỆU TƯ TƯỞNG, TRIẾT HỌC
Thời kỳ viết những cuốn sách giới thiệu tác giả tác phẩm Việt Nam ấy kết thúc,
Bùi Giáng chuyển qua viết loại sách khác. Giai đoạn này, chữ nghĩa của ông đã
có vấn đề. Ông không còn giữ được thứ văn chương mạch lạc như trước đây nữa. Từ
1960 đến 1963, ông cho ra đời khá nhiều cuốn sách viết về con người, tác phẩm
và tư tưởng của các nhà văn, nhà triết học phương Tây. Đầu tiên là cuốn Tư
tưởng hiện đại in năm 1960, đề cập đến Gabriel Marcel, Karl Jaspers,
Albert Camus, Simone Weil, Paul Claudel, Saint Exupéry, Jean Paul Sartre, André
Malraux. Cuốn sách này viết tương đối nghiêm chỉnh, dù Truyện Kiều thứ thiệt,
thơ giả Kiều do Bùi Giáng sáng tác, thơ Tản Đà, thơ của nhiều nhà thơ khác được
đưa vào đây không ít. Có lẽ vào lúc này, Bùi Giáng vẫn còn tỉnh táo hơn nên chữ
nghĩa của ông ít bị loạn. Nhờ thế mà cuốn sách này có nhiều đoạn phê bình văn học
rất đặc sắc. Cuốn sách này có thể biên tập lại, bỏ đi những đoạn tiếng Pháp
chen vào giữa thì có thể trở thành một cuốn sách có giá trị.
Năm 1963, bộ sách 2 tập dày ngót ngàn trang Martin Heidegger và tư tưởng
hiện đại ra đời. Chúng ta sẽ thấy ngạc nhiên khi chuyển từ những cuốn sách
trong trẻo trên kia sang những cuốn sách kỳ cục bây giờ. Hãy đọc một đoạn văn ở
phần Lời tựa: “Đã là con người quay chong chóng trên quả địa cầu tròn, có một
ai không cảm thấy mình là lá cỏ lá rêu mù sương lá lách, lau cồn lìa kim dứt cải…Vậy
phải biết nhắm hai con mắt lại để làm một cái giây leo như Tố – Như leo khắp
mình mẩy Hoa Thi Đường Thi không chừa một chỗ”.
Vì sao lại xảy ra cớ sự như vậy? Đi sâu vào nội dung cuốn sách ta còn nhặt được
rất nhiều đoạn văn kiểu đó nữa. Xin hãy đọc tiếp đoạn văn sau đây nằm trong
chương Martin Heidegger và vấn đề hữu thể: “Người yêu ta xấu với người /
Yêu nhau thì lại bằng mười phụ nhau / Nỗi niềm tưởng tới mà đau / Hàng rào giun
dế gặm sâu cẳng gà / Con ơi học lấy nghề cha / Một đêm ăn trộm bằng ba năm làm. Tại
sao một đêm ăn trộm bằng ba năm làm? Bằng ba năm hay bằng hai? Bằng hai hay bằng
bốn? Một đêm mà bằng bốn năm kia ư? / Nhiều quá? – Mấy thì vừa? – Hai năm? Ít
quá? – Vừa bằng là ấy ấy ấy chính lààà BAAA. Và ta xin trở lại với nguyên ý của
nguyên tình nguyên mộng lụy CA DAO LÀ MUÔN NĂM NGÀN ĐỜI VẠN ĐẠI NƯỚC VIỆT LÀ
SƯƠNG TUYẾT KIỀU ĐẠM IN PHA: Con ơi! Nhớ lấy lời cha. Một đêm ăn trộm bằng ba
năm làm. – Vâng. Con nhớ lời cha. Tại sao nhớ? – Vì con có nghe. – Tại sao
nghe? – Vì con có thấy. – Thấy gì? – Thấy rõ ràng lù lù trước mặt là… - Là gì?
Là: Một đêm ăn trộm bằng ba năm làm. – Ai ăn trộm? – Sartre ăn trộm áo quần của
Heidegger – Áo quần đẹp mới hay không? Đẹp mới vô ngần. Nhưng…Nhưng sao? Nhưng
than ôi! Tại sao lại xảy ra cái chuyện này là cái nỗi nông kỳ bí… - Kỳ bí như
thế nào? Cái nỗi nông nông nỗi gì? – Thưa rằng áo quần của Heidegger vốn của
Heidegger thì vốn của Heidegger mặc áo Heidegger coi ra rỡ ràng thật đẹp là
Heidegger rỡ ràng quắc thước là hùng dũng Heidegger rạng vẻ cân đai Heidegger
râu hùm mày ngài Heidegger hàm én đồ sộ cả cười hàm én Heidegger có nhìn đêm tế
ngộ trông mặt là Heidegger trông mặt cả cười với Kiều và Thúy và Tố và Như và
Nguyễn Du là ấy chính Heidegger đúng điệu thiên tài vùng vẫy trong bấy nhiêu
niên đáng lẽ từ thiên thu làm nên kinh thiên động địa nếu gặp người từ lâu tri
kỷ là đúng điệu tri kỷ của Heidegger…”. Đoạn văn kiểu như vậy dài ngót cả mấy
chục trang sách, ta như đi vào một mê hồn trận lạ lùng.
Trong hai tập sách dày hơn một ngàn trang này có rất nhiều đoạn văn như thế.
Không ai có thể biên tập được những cuốn sách này. Bùi Giáng cũng biết điều đó
nên trong phần mở đầu một chương của cuốn Tư tưởng hiện đại, Bùi Giáng viết:
“Bài này trước kia chúng tôi đăng ở tạp chí MAI, ký tên chung với ông Hoàng
Minh Tuynh. Ông Tuynh đã có nhã ý muốn bày tỏ niềm thông cảm đối với tôi là một
kẻ xưa nay vốn chịu nhiều những hững hờ của độc giả. Bùi Giáng, đó là một danh từ
có âm hưởng lăng nhăng, không gây được tin tưởng. Ông Tuynh đã chịu khó bỏ giúp
tôi những đoạn nào tôi viết quá trớn theo điệu du côn của Sartre và loại hẳn những
tiếng bê bối lai rai là những tiếng tôi quen dùng”. Bùi Giáng đã cám
ơn người biên tập cho ông trong phần mở đầu đó. Có lẽ đây là người duy nhất
biên tập văn Bùi Giáng, và nhờ đó cuốn sách này trở nên gọn gàng, ta có thể hiểu
được một số nội dung mà Bùi Giáng đưa ra. Trừ cuốn sách đó, còn lại những cuốn
sách liên quan đến triết học khác, ta không thể nào lĩnh hội được một chút gì
trong đó.
Tác giả: Trần Đình Thu
Chương
10: NHỮNG CUỐN TIỂU THUYẾT DỊCH DỞ DANG
Trong những năm từ 1966 đến 1969, Bùi Giáng dịch rất nhiều tác phẩm văn học nước
ngoài. Mảng sách này chiếm một tỉ lệ khá lớn trong những cuốn sách của Bùi
Giáng. Ông dịch các tác phẩm của Saint Exupéry, Albert Camus, André Gide,
Shakespeare…Một số bản dịch ông dịch rất bay bỗng, chẳng hạn như Cõi người
ta, Ngộ nhận… nhưng nhiều bản dịch khác ông lại dịch rất kỳ cục. Cho nên
các nhà xuất bản thời ấy thường than phiền là Bùi Giáng không chịu dịch trọn cuốn
sách mà cứ dịch dở dang rồi cà rỡn.
Ta hãy đọc một cuốn tiểu thuyết dịch nửa chừng như vậy của Bùi Giáng. Cuốn Nhà
sư vướng lụy được Bùi Giáng dịch, Quế Sơn xuất bản lần đầu vào năm 1969.
Đây là tác phẩm của một nhà văn Trung Hoa đồng thời cũng là một nhà sư tên là
Tô Mạn Thù.
Thoạt đọc cuốn sách, ta bắt gặp cái giọng văn vừa khúc chiết vừa văn hoa của
ông khi xưa, lúc ông viết “Một vài nhận xét…”: “Tại Bách Việt, về phía Nam
bờ biển, có dãy Kim Nhân Sơn nguy nga dựng sững. Những lúc trời quang mây tạnh,
ta có thể nhận thấy phía bên dưới sườn núi xanh um ẩn ẩn hiện hiện một mái ngói
hồng lóng lánh, lập lòe như lớp vảy con kình ngư. Đó là ngôi chùa Hải Vân, vẫn
còn nguyên như thuở xưa, cái ngày nhà Tống sụp đổ”, “Cho tới ngày nay, nhìn sơn
lĩnh ở xa xa cuối chân trời, vân khí sầm uất, bàng bạc chiều chiều như còn gợi
mãi vang bóng triều đại xưa. Và thỉnh thoảng tiếng sóng vỗ bi thống còn khiến lữ
khách ngậm ngùi, cúi đầu lặng lẽ, không dám gợi lại những bóng ma não nùng của
quá khứ”.
Ta thích thú đọc tiếp những trang sau. Sự hứng thú được duy trì khoảng hai ba
chục trang nữa. Đọc tiếp, ta chợt thấy thấp thoáng một vài cụm từ “có vấn đề”:
“Con xin trút giũ thảy thảy hết trở lại cho Như Lai, để suốt một bình sinh đi
theo dấu chân liên tồn của Tuyết Mai tiên nữ”.
Tuy nhiên chúng ta vẫn còn đọc được thông suốt văn bản thêm khoảng bốn năm chục
trang tiếp theo. Rồi cuối cùng ta đụng vào cái mớ rối bòng bong của Bùi Giáng.
Lúc này, Bùi Giáng bắt đầu lên đồng: “Mặt hồ nguy nga nào tinh khiết thế, cho đến
nỗi những ngư ông ngư phủ đã ngây thơ báo biểu rất mực rằng, nhìn đăm đăm vào ắt
các anh sẽ thấy những Đô Thị Phiêu Bồng Huyền Thuyết Cổ Hy nhô lên bất chợt bởi
thần thuật Đa Na Ô kỳ bí, ở diện tiền bọn người hì hục lao công, hồ ngọc ôi,
ngươi quyến rũ dã man gì như thế, khiến hằng hằng mỗi mỗi cường quốc nọ cứ lăm
le muốn chiếm hữu đất đai xứ sở kia cho bằng được”.
Từ lúc này trở đi, nếu ta muốn thưởng thức một cuốn tiểu thuyết hay của Trung
Quốc thì không thể được nữa. Vì đã đến lúc Bùi Giáng bận múa bút. Bùi Giáng vứt
bỏ những tình tiết của tiểu thuyết ra ngoài để thay vào đó là những chuỗi dài từ
ngữ dính chùm nhau, kéo từ trang này qua trang khác của ông. Hết văn xuôi thì lại
đến thơ: “Hỡi ôi! / Lời tối hậu? Ý tuyệt trù / Bỗng dưng chắp nối cho sầu ma
hoang / Lời thăm thẳm? Ý khôn hàn / Vì đâu riêng tụ về hàng thơ điên / Bán khai
nhân vật diện tiền / Sương lung bán ẩn suốt miền cảo thơm”.
Nhưng chưa hết đâu. Bùi Giáng vẫn chưa thỏa mãn khi đã đùa giỡn như thế. Cho
nên ông đưa nàng Kim Cương của ông vào trong cuốn tiểu thuyết của Trung Quốc: “Ôi
em Kim Cương ngàn thu một thuở Nương Tử rất mực vô ngần Nam Diện cành Nam màu
lan sơn thủy”. Chúng ta không thể bình luận gì được ở chỗ này nữa.
Cho đến lúc Bùi Giáng hoàn toàn quên luôn việc dịch tiểu thuyết khi ông nhảy
vào trong bối cảnh để xưng là tại hạ và ngâm thơ hoặc là hát:
“Anh đã hái ngành lá cây thạch thảo
Em nhớ cho mùa thu đã chết rồi”
“Em nhớ cho mùa thu đã chết rồi
Chúng ta sẽ không tương phùng được nữa
Mộng trùng lai không có được trên đời
Hương thời gian mùi thạch thảo bốc lên
Và nhớ nhé, ta đợi chờ em đó…”
Có lẽ nói sẽ không hết ý. Vì vậy nên trích vào đây một đoạn bản dịch tiểu thuyết Nhà
sư vướng lụy của Bùi Giáng:
“Nói xong nàng vén áo xiêm, chỉnh đốn quỳ một chân xuống, trang trọng đón chút
quà mọn như đón tặng vật trời ban. Ôn tồn thuần hậu mà rằng:
-Kính tạ Tam Lang! Tam Lang từ nay đừng dùng tiếng “cô nương cô nưỡng cô nuồng”
mà gọi tôi. Nghe có vẻ ra làm sao ấy. Chẳng thân thiết tí nào.
Tôi nói:
-Kính thưa cô nương. Tại hạ đồng ý là: tiếng cô nương nghe ra không có vẻ thân
mật. Nhưng còn tiếng “cô nuồng” thì quả là thân thiết bịch bồ.
Tĩnh Tử hỏi:
-Hà dĩ kiến đắc?
Tôi đáp:
-Nhân vì tiếng “cô nuồng” có chứa chất âm thanh “uông uông uồng uồng” ngụ trong
tính tình nên lời tuyệt diệu.
Tĩnh Tử hỏi:
-Tuyệt diệu như răng?
Tôi nói:
Tranh vẽ của Bùi Giáng
-Như rằng uông uồng chuồn chuồn thèm thuồng và ở truồng vân vân.
Tĩnh Tử phì cười:
-Tam Lang chớ có giỡn như thế em không có bằng lòng.
Tôi nói:
-Dạ vâng.
Nuồng bảo:
-Dạ, vâng cái chi. Tam Lang hãy dùng tiếng ừ vậy.
Tôi đáp:
-Nhiên.
Nuồng nói:
-Phải. Nhiên. Giờ đây em đã nhận tặng vật của anh, sớm hôm nhìn ngắm, em sẽ
không quên con người sẽ không quên con người đã ban cho”.
Cuốn tiểu thuyết hay của Trung Quốc coi như hoàn toàn biến mất trong bàn tay của
một dịch giả tài hoa nhưng không bình thường này.
Tác giả: Trần Đình Thu
Chương
11: VIẾT TÙY BÚT VĂN HỌC
Có nhiều cuốn sách của Bùi Giáng, việc phân chia và xác định thể loại thật là
khó khăn vì ông cứ chạy lan man từ cái nọ sang cái kia. Cho nên chỉ có thể định
danh một cách tương đối cho những cuốn sách của ông mà thôi. Từ năm 1969 trở
đi, ông bắt đầu viết những cuốn sách “khó xác định thể loại” ấy. Có những cuốn
sách không biết xếp vào thể loại gì. Chẳng hạn như Con đường ngã ba, Mùa
thu trong thi ca…Với những cuốn ông bàn về chuyện văn chương, ta có thể tạm gọi
là tùy bút văn học. Gọi thế là bởi vì ông viết rất ngẫu hứng, thích gì viết đó,
thậm chí đôi lúc sa đà qua những chuyện ngoài văn chương.
Trong cuốn Thi ca tư tưởng do Ca Dao xuất bản năm 1969, chỉ chưa đầy
170 trang sách mà Bùi Giáng đã đề cập đến mấy chục tác giả, từ những tác giả Việt
Nam như Nguyễn Du, Huy Cận, Xuân Diệu cho đến những tác giả nước ngoài như Lý Bạch,
Shakespeare…Cuốn sách không chỉ nói đến các nhà văn nhà thơ như Nguyễn Bính, Hồ
Dzếnh, Albert Camus mà còn dẫn dắt qua các nhà triết học như Heidegger,
Nietzsche…Và không chỉ nói chuyện trong lĩnh vực văn chương triết học mà Bùi
Giáng còn la cà sang những chuyện khác. Chẳng hạn như bài Trí Hải Ni Cô, ông viết:
“Ni cô vừa rời bỏ Vạn Hạnh đi tu tiên ở trên núi. Nguyên nhân là: các vị sư ở Vạn
Hạnh chế ni cô đã đẻ ra Bùi Giáng già nua, ni cô bẽn lẽn bèn giũ áo ra đi. Sự
tình nông nỗi ấy, Thích Minh Châu phải chịu trách nhiệm một phần lớn”.
Có rất nhiều bài viết chỉ ngắn khoảng chưa đầy trăm chữ và cũng cà rỡn như thế.
Như bài Vũ Hoàng Chương, nguyên văn như sau: “ Đá đâu lên tiếng thay vàng
– Gỗ đâu mở mắt hai hàng bạch dương. Nhiều người đã nói tới thơ ông Vũ Hoàng
Chương. Tại hạ còn biết nói thêm được lời gì bây giờ”. Hoặc là bài Nguyễn Bính
cũng tương tự như thế: “Mẹ cha thì nhớ thương mình – Mình đi thương nhớ người
tình xa xôi. Đó cũng là tâm sự Đức Khổng Phu Tử vậy. Quê hương nước Lỗ thì nhớ
ông. Mà ông thì giũ áo ra đi lang thang chu du lữ thứ tìm kiếm khắp nước Tàu
cái vong hồn tồn lưu nào chẳng rõ. Rồi san định bao nhiêu cuốn kinh, ghi chép
cái ngấn tích phiêu bồng đã trôi tuột từ bao”.
Mở đầu cuốn sách, Bùi Giáng viết vài trang về Phạm Hầu, một người có mặt trong Thi
nhân Việt Nam nhưng sau này ít tiếng tăm. Xong chuyển qua hai ba tác giả
khác. Rồi trở lại với Phạm Hầu vài ba trang nữa. Cái lối viết cà giựt này Bùi
Giáng áp dụng cho nhiều trường hợp khác như Hồ Dzếnh, Hoài Thanh, Đinh
Hùng…Không thể dẫn chứng hết những cái ngẫu hứng của Bùi Giáng. Chẳng hạn một
bài viết về Hồ Dzếnh ông dùng cái tựa là Hồ Xuân Dzếnh, tiếp theo giải thích
trong bài: “Tôi thêm chữ xuân vào tên ông, ấy chẳng phải làm điều phi lý. Chính
ông đã có tập thơ Hoa Xuân Đất Việt. Tôi không thể tự ban thêm cho mình một tiếng
xuân vào trong tên tuổi. Nhưng riêng biệt với Hồ Dzếnh, chúng ta được quyền gọi
ông là Hồ Xuân Dzếnh”.
Có lẽ nói chuyện văn chương mãi cũng chán nên thỉnh thoảng Bùi Giáng viết những
bài về chuyện đời chuyện người thật ngộ nghĩnh. Chẳng hạn như bài Đốn tre: “ Khó
nhất là đốn tre, khó nhì là ve gái. Người thường dân thường khuyên bảo dạy dỗ
con cái như thế. Thấy thằng con sỗ sàng ve gái, họ không trực tiếp ngầy ngà. Họ
không nói ve gái khó lắm lắm. Con phải chậm rãi từ từ…Họ nói quanh: khó nhất là
đốn tre, khó nhì là ve gái. Lời nói ấy về sau sẽ khiến đứa con suy nghĩ. Nó tự
nhủ: bố bảo khó nhất đốn tre? Nhưng mỗi ngày ta có thể đốn được năm mươi gốc
tre một cách dễ dàng. Khó nhì là ve gái? Sao suốt mấy tuần lễ nay ta ve con Mận
mà nó vẫn dửng dưng chưa có bề nào ngã ngũ? Từ đó cái câu khó nhất đốn tre khó
nhì ve gái có thể giúp đứa con hội ngược chân lý. Ấy là khó nhất ve gái khó nhì
đốn tre. Đi vào cõi tư tưởng chúng ta luôn luôn phải lưu ý tới cái lối ăn nói
nghịch lý của người tư tưởng. Họ nói một đường để ta suy ra một ngã”.
Có một điều cần để ý, Bùi Giáng luôn luôn tìm cách hài hước. Những điều nghiêm
túc nhất cũng được ông biến thành chuyện cười được mà không sợ mất lòng ai. Viết
về một người làm thơ tên là Bích Yên, ông mở đầu như sau: “Cô nữ sĩ này làm thơ
chân thành. Nếu cô đi tu, ắt sớm thành quan âm bồ tát”. Hoặc ông viết về Xuân
Diệu như thế này: “Nếu đọc Vân Đài và Ngân Giang, phải nghĩ rằng đó là lời thơ
của bà ngoại bà nội chúng ta, mới cảm thấy hay thấm thía – thì đọc Xuân Diệu, ắt
nên nghĩ rằng đó là thơ một thằng em”. Nhờ chất hài hước đó mà ta có đủ hứng
thú để đọc cho hết cuốn Thi ca tư tưởng.
Tác giả: Trần Đình Thu
Chương
12: BÙI GIÁNG CÓ PHẢI LÀ MỘT NGƯỜI ĐIÊN HAY KHÔNG?
Đến đây, có lẽ cần giải đáp câu hỏi làm nhiều người thắc mắc: Bùi Giáng có phải
là một người bị bệnh điên hay không? Có rất nhiều bài viết về Bùi Giáng, trong
đó một số tác giả khẳng định Bùi Giáng là người điên trong khi một số khác lại
nói ngược lại. Nên tin ai?
Trong một bài viết, tác giả Trần Đới khẳng định: “Một sự thực là Bùi Giáng chưa
bao giờ điên. Cũng như anh chẳng bao giờ giả điên. Càng chưa bao giờ Bùi Giáng
bất mãn trước bất cứ thời thế nào. Bởi lẽ dễ hiểu là Bùi Giáng chẳng sống theo
thời thế, mà chỉ biết sống từ cõi văn nghệ lúy túy càn khôn của anh. Thời kỳ của
Bùi Giáng bộc phát ra bên ngoài mà chúng ta gọi là điên, ấy là thời kỳ tĩnh lại
và hưng phấn cùng độ của người nghệ sĩ. Tất cả lẽ chân thiện mỹ của nghệ thuật
thi ca từ nhiều đời nhiều kiếp đều dồn về lúc đó…Bây giờ người thi sĩ này chỉ
còn một cách duy nhất để sáng tác nguồn cảm hứng kia là sống.”
Còn Nhất Thanh thì viết như thế này: “Ồ, chẳng có ngôn từ nào thích hợp với Bùi
Giáng cả. Ông chỉ là một ông già bình thường nhất, dễ thương nhất. Nếu có điên
chăng, có lẽ là tất cả chúng ta”.
Bùi Giáng hiển nhiên cũng biết việc nhiều người tranh cãi nhau rằng ông có điên
hay là không điên. Và ông viết về ông như sau: “Nó điên? Vâng nhưng điên một
cách vui vẻ. Bạ đâu gọi đó là mẫu thân bát ngát của con. Người ta bảo rằng nó
không điên. Có kẻ bảo rằng nó giả vờ điên. Muốn biết nó điên hay không điên,
hay giả vờ điên, thì trước hết phải đáp vào câu hỏi: Sao gọi là điên? Nhưng mà?
Nhưng mà đó là một câu hỏi chưa hề có một lời giải đáp dưới gầm trời và suốt
xưa nay vậy.”
Đến đây thì mọi người càng bối rối hơn. Vậy thì Bùi Giáng là người như thế nào?
Ông là một người điên hay là một người bình thường? Nhưng một sự thật không thể
chối cãi: Bùi Giáng đã từng là bệnh nhân của bệnh viện tâm thần hẳn hỏi. Năm
1969 là năm ông in được nhiều tác phẩm nhất nhưng cũng là năm mà ông vấp phải
cú sốc lớn thứ hai trong đời. Bùi Giáng bị hỏa hoạn thiêu cháy hết toàn bộ sách
vở quý hiếm, một số tranh và đặc biệt nhiều bản thảo hoàn chỉnh mà ông rất tâm
đắc. Sau cú sốc này, gia đình phải đưa ông vào Bệnh viện tâm thần Biên Hòa để
chữa trị.
Chúng ta hãy nghe Cung Tích Biền kể: “Khoảng đầu thập niên 70 có lẽ người ta
đưa ông vào nhà thương điên Biên Hòa chữa cái bệnh đứng ngã ba nhìn ra ngã bảy.
Từ nhà thương điên trở ra, bữa gặp nhau thấy ông rất tỉnh. Bèn hỏi một câu thường
tình: “Nhà thương Biên Hòa trị cái tẩu hỏa hay nhỉ!” . Ông trả lời tỉnh queo:
“Chữa trị quái gì đâu. Chẳng là ở ngoài mình thấy mình điên số một, khi vô nhà
thương điên mới hiểu ra mình là đồ bỏ, điên nhí, điên tiểu thủ công nghiệp;
trong nhà thương điên nhiều cha điên thượng thừa, điên vĩ đại hơn mình nhiều.
Do vậy mà mình tự động thôi điên”.
Nghe Bùi Giáng nói như thế, hẳn ta cảm thấy ngờ ngợ rằng những việc làm không
giống ai của ông là do ông muốn thế chứ chẳng phải do bệnh tật gì gây ra. Chẳng
hạn một nhà văn viết: “Cũng có thể hiểu Bùi Giáng như thế này: Ông coi đời là hữu
hạn, là phi lý, là chốn lưu đày, là cõi phù du là cái mớ bòng bong vớ vẩn. Nếu
các nhà văn hiện sinh từng nói: Tôi phản kháng vậy tôi hiện hữu, thì có lẽ Bùi
Giáng muốn nói, tôi phá hủy vậy tôi hiện hữu”.
Nói như Trần Đới, như Nhất Thanh là nói đến cái ý thức quyết định hành động của
con người trong trường hợp bình thường. Còn Bùi Giáng thì lại khác. Chung quanh
vấn đề Bùi Giáng, có hai điều cần nêu ra sau đây. Một là, không phải chỉ có
mình Bùi Giáng vừa có những biểu hiện tâm thần vừa làm thơ viết văn. Có rất nhiều
bệnh nhân của các bệnh viện tâm thần là nhà văn nhà thơ là họa sĩ…Họ có thể vẽ
tranh, sáng tác văn thơ ngay trong thời gian điều trị bệnh. Có điều họ không có
sẵn cái gốc tài năng xuất chúng như Bùi Giáng nên không trở thành hiện tượng đặc
biệt mà thôi.
Hai là, những hành vi khác người của Bùi Giáng đã được các nhà chuyên môn xác định
có nguyên nhân bệnh lý hẳn hoi chứ không phải là vấn đề tư tưởng hay nhân sinh
quan gì. Đó chính là căn bệnh cuồng. Tuy nhiên có điều, vì ta thấy cái điên của
ông cũng hơi khác người nên cảm thấy ngờ ngợ. Nhưng dần dần ta sẽ được rõ hơn
khi xem xét đến các vấn đề khác. Cần biết rằng, không riêng gì Bùi Giáng mà nhiều
bệnh nhân tâm thần khác, tiếp xúc với họ đôi khi ta cũng dễ nhầm lẫn vì thấy họ
có vẻ thật thật giả giả, nửa điên nửa tỉnh. Cho nên chúng ta không thể kết luận
được về tình trạng của họ mà phải là các nhà chuyên môn.
Những người trong gia đình Bùi Giáng cho biết, vào thời kỳ ông chưa phải vào bệnh
viện tâm thần Biên Hòa, nhìn bên ngoài Bùi Giáng không thể hiện nét gì khác người.
Chỉ sau khi từ bệnh viện trở ra, thì ông mới có cái bộ dạng của những người bệnh
cuồng điên mà thôi.
Tác giả: Trần Đình Thu
Chương
13: THƠ ĐIÊN, TRIỆU CHỨNG CỦA TÂM BỆNH
Vào tháng 5 năm 1970, những bác sĩ ở Bệnh viện tâm thần Biên Hòa, lúc đó còn gọi
là Dưỡng trí viện Bác sĩ Nguyễn Văn Hoài, bao gồm các bác sĩ Nguyễn Tuấn Anh,
Tô Dương Hiệp và Trịnh Văn Lang đã tập hợp một số bài thơ của các bệnh nhân từng
điều trị tại bệnh viện, trong đó có thơ của hai nhà thơ nổi tiếng đương thời là
Bùi Giáng và Nguyễn Ngu Í để in thành tập và phát hành ra trên thị trường. Tập
thơ này được đặt một cái tên rất đặc biệt là Thơ điên. Và để bạn đọc không
bị nhầm lẫn, những người biên soạn còn mở ngoặc đơn thêm vào hai chữ thứ thiệt.
Có nghĩa không phải là thơ điên của những người đi theo trường phái điên loạn
mà là thơ của những người bị bệnh điên sáng tác ra. Trước khi đi vào tìm hiểu
ngôn ngữ thơ Bùi Giáng cùng những vấn đề khác, chúng ta cần tìm hiểu qua về tập
thơ đặc biệt này.
Tập thơ giới thiệu gần bốn chục bài thơ hoặc trích đoạn bài thơ của bảy tác giả
thuộc nhiều thành phần, lứa tuổi khác nhau. Trong tập thơ, bác sĩ Tô Dương Hiệp
đã viết một bài giới thiệu để giải thích cho bạn đọc rõ thêm một số vấn đề về
thơ và sáng tác thơ của người bệnh tâm thần. Theo bác sĩ Tô Dương Hiệp thì “phần
đông các văn nghệ sĩ có biệt tài đều sống với một tâm trạng đặc biệt, khác thường,
và tác phẩm của họ cũng đượm tánh cách khác thường đó”. Những người này thường
có những biểu hiện rất khó hiểu: “Hành động và ý nghĩ của họ, chúng ta cho là kỳ
lạ, khó hiểu, không thực tế”. Và theo ông, cuộc sống của những người này rất
mãnh liệt. Với những người này, giây phút mà họ bắt tay vào sáng tạo là những
giây phút đặc biệt. Ông dẫn chứng trường hợp của Hàn Mặc Tử: “Thi sĩ Hàn-Mặc-Tử
nhận thấy những lúc tâm hồn bị dao động mạnh, những lúc lòng tràn đầy ẩn ức, uất
khúc, là những lúc nàng thơ đến với thi sĩ”.
Tuy vậy không phải ai trong số những người nói trên cũng trở thành như Bùi
Giáng, Nguyễn Ngu Í mà chỉ có những người “dám cất giọng nguyền rủa trời đất,
nguyền rủa người đời tệ bạc, làm mất an ninh và trật tự công cộng đến nỗi phải
bị nhốt vào nhà thương điên” thì mới thuộc đối tượng ông nói đến.
Bác sĩ Tô Dương Hiệp viết: “Chúng tôi được may mắn gần gũi số người sau này để
theo dõi biến chuyển tâm hồn của họ, cảm thông với họ và giúp họ tìm một lối
thoát cho tâm hồn. Những bài thơ trong tuyển tập này là sáng tác của những người
có tâm bịnh thật chớ không phải những người giả bịnh để tìm sự độc đáo. Chúng
tôi rất quý những bài thơ này vì nó giúp chúng tôi hiểu được tâm trạng người bịnh
nhiều hơn”. Nhận xét về thơ của những người mắc bệnh, ông viết: “Lời thơ của
người mắc tâm bịnh phảng phất một hương vị kỳ lạ, nhan nhản hình ảnh ghê rợn và
đưa ra một nhịp điệu cuồng nhiệt vì nó là tiếng nói của vô thức, mà vô thức là
một thế giới sâu thăm thẳm, âm u mù mịt đối với chúng ta, nó không theo quy định
của thế giới thực tế bên ngoài, không theo nguyên tắc của lý trí sáng suốt”.
Đó là phần giới thiệu chung về thơ điên. Trong phần giới thiệu về tác giả Bùi
Giáng, nhóm biên soạn viết: “Ở đây chúng tôi không giới thiệu Bùi Giáng, nhà
thơ lạ lùng nổi danh từ lâu, chúng tôi cũng không giới thiệu Bùi Giáng, nhà văn
đã từng dịch thuật hoặc trình bày tác phẩm và tư tưởng của vài triết gia cừ
khôi Tây phương một cách độc đáo và bay bướm, mà chúng tôi chỉ muốn trình bày
cùng bạn đọc Bùi Giáng, con người mà tâm tình và cuộc sống khiến nhà thơ xứ Quảng
này, nay tuổi được 43, phải ở trong số người bệnh tâm trí hạng cuồng nhẹ” và
“gia đình anh phải đưa anh lên dưỡng trí viện, và nhờ đó, chúng tôi mới có dịp
làm quen người cầm bút cô độc này mà bịnh đã từ cuồng nhẹ chuyển sang cuồng nặng”.
Tập thơ đã đăng ba bài thơ của Bùi Giáng và chỉ ra những mối liên hệ giữa lời
thơ và triệu chứng bệnh của ông. Có lẽ trước hết, chúng ta hãy đọc một bài thơ
ngắn nhất trong ba bài thơ được đăng trong tập Thơ điên đó của Bùi Giáng. Đó là
bài Marilyn Brigitte, có nội dung nguyên văn như sau:
Chú bình?
Chính thị là bù
Chú hòa?
Chà vú chính lu bù cồn
Lá hoa ồ ạ oan hồn
Cảo thơm diên vĩ di tồn sinh ôi
Cây đen cành đỏ lên đồi
Ngẩng trông kiều mộc cây ngồi kể công
Khéo khuyên kỳ mộng phiêu bồng
Khuyên bao nhiêu lại tàn hồng bấy nhiêu
Băng thiên tuyết địa thịnh triều
Dặm khuya ngất tạnh ô kiều nương ôi
Monroe nường ấy xa rồi
Còn em Brigitte không lời Bardot”.
Chương
14: TRÒ CHƠI NÓI LÁI Ở TRONG THƠ
Bùi Giáng có đến hàng trăm bài thơ quái dị trong hàng ngàn bài thơ mà ông làm
ra chứ không phải chỉ có mấy bài ông sáng tác trong thời kỳ điều trị ở bệnh viện
tâm thần Biên Hòa. Những bài thơ đó ta không thể hiểu được khi đọc nó. Tập Thơ
điên thứ thiệt chỉ trích dẫn có ba bài thơ là ba bài thuộc đỉnh cao của sự quái
dị này. Đó là các bài Marilyn Brigitte, Trong bàn chân đi và Ngẫu hứng. Mỗi bài
thơ thể hiện một nét đặc biệt của sự rối loạn tư duy ngôn ngữ của tác giả. Bài
Trong bàn chân đi là cái thú nói lái của Bùi Giáng:
Có mấy ngón
Năm ngón
Mười ngón
Món người
Non ngắm
Nắm ngon
Hoặc là năm ngón nón ngăm
Màu đi trên nước cá tăm chuyên cần
Nón ngăm dặm bóng xoay vần
Đọng nơi góp tụ và chần chờ đưa
Nón mù sương nón che mưa
Nón về phố thị em thừa thiên ôi.
Hoặc trong bài Ngẫu hứng, tác giả vừa chơi trò chơi nói lái vừa thích thú
chạy theo trò chơi kéo dắt dây liên hoàn các từ ngữ:
Ví chăng văng chỉ vi ngồi
Mà ra đứng ngóng sương đồi gió thông
Bởi chưng ví chẳng phiêu bồng
Chẳng nghe con cá không đồng ý sao”
Những trò đùa với từ ngữ đó chính là những triệu chứng tâm thần. Trong tập Thơ
điên, các bác sĩ trong nhóm biên soạn đã giải thích: “Con bịnh thích chơi
chữ, thích nói lái, và để cho một số âm thanh nào đó chúng lôi cuốn quấn quít lấy
nhau. Và ở trường hợp này, không phải ý hay tình gợi cảm hứng tác giả, mà là âm
thanh, nhạc điệu”. Các bác sĩ lại nói tiếp: “Có lẽ đối với ba bài thơ này, ta
không cần tìm hiểu ý nghĩa của chúng – mà ngoài tác giả, có ai hiểu được cho
chăng?”.
Trò chơi nói lái kết hợp với kéo dắt dây liên hoàn rất phổ biến trong thơ Bùi
Giáng. Mỗi bài có một kiểu chơi khác nhau. Ở bài Ngẫu hứng trên, sự dắt
dây dựa trên cơ sở số đếm một, hai, ba (một hôm, hai hôm, ba hôm) và phụ âm đầu
g (gầu guộc gầm ghì). Còn trong một bài thơ điên khác mà Bùi Giáng sáng tác sau
này, bài Đằng la ca, thì sự dắt dây dựa trên một hình thức khác:
Đằng la đa dạng đãng đa thu
Đủ dạng đa thu đã tạc thù
Đính lạn hồng mai sơ phá ngạc
Điền linh diệu mấn dẫn khai lu
Mới nghe qua cứ tưởng là một bài thơ chữ Hán hoặc chữ Phạn. Nhưng đọc kỹ bài
thơ chúng ta mới thấy ông đang chơi trò chơi. Trong bài thơ này, khi bật ra hai
từ đằng la, trong đầu ông lập tức xuất hiện từ nói lái của đằng la là đa lằng.
Nhưng ông chỉ sử dụng một từ đa rồi chuyển sang dạng để có thể kéo dài ra. Sau
khi viết ra hai chữ đa dạng ông lại bật ra từ nói lái của đa dạng là đạng da.
Ông viết tiếp từ nói lái đầu tiên, nhưng đổi đạng thành đãng cho đúng với bằng
trắc. Rồi cứ như thế ông tiếp tục kéo dắt dây từ ngữ đi.
Rất nhiều nhà nghiên cứu do không biết “bí quyết” này của Bùi Giáng nên cứ chạy
theo những câu văn bài thơ lạ lùng của ông để tìm tòi về giá trị nghệ thuật và
ý nghĩa nội dung của chúng, cuối cùng chỉ tạo ra những đám mây mù bao phủ dày đặc
thêm chung quanh hiện tượng Bùi Giáng. Điển hình như tác giả Nguyễn Hưng Quốc,
một nhà nghiên cứu ngôn ngữ học. Với bài thơ Ngẫu hứng, tác giả này lại vận dụng
quan điểm của Jacques Derrida mà ông cho biết là một triết gia hàng đầu trong một
trào lưu triết học tại châu Âu và Mỹ để giải thích. Nguyễn Hưng Quốc đã diễn giải
thật tỉ mỷ về mối liên hệ giữa âm và khái niệm trong ngôn ngữ học để từ đó suy
ra rằng, đoạn thơ trên của Bùi Giáng phát triển theo một chuỗi ngôn ngữ phù hợp
với luận điểm của Derrda. Đặc biệt hơn nữa, Nguyễn Hưng Quốc còn dẫn dắt qua vấn
đề chiến tranh: “Thành ra, chữ một hôm không phải chỉ gợi ra ý nghĩa là một đơn
vị thời gian, mà còn gợi ra ý nghĩa là súng đạn, là cơm gạo. Xin mở một dấu ngoặc:
bài thơ này được Bùi Giáng sáng tác trong giai đoạn chiến tranh Việt Nam đang hồi
khốc liệt. Thời ấy, với nhiều người, với rất nhiều người, sống một ngày đồng
nghĩa với sự chịu đựng những đe dọa từ chiến tranh và từ sinh kế”. Từ một bài
thơ vô nghĩa của một thi sĩ bị bệnh điên đang trong cơn cuồng nặng, tác giả này
đã đưa ý nghĩa bài thơ đi quá xa.
Tác giả: Trần Đình Thu
Chương
15: VỜN CHỮ, MỘT “THỦ PHÁP NGHỆ THUẬT”CỦA THƠ ĐIÊN
Năm 1973, Nhà xuất bản An Tiêm cho tái bản tập Mưa nguồn. Tập thơ này in lần
đầu vào năm 1962 là một tập thơ bình thường. Nhưng trong những lần in tái bản
sau này, Bùi Giáng có thêm vào một phần nội dung nữa, được ông đặt tên là Mưa
Nguồn Hòa Âm với lời chú giải: “Thêm những bài hòa âm này cho tập Mưa nguồn
trong kỳ tái bản, ấy là góp phần soi tỏ ý nghĩa dịch chuyển của Mưa nguồn. Đồng
thời cũng giúp cho dễ nhìn thấy nội dung bức bách của những thi phẩm tiếp theo:
Lá hoa cồn, Ngàn thu rớt hột, Màu hoa trên ngàn…”.
Chẳng biết ông “soi tỏ ý nghĩa” theo kiểu nào nhưng trong phần mới bổ sung thêm
này, những bài thơ điên xuất hiện rất nhiều. Lúc này là lúc ông đã ra khỏi Bệnh
viện tâm thần Biên Hòa nhưng có lẽ căn bệnh vẫn không thuyên giảm. Vì thế ông vẫn
còn say mê trò chơi vờn chữ. Bây giờ Bùi Giáng đã tìm ra được nhiều trò chơi mới
hơn, thú vị hơn đối với ông.
Ta hãy đọc một đoạn trong bài thơ Quần sẽ đỏ in trong phần Mưa
Nguồn Hòa Âm:
Quần về cỏ rậm Giậu Thưa
Quần dày mỏng quận chiều trưa nhớ quần
Quần Trong Tiết
Quận Thiên Quân
Quần đi Lễ Hội quần dừng Đạp Thanh
Quần reo Tảo Mộ Tơ Mành
Quần hò hẹn sẽ yến oanh dịu dàng
Dịu mềm tồn lập hở hang
Quần mơ trút giũ quan san bên quần
Quần Lễ Hội Tháng Ba Dâng
Triều tam mộ tứ quần thần vua vui
Quần mộng tưởng
Quận ngậm ngùi
Quần tham xế lục quần vùi lấp xanh
Chúng ta thấy đoạn trích có một đặc điểm là rất nhiều chữ quần hoặc quận, quân.
Trong toàn bài thơ này có tất cả đến chín mươi chữ quần hoặc quận, quân như thế.
Đa số là chữ quần, còn lại khoảng chục chữ quận, quân. Ở đây, bài thơ không có
nghĩa với chúng ta nhưng với Bùi Giáng thì khác. Có lẽ ông cảm thấy rất thỏa
mãn vì chỉ vờn quanh theo chữ quần mà đã làm ra được bài thơ thật là dài. Trong
bài thơ, có những khi quần là chiếc quần để mặc, quần xanh quần đỏ nhưng đôi
khi lạc một chút thành ra quần thần vua quan hoặc là thành quận công.
Còn trong bài Đừng đi vào ông lại có một kiểu chơi đùa khác. Ông
không vờn theo tên gọi của một thứ đồ vật như chiếc quần mà lại vờn theo phụ âm
đầu Đ nằm ở đầu câu thơ. Trong bài, các câu thơ đều bắt đầu bằng Đ:
Đừng đi vào trong thiều quang thớ cỏ
Đi đi em đừng đi nữa sương hoa
Đi đi đi đừng khóc nữa sơn hà
Đường lổ đổ những tro tàn hy lạp
Đầu dặm đất tới cuối cùng bão táp
Đẩy vân thiên từ nguyên thủy nguyệt ngà
Đẩy vân mồng từ nguyệt tượng kiêu sa
Đừng đi nữa tới xa xôi mạt hậu
Bài thơ này, thật là trùng hợp khi có vừa vặn chín mươi câu bắt đầu từ phụ âm
Đ.
Có những khi ông khởi đầu các câu thơ bằng một từ giống nhau chứ không phải là
một phụ âm đầu giống nhau. Chẳng hạn bài Trời khóc Monroe Marilyn. Có đến
mấy chục câu bắt đầu từ chữ luống:
Luống chào từ những bước ra
Luống từ chết giữa màu hoa lá cồn
Luống tồn hoạt luống hoạt tồn
Luống thơ thẩn mộng luống bồn chồn mơ
Luống thần thánh luống ngu ngơ
Luống thiên tài luống dại khờ bình sinh
Luống trận trận luống phen phen
Luống hàng mộng mỵ luống hằng chiêm bao
Luống vạn đại luống thiên thâu
Luống mơ tưởng mộng luống cầu nguyện mơ.
Ta thấy ở bài Quần sẽ đỏ trên kia, dù sao từ quần vẫn còn chỉ một đồ
vật cụ thể, còn ở đây từ luống hoàn toàn không nói lên điều gì cả. Và trong những
câu thơ có từ luống đó, nhiều câu từ ngữ vặn vẹo kỳ dị:
Luống là lạ lắm lần khân
Luống tồn loát luống tồn lân tân ồ.
Phần Mưa Nguồn Hòa Âm thật đặc biệt. Nó trình bày những trò chơi chữ
của một thi sĩ tâm thần một cách đa dạng. Ở đây có những bài thơ rất ngộ nghĩnh
như bài Đầu đuôi trận trận. Nó đặc biệt hơn những bài trên vì cái tựa thơ
không còn đúng nghĩa tựa thơ nữa mà như là tên gọi của một trò chơi toàn chữ trận:
Trận đầu Bỉ Ngạn vời trông
Trận đuôi Bà Lạ Mật không rõ ràng
Trận đi cuối Bến Điêu Tàn
Trận về rớt hột cho Hàng Cảo Thơm
Trận lên đầu Ngọn Sớm Hôm
Trận leo xuống giốc Hoàng Hôn Hoe Vàng
Trận dừng giữa Trận Lang Thang
Trận e ngại trận càng ngang ngửa nhiều.
Và đúng như tên gọi của trò chơi là đầu đuôi trận trận, trong bài thơ này tất cả
các câu thơ đều bắt đầu từ chữ trận, tuyệt nhiên không có chữ nào khác như những
bài thơ kia.
Tác giả: Trần Đình Thu
Chương
16: NHỮNG TRÒ CHƠI KHÁC
Có những trò chơi rất độc chiêu mà có lẽ chỉ có Bùi Giáng, với tài năng sẵn có
của ông về ngôn ngữ mới có thể tạo ra được. Bài thơ Hán hương u hưởng là
một bài như thế. Bài thơ này có những đoạn như sau:
“Y a ô ố ế u ư
Ừ ổn yên oanh yến lập cừ
Lữ tận lịch hành thanh lịch thế
Thể cùng thông nghiệm thiểm thông thư”
“Âm u ô úc ôn tù niệm
Yếm ố ư uyên uyển tội từ
Tứ thập trung niên tiền lập tại
Tam thiên kỳ kỹ khiệp tồn lư”
Bài thơ này, Bùi Giáng đã chơi trò vờn theo các nguyên âm để tạo ra chuỗi từ ngữ.
“Cao thủ” hơn trò chơi vờn theo phụ âm ở các bài thơ trên.
Cũng là vờn theo nguyên âm nhưng bài thơ Ưởng chưởng phùng nghênh dưới
đây lại là một kiểu khác. Nó không theo một lúc nhiều nguyên âm mà chỉ theo một
nguyên âm thôi:
Uất trì thi vận ẩn thi triêu
Ưởng chưởng phùng nghênh xuân sắc thiều
Ương thỉnh kình ma phong táp táp
Ưu sầu ác quỷ diệp tiêu tiêu
Ước ngôn mặc ngữ u tầm xứ
Ứng thoại đáp thiền uyển sách phiêu
Ứ tắc y y tàng pháp thuật
Ung hòa ủng ủng lộ vân tiêu
Úy đồ ô uế dâm ô dục
Úc úc ôn hinh tịnh thế triều
Tất cả các câu thơ trong bài đều khởi đầu bằng nguyên âm U (hoặc biến thể Ư) và
trong câu cũng sử dụng nhiều nguyên âm U.
Không chỉ trong Mưa nguồn hòa âm mới có thơ điên thứ thiệt. Một số tập
thơ khác vẫn có thứ sản phẩm đặc biệt này nhưng ít hơn. Trong tập thơ Sa mạc
phát tiết, An Tiêm xuất bản năm 1969 có một số thơ điên với nhiều trò chơi chữ.
Những trò chơi ở đây cũng khá thú vị. Chẳng hạn cũng là kéo dắt dây liên hoàn
nhưng Bùi Giáng không chọn “thủ pháp nghệ thuật” vờn quanh một nguyên âm, một
phụ âm, một từ như mấy bài thơ trên mà ông “sáng tạo” thêm lối mới. Như bài Gấu
vượn đười ươi. Ở đây ông kéo liên hoàn bằng cách nhờ vào sự điệp vần liên tục của
các câu, chữ:
Gấu vượn đười ươi tươi miệng ngọc
Mọc răng măng mủm mỉm ra đời
Rời da ban dạng rơi hình thể
Hễ thấy hay thầy hoặc giõi cô
Cô giõi thầy hay thay nét chữ
Nữ vương nương tử nữ vương tô
Vô tương nghi tận vân đầu xứ
Tuyết mấn tân thành tánh tự thô
Tô thức tức tường vi kỷ độ
Cô dì cô dượng cưỡng tiên cô
Sồ hình sinh lễ xê ngang xích
Dọc suốt mép rìa mía ngọt mô
Ta thấy chữ cuối của câu đầu luôn điệp vần với chữ đầu của câu sau. Ngoài ra
trong một câu cũng có sự điệp vần của cụm từ trước và cụm từ sau. Hoặc như bài Ái
hà cũng thật đặc biệt:
Ái hà thiên xích lãng
Ân hà vạn trượng hoa
Thanh hà mai cốt cách
Lục hà một cốt mai
Tuyết hà mai cách tại
Băng hà cốt một mai
Khổ hà như lan nhược
Mật hà bành bái ba.
Một loạt câu có chữ hà ở vị trí thứ hai chứ không phải đầu câu như trên kia. Hoặc
như bài Tỳ hải sương, trong câu có nhiều phụ âm m:
Mò gươm mệt đất mỏi đời
Mò đao mó kiếm mọi lời mỏi mê
Mơ ra nguồn tạnh mơ về
Mộng ra mơ ngủ mùa xê xích mùa
Với những bài thơ có các trò chơi, ta cần chú ý điểm này: mức độ kỳ dị của các
bài thơ tăng giảm theo tiến triển của bệnh tật. Khi bệnh nặng thì thơ ông trở
nên quái chiêu. Khi bệnh thuyên giảm thì thơ ông có vẻ có một ý nghĩa nào đó.
Nhưng thật ra chúng đều là những sản phẩm của vô thức. Vì thế khi đọc những câu
thơ “có vẻ có ý nghĩa” đó, một số người không hiểu rõ Bùi Giáng có thể nhầm lẫn
rằng ông đang sử dụng một thủ pháp nghệ thuật gì mà ông vừa sáng tạo ra.
Những bài thơ vờn chữ của Bùi Giáng quá nhiều, không thể trích dẫn hết. Ông có
thể say sưa vờn theo chữ mọi như trong bài Mọi mộng mỵ, vờn theo
chữ nhớ như trong bài Chiến trận chiều hôm, vờn theo chữ da như
trong bài Da trắng da đen…Hoặc là ông có thể ghép những chữ bất kỳ nào đó
thành ra một bài thơ. Ông bất cần nó ra cái gì. Ông bất cần nó toát ra ý nghĩa
nào. Ông cứ say sưa đùa vui mãi như những đứa trẻ mải mê chơi trò. Vô tư và hồn
nhiên, ông để lại cho đời những sản phẩm rối như mớ bòng bong khiến bao người
kinh ngạc, loay hoay tìm lời giải đáp.
Tác giả: Trần Đình Thu
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét