Nguyễn Thuyên
PHẦN MỘT
PHẦN MỘT
SỰ XUẤT HIỆN CỦA HỒ CHÍ MINH
Giai Đoạn 2 : Từ Năm 1931 – 1945
Hồ Chí Minh Tay Sai Của Đệ Tam Cộng Sản Quốc Tế
A5. Hồ Chí Minh bị kỷ luật tại Liên Xô.
Kể từ khi Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh) bị
bắt tại Hồng Kông vào tháng 6 năm 1931. Sau một thời gian thì Hồ Chí
Minh được tha và đã tìm đường trở lại Moscow, Liên Xô (Nga), vào cuối năm
1933. Từ giai đoạn này Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh) bị nghi ngờ (bị
kỷ luật), xem như bị thất sủng bởi các nguyên nhân:
-
Giới tình báo Liên Xô (Nga) thẩm xét Nguyễn Ái Quốc đã biến thành giáp
điệp nhị trùng của Cơ quan Phản gián Anh quốc. Giới tình báo Nga nghi ngờ
về thời gian Quốc (Hồ Chí Minh) bị mất tích.
-
Staline lãnh tụ Liên xô thay đổi chiến lược, chủ trương thân thiện với
chính phủ Bình Dân Pháp để nhờ tay Ðảng Cộng sản Pháp tác động đến sự phát
triển ý thức hệ Cộng sản tại Ðông Dương.
-
Staline không hài lòng về những thất bại quá nặng nề của phong trào nổi
loạn Xô Viết Nghệ Tỉnh mà Hồ Chí Minh là người tổ chức phát động.
-
Staline quyết định giao trách nhiệm cho Maurice Thorez, Ðảng Cộng sản Pháp
lãnh đạo Ðảng Cộng sản Ðông Dương, nên không cần sự hiện diện của Hồ Chí
Minh nữa.
-
Vì quá hăng hái trong vai trò tay sai cho Cộng sản Quốc tế, Hồ Chí Minh đã
vượt qua các chỉ thị của Quốc tế Cộng sản đề ra.
-
Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh) cấu kết với Lâm Ðức Thụ và Ngô Ðức Trì. Hai
tên này ngấm ngầm mật thám Pháp, nhất là hành động của Ngô Ðức Trì nên
bị kết tội phản Ðảng.
Truy
nguyên lý lịch Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh), không phải thành phần công
nhân hay nông dân mà là thành phần con quan tay sai của thực dân Pháp (Mặc
dù Tri huyện Nguyễn Sinh Huy đã bị thải hồi vì lý do đánh nông dân
đến chết).
-
Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh) bị các cán bộ lãnh đạo Ðảng Cộng sản Ðông
Dương phê bình và lên án.
-
Trong một bức thư đề ngày 02-04-1935, Hà Huy Tập, Bí thư của Cục Hải ngoại
Ðảng Cộng sản Ðông Dương viết:
-
“Trước và sau Ðại hội Ðảng, một số đồng chí khi nói chuyện với nhau,
thường bàn về đồng chí Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh). Họ cho rằng Quốc chịu
trách nhiệm về việc mật thám bắt hơn một trăm Hội viên Ðoàn Thanh niên,
bởi vì:
a.
Quốc biết rõ Lâm Ðức Thụ là một tên khiêu khích nhưng vẫn làm việc với hắn
!
b.
Quốc đã phạm sai lầm khi yêu cầu mỗi thanh niên phải nộp 2 bức ảnh, ghi rõ
tên thật, địa chỉ, tên cha mẹ, ông bà, nội ngoại cùng với tên của các
người bạn.
c.
Ở trong nước, ở Xiêm (Thái Lan) và ở trong tù người ta vẫn bàn tán đến
trách nhiệm của Quốc, trách nhiệm mà anh ta không dám chối” (1)
-
Trong hồ sơ mật của Quốc tế Cộng sản tìm thấy một lá thư không đề ngày
tháng của Bà Vera Vassilieva, cán bộ phụ trách của Vụ Việt Nam ở Quốc tế
Cộng sản gửi cho Văn phòng Hải ngoại với nội dung: “Về chuyện liên quan
đến Quốc, chúng tôi cho rằng trong 2 năm tới đồng chí này phải nghiêm
túc chăm chỉ học tập và không thể nhận công việc nào khác.Chỉ sau khi học
xong, chúng ta mới có kế hoạch đặc biệt để xử dụng đồng chí này” (2)
-
Mikhail Borodin, Trưởng phái bộ Nga ở Trung Quốc người mà Hồ Chí Minh lấy
cái tên Lý Thụy và liên lạc chặt chẽ với ông ta trong 2 năm ở Quảng Châu.
Về sau bị Staline thanh trừng và bị chết một cách rất bi thảm trong nhà tù
ở Liên Xô (3).
-
Jacques Doriot, cán bộ phụ trách về Phong trào Cộng sản các nước thuộc địa
của Ðảng Cộng sản Pháp cũng là người cùng Hồ Chí Minh hoạt động, với Hội
Thanh niên Cách mạng Việt Nam với Quốc tế Cộng sản, trợ giúp
tài chánh cho Hồ. Sau đó Ông này bị đuổi ra khỏi Ðảng Cộng sản Pháp
năm 1934 và Jacques Doriot trở thành đồ đệ của Hitler, chúa trùm Phát-xít
Ðức.
-
Staline đang mở rộng các cuộc thanh trừng, khủng bố đẫm máu trong Ðảng
Cộng sản Liên Xô vào những năm 1935-1936 và Staline không mấy tin tưởng và
không có thiện cảm với Hồ Chí Minh mà còn khinh rẻ nữa là khác.
Trong
hoàn cảnh bi đát này, nếu Hồ Chí Minh sáng suốt, bình tĩnh nhận ra số phận
của người làm tay sai cho Quốc tế Cộng sản chỉ đón nhận những kết quả phũ
phàng, hiểm nguy cho bản thân và dân tộc, để quyết định thay đổi lập
trường và dứt khoát từ bỏ con đường làm tay sai cho Quốc tế Cộng sản và
dứt khoát từ bỏ Chủ nghĩa Cộng sản, phi dân tộc, để thực tâm quay về với
quốc gia dân tộc, thìđâu có xảy ra sự bất hạnh và điêu tàn trên quê hương
Việt Nam hơn nửa thế kỷ qua.
Trái
lại, Hồ Chí Minh vẫn mù quáng chạy theo Chủ nghĩa Cộng sản, say sưa tiến
bước trên con đường làm tay sai để đưa dân tộc đến chỗ bất hạnh và đất
nước phải điêu tàn, lầm than, nghèo đói tột cùng như ngày hôm nay…!!!
Hồ Chí Minh chấp nhận tiếp tục làm tay sai cho Chủ nghĩa Cộng sản,
qua lá thư của Hồ Chí Minh, đề ngày 06-06-1938, gởi cho Quốc tế Cộng sản,
như sau:
“Các
Ðồng chí kính mến !
Hôm
nay là kỷ niệm 7 năm tôi bị bắt ở Hồng Kông. Ngày này cũng là khởi đầu năm
thứ tám tôi nằm không, không được hoạt động.Tôi viết thư này với mục đích
xin các Ðồng chí thay đổi tình cảnh đau lòng này của tôi.
Xin
các Ðồng chí phái tôi đi bất cứ nơi nào. Hoặc giữ tôi lại đây cũng được,
nhưng hãy dùng tôi trong bất cứ việc gì các Ðồng chí thấy là có ích. Tôi
chỉ yêu cầu các Ðồng chí đừng bắt tôi phải sống một thời gian quá dài mà
không sinh hoạt gì cả, đừng bắt tôi sống tách rời và ở bên ngoài Ðảng”
(5).
(1)
(2) (3) (4) (5) Bà Sophia Quinn Judge, nhà nghiên cứu lịch sử đã tìm
thấy trong hồ sơ mật của Quốc tế Cộng sản, trong Viện Marx Lénine của Ðảng
Cộng sản
Hồ
Chí Minh gặp những vấn đề gay cấn trong nội bộ Ðảng Cộng sản Ðông Dương và
cũng gặp rắc rối, nhiều căng thẳng đối với Quốc tế Cộng sản. Hai vấn đề
này liên quan đến tương lai sự nghiệp của Hồ Chí Minh. Có thể bị đánh
giá thấp ở trong Ðảng mà Quốc tế Cộng sản càng coi thường Hồ Chí Minh hơn
nữa.
Ðây
là một chuyện buồn làm cho Hồ Chí Minh lo lắng và buồn phiền nhiều. Trong
đời Hồ Chí Minh, đây là lần thứ hai gặp thảm kịch này. Lần thứ nhất là năm
1910, khi bố Hồ Chí Minh là Nguyễn Sinh Sắc mất chức Tri huyện, bị
thải hồi khỏi ngành quan lại. Hồ Chí Minh phải bỏ học, tìm đường tiến
thân. Nhưng, sau này Cộng sản Việt Nam tuyên truyền là “Tìm đường cứu
nước”.
Con
đường làm tay sai cho Quốc tế Cộng sản trong giai đoạn nầy không mấy sáng
sủa, nhưng Hồ Chí Minh đã vận dụng khả năng sẵn có để vượt qua mọi hoàn
cảnh khó khăn, trở ngại. Qua con đường học tập, kiểm thảo, tự phê
bình, cam kết trung thành với Quốc tế Cộng sản.
Vận
may của Hồ Chí Minh là tình hình thế giới biến chuyển, hiểm họa chiến
tranh thứ 2 đang đe dọa. Vì nhu cầu cần cán bộ hoạt động nhằm phát triển
chủ nghĩa Cộng sản và bảo vệ Liên Xô. Nên Staline phái Hồ Chí Minh trở lại
Á Châu hoạt động với Ðảng Cộng sản Trung Quốc.
Ðây
là dịp mở đường cho Hồ Chí Minh tiếp tục làm tay sai cho Quốc
A6. Hồ Chí Minh trở lại Trung Quốc theo lệnh Staline.
Mùa
thu năm 1938, Hồ Chí Minh đến Trung Quốc với một lý lịch khác và mang tên mới
là Hồ Quang:
Một
nghi vấn được đặt ra là tại sao Staline thực hiện cuộc thanh trừng đẫm máu đang
xảy ra trong Ðảng Cộng sản Liên Xô. Hồ Chí Minh lại là người bị Staline nghi
ngờ nhiều nhất, đến nỗi Hồ phải viết thư xin được tái hoạt động như đã nêu ở
trên, nên đã giam lỏng Hồ Chí Minh từ khi mới ra tù và trở lại Mạc Tư Khoa.
Ðể
sáng tỏ ý đồ của tên đồ tể Staline khi quyết định xử dụng lại Hồ Chí Minh.
Tưởng cũng nên điểm sơ qua tình hình thế giới biến chuyển như thế nào ?
-
Năm 1935, tình hình thế giới trải qua một giai đoạn đen tối, hiểm họa quân
phiệt ngày càng gia tăng, nên Staline vội vàng cho triệu tập Ðại hội Ðại biểu
Cộng sản Quốc tế kỳ 7 để phát động Mặt trận Thống nhất nhằm chống sự bành
trướng của Phát xít, để bảo vệ thánh địa Liên Xô Xã hội Chủ nghĩa (Trong Ðại
hội này, Lê Hồng Phong đã được chọn làm Ủy viên Dự khuyết Ban Chấp Hành Cộng
sản Quốc tế. Hồ Chí Minh bị gạt ra và còn mất luôn cả địa vị lãnh đạo Ðảng Cộng
sản Ðông Dương, thậm chí không còn được coi là phần tử tin cậy).
Nhìn
tình hình chung hoàn toàn bất lợi cho Liên Xô. Tại châu Âu, nước Ðức (Germany)
đang dưới quyền thống trị của chính quyền Phát xít, Hitler đang xưng hùng, xưng
bá ở châu Âu với chính sách độc tôn chủng tộc nhằm mũi dùi vào dân Do Thái
(Jews) và chống Chủ nghĩa Cộng sản, với ý đồ làm bá chủ châu Âu. Các tổ chức
Cộng sản Quốc tế ở châu Âu, nhất là Cộng sản Ðức bị Ðảng Quốc Xã (Nazi) đánh
cho tan tác nên phải im hơi lặng tiếng, không dám hoạt động, kể cả hoạt động bí
mật.
Các
cường quốc thực dân Anh, Pháp… cũng đang lo lắng nhiều về phong trào đòi độc
lập khắp các thuộc địa nổi lên nên các nước này có chủ trương hòa hoãn với Ðức
quốc để hy vọng Hitler chuyển hướng bành trướng về Ðông Âu và Liên Xô.
Tại
Châu Á, Nhật Bản có tham vọng thực hiện Ðại Ðông Á, giành quyền cai trị Á Châu
với chiêu bài “Á Châu của người Châu Á”. Nhật xâm chiếm Mãn Châu vào tháng 9
năm 1931 và để che dấu ý đồ xâm lăng, nên đã đưa Phổ Nghi, một Ấu Vương cuối
cùng của nhà Thanh về cai trị Mãn Châu và đang tích cực bành trướng với cường
độ nhanh hơn, mạnh hơn để sớm thôn tính toàn vẹn lãnh thổ Trung Hoa. Liên hệ
giữa Nhật và Liên Xô cũng gặp rắc rối nên đã bùng nổ những cuộc giao tranh đẫm
máu.
Mặc
dầu Trung Hoa đang đối diện với sự xâm lăng của Nhật Bản ngay trên lãnh thổ.
Nhưng chính phủ của Tưởng Giới Thạch ở Nam Kinh vẫn chủ trương tiêu diệt Cộng
sản nên đã mở nhiều đợt tấn công vào các căn cứ của Trung Cộng.
Năm
1934 – 1936, các lực lượng Trung Cộng phải bỏ những căn cứ ở vùng Bình Nguyên
để rút về Diên An. Ðáng kể kể nhất là cuộc tháo chạy mà Cộng sản Trung Hoa gọi
là cuộc Trường Chinh 25.000 dậm với đạo quân 100.000 người đến tận một vùng
hoang vu không có bóng người tại Miền Tây Trung Quốc.
Trước
tình thế Phát xít Ðức, quân phiệt Nhật đang khiêu khích về mặt quân sự, các
nước Tư Bản hiếu chiến đang gấp rút tăng cường lực lượng, quân bị… đây là cơ
hội cho chiến tranh phản công lại Cộng sản bằng cuộc chiến chống Liên Xô có
nguy cơ bùng nổ
.Ngay
bản thân Josef Staline cũng đang gặp nhiều khó khăn cực kỳ quan trọng, nhất là
việc tranh chấp quyền lực với Léon Trotsky, rồi đến việc thanh trừng những tay
Cộng sản quan trọng như Zinoviev, Kamanev… và nhóm tướng lãnh trong Hồng quân
Liên Xô, nên lực lượng quân sự bị suy yếu.
Mặc
dù Staline hết sức đặc biệt quan tâm đến Hitler và đại họa “Nazi” tại châu Âu
cũng như sự thanh trừng đẫm máu trong nội bộ để củng cố thể chế độc quyền cai
trị của mình Staline không thể làm ngơ, mà còn phải quan tâm đến cuộc chiến
giữa Trung Hoa và Nhật Bản để nắm vững mọi biến chuyển hầu có kế hoạch cùng với
Trung Hoa Cộng sản để đối phó.
Vì
vậy, một trong những lý do đơn giản, có lẽ Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh) được
coi như một số ít chuyên viên Trung Hoa, người Á Châu mà Staline có trong tay
và đã hoạt động tại Trung Hoa nên đã phái Quốc sang Diên An hoạt động cùng với
Ðảng Cộng sản Trung Hoa.
Không
rõ một sứ mệnh đặc biệt nào hay chỉ là một công tác bình thường thu lượm tin
tức Á Châu hoặc đi vào thực tế hơn là để cho Quốc có cơ hội chuộc lại những lỗi
lầm trước kia như trong thư hối cải của Hồ Chí Minh xin được tái hoạt động.
Hồ
Chí Minh đến thẳng căn cứ địa của Trung Cộng ở Diên An (miền bắc tỉnh Thiểm
Tây) và theo lệnh của Cộng sảnQuốc tế: Hồ Chí Minh phải theo đúng chủ trương,
đường lối của Trung Cộng cho nên Ông không dám bàn đến vấn đề độc lập – dân tộc
hoặc phản đối sự thống trị của thực dân Pháp.
Theo
báo cáo gởi đến Cộng sản Quốc tế vào tháng 7 năm 1939, Hồ Chí Minh trình bày
rõ:
“Vào
thời điểm này, Ðảng không thể đề ra những yêu cầu quá cao như “Ðộc lập – Dân
tộc… “ mà chỉ có thể đòi hỏi các quyền tự do dân chủ, tự do kết đoàn, tự do hội
họp, tự do báo chí và ngôn luận, đòi phóng thích toàn thể các chính trị phạm,
đấu tranh để đòi quyền được hoạt động hợp pháp cho Ðảng”.
Ðể
làm vừa lòng Staline nên trong báo cáo gởi đến Cộng sản Quốc tế, Hồ Chí Minh hô
hào:
“Ðối
với phe Trotsky không thể liên minh cũng không khoan nhượng. Hãy tận dụng mọi
biện pháp, mọi cách để vạch trần bộ mặt thật tôi mọi của các tên phát xít; hãy
tiêu diệt sạch bọn chúng trên địa bàn chính trị” (Hồ tuyển tập 91 tr. 229)
Qua
bản báo cáo của Hồ Chí Minh, ai cũng rõ Hồ Chí Minh rất trung thành với Staline
và phục vụ cho quyền lợi của Liên Xô. Hồ Chí Minh đành lòng vất bỏ lập
trườngtranh đấu cho Ðộc lập – Dân tộc Việt Nam.
Trong
thời gian Hồ Chí Minh ở Trung Hoa thì tại nội địa Việt Nam, từ mùa thu 1939 đến
mùa xuân 1940, hàng ngàn Ðảng viên Cán bộ của Ðảng Cộng sản Ðông Dương đã bị Cơ
quan Mật thám của thực dân Pháp lùng bắt ráo riết.
Khoảng
tháng 1 năm 1940, mật thám Pháp bắt một số Cán bộ Cộng sản có tên tuổi như Lê
Duẫn, Nguyễn Văn Cừ, Vũ Thiên Tân, Võ Ðình Hiệu, nhất là Lê Hồng Phong, Ủy viên
Dự khuyết Ban Chấp Hành, Cộng sản Quốc tế và Hà Huy Tập, Bí thư Cục Hải ngoại
Ðảng Cộng sản Ðông Dương. Kế tiếp Nguyễn Hữu Tiến, Trần Văn Kiệt, Nguyễn Thị
Minh Khai (người tình đầu của Hồ Chí Minh và sau là vợ của Lê Hồng Phong) cũng
bị bắt tại Hóc Môn.
Cơ
sở Ðảng Cộng sản tại Miền Nam gần như mất gốc, còn tại Miền Bắc, thực dân Pháp
cũng mở nhiều cuộc truy diệt Cộng sản đã diễn ra rất là ác liệt. Những cán bộ
cốt cán như Nguyễn Lương Bằng, Trần Huy Liệu, Nguyễn Mạnh Ðạt cùng ba anh em
nhà họ Phan : Phan Ðình Khải (bí danh Lê Ðức Thọ), Phan Ðình Dinh (bí danh Ðinh
Ðức Thiện), Phan Ðình Ðổng (bí danh Mai Chí Thọ) đều bị sa lưới mật thám Pháp
và còn nhiều Ðảng viên Cộng sản khác đang bị truy lùng.
Tóm lại, trong giai đoạn này Ðảng Cộng sản Ðông Dương xem như bị tê liệt toàn
bộ
Nhưng
ngược lại đây cũng là cơ hội mới thuận lợi cho Hồ Chí Minh bước lên đài danh
vọng sau này. Nhờ bàn tay của thực dân Pháp đã tiêu diệt các đối thủ của Hồ Chí
Minh. Chính các thành phần Cộng sản bị thực dân Pháp giết, trước đây đã phê
bình, lên án Hồ Chí Minh, khiến cho Ông bị thất sủng một thời gian khá dài.
Cũng chính các thành phần trên, tiêu biểu là Lê Hồng Phong và Hà Huy Tập không
muốn cho Hồ Chí Minh trở lại Ðảng Cộng sản Ðông Dương. Do đó, Staline ra chỉ
thị cho Hồ Chí Minh khi trở lại Trung Hoa không được liên lạc với Ðảng Cộng sản
Ðông Dương (1938), cho nên sự liên hệ duy nhất của Hồ Chí Minh và Ðảng Cộng sản
nội địa là qua các bài viết với tên P.C. Lin hoặc D.C. Lin gởi cho các báo Dân
Chúng và Nôtre Voix có nội dung tố cáo sự gian ác của Quân phiệt Nhật và những
cảnh tượng đau thương của dân chúng Trung Quốc.
Việc Lê Hồng Phong và Hà Huy Tập sa lưới mật thám Pháp cũng có nghi vấn là có
bàn tay máu của Hồ Chí Minh.
Thực
dân Pháp bắt nhà ái quốc Phan Bội Châu cũng do âm mưu đen tối của Hồ Chí Minh
cùng với Lâm Ðức Thụ (tên thật là Nguyễn Công Viễn), bán đứng Phan Bội Châu cho
quân Pháp, tại Thượng Hải ngay Tô giới Pháp vào tháng 6 năm 1925 để nhận một
tiền thưởng khá lớn của Pháp.
Không
những chỉ có tiền mà còn quan trọng hơn thế nữa là sự vắng bóng của Phan Bội
Châu ngôi sao sáng tại Trung Hoa, tạo cơ hội cho Hồ Chí Minh độc quyền thao
túng lúc bấy giờ.
Chính
Hồ Chí Minh đã tuyên bố: Bất kỳ ai đi ngược lại hoặc cản trở ý đồ của Ông ta,
đều bị tiêu diệt. Vì thế, từ ngày Hồ Chí Minh xuất hiện trên chính trường đến
giờ phút cuối của cuộc đời (ngày 02-09-1969), không biết bao nhiêu nhà cách
mạng tranh đấu vì nền Ðộc lập Tự do cho đất nướcViệt Nam mà không cùng chí
hướng, cũng như vô số dân lành vô tội đã chết một cách oan uổng dưới bàn tay
máu
của Hồ, với chủ trương “Giết lầm hơn bỏ sót”.
Pháp
chủ trương mạnh bạo đàn áp các Tổ chức đấu tranh chống thực dân Pháp, giành độc
lập cho đất nước Việt Nam, nên khi Thế chiến thứ II bùng nổ, các Cán bộ Cộng
sản tại Việt Nam đều bị quân Pháp bắt – một số bị giết, một số cho đi an trí,
kể cả lưu đày ra Côn Ðảo; một số trốn thoát thì bị theo dõi lùng bắt… Giai đoạn
này Ðảng Cộng sảnÐông Dương xem như rắn mất đầu.
Số
cán bộ địa phương còn lại phải chạy qua Trung Hoa tìm Hồ Chí Minh để cứu vãn
tình hình, hoạt động của Cộng sản tại Việt Nam. Lúc này Hồ Chí Minh có đến 3 bí
danh là:
- Hồ Quang – Ông Trần – Trần Vương
Cán
bộ chủ yếu của Ðảng Cộng sản Ðông Dương đang hoạt động tại Côn Minh (Trung
Quốc) là Vũ Anh (tức làTrịnh Ðông Hải).Trịnh Ðông Hải thuật lại sự tìm kiếm và
liên lạc với Hồ Chí Minh như sau :
“Tháng
1-1940, đồng chí Bùi Ðức Minh từ trong nước sang, cho biết là Trung ương muốn
tìm ông Trần (bí danh của Hồ Chí Minh)
Lúc
bấy giờ Chi bộ Ðảng của chúng tôi tại Vân Nam cùng với Chi bộ Ðảng Cộng sản
Trung Cộng đã lập được quan hệ. Tôi liền sắp xếp một cuộc tiếp xúc với các đồng
chí Trung Quốc. Tôi hỏi họ có biết Trần tiên sinh không ? Họ trả lời biết…
Tôi
nói: Tổ chức trong nước muốn tìm ông ấy, vậy có thể viết thư mời ông ấy về đây
không ?Họ nói có thể.
Tôi
lại hỏi: Trần tiên sinh là người Việt Nam hay người Trung Quốc, thì các đồng
chí Trung Quốc ấy bỗng cười ồ…
Tôi bèn không hỏi gì nữa…
Thư
gởi đi không lâu, một hôm vào cuối tháng 2, một người tuổi trung niên, mặc Âu
phục, cổ đeo cà vạt, đến Công ty Vĩnh An, hỏi bằng tiếng Trung Quốc:Ở đây có vị
nào tên Trịnh Ðông Hải không ?
Tôi
lên tiếng và chạy ra gặp người ấy. Ông ta lại dùng tiếng Việt nói nhỏ với
tôi:Tôi là Trần. Chúng ta hãy ra công viên nói chuyện…
Tới
công viên, tôi mới chợt để ý rằng, ông Trần đi rất nhanh và có đôi mắt sáng
rực. Tôi đoán đây phải là một cán bộ trọng yếu, nhưng vẫn không thể tưởng tượng
nổi, đó chính là đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Lúc đó tôi chỉ biết, đây là người mà
Trung ương đã phái cán bộ đi tìm… Hơn nữa, lại đã được Ðảng anh em giúp đỡ, tìm
kiếm, thì nhất định phải là một người hoàn toàn đáng tin tưởng”.
(Hồ thơ, trang 140-141 (Vũ Anh thuật lại)
Như
vậy, Hồ Chí Minh bắt liên lạc được với Trung ương Ðảng Cộng sản Ðông Dương và
kể từ nay Ông trực tiếp làmviệc với Ban Hải ngoại Ðảng Cộng sản Ðông Dương.
A7. Hồ Chí Minh xây dựng cơ sở Việt Cộng và âm mưu phá hoại cơ
sở Quốc Gia chống Pháp.
Hồ
Chí Minh ra sức tìm gọi các Cán bộ Cộng sản lưu lạc đó đây từ trước đến nay nên
quay về Thủ phủ Vân Nam để tái tổ chức Ban Hải ngoại Ðảng Cộng sản Ðông Dương
(Ban Hải ngoại trong lúc này hoàn toàn mới, không còn liên lạc với Cục Hải
ngoại do Hà Huy Tập làm Bí thư).
Giai
đoạn khẩn trương kể từ khi Thế chiến thứ II bùng nổ, Hồ Chí Minh đã hoạt động
theo đường lối của Trung Cộng và Cộng sản Quốc tế. Hồ Chí Minh đã bố trí cán bộ
xâm nhập vào các Tổ chức đấu tranh chống Pháp ngay tại Trung Hoa. Ông đã áp
dụng chủ trương của Trung Cộng là liên hiệp để chống Nhật, nhưng thực sự lợi
dụng danh từ chống Nhât để xây dựng cơ sở, lực lượng đó để chống chính phủ Quốc
Dân Ðảng của Tưởng Giới Thạch, nên Hồ Chí Minh cũng ứng dụng chính sách chống
thực dân Pháp và quân phiệt Nhật hầu xây dựng, củng cố lực lượng của Cộng sản
để bành trướng Chủ nghĩa Cộng sản và cướp chính quyền, chứ thật tâm của Hồ Chí
Minh không đặt vấn đề chống Pháp và chống Nhật để giành độc lập cho đất nước
Việt Nam.
Ðể
thống nhất đường lối, chủ trương giữa Trung Hoa Cộng sản và Cộng sản Việt Nam,
Hồ Chí Minh đã phái Trần Văn Hinh, đại điện Cộng sản Ðông Dương đến Diên An
(năm 1940), để ký một mật ước với Trung Cộng, gồm có những điểm chính sau đây :
1.
Thành lập chiến tuyến thống nhất chống Nhật của nhân dân hai nước Trung – Việt.
2. Khuyếch trương các Tổ chức võ trang của Cộng sản Việt Nam và triển khai hoạt
động du kích chiến.
3. Cộng sản Việt Nam liên hiệp với các đảng phái để thành lập Mặt Trận Dân Tộc
Thống Nhất Ðộc Lập
4. Cộng sản Việt Nam lấy khẩu hiệu “chống Pháp” và “chống Phong Kiến” làm chủ
điểm đấu tranh.
5. Ðại diện Cộng sản Trung Quốc tại Cục Tình báo Á Châu của Ðệ Tam Quốc Tế Cộng
sản lãnh đạo mọi công tác của Cộng sản Việt Nam.
6. Cộng sản Việt Nam yểm trợ các nhân viên Cộng sản Trung Quốc trong thời gian
hoạt động tại Việt Nam.
7. Cộng sản Việt Nam phái Cán bộ đến Kháng đài của Trung Cộng ở Diên An để thụ
huấn.
8. Cộng sản Trung Quốc trợ cấp cho Cộng sản Việt Nam mỗi tháng là 50.000 quan
Pháp để dùng vào các chi phí trong khi công tác tại Trung Quốc.
(Tổ Trung 6 Tuần báo Phổ Tĩnh số 41 – Ðài Bắc 9/12 năm Dân Quốc 42)
Hồ
Chí Minh và các Cán bộ Cộng sản thực hiện:
Tại Trung Hoa, họ lợi dụng mối quan hệ với phe thân Trung Quốc để được yểm trợ
và xây dựng cơ sở…
Tại
Việt Nam, họ lợi dụng thế lực của phe thân Nhật để thực hiện báo động võ trang
– Gọi là “Chiến thuật Thống nhất” theo mật ước với Trung Cộng. Phương thức này
cũng phù hợp với quy định của Cộng sản Quốc Tế. Về “nhiệm vụ cá biệt của các
thành viên Cộng sản Quốc tế đối với cuộc vận động chống Phát-xít” được quy
định:
“Các
đảng viên Cộng sản phải gia nhập vào tổ chức Phát xít cố nắm giữ quyền hành hợp
pháp tại quốc gia của mình; phải lợi dụng lúc đang ở trong lòng nó để tiến hành
công tác”. Do đó, bất luận là Tổ chức, Phe phái nào, miễn là phù hợp với nhu
yếu của họ, là họ đều gia nhập, lợi dụng để tiến hành các công tác riêng của họ
(Chủ trương này, Cộng sản Việt Nam thường áp dụng, gọi tắt là “nằm vùng” nhằm
mục đích lợi dụng và phá hoại cho mãi đến sau này)
Tại
Miền Nam sau năm 1954, Việt Cộng đã cho Cán bộ xâm nhập vào Miền Nam, những tên
như:
- Vũ Ngọc Nhạ – Huỳnh Văn Trọng
- Phạm Ngọc Thảo – Phạm Xuân Ẩn…
Các
Tổ chức ở Miền Nam, kể cả tôn giáo, Việt Cộng đều có đặt người “nằm vùng”. Ðây
là công tác rất có hiệu quả đối với Việt Cộng và ngược lại rất nguy hại đối với
phe Quốc Gia chống Cộng từ trước đến nay.
Ðược sự hỗ trợ của Ðảng Cộng sản Trung Quốc (Trung Cộng), Hồ Chí Minh đóng vai
trò Thiếu tá với tên Hồ Quang trong lực lượng võ trang của Trung Cộng, nay đổi
tên và tái tổ chức thành “Ðệ Bát Lộ Quân và Tân Tứ Quân”. Lợi dụng danh nghĩa
hoạt động trên đất Trung Hoa, Hồ Chí Minh cũng tái tổ chức, tập hợp các phần tử
Việt Cộng hiện đang hoạt động tại Trung Hoa và sau đó có một số Việt Cộng từ
trong nước bị Pháp săn đuổi chạy qua Trung Hoa tập hợp lại. Thi hành theo kế sách
của Quốc tế Cộng sản, xâm nhập vào các Tổ chức chống thực dân Pháp, nhưng không
chấp nhận Chủ nghĩa Cộng sản.
Vì mục đích chống Pháp giành độc lập, các nhà Cách mạng Việt Nam thiếu cảnh
giác và với chủ trương bất kỳ ai, bất kỳ Tổ chức nào chống Pháp đều là bạn, sẵn
sàng hợp tác.
Chính
vì quan niệm rộng rải như vậy nên Hồ Chí Minh đã lợi dụng kẽ hở đó, tung cán bộ
Cộng sản vào các Tổ chức nhằm phá hoại, gây hiểu lầm, chia rẽ… thậm chí đi đến
chống đối lẫn nhau vì một vài bất đồng ý kiến. Cộng sản liền lợi dụng sự bất
hòa, lôi kéo một số cán bộ nhẹ dạ, dễ tin gia nhập vào đường lối của Cộng sản.
Một số khác ý thức được hiểm họa của Cộng sản nên chống đối thì bị cán bộ Cộng
sản vu cáo, dựng chuyện, bôi xấu đủ điều. Từ từ các Tổ chức đi đến tan rã mà
còn thù oán nhau…
Một
sự việc đã xẩy ra ở tỉnh Vân Nam: Tỉnh Vân Nam (còn gọi là tỉnh Ðiền), giáp
ranh giới Việt Bắc, có đường xe lửa chạy từ Côn Minh qua Hà Nội, xuống đến Hải
Phòng do người Pháp làm với mục đích kinh doanh ngành vận tải. Trong nội địa
tỉnh Vân Nam, các trạm dọc theo con đường từ Hà Khẩu đến Côn Minh có rất nhiều
công dân người Việt và cũng là nơi tập trung kiều dân Việt Nam. Trên con đường
nối liền các thành phố lớn như Côn Minh, Nghi Lương, Khai Viễn, Mông Tự, Chỉ
Thôn, v.v… Từ năm 1938 về trước đã có những Tổ chức, những Chi bộ của cả Việt
Cộng lẫn Việt Nam Quốc Dân Ðảng và họ đã xung đột với nhau liên miên. Trong
thời kỳ còn theo đuổi “Mặt trận Dân chủ”, các đảng viên Việt Cộng, một mặt ngụy
trang làm cán bộ của Việt Nam Quốc Dân Ðảng để núp bóng, một mặt lại âm thầm
móc nối để bán đứng các đảng viên Việt Nam Quốc Dân Ðảng cho thực dân Pháp tại
Côn Minh. (HCMTTQ. TVK tr. 155)
Tất cả các Tổ chức chống Pháp và các nhà Cách mạng có thành tích, uy tín, lần
lần bị mai một ? Chỉ còn lại các Tổ chức trá hình do Việt cộng khuynh loát, rồi
biến thành Tổ chức của Việt Cộng, ngay cả Tổ chức gọi là “Việt Minh”,Việt Cộng
dùng để cướp chính quyền vào năm 1945 (19-08 và 02-09-1945
Ðể
chứng minh âm mưu thâm độc của Hồ Chí Minh, chúng tôi xin trích đăng một số đoạn
trong sách “Giọt nước trong biển cả” – hồi ký cách mạng của Hoàng Văn Hoan.
(GNTBC – HKCM – HVH)
Hoàng
Văn Hoan là ai ?
Hoàng Văn Hoan, bí danh Lý Quang Hoa, sinh năm 1905 tại làng Quỳnh Ðôi, huyện
Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Năm 1924 tham gia (Cộng sản) cách mạng. Năm 1926 đi
Quảng Châu dự lớp huấn luyện chính trị do Hồ Chí Minh chủ trì.
Hoàng
Văn Hoan tiếp tục hoạt động và được vào Trung ương Ðảng, rồi vào Bộ Chính trị
và được giữ các chức vụ trọng yếu qua thời gian như sau:
- Năm 1950 : Ðại sứ Việt Cộng tại Trung Cộng.
- Năm 1951 : Ðược bầu làm Ủy viênTrung Ương đảng.
- Năm 1956 : Ðược bầu làm Ủy viên Bộ Chính trị.
- Năm 1960 : Phó Chủ tịch Quốc Hội.
- Năm 1976 : Bị loại ra khỏi Bộ Chính trị.
- Năm 1979 : Trốn sang Trung Quốc, vì chống đối với Lê Duẫn, Tổng bí thư Ðảng
CSVN.
- Năm 1990 : Ông qua đời tại Bắc Kinh
“Năm
1930, sau cuộc khởi nghĩa ở Yên Bái, Vũ HồngKhanh từ trong nước chạy ra nhập
bọn với Nguyễn Thế Nghiệp…Chúng đã tổ chức Việt Nam Quốc Dân Ðảng dựa vào một
số lưu manh làm cốt cán để uy hiếp và lừa dối quần chúng…Trụ sở Việt Nam Quốc
Dân Ðảng được thiết lập ởnhiều nơi trong tỉnh Vân Nam… (GNTBC – HKCM – HVH. tr
124)
-
Năm 1935, các anh Vũ Anh, Ðông A, Ðỗ Ðăng Trình được phái từ Nam Kinh về xây
dựng cơ sở Ðảng và tổ chức Chi Bộ lấy tên là Chi Bộ Vân Quí…
- Với sách lược đứng đắn, các đồng chí Chi Bộ Vân Quí vẫn hoạt động với danh
nghĩa Quốc Dân Ðảng đồng thời tìm cách đưa đồng chí Vũ Anh cùng vào Ðảng, hình
thành một nhóm cánh tả để đấu tranh trực diện với Vũ Hồng Khanh.
Qua một thời gian tuyên truyền, vận động, nhóm cánh tả đã chiếm ưu thế tuyệt
đối…Hội Lao Công Thân Ái cho Công Nhân và Hội Thiếu Niên Dục Tài cho thanh
thiếu niên được thành lập trước kia,nay hoàn toàn đã thuộc về đồng chí Ðông A
lãnh đạo…
(GNTBC – HKCM – HVH. tr 125, 126).
Ngày
20-06-1940, Pháp mất Paris, đây là một bước rẽ lịch sử rất quan trọng và là cơ
hội cho người Việt Nam đánh đuổi quân Pháp giành độc lập.
Các Tổ chức của người Việt không Cộng sản ráo riết hoạt động trên đất Trung Hoa
như Trương Bội Công, Hồ Học Lãm, Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Thế
Nghiệp, Nghiêm Kế Tố… được Quốc Dân Ðảng Trung Hoa giúp đỡ mọi phương tiện,
đang liên lạc khắp nơi để kết nạp những người Việt Nam cùng chí hướng, mụcđích
đánh Pháp giành độc lập tự do cho dân cho nước.
Một
sai lầm lớn là vì quá nhiệt tình với đất nước trong công cuộc chống thực dân
Pháp giành độc lập. Người Việt Quốc Gia đã không cảnh giác đề phòng Cộng sản
nên đã bị Cộng sản lợi dụng và khuynh đảo.
A8. Hồ Chí Minh lợi dụng Việt Nam Ðộc Lập Ðồng Minh Hội và ông
Hồ Học Lãm.
Hồ
Chí Minh thấy tình hình biến chuyển, Hồ Chí Minh liền tập họp cán bộ Cộng sản
có mặt tại Trung Hoa, như Phùng Chí Kiên, Trịnh Ðông Hải (Vũ Anh), Hoàng Văn
Hoan (Lý Quang Hoa), Bùi Minh Ðức, Cao Hồng Lĩnh, Phạm Văn Ðồng (Lâm Bá Kiệt),
Võ Nguyên Giáp (Dương Hoài Nam)… được Quốc tế Cộng sản qua Ðảng Cộng sản Trung
Hoa yểm trợ. Nhưng không thể mang danh xưng Ðảng Cộng sản được, nên vấn đề khó
khăn đầu tiên là phải lấy một danh nghĩa nào hợp lý để hoạt động
.Hoàng
Văn Hoan kể lại như sau : “Bác chủ trương lấy danh nghĩa Việt Nam Ðộc Lập Ðồng
Minh Hội và mời ông Hồ Học Lãm đứng ra chủ trì để chúng ta dựa vào đó mà hoạt
động. Chủ trương của Bác xuất phát từ chỗ Việt Minh là một tổ chức mà trước kia
đã cùng với ông Hồ Học Lãm lập ra và đăng ký ở Nam Kinh.
Xuất
phát từ chỗ ông Hồ Học Lãm không phải là Cộng sản mà lại thật lòng ủng hộ chúng
ta, nếu Ông đứng ra đảm nhận, thì sự hoạt động của chúng ta sẽ được nhiều điều
thuận lợi (GNTBC – HKCM – HVH. tr 133).
Vì tinh thần ái quốc, ông Hồ Học Lãm đâu có ngờ Hồ Chí Minh lợi dụng tên tuổi
Ông để mưu đồ làm tay sai cho Quốc tế Cộng sản để rồi gây điêu tàn cho đất nước
và bất hạnh cho dân tộc Việt Nam mãi đến ngày nay chưa chấm dứt.
Hồ
Học Lãm, người Thanh Hóa, tốt nghiệp khóa 2 Trường Sĩ Quan Bảo Ðịnh, thuộc tỉnh
Hà Bắc, Trung Quốc, bạn cùng khóa với Ông là Trương Bộ Công, quê Hà Ðông. Hồ
Học Lãm là một cán bộ trọng yếu của Việt Nam Quang Phục Hội và Việt Nam Ðộc Lập
Ðảng, và cũng làmột trong những người lãnh đạo đầu tiên của Việt Nam Ðộc Lập
Ðồng Minh Hội.
Trong
quân đội Trung Quốc, Ông là Thượng tá, Trưởng Phòng Nhì của Quân ủy Quế Lâm do
Lý Tế Thâm đảm nhiệm chỉ huy công tác tình báo cho Trung Quốc. Hồ Học Lãm tuy
làm việc cho Trung Quốc Quốc Dân Ðảng nhưng rất quan tâm giúp đỡ các nhà cách
mạng, bất luận là người của Ðảng Cộng sản, Quốc Dân Ðảng hay bất kỳ Tổ chức nào
có mục đích chống Pháp là đều được Ông giúp đỡ tận tình. Chính vì lẽ đó, Ông đã
bị Hồ Chí Minh lợi dụng về mọi phương diện.
Hoàng Văn Hoan kể tiếp rõ hơn về những xảo trá của Hồ Chí Minh:
“Ông
Hồ Học Lãm nhận chức Chủ nhiệm Việt Minh và giới thiệu chúng tôi đi gặp Lâm
Uất, bạn học của Ông hiện đang làm Hiệu trưởng Phân hiệu Quân sự Trung ương
(Quốc Dân Ðảng) tại Quế Lâm, đồng thời là Phó Chủ nhiệm Hành dinh khu Tây Nam
của Tưởng Giới Thạch, mà Lý Tế Thâm là Chủ nhiệm Quân sự giới thiệu Lâm Uất cho
chúng tôi đi gặp Lý Tế Thâm
.Hôm
gặp Lý Tế Thâm, chúng tôi đi cả sáu người: Lâm Bá Kiệt (Phạm Văn Ðồng), Dương
Hoài Nam (Võ Nguyễn Giáp), Trịnh Ðông Hải (Vũ Anh), Phùng Chí Kiên, Cao Hồng
Lĩnh và tôi lấy tên là Lý Quang Hoa. Theo kế hoạch của Bác (Hồ Chí Minh), chúng
tôi chuẩn bị sẵn một bản lý lịch tóm tắt của Việt Minh viết bằng chữ Trung Quốc
đưa cho Ông, và giới thiệu rằng ở Trung Quốc chúng tôi đã có “Biên sự xứ Việt
Minh ở hải ngoại”do ông Hồ Học Lãm làm Chủ nhiệm, Lâm Bá Kiệt là Phó Chủ nhiệm.
Lúc đó chúng tôi có nói thêm mấy điểm đại ý như sau:
Ở
Việt Nam hiện có hai Tổ chức chính trị lớn là Ðảng Cộng sản và Việt Minh. Lực
lượng của Ðảng Cộng sản chủ yếu là công nhân và có sự giúp đỡ của quốc tế là Ðệ
Tam Quốc Tế. Còn lực lượng Việt Minh thì chủ yếu là các tầng lớp nông dân.
Chúng tôi vẫn liên hiệp với Ðảng Cộng sản vì họ là một lực lượng chống Nhật khá
mạnh. Nhưng chúng tôi cũng rất cần có sự viện trợ quốc tế, rất mong Chủ nhiệm
hết sức giúp đỡ chúng tôi.
Lý
Tế Thâm trả lời khá ôn tồn, đại ý như sau: Theo di chúc Tôn Tổng Lý, chúng tôi
phải giúp đỡ các dân tộc nhỏ yếu, nhưng trong phạm vi tôi có thể làm được thì
rất nhỏ, nếu muốn có sự giúp đỡ lớn hơn thì phải do Trung Ương Ðảng chúng tôi
quyết định. Cuối cùng, Ông ta không quên nhắc chúng tôi: Các anh hợp tác với
Ðảng Cộng sản, cần chú ý, đừng để cho họ nắm quyền lãnh đạo.
Qua
cuộc nói chuyện với Lý Tế Thâm như vậy, cái danh nghĩa Việt Minh thực tế đã
được thừa nhận và cái danh nghĩa Biên sự Việt Minh cũng mặc nhiên thành ra hợp
pháp… (GNTBC – HKCM – HVH. tr. 134-135 ).
Hồ
Chí Minh ở Trung Quốc qua nhiều giai đoạn:
- Năm 1924 từ Mạc Tư Khoa đến Quảng Châu.
- Tháng 4 năm 1927, Hồ Chí Minh rời Quảng Châu để đi Vũ Hán.
- Tháng 7 năm 1927, Hồ Chí Minh trở về lại Liên Xô nhận chỉ thị của Cộng sản
Quốc tế rồi trở lại Trung Hoa.
- Năm 1931, bị bắt tại Hương Cảng – Một năm sau được tha và sau đó trở về Liên
Xô.
- Năm 1938, theo lệnh Staline, Hồ Chí Minh trở lại Trung Hoa.
- Hồ Chí Minh làm việc cho Trung Cộng, học tập những kinh nghiệm của Trung
Cộng… Ông đã thấy rõ một cách sâu sắc cái ý đồ “Chống Nhật cứu nước” của Trung
Cộng, không phải đánh Nhật để cứu nước mà mục đích chính nhằm làm tiêu mòn dần
dần lực lượng của Chính phủ Quốc Dân Ðảng, để lực lượng Trung Cộng lớn mạnh lên
qua đường lối Mặt Trận Dân Tộc của Trung Cộng là: “Ðối với Quốc Dân Ðảng thì đoàn
kết bên ngoài, nhưng bên trong tìm mọi cách lôi kéo những phần tử thiên tả của
Quốc Dân Ðảng về phía mình…” Một mặt đoàn kết, một mặt thì đấu tranh, đặc biệt
đề cao cảnh giác đối với các phần tử hữu khuynh của Quốc Dân Ðảng.
Ðiều
này, về sau Hồ Chí Minh triệt để khai thác để lợi dụng Mặt Trận Việt Minh hầu
phân hóa và tiêu diệt thế lực các Ðảng phái Quốc gia tại Việt Nam để cho lực
lượng của Hồ ChíMinh phát triển lớn mạnh hơn và cướp được chính quyền. Vì quá
nhiệt tình với đất nước trong công cuộc chống thực dân Pháp, giành độc lập,
người Việt quốc gia đã không đề khuynh đảo… Do đó, người Việt quốc gia đã đi từ
thất bại này đến thất bại khác. Cuối cùng là Cộng sản chiếm cả hai miền Nam,
Bắc, DẪN ÐẾN ÐẤT NƯỚC VIỆT NAM ÐIÊU TÀN, ÐỔ NÁT VÀ DÂN TỘC VIỆT NAM CHỊU
NHIỀUBẤT HẠNH, khởi đầu từ 19-08-1945.
Câu
chuyện sau đây cũng do Hoàng Văn Hoan kể lại. Rõ ràng là người Việt Quốc gia đã
bị Cộng sản lừa dối mà không biết, nên đã giúp cho Cộng sản thành công:
“Thiếu
tướng Dương Kế Vinh, một tên trùm đặc vụ thân tín của Tưởng Giới Thạch… thì rất
láo xược, mỗi lần gặp chúng tôi, ông đều tỏ vẻ xoi bói và thường nói chuyện
theo kiểu “huấn thị”. Thậm chí có lần ông ta cứ nằm trên cái ghế xếp mà nói
chuyện… Ông ấy luôn luôn mượn câu chuyện đả kích Cộng sản để thăm dò thái độ
chúng tôi
Một
hôm Dương Kế Vinh đến thăm ông Hồ Học Lãm ở bệnh viện, ông ta nói thẳng ra rằng
chúng tôi là Cộng sản. Ông Hồ Học Lãm đã đập lại một vố khá mạnh, ông nói: “Ðối
với cách mạng Việt Nam, các ông chưa giúp được gì, nhưng về phần riêng như cá
nhân ông chẳng hạn, thì đã nhờ cách mạng Việt Nam mà phát tài hàng triệu. Ông
muốn đám thanh niên chúng tôi làm tình báo cho ông thì không được đâu, họ là
những người cách mạng. Vì Ông lôi kéo không được, nên Ông đã vu cáo cho họ là
Cộng sản chứ gì? Nếu Ông nói họ là Cộng sản thì Ông hãy tìm cho được chứng cớ,
tôi sẽ lấy cái đầu của tôi đảm bảo cho họ.
Sau
đó, Dương Kế Vinh không gặp Ông Hồ Học Lãm nữa và nói Ông ấy cậy nhiều tuổi,
nói ác cả mình đi, mình nói lại không tiện.
Luôn đây xin nói sơ qua về việc Nguyễn Hải Thần lúc mới đến Quế Lâm đã muốn
chia rẽ ông Hồ Học Lãm với chúng tôi. Ông Hồ Học Lãm cũng đã cho một bài học
đích đáng, Ông nói: Anh (chỉ Nguyễn Hải Thần) với tôi qua Trung Quốc đã hơn bốn
mươi năm mà chưa làm được một việc gì cho dân tộc. Nay chúng ta đã già rồi,
phải để cho anh em thanh niên họ làm, chính họ mới là những người có năng lực
làm nên sự nghiệp. Hiện nay Trung Quốc muốn đưa chúng ta ra, chẳng qua là để
cho họ lợi dụng mà thôi, chứ thực ra thì chúng ta cũng không thể làm được gì
nếu không có lực lượng của anh em trong nước. Tôi khuyên anh cứ làm việc tử tế,
đừng nên kèn cựa với anh em. (GNTBC -HKCM- HVH. tr. 136-137)
(Lời
người viết: Dương Kế Vinh – Nguyễn Hải Thần biết số người mà Hồ Học Lãm đang
cộng tác là những người Cộng sản do Hồ Chí Minh chỉ đạo. Họ chỉ lợi dụng Hồ Học
Lãm chứ họ không thực tâm. Nhưng Hồ Học Lãm lại không rõ âm mưu của Hồ Chí Minh
gài cán bộ vào để làm lũng đoạn các Tổ chức Quốc gia chân chính không chấp nhận
Cộng sản – đây là một sự thất bại nặng nề của người Việt Quốc Gia đang hoạt
động tại Trung Quốc và kéo dài mãi về sau này).
Trong
thời gian hoạt động ở Quế Lâm, nhờ có sự chỉ đạo trực tiếp của Bác (Hồ Chí
Minh), có tiếng nói và thái độ đứng đắn của ông Hồ Học Lãm, có sự ủng hộ tích
cựccủa những người tiến bộ Trung Quốc, chúng ta đã được sự giúp đỡ nhất định
của Lý Tế Thâm và đã có một địa vị hợp pháp rõ rệt. (GNTBC – HKCM – HVH. tr.
137)
Hoạt
động ở Tịnh Tây, Hoàng Văn Hoan viết:
“Ở Tịnh Tây ít hôm, anh Lộc đưa tôi về Pác Pó gặp Bác để báo cáo công tác, rồi
lại trở ra Tịnh Tây cùng các anh Phạm Văn Ðồng, Võ Nguyên Giáp hoạt động công
khai… Tôi được chỉ định làm Bí thư Ðảng, chịu trách nhiệm báo cáo và liên lạc
với Trung ương Ðảng trong nước.
… Trương Bội Công vội vã chạy đến Tịnh Tây, mở một tiệc trà chiêu đãi và tuyên
bố việc thành lập cái gọi là “Ủy viên hội” (Việt Nam Dân tộc Giải phóng Ủy viên
hội) ấy và giới thiệu những người phụ trách các “Ủy viên hội”, trong đó có
Trương Bội Công, Nguyễn Hải Thần và hai người Hoakiều. Chiêu đãi và tuyên bố
xong, Trương Bội Công liền phái Nguyễn Hải Thần đi Quế Lâm để vận động (Quốc
Dân Ðảng Trung Hoa) xin viện trợ thì vừa lúc đó các anh Võ Nguyên Giáp, Vũ Anh,
Cao Hồng Lĩnh (Cán bộ Cộng sản) cũng đến Tịnh Tây, các anh bàn với nhau cử anh
Võ Nguyên Giáp cùng đi với Nguyễn Hải Thần để lái ông ta chuyển ra thành người
Việt Minh; vì năm 1936, khi thành lập Việt Minh ở Nam Kinh, Nguyễn Hải Thần từ
Quảng Ðông lên, có tham gia mọi việc hoạt động rất tích cực. Còn hai anh Vũ Anh
và Cao Hồng Lĩnh vẫn ở lại Tịnh Tây để thực hiện chỉ thị của Bác (Hồ Chí Minh):
Tìm
cách giữ lấy số hơn bốn mươi anh em từ trong nước ra, phân hóa đám người của
Trương Bội Công (Người Việt Quốc Gia), vận động Trương Bội Công đánh điện lên
Quế Lâm mời đại biểu Biện sự xứ Việt Minh (Việt Cộng trá hình) về Tịnh Tây để
bàn bạc công việc.
Mọi kế hoạch bố trí của ta (Cộng sản) đều đạt kết quả: Anh Võ Nguyên Giáp đưa
Nguyễn Hải Thần đi Quế Lâm và kéo ông ta thực sự về với Việt Minh. Hơn bốn mươi
anh em trong nước ra, ta cũng hoàn toàn nắm giữ được. Trương Bội Công cũng thật
lòng muốn đánh điện lên Quế Lâm mời Việt Minh.
Thực
ra, việc chúng ta kéo cả một đoàn người công khai từ Quế Lâm về Tịnh Tây là kết
quả hoạt động dưới sự chỉ đạo tỉ mỉ và khôn khéo của Bác (Hồ Chí Minh). (GNTBC
-HKCM – HVH. tr 149-151) -Những chữ trong (…) là lời giải thích của người viết.
Suốt
cả thời gian Hồ Chí Minh xuất hiện ở Trung Hoa, qua các giai đoạn từ năm 1924
đến ngày về Việt Nam cướp chính quyền. Hồ Chí Minh luôn luôn giữ kín tông tích
“Tay sai của Quốc tế Cộng sản” ngụy trang dưới danh xưng là Người Việt thiết
tha với cuộc đấu tranh chống thực dânPháp, giành độc lập cho nước nhà. Nhờ đó
Hồ Chí Minh đã lợi dụng danh nghĩa của các Tổ chức, Ðoàn thể Quốc gia với âm
mưu xâm nhập, lũng đoạn, gây chia rẽ… rồi lôi kéo các phần tử quốc gia trở
thành vây cánh, tiếp tay cho Cộng sản và biến họ thành Cán bộ Việt Cộng.
Hồ
Chí Minh lấy khẩu hiệu của Trung Cộng: “Chiếm lĩnh cơ quan làm phe tả của họ”
hoặc “Lấy Tổ chức của địch biến thành Tổ chức của ta”.
Ðể
chứng minh hành động của Hồ Chí Minh đã áp dụng chiến thuật “Lấy Tổ chức của
địch biến thành Tổ chức của ta” với các Tổ chức của Người Việt Quốc Gia sau
đây:
1.
Việt Nam Ðộc Lập Ðồng Minh Hội.
Việt Nam Ðộc Lập Ðồng Minh Hội, gồm các đảng phái, không chấp nhận Chủ Nghĩa Cộng
Sản.
- Việt Nam Quốc Dân Ðảng.
- Tân Việt Cách Mạng Ðảng.
- Việt Nam Ðộc Lập Ðảng.
Liên
hiệp với nhau, thành lập một Tổ chức hợp nhất lấy tên là “Việt Nam Ðộc Lập Ðồng
Minh Hội”, từ tháng 7 năm 1935 tại Nam Kinh đến khi Cán bộ Cộng sản xuất hiện
tại Trung Quốc vào khoảng tháng 10 năm 1940, theo lời Hoàng Văn Hoan thuật lại,
như sau :
“Chúng
tôi thường bí mật gặp Bác ở Biện sự xứ Bát Lộ quân để báo cáo và xin chỉ thị về
cách thức hoạt động. Vấn đề đầu tiên là lấy danh nghĩa gì để hoạt động ? Bác
chủ trương lấy danh nghĩa “Việt Nam Ðộc Lập Ðồng Minh Hội” và mời ông Hồ Học
Lãm đứng ra chủ trì để chúng ta dựa vào đó mà hoạt động. Chủ trương đó xuất
phát từ chỗ Việt Minh là một Tổ chức mà trước kia đã cùng với ông Hồ Học Lãm
lập ra và đăng ký ở Nam Kinh. Xuất phát từ chỗ ông Hồ Học Lãm không phải là
Cộng sản mà lại thật lòng ủng hộ chúng ta,nếu Ông đứng ra nhận trách nhiệm, thì
sự hoạt động của chúng ta sẽ được nhiều điều thuận lợi. Mọi người rất đồng tình
với ý kiến này, ông Hồ Học Lãm nhận đứng tên làm Chủ nhiệm Việt Nam Ðộc Lập
Ðồng Minh Hội. (GNTBC. HVH. tr. 133)
Hồ
Chí Minh dùng danh xưng Việt Nam Ðộc Lập Ðồng Minh Hội và dùng ông Hồ Học Lãm
nhằm mục đích đánh lộn con đen để chiêu dụ các Tổ chức quần chúng của Hội này,
nhằm che dấu bộ mặt thật của Việt Cộng mới có thể hoạt động công khai tại Trung
Hoa, nhất là xin cầu viện từ chính phủ Quốc Dân Ðảng Trung Hoa.
Qua
một thời gian, cán bộ Việt Cộng chiếm lĩnh tất cả quyền hành, Hồ Học Lãm không
còn giữ chức Chủ nhiệm mà là Hoàng Quốc Tuấn, một tên giả của Hồ Chí Minh. Các
Cán bộ, Hội viên không còn là đại biểu của các Ðảng phái Quốc gia, mà chủ yếu
chỉ còn toàn là Cán bộ Việt Cộng.
Sau
đó, Việt Nam Ðộc Lập Ðồng Minh Hội cải tổ thành một Tổ chức gọi là “Mặt Trận
Việt Minh”, và để hợp thức hóa hoạt động trong nước, nên tại Hội nghị khoáng
đại kỳ 8 của Trung ương Ðảng Cộng sản được cử hành từ ngày10 đến ngày
19-05-1941 tại Bắc Pó đã ra nghị quyết gọi làthành lập “Mặt trận Việt Minh”.
Cuộc hội nghị này do Hồ Chí Minh chủ tọa với tư cách là đại diện của Cộng sản Quốc
tế.
Trong
Hội nghị có Trường Chinh (Ðặng Xuân Khu) tham dự và Ông đã trình bày:
“Phải
lợi dụng thời cơ đang lúc chiến tranh, đoàn kếtrộng rãi nhân dân Việt Nam,
thành một Tổ chức lấy tên là: “Việt Nam Ðộc Lập Ðồng Minh” (tức Mặt Trận Việt
Minh), tổ chức thành Ðội Du kích và lập Căn cứ Du kích, thiết thực chuẩn bị
khởi nghĩa bằng vũ trang, đánh đuổi Phát-xít Nhật, Pháp, đoạt lấy chính quyền,
kiến lập nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.
Kết
cuộc, Hồ Chí Minh đã cướp lấy Tổ chức “Việt Nam Ðộc Lập Ðồng Minh” của các Tổ
chức, Ðảng phái Quốc gia thành một Tổ chức của Cộng sản và lợi dụng Tổ chức này
để cướp chính quyền năm 1945. Mãi sau đó mới đổi tên là “Mặt Trận Liên Việt”,
rồi đến nay biến thành “Mặt Trận Tổ Quốc”.
Nhưng
thực tế trong chế độ Cộng sản, những Tổ chức này là bình phong cho Cộng sản ẩn
núp và cũng để Hồ Chí Minh dễ bề giật dây, lộng hành mà không phải chịu trách
nhiệm.
Do
đó, người dân thường hay chế giễu:
-
Mặt Trận Việt Minh viết tắt VM, đọc tắt nhanh thành VẸM. Thành ngữ Việt Nam:
Nói như vẹt, được đổi lại: nói như VẸM, để chỉ Cán bộ Việt Minh học thuộc lòng,
rồi nói thao thao những lời giả dối chứa đựng những thủ đoạn gian manh, lừa
bịp… nên mới có câu:
“Ðừng
nghe những gì Cộng sản nói, mà hãy nhìn những gì Cộng sản làm”.
2. Việt Nam Giải Phóng Ðồng Minh Hội.
Việt Nam Giải Phóng Ðồng Minh Hội là tên gọi tắtcủa Việt Nam Dân Tộc Giải Phóng
Ðồng Minh Hội, cũng là hậu thân của Việt Nam Dân Tộc Giải Phóng Ủy Viên Hội.
Tình
hình tại Việt Nam biến đổi, thực dân Pháp và quân phiệt Nhật đã thỏa hiệp với
nhau nên phe thân Nhật chống Pháp có chiều hướng suy yếu. Quân Nhật không còn
chi viện cho Phục Quốc Quân, do đó thực dân Pháp có cơ hội ra sức đàn áp, khủng
bố, bắn giết nhau và những người Việt chống Pháp đều trốn chạy sang Trung Quốc.
Nhờ đó mà thế lực của phe thân Trung Hoa có cơ hội phát triển.
Hồ
Chí Minh liền nắm cơ hội chuyển sang phe thân Trung Hoa của Trương Bội Công và
nêu mục tiêu “Kháng Nhật, chống Pháp”, nhân đó mà Việt Nam Giải Phóng Ðồng Minh
Hội được thành lập ngày 14 tháng 04 năm 1941.
Trương Bội Công nhận được chi viện của Tướng Trương Phát Khuê (Tư lệnh Chiến
khu 4, Trung Quốc), Ông liền điều động Ðội Công tác Biên khu Trung Việt (Trung
Quốc và Việt Nam) từ Liễu Châu đến Tĩnh Tây thuộc tỉnh Quảng Tây sát biên giới
Bắc Việt để chiêu nạp các thanh niên chống Pháp vừa từ Việt Nam trốn sang Trung
Quốc. Lúc đó quân Pháp tại Cao Bằng đang đàn áp dữ dội lực lượng chống Pháp của
người Việt.
Hồ
Chí Minh biết rõ được tình hình, lập tức cho Võ Nguyên Giáp, Vũ Anh, Cao Hồng
Lĩnh tức tốc đi Tĩnh Tây để móc nối nhóm thanh niên này. Các cán bộ Cộng sản
tranh thủ tuyên truyền, chiêu dụ nhóm thanh niên mới sang, đồng thời dùng mọi
thủ đoạn để phân hóa lực lượng của Trương Bội Công.
Tháng
11 năm 1940, Hồ Chí Minh đi Nam Ninh (Nam Ninh tiếp giáp với Lạng Sơn), chính
là khu vực chống Pháp của Phục Quốc Quân Việt Nam, trước đây bị Nhật chiếm, nay
(tháng 10 năm 1940) được Quân đội Trung Hoa thu phục lại.
Ở
Nam Ninh, Hồ Chí Minh gặp Phạm Văn Ðồng, Phùng Chí Kiên, Hoàng Văn Hoan và sau
đó cùng kéo đi Tĩnh Tây. Tại đây, có Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Hoàng Văn
Thọ… cũng từ Bắc Việt mới sang Tĩnh Tây.
Trước
đây, Hồ Chí Minh ra lệnh cho Hoàng Văn Hoan cùng các cán bộ Việt Cộng phải
chống đối Trương Bội Công. Nay thấy Trương Bội Công được Trung Quốc chi viện,
lại có thêm Ðội Công tác Biên khu Trung Việt trong tay, nên Trương Bội Công đã
trở thành nhân vật quan trọng của các Ðảng phái Cách mạng Việt Nam. Thế nên Hồ
Chí Minh liền quay lại ve vãn, nối lại quan hệ với Trương Bội Công. Lợi dụng
danh nghĩa Trương Bội Công để xâm nhập vào các Tổ chức Cách mạng Việt Nam chống
Pháp, hầu tuyên truyền xuyên tạc, dựng chuyện bôi bẫn những người quốc gia.
Do
đó, Việt Nam Giải Phóng Ðồng Minh Hội, trên danh nghĩa có nhiều Tổ chức, Ðảng
phái tham gia, nhưng trên thực tế Cán bộ Việt Cộng thao túng mọi hoạt động. Do
đó, Việt Nam Giải Phóng Ðồng Minh Hội đã xảy ra rất nhiều chuyện lủng củng, xáo
trộn, khởi đầu là Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Ðồng xách động các Học viên trong
Trại Huấn Luyện Cán bộ Việt Nam nghe theo sự chỉ đạo của họ – tiến hành hoạt
động phân hóa phe phái quốc gia. Việt Cộng tuyên truyền rằng: “Quốc Dân Ðảng
Trung Quốc và Chính phủ Dân Quốc không có thành ý trợ giúp cho Cách mạng Việt
Nam”. Cán bộ Việt Cộng yêu cầu quần chúng Việt Nam hãy ủng hộ Trung Cộng.
Nguyễn
Hải Thần và Cán bộ Việt Nam không Cộng sản, sau khi đến Tĩnh Tây đã phát giác
ra Võ Nguyên Giáp và Phạm Văn Ðồng là đồ đảng Việt Cộng…Quốc Dân Ðảng Trung
Quốc liền thay đổi thái độ với Giáp – Ðồng. Thêm vào đó, âm mưu của họ trong
việc xách động các học viên tại trại huấn luyện cũng đã bị lộ. Họ không còn
cách nào khác để ở lại Tĩnh Tây. Vào tháng 1 năm 1942, tất cả Cán bộ Việt Cộng
phải trốn về Cao Bằng.
Một
bộ phận khác của Việt Cộng ngụy trang, tiếp tục chuyển sang hoạt động ở Liễu
Châu và Côn Minh (theo báo cáo của Bộ Chính trị Chiến khu 4). Việt Nam Giải
Phóng Ðồng Minh Hội ở Tĩnh Tây gặp nhiều khó khăn, trở ngại do Việt Cộng gây ra
nên cũng âm thầm đình chỉ hoạt động.
Tháng
2 năm 1941 đến tháng 8 năm 1942, Hồ Chí Minh từ Quảng Tây về Cao Bằng để tổ
chức các Cơ sở Việt Minh, Căn cứ Cao Bằng được củng cố lại, phát triển và thu
nạp nhiều thanh niên, địa bàn hoạt động được nới rộng ở các tỉnh Cao Bằng, Lạng
Sơn, Bắc Cạn…
Phương
cách hoạt động hoàn toàn giống theo khuôn mẫu của Trung Cộng. Lúc đầu dùng lời
ngon tiếng ngọt để chiêu dụ, thu phục các thanh niên nam nữ; sau đó dùng áp lực
bức bách gia nhập vào Tổ chức… Ai không theo họ hoặc lưng chừng thì gán cho tội
“Việt gian”, rồi đem thủ tiêu và tịch thu tài sản.
A9. Hồ Chí Minh bị bắt tại Trung Hoa.
Tháng
8 năm 1942, Hồ Chí Minh trở lại Trung Hoa, bị dân quân địa phương bắt tại địa
phận làng Nhai Trường, huyện Thiên Bảo, tỉnh Quảng Tây và sau đó bị giải đến
Liễu Châu giam giữ.
Có
nhiều giả thuyết về việc nhà cầm quyền Trung Quốc bắt và giam giữ Hồ Chí Minh.
Trong đó có giả thuyết Hồ Chí Minh bị bắt với tội danh là “Cộng sản”, “Gian tế
của Pháp” và tội làm “Gián điệp”.
Nhưng
theo tài liệu của Trung Quốc cho biết Hồ Chí Minh bị bắt vì nhập cảnh vào Trung
Quốc một cách lén lút và chính vì lý lịch không rõ ràng của Hồ Chí Minh, như
các giấy tờ chứng minh mập mờ. Mấu chốt của sự nghi ngờ về lai lịch của Hồ Chí
Minh là ông ta mang theo các giấy tờ chứng minh được cấp từ năm 1940.
-
Giấy Trung Quốc Thanh niên Tân Văn ký giả, Học Hội và Quốc tế Tân Văn Xã đều là
những cơ quan thông tin, tuyên truyền của Trung Cộng. Hai cơ quan trên tại Quế
Lâm đã bị chính quyền Dân Quốc ra lệnh đóng cửa, nên nhà chức trách Trung Quốc
xem Hồ Chí Minh là một phần tử Trung Cộng. Hơn nữa, nếu Hồ Chí Minh sang Trung
Quốc với danh nghĩa là đại diện của Phân Hội Việt Nam thuộc Hội Quốc tế chống
xâm lược, mà lại còn giữ Sự vụ lệnh của Chiến khu 4 trước kia. Chính vì hành
động và sự việc quá mâu thuẫn của Hồ Chí Minh nên cuộc điều tra phải kéo dài…
Hồ
Chí Minh đã bị bắt, nhà chức trách Trung Quốc vẫn không biết: “Hồ Chí Minh
chính là Nguyễn Ái Quốc”, Cán bộ của Quốc tế Cộng sản, lãnh đạo Việt Cộng và
cũng là tên Hoàng Quốc Tuấn, thủ lãnh Việt Minh.
Nhà
cầm quyền Trung Quốc vẫn đinh ninh rằng Nguyễn Ái Quốc đã chết từ lâu rồi, còn
Hoàng Quốc Tuấn thì hiện đang hoạt động trong nội địa Việt Nam (theo báo cáo
của Nghiêm Kế Tố gởi cho Ban Chấp hành Trung ương Quốc Dân Ðảng (Trùng Khánh,
nguyên kiện), ngày 16-08-1942)
Mãi
đến khi Hồ Chí Minh rời Trại Quân lao Liễu Châu, đến Bộ Chính trị để nhận giấy
được trả tự do vào ngày 10-09-1943. Ðến lúc này, Trung Quốc vẫn chưa biết đích
xác về con người thật của Hồ Chí Minh. Theo báo cáo của nhà chức trách Liễu
Châu đương thời, họ vẫn cho rằng thủ lãnh của Việt Cộng và Việt Minh là Nguyễn
Ái Quốc, tức là Hoàng Quốc Tuấn vẫn đang hoạt động trong nội địa Bắc Kỳ, Việt
Nam.
Ðiều
đó cho thấy trong báo cáo, phía Trung Quốc đã tìm ra một phần là xác định được
“Nguyễn Ái Quốc và Hoàng Quốc Tuấn” chỉ là một người, nhưng vẫn chưa xác định
rõ ràng được “Nguyễn Ái Quốc – Hoàng Quốc Tuấn” chính là Hồ Chí Minh. (HCM tại
Trung Quốc – TVK. tr. 228 -229)
Còn
nhiều sự kiện xảy ra trong suốt thời gian Hồ Chí Minh bị bắt từ ngày 29-08-1942
đến ngày 10-09-1943 mới được trả tự do. Như vậy, Hồ Chí Minh bị tù cả thảy là
12 tháng 12 ngày. Trong thời gian bị bắt, Hồ Chí Minh luôn luôn tự xưng là
người quốc gia chống Pháp. Nhờ đó, các Tổ chức đang hoạt động tại Trung Quốc ra
sức và tìm mọi cách can thiệp cho Hồ Chí Minh sớm được trả tự do. Nhưng người
viết không muốn trình bày chi tiết, từng sự việc đã xẩy ra qua thời gian Hồ Chí
Minh bị bắt ở Trung Quốc. Mục đích viết quyển sách “VIỆT NAM ÐIÊU TÀN – BẤT
HẠNH”, để chứng minh tại sao đất nước Việt Nam điêu tàn (Nhà Thờ, Ðình Chùa,
Miếu Vũ, Di tích Lịch sử, Lăng tẩm, Phố xá, Nhà cửa, Ðường xá, Cầu cống, Ruộng
vườn, đều bị tàn phá bởi bom đạn, và chính sách Tiêu thổ Kháng chiến, vườn
không, nhà trống của Hồ Chí Minh) và tại sao Dân tộc Việt Nam bất hạnh (Chết vì
Bom đạn, vì Chém giết, Thủ tiêu… vì Ðấu tố, vì Việt gian, vì Ðói khổ, vì Chay
nạn, vì Thực dân Hãm hiếp, Chết vì Tình nghi, Chết vì Thanh toán nhau, Hận thù
nhau, Người dân bị một cổ hai tròng, Chết vì Thực dân và Cộng sản… Chết vì luôn
luôn sống trong lo sợ). Ðây là cảnh điêu tàn và sự bất hạnh chưa từng thấy
trong lịch sử Việt Nam, dù qua các thời đại đen tối nhất cũng không thể so sánh
vào giai đoạn có sự xuất hiện của Hồ Chí Minh, một tên cáo già quá tinh khôn,
quá đa mưu, túc kế, quá xảo thuật, quá lanh lợi… Trong bất cứ phương diện nào,
Hồ Chí Minh cũng đạt được chữ QUÁ !
Nếu những cái “quá đó” dành cho quê hương, dân tộc Việt Nam, thì đất nước Việt
Nam đâu có điêu tàn và dân tộc Việt Nam đâu có chịu nhiều bất hạnh mãi cho đến
ngày nay !!! Những sự kiện trình bày tiếp theo sau đây trong thờigian hoạt động
cách mạng chống Pháp. Nếu không có Hồ Chí Minh xuất hiện thì đất nước Việt Nam
ngày nay là một “Con Rồng Vĩ Ðại” ở Á Châu !
A10 Hồ Chí Minh được trả tự do, tiếp tục hoạt động cho Cộng Sản
và đánh phá các Tổ chức Cách Mạng chống Pháp.
Ðiều
gian xảo của Hồ Chí Minh là làm tay sai hoạt động cho Ðệ tam Quốc tế Cộng sản
để bành trướng Chủ nghĩa Cộng sản tại Việt Nam.
Nhưng Hồ Chí Minh luôn luôn dùng chiêu bài người Việt yêu nước; Hồ Chí Minh
đóng kịch tài tình và có những lần biểu diễn rất thành công khi bị bắt giam tại
Liễu Châu.
Theo
tướng Tiêu Văn cho biết có lần Hồ Chí Minh viết bài “Hối lỗi”, trong đó Ông thề
sẽ không hoạt động cho Cộng sản và còn tình nguyện dịch bản Nội qui Chủ nghĩa
Tam Dân của Tôn Trung Sơn ra chữ Việt. Tướng Trương Phát Khuê, Tư lệnh Chiến
khu 4 cho rằng Hồ Chí Minh là người biết phục thiện.
Tướng
Hầu Chí Minh, Chủ nhiệm Bộ Chính trị Chiến khu 4 có ấn tượng tốt về Hồ Chí Minh
nên đã tỏ ra đặc biệt ưu đãi đối với Hồ Chí Minh, nên đã cùng ăn chung một mâm
và được trú ngụ tại Ðại Kiều cùng với Bộ Chính trị Chiến khu 4.
(HCM tại TQ – TVK. tr. 230-231).
Nhờ
đó, khi trả tự do, Hồ Chí Minh được tham gia vào tổ chức Việt Nam Cách Mạng
Ðồng Minh Hội. Lợi dụng Tổ Chức này, Hồ Chí Minh chỉnh đốn và phát triển lực
lượng Việt Cộng, nhận sự viện trợ từ Quốc Dân Ðảng Trung Quốc và sự hợp tác
chân thành của các Tổ Chức Cách Mạng Quốc Gia khác.
Kết
quả các Tổ chức Ðảng phái Cách mạng Quốc gia bị phân hóa, nghi kỵ, lủng củng
nội bộ do Việt Cộng, qua sự chỉ đạo của Hồ Chí Minh gây ra nên từ từ các Tổ
chức Ðảng phái không Cộng sản đều bị tan rả và lực lượng Việt Cộng lại phát
triển lớn mạnh thêm.
Ðể
chứng minh điều đó :
3. Việt Nam Cách Mạng Ðồng Minh Hội.
Việt
Nam Cách Mạng Ðồng Minh Hội là một Tổ chức Cách mạng được thành lập tại Liễu
Châu, Trung Quốc vào tháng 10 năm 1942 do các Tổ chức, Ðảng phái Việt Nam có xu
hướng theo Chủ nghĩa Dân tộc đang hoạt động tại Trung Quốc. Trong thời gian
này, Hồ Chí Minh đang bị giam tại Liễu Châu. Hồ Chí Minh tỏ ra là người biết
phục thiện, ít nói, có lẽ Ông biết thân phận và hoàn cảnh của mình. Nếu nói
nhiều, lỡ ra nhà chức trách Trung Quốc biết được sự thật về vai trò Cộng sản
thì sẽ đưa đến nhiều chuyện rắc rối, nguy hiểm không lường được. Hồ Chí Minh đã
được huấn luyện từ Liên Xô như là một tên gián điệp chuyên nghiệp. Trải qua một
thời gian thương thảo cùng các Tổ chức, Ðảng phái, thành lập Ủy ban Trừ bị gặp
nhiều khó khăn, nhiều trở ngại, như:
-
Các phần tử Việt Cộng trong số đại biểu của Giải phóng Ðồng Minh Hội đã gây ra
trò ly gián.
- Các đại biểu của Phục Quốc Quân có quá nhiều yêu sách, tham vọng quá cao,
không thỏa mãn được thì gây rối.
- Trong các Ban Huấn luyện có một số ít phần tử bất lương. gây ra sự phân hóa,
đưa đến nghi kỵ lẫn nhau.
- Ông Nghiêm Kế Tố cũng có phê bình “Một số giáo viên trong Ban Huấn luyện là
người Trung Quốc” không biết tiếng Việt.
- Nhân sự đã thay đổi ngay từ lúc đầu nên không thể thành lập được Ban Ðiều
Hành.
Tóm
lại, sự chia rẽ của Việt Nam Cách Mạng Ðồng Minh Hội trên mặt nổi, tuy công
khai phát xuất từ sự phản đối của Hoàng Lương (Ðại biểu của Phục Quốc Quân),
nhưng thực tế thì do sự kích động âm thầm của các phần tửViệt Cộng. Dù gặp
nhiều khó khăn nhưng Việt Nam Cách Mạng Ðồng Minh Hội vẫn vượt qua được với
thành phần lãnh đạo như sau:
*
Ban Chấp Hành gồm có 7 Ủy viên :
- Trương Bội Công – Nghiêm Kế Tố
- Nguyễn Hải Thần – Trần Báo
- Vũ Hồng Khanh – Nông Kinh Du
- Trương Trung Phụng.
*
Ủy viên Thường vụ: – Trương Bội Công – Nguyễn Hải Thần – Vũ Hồng Khanh
- Tổ trưởng Bí thư : Nguyễn Hải Thần
- Tổ trưởng Quân sự : Trương Bội Công
- Tổ trưởng Tổ chức : Vũ Hồng Khanh
- Tổ trưởng Tuyên truyền: Dương Thanh Dân
- Tổ trưởng Huấn luyện : Trần Báo
- Tổ trưởng Tài vụ : Nông Kinh Du
- Tổ trưởng Giao tế : Nghiêm Kế Tố
Các
Phân Hội có trụ sở như :
- Ðông Hưng : Nghiêm Kế Tố
- Tĩnh Tây : Vũ Hồng Khanh
- Long Châu : Trần Báo
- Côn Minh : Do người của Việt Nam Quốc Dân Ðảng đảm trách
- Liễu Châu : Có Văn phòng ghi danh
- Vân Nam : Do Việt Nam Quốc Dân Ðảng đảm trách.
Nhìn
vào danh sách, Việt Cộng hoàn toàn bị loại trừ, không được tham gia vào Việt
Nam Cách Mạng Ðồng Minh Hội, vì có sự phản đối của Nguyễn Hải Thần và Trương
Bội Công.
Việt
Nam Cách Mạng Ðồng Minh Hội đã nêu lên tôn chỉ, đường hướng hoạt động rõ ràng:
“Thân Hoa – Phản Pháp – Kháng Nhật”
Ðiều
1 của Chính cương nói: “Mục đích tối cao của bản Hội, liên hiệp toàn dân Việt
Nam và Trung Quốc. Quốc Dân Ðảng đánh đổ các đế quốc Nhật – Pháp… Khôi phục
nước Việt Nam, xây dựng nên một quốc gia Dân chủ, Tự do và Bình đẳng”.
Ðiều
2 của Chương trình Hành động nói rằng:
“Bản Hội tuân chiếu di giáo của Tiên sinh Tôn Trung Sơn và quốc sách của Trung
Quốc, mưu cầu sự giải phóng cho dân tộc Việt Nam, đối nội thì liên hiệp với tất
cả các lực lượng cách mạng Việt Nam, đối ngoại thì liên hiệp với Trung Quốc và
các quốc gia dân chủ chống xâm lược trên thế giới, cùng nhau phản kháng xâm
lược, lấy sự tranh thủ một nền độc lập, tự do cho Việt Nam làm tôn chỉ”.
Trong
Cương lĩnh Công tác cũng nói rõ:
“Ðoàn kết toàn dânViệt Nam, vũ trang chiến đấu, tảo trừ tất cả mọi lực lượng
của các đế quốc Pháp, Nhật tại Việt Nam”. Công tác khẩn cấp được phân ra làm 4
loại như sau:
1) Tuyên truyền 2) Tổ chức
3) Huấn luyện 4) Quân sự.
Nhìn
rõ sự việc hoàn toàn thất lợi cho Việt Cộng, nên các phần tử Việt Cộng liền lợi
dụng danh nghĩa Việt Nam Ðộc Lập Ðồng Minh và Phân Hội Việt Nam thuộc Hộ Quốc
Tế Chống Xâm Lược để đối kháng với Việt Nam Cách Mạng Ðồng Minh Hội.
-
Tại Việt Nam thì Việt Cộng tuyên truyền, xuyên tạc với dân chúng:
“Yêu cầu ngoại bang, dựa vào ngoại bang (Ý đồ ám chỉ Trung Quốc, Quốc Dân
Ðảng), xin viện trợ là Việt gian”.
-
Tại Trung Quốc, Việt Cộng và các Ðảng viên Việt Nam Quốc Dân Ðảng đã đấu đá
nhau vô cùng ác liệt nhất lại là tại Côn Minh (Vân Nam). Phe Việt Cộng do Dương
Bảo Sơn kéo người đến Trụ sở Việt Nam Quốc Dân Ðảng gây hấn nhiều lần đến nỗi
Cảnh sát địa phương phải bắt bọn Trương Bảo Sơn mới yên. Hồ Chí Minh thấy sự
tranh chấp công khai đã xẩy ra, chẳng đem lại lợi ích gì cho kế hoạch phát
triển của Việt Cộng. Vì thế Hồ Chí Minh đã khiển trách các Cán bộ Việt Cộng
chống đối Việt Nam Cách Mạng Ðồng Minh Hội với lý do như sau:
“Không gia nhập Việt Nam Cách Mạng Ðồng Minh Hội là một sai lầm. Vì sao không
gia nhập ? Chúng đã rộng mở cửa cho ta vào mà tiến tới nắm lấy quần chúng… Tại
sao ta lại quay mặt đi ? Họ có thể thành lập được Việt Nam Cách Mạng Ðồng Minh
Hội thì cũng có thể hiệu triệu quần chúng theo đường lối của chúng. Ta phải
khéo léo lợi dụng cơ hội đó mà gia nhập Việt Nam Cách Mạng Ðồng Minh Hội để
lấy Tổ chức của địch biến thành Tổ chức của ta”. (HCM TTQ. TVK. tr 148)
Chính vì vậy mà Hồ Chí Minh đã tìm mọi cách phải lọt vào Việt Nam Cách Mạng
Ðồng Minh Hội để lấy viện trợ của Trung Quốc làm phương tiện phát triển cho lực
lượng Việt Cộng. Qua những xáo trộn tranh chấp, rồi đi đến một cuộc cải tổ Cách
Mạng Ðồng Minh Hội và lần này là tuyển cử các Ủy viên mới.
*
Bảy Ủy viên Ban Chấp Hành được tuyển:
- Trương Bội Công. – Nghiêm Kế Tố.
- Trương Trung Phụng. – Lê Tùng Sơn.
- Trần Báo. – Trần Ðình Xuyên.
- Bồ Xuân Luật.
*
Ba Ủy viên giám sát:
- Nguyễn Hải Thần – Vũ Hồng Khanh – Nông Kinh Du.
*
Hai Ủy viên được tuyển làm dự khuyết:
- Hồ Chí Minh và Nguyễn Tường Tam.
Khoảng
một năm sau, Hồ Chí Minh được bổ nhiệm Ủy viên Chính thức Ban Chấp Hành thế vào
chỗ trống của Trần Ðình Xuyên. Việt Nam Cách Mạng Ðồng Minh Hội sau khi cải tổ,
hệ phái của Hồ Chí Minh được gia nhập, địa vị của Phục Quốc Quân được đề cao
nhưng lực lượng của Việt Nam Quốc Dân Ðảng lại yếu thế hơn trước đây.
Thêm vào đó, hai hệ phái “Chủ nghĩa Dân tộc” và “Chủ nghĩa Cộng sản” ra mặt
kình chống nhau. Do đó, công tác của Hội không những dậm chân tại chỗ mà còn
dần dần suy thoái.
Tệ
hại hơn nữa là sau khi cải tổ, Việt Nam Cách Mạng Ðồng Minh Hội lại trở thành
đấu trường của các Ðảng phái Việt Nam. Sau cùng, Hồ Chí Minh đã thực hiện được
điều mà Hồ Chí Minh chủ trương “Lấy Tổ chức của địch mà biến thành Tổ chức của
ta”.
Mặc
dù Hồ Chí Minh gia nhập Việt Nam Cách Mạng Ðồng Minh Hội, nhưng chủ đích của Hồ
vẫn không muốn đemlực lượng của Việt Minh sát nhập vào mà chỉ mượn cái chỗ đứng
hợp pháp của Tổ chức này để làm hậu thuẫn cho mưu đồ thâm hiểm là đánh phá lại
các Ðảng phái Việt Nam đang hoạt động ở trong nước và tại Trung Quốc.
Ðến tháng 5 năm 1944, Việt Minh không còn chịu nỗi sự khủng bố, càn quét của
quân đội Pháp nhằm tiêu diệt thế lực Cách mạng Việt Nam, “thân Hoa” và cũng để
diệt trừ lực lượng nội ứng khi quân đội Trung Quốc tiến vào Việt Nam. Trong
giai đoạn này, thế lực Việt Minh ở các địa phương, Quân khu 2 (vùng Cao Bằng…)
đã dần dần bị tan rả, đại đa số Cơ sở Việt Minh phải phân tán mỏng và lẫn trốn
khắp nơi để được tồn tại. Hành động càn quét, khủng bố của quân đội Pháp đã dồn
những người Việt yêu nước có khuynh hướng chống Pháp vào cái thế phải trở thành
những phần tử Việt Minh liều chết chiến đấu giành độc lập tự do cho dân tộc.
Một
cơ may đến với Hồ Chí Minh đúng lúc là được tướng Trương Phát Khuê giúp đỡ. Hồ
Chí Minh cũng đoán được nhu cầu cần thiết của tướng Khuê, nên khi gia nhập vào
Việt Nam Cách Mạng Ðồng Minh Hội, liền dùng ngay khẩu hiệu: “Tranh thủ ngoại
viện, đoàn kết nội bộ” để hô hào trúng ngay vào niềm hy vọng của tướng Trương
Phát Khuê và lúc này lực lượng Việt Minh bị suy yếu ngay tại quốc nội nên Hồ
Chí Minh mới đem lực lượng Việt Minh hợp tác với Việt Nam Cách Mạng Ðồng Minh
Hội.
Ngày
06 tháng 06 năm 1944, tướng Trương Phát Khuê lấy danh nghĩa đại diện chỉ đạo
Việt Nam Cách Mạng Ðồng Minh Hội quyết định phái Tiêu Văn (Tiêu Văn là thành
phần Tả khuynh) đi Côn Minh để chỉ đạo việc cải tổ Phân Hội Vân Nam của Việt
Nam Cách Mạng Ðồng Minh Hội… Quyết định này đã bị Việt Nam Quốc Dân Ðảng phản
đối quyết liệt, bởi vì Phân Hội Vân Nam thuộc chủ trì của Việt Nam Quốc Dân
Ðảng.
Vũ
Quang Phẩm đã xây dựng được các cơ sở có ưu thế trong giới Việt kiều ở Vân Nam
cũng như ở vùng biên giới Trung Việt như Ðông Hưng, Tĩnh Tây, Văn Sơn, Hà Khẩu,
Mông La, Kim Bình, Giang Thành… đã lập nên các trạm công tác và do Cán bộ Việt
Nam Quốc Dân Ðảng điều hành (theo báo cáo của đại diện chỉ đạo Việt Nam Cách
Mạng Ðồng Minh Hội, ngày 23 tháng 3 năm Dân Quốc 33,
Liễu Châu), và số Hội viên đã lên tới hơn 1.600 người.
Việt
Nam Quốc Dân Ðảng giữ được Phân Hội Vân Nam là vì ở vị thế hoạt động hợp pháp
và được sự ủng hộ của Quốc Dân Ðảng Trung Quốc. Do đó, Phân Hội Vân Nam của
Việt Nam Cách Mạng Ðồng Minh Hội từ khi thành lập đầu năm 1943 đến nay, đã là
cái mục tiêu mà các phần tử Việt Cộng nhắm đến để tranh đoạt hoặc phá hoại.
Sau
khi được một người khuynh tả là Tiêu Văn “chỉ đạo” cải tổ, thì Tổ chức của Việt
Nam Quốc Dân Ðảng đã biến thành Tổ chức Việt Cộng theo đúng như âm mưu của Hồ
Chí Minh từ trước. Tiêu Văn là người khuynh tả. Việt Cộng đã khéo léo xử dụng
Tiêu Văn thuộc thế lực Tả khuynh của Trung Quốc để đánh Việt Nam Quốc Dân Ðảng.
Khi đã đoạt được Phân Hội Vân Nam của Việt Nam Cách Mạng Ðồng Minh Hội, Việt Cộng
lại tiến thêm một bước nữa là lợi dụng hành động ngang ngược “chỉ đạo”, cưỡng
bách của Tiêu Văn để chiếm luôn Việt Nam Cách Mạng Ðồng Minh Hội tại Liễu Châu.
Tiêu Văn còn ra lệnh bắt hai nhân vật trọng yếu của Việt Nam Quốc Dân Ðảng là
Nghiên Kế Tố và Vũ Quang Phẩm. Tiêu Văn còn dùng danh nghĩa Việt Nam Cách Mạng
Ðồng Minh Hội để nói lên “tội trạng” của các nhân vật lãnh đạo không chấp nhận
Cộngsản như :
- Vũ Hồng Khanh
- Nguyễn Tường Tam
- Tân Phấn Dũng là những người “vô kỷ luật và phá hoại Việt Nam Cách Mạng Ðồng
Minh Hội”
Hành
động bạo ngược của Tiêu Văn không những đã khiến cho các Ðảng phái Cách mạng
Việt Nam phẫn nộ mà còn làm cho Trung Ương Quốc Dân Ðảng Trung Quốc cũng bị
kích động nên đã liên tục đánh điện cho tướng Trương Phát Khuê yêu cầu trả tự
do cho Nghiêm Kế Tố, Vũ Quang Phẩm ngay lập tức và khiển trách Tiêu Văn. Nhưng
sự việc đáng tiếc, qua hành động điên rồ của Tiêu Văn làm lợi cho Hồ Chí Minh,
gây tai hại cho phe Quốc gia, đã xẩy ra rồi, không còn cứu vãn được nữa !
Hồ
Chí Minh đã chỉ đạo cho cán bộ Việt Cộng, tiêu biểu là tên Lê Tùng Sơn dùng thủ
đoạn “Liên kết A đánh B” để phân hóa phe cánh của đối phương, dần dần loại trừ
hết cán bộ của các Ðảng phái Cách mạng Việt Nam và cuốicùng là Việt Nam Cách
Mạng Ðồng Minh Hội chỉ còn lại Lê Tùng Sơn, Hồ Chí Minh và Bồ Xuân Luật. Tất cả
mọi
công việc của Hội đều do Lê Tùng Sơn điều hành qua sự chỉ đạo của Hồ Chí Minh.
A11. Hồ Chí Minh trở về Việt Nam hoạt động.
Ngày
09 tháng 8 năm 1944, tướng Trương Phát Khuê để cho Hồ Chí Minh tự do rời khỏi
Quảng Tây, một nơi mà Hồ đã ở đến hai năm, để trở về căn cứ địa ở Cao Bằng.
Ngày 20 tháng 9 năm 1944, Hồ Chí Minh rời Liễu Châu qua Long Châu, đến Tĩnh
Tây, sang Bình Mãnh, rồi vào Cao Bằng, Việt Nam.
Về
phần cá nhân Hồ Chí Minh, trước khi lên đường có yêu cầu những việc như sau:
1. Yêu cầu tướng Trương Phát Khuê viết một bức thư gởi cho các Ðảng phái, Ðoàn
thể yêu nước tại Việt Nam…
2. Yêu cầu một giấy ủy nhiệm của Trung ương Việt Nam Cách Mạng Ðồng Minh Hội
phái Hồ Chí Minh về nước công tác.
3. Yêu cầu cung cấp cho một bản đồ Việt Nam dùng cho quân sự.
4. Yêu cầu tướng Trương Phát Khuê cho một chứng minh thư dài hạn để tiện việc
đi lại.
5. Xin một số tài liệu tuyên truyền, phổ thông như hình ảnh về những tội ác của
Nhật Bản…
6. Xin một khẩu súng nhỏ để tự vệ.
7. Xin một số kinh phí cần thiết.
Tất
cả yêu cầu của Hồ Chí Minh đều được tướng Trương Phát Khuê thỏa mãn. Từ thư từ,
giấy thông hành, các thứ công văn, thuốc men để chữa bệnh và 76.000 đồng tiền
Trung Quốc làm kinh phí. (GNTBC – HVH. tr. 242)
Bản
“Ðại cương kế hoạch công tác trở về Việt Nam” có mấy điểm đáng chú ý để thấy rõ
âm mưu của Hồ Chí Minh.
1.
Có 18 người được Hồ Chí Minh dẫn từ Liễu Châu về Việt Nam đều là cán bộ cốt cán
của Ðội tuyên truyền. Ðây là một bộ phận mà Hồ Chí Minh tâm niệm không thiếu
được trên con đường về nước.
2.
Hồ Chí Minh rất thích Thị trấn Ðông Hưng ở biên giới Trung Việt. Trước đây,
Ðông Hưng là căn cứ công tác chủ yếu của Việt Nam Quốc Dân Ðảng. Hồ Chí Minh đã
có mưu đồ chiếm lấy căn cứ này từ lâu.
3. Hồ Chí Minh thỉnh cầu tướng Trương Phát Khuê gởi thư đến các Ðảng phái, Ðoàn
thể yêu nước tại Việt Nam, nhằm mục đích mưu cầu lợi ích riêng cho cá nhân mình
như: Một mặt nhằm giành lấy ân sủng của tướng Khuê, mặt khác để khoe khoang với
mọi người rằng Hồ Chí Minh mới chính là nhân vật lãnh đạo “hợp pháp” được nhà
cầm quyền Trung Quốc ủng hộ.
4.
Trong bản kế hoạch đề cập đến việc tuyên truyền: “những hành động tàn bạo của
đế quốc Nhật” nhằm thỏa mãn nhà đương cuộc Trung Quốc. Nhưng thực sự khi về đến
Việt Nam, Hồ Chí Minh không có một hành động thực tế nào chống lại quân Nhật.
Khi
Hồ Chí Minh về nước thì tình hình Việt Nam đã có nhiều biến chuyển, cơ hội phát
triển của Việt Minh gặp nhiều thuận lợi. Sự biến chuyển và thuận lợi không phải
do Hồ Chí Minh tạo nên sau khi về nước, mà sự thật là do quân Nhật tăng cường
áp lực đối với nhà cầm quyền Pháp. Hồ Chí Minh chỉ lợi dụng cơ hội đó để chỉ
đạo Việt Minh dùng chiến lược du kích để đánh quân Pháp, khiến cho Pháp phải bị
kẹt trong thế “hai mặt giáp công” của quân Nhật và Việt Minh.
Không lâu sau khi Hồ Chí Minh về Việt Nam, tướng Trương Phát Khuê thất vọng do
một văn kiện “báo cáo” của Hình Sâm Châu, ngày 01 tháng 10 năm Dân Quốc 33
(1944). Chính phủ, Trung ương Quốc Dân Ðảng ở Trùng Khánh lần đầu tiên nhận
được báo cáo, phát hiện nhân vật Hồ Chí Minh chính thật là Nguyễn Ái Quốc, Cán
bộ Quốc
tế Cộng sản, Thủ lãnh Việt Cộng và Việt Minh.
Hồ
Chí Minh trở về nước, Ban lãnh đạo Mặt Trận Việt Minh quyết định phái Võ Nguyên
Giáp và Vũ Anh đi nghinh đón. Tại Bắc Pó, Hồ Chí Minh chủ tọa buổi thuyết trình
của ông Giáp trình bày về cuộc phát động du kích chiến ở các vùng Cao Bằng, Bắc
Cạn, Lạng Sơn… Nhận định tình hình chung, Hồ Chí Minh kết luận:
“Thời kỳ cách mạng hòa bình đã qua rồi, nhưng cơ hội khởi nghĩa của toàn dân
vẫn chưa đến. Nếu chỉ hoạt động bằng hình thức chính trị thì không thể thúc đẩy
cuộc vận động cách mạng tiến tới. Ngược lại, nếu khởi nghĩa ngay lập tức thì sẽ
trúng kế địch. Nhân đó, phương pháp đấu tranh là phải từ chính trị đi đến quân
sự, mà chính trị lại quan trọng hơn quân sự”. Ðể thực hiện phương thức đấu
tranh trên, trước tiên phải xây dựng “Lực lượng nồng cốt”.
Hồ
Chí Minh đề nghị thành lập Ðội Vũ trang Tuyên truyền, đặt tên là “Ðội Tuyên Truyền
Giải Phóng Quân Việt Nam”. Với phương châm: “Chính trị quan trọng hơn Quân sự –
Tuyên truyền quan trọng hơn tác chiến”. Võ Nguyên Giáp được chỉ định phụ trách
Ðội Tuyên Truyền này. Ngày 22 tháng 12 năm 1944, lễ thành lập “Ðội Tuyên
Truyền Giải Phóng Quân Việt Nam” được tổ chức tại căn cứ Việt Minh trong khu
rừng rậm Trần Hưng Ðạo, thuộc vùng Cao-Bắc-Lạng. Ðội Tuyên Truyền Giải Phóng
Quân Việt Nam được xem như là tiền thân của “Quân đội Nhân dân Việt Nam” của
Việt Cộng sau này.
Các
“Ðội Tuyên Truyền Giải Phóng Quân Việt Nam” được phát triển từ chiến thuật,
chiến lược mà Hồ Chí Minh lấy kinh nghiệm du kích chiến của Trung Cộng để hoạt
động. Việt Cộng có vẻ rất hãnh diện về những chiến tích đã thu đạt được trong
thời gian này.
Biến
cố ngày 09 tháng 3 năm 1945, bất ngờ quân Nhật tập kích nhà cầm quyền Pháp trên
toàn cõi nước Việt Nam và lật đổ nền thống trị của Pháp tại Việt Nam một cách
dễ dàng, êm thắm… Biến cố này làm tiêu tan cái ảo tưởng của Toàn quyền “Decoux
– Cố nhịn nhục người Nhật để mong sống còn”.
Nhật
đã thực sự thay Pháp để thống trị Việt Nam. Kẻ được hưởng mối lợi lớn nhất vào
biến cố này lại chính là Hồ Chí Minh và Mặt Trận Việt Minh do ông ta lãnh đạo.
Do đó, Hồ Chí Minh tiếp tục tổ chức, phát triển và hoạt động cho đến khi cướp
chính quyền vào ngày 19 tháng 08 năm 1945.
Phía
Người Việt Yêu Nước không chấp nhận Chủ nghĩa Cộng sản như đã trình bày các
Ðảng phái, các Tổ chức hoạt động tại Trung Quốc:
- Việt Nam Ðộc Lập Ðồng Minh Hội.
- Việt Nam Giải Phóng Ðồng Minh Hội.
- Việt Nam Phục Quốc Ðồng Minh Hội.
- Việt Nam Phản Xâm Lược Ðồng Minh Hội.
- Việt Nam Cách Mạng Ðồng Minh Hội.
- Ngay cả Việt Nam Quốc Dân Ðảng cũng bị phân hóa.
Tóm
lại, tất cả đều bị tan rã vì sự xâm nhập, lũng đoạn, phá hoại, gây chia rẽ của
Cán bộ Việt Cộng nên các Tổ chức không còn thực lực để hoạt động đối đầu với
Việt Cộng được. Hồ Chí Minh đã thắng. Sự thắng lợi của Hồ Chí Minh chỉ đem lại
đau thương, bất hạnh cho dân tộc Việt Nam kể từ giai đoạn khởi đầu nầy.
B2. Các Tổ chức chống Thực dân Pháp của các nhà Cách mạng QG tại Việt
Nam.
Việc
chống đối trong nước thì cũng có các Tổ chức lợi dụng Nhật để đánh Pháp. Nhưng
rồi cũng bị Nhật phản bội, bỏ rơi… Xin nêu lên một số Tổ chức hoạt động tiêu
biểu sau đây:
Năm
1937, bên Pháp Mặt Trận Bình Dân lên cầm chính quyền. Nhân cơ hội ấy, ở nước ta
có phong trào tổ chức ra Ðông Dương Ðại Hội Nghị để yêu cầu cải cách chính trị
và giải phóng quốc sự phạm.
Nam
Bộ do nhóm Tạ Thu Thâu, Trần Văn Thạch, Hồ Hữu Tường, Nguyễn Văn Tạo, Dương
Bạch Mai, Phan Văn Hùm, Phan Văn Chánh xướng xuất hoạt động.
Trung
Bộ thì do ông Hà Duy Giáp, Trần Văn Cung, Phan Văn Quân, Nguyễn Văn Lợi, Lê Văn
Hiến, Hải Triều, Phan Ðăng Lưu v.v…
Bắc
Bộ thì có Huỳnh Văn Phương, Ðặng Thái Mai, Trịnh Văn Phú, Nguyễn Văn Tiến, Vũ
Liên, Mai Ngọc Thiệu v.v…
Ðồng
thời có nhóm tự trị do hai nhà báo Vũ Ðình Duy và Nguyễn Ðắc Lộc tổ chức.
Trong
hai năm 1938-1939, một vài đảng phái mới ra đời như Ðông Dương Liên Ðoàn Quốc
Gia Cách Mạng do cụ Hoàng Văn Khải tức Cử Ngọ (Thanh Hóa), Nguyễn Ðạo Kỳ,
Nguyễn Văn Viễn, Mai Ngọc Thiệu, Nguyễn Ðức Kính…vvv… lãnh đạo.
Ðến
kỳ Thế giới Ðại chiến thứ hai bùng nổ, phong trào Cách mạng ở nước ta xoay ra
một tình thế mới.
Việt
Nam Cách Mạng Ðồng Minh Hội được thành lập ở Quảng Ðông, do Nguyễn Hải Thần
lãnh đạo nhưng bị Hồ Chí Minh xâm nhập đánh phá. Hồ Chí Minh gài cán bộ Việt
Cộng với mưu đồ gây chia rẽ, ly gián, phân hóa. Sau đó Hồ Chí Minh xử dụng danh
xưng Việt Nam Cách Mạng Ðồng Minh Hội để phục vụ cho ý đồ bành trướng Chủ nghĩa
Cộng sản như đã trình
Năm
1940 Pháp thua Ðức ở Âu Châu, quân đội Nhật thừa thế của phe Trục, kéo vào
chiếm đóng Ðông Dương. Phục Quốc Quân do Trần Trung Lập và Ðoàn Kiểm Ðiểm chỉ
huy đánh chiếm lại Lạng Sơn. Ban đầu, quân Phục quốc được Nhật khuyến khích và
viện trợ, nhưng sau, vì Nhật giao thiệp với Pháp và nhận được phần lợi nên quân
Phục Quốc bị hãm vào tình thế cô lập, nguy hiểm, chỉ cầm cự được ít lâu rồi bị
vây hãm vào tuyệt địa; chủ tướng Trần Trung Lập bị bắt, còn anh em thì tản lạc,
người trốn vào rừng, người vượt qua biên giới Trung Hoa, tiếp tục hoạt động
nhưng bị Việt Cộng lợi dụng Tổ chức, tuyên truyền rồi trở thành thành viên của
Việt Cộng.
Ðảng Duy Dân do Lý Ðông A khởi xướng.
Năm
1940-1945: Trước khi người Nhật vào Ðông Dương để hưởng ứng với Trục Bá Linh –
Ðông Kinh – La Mã thì tại Việt Nam đã nhóm lên đảng Ðại Việt Dân Chính do ông Nguyễn Tường Tam và nhiều bạn
trí thức, công chức cùng sinh viên tổ chức tại Bắc Việt. Công việc buổi đầu lan
rộng, có nhiều vẻ khả quan. Chủ trương của Ðại Việt Dân Chính là lợi dụng người
Nhật để giải phóng cho Việt Nam theo như lời tuyên ngôn của Nhật trong chương
trình Ðại Ðông Á, nhưng rồi cũng không thành đạt.
Khi
quân đội Nhật kéo vào Lạng Sơn thì thời cuộc quốc tế không còn lợi cho họ. Thực
dân Pháp khôn khéo, mềm dẻo, chịu lép vế trước Ðại Tướng Nishihara nên thái độ
của người Nhật thay đổi ngay. Thừa dịp đó người Pháp đánh phá, liền cho bắt các
đảng viên của Ðại Việt Dân Chính. Ông Nguyễn Tường Tam trốn thoát sang Trung
Hoa, các đồng chí bị bắt với 30 người bị đầy tại trại an trí Vụ Bản Hòa Bình,
trong số đó có (Nguyễn Gia Trí, Hoàng Ðạo, Trần Văn Lư, Nguyễn Văn Toản v.v…)
Nhóm Ðại Việt Dân Chính của ông Nguyễn Tường Tam tan rã. Trong nước nẩy thêm
nhóm khác thân Nhật, diệt Pháp, lấy tên Ðại Việt Quốc Xã do lãnh tụ Nguyễn Văn
Tiếu và các ông Hà Châu, Nguyễn Ðăng Ðệ, Trương Ðình Di, Ðặng văn Hinh tiếp tục
nhưng cũng không đạt được ý nguyện.
Năm
1941, Ðội Cung thừa dịp bên chánh quốc Pháp rối ren, thua trận Thế Chiến II,
ông thống xuất anh em Bảo An Binh ở đồn Ðô Lương (Nghệ An) giết viên Giám Binh
Pháp và chiếm giữ đồn ấy.
Ông Ðội Cung định xuất quân bất ngờ, tấn công chớp nhoáng đánh lấy tỉnh Nghệ An
vì trong trại Giám Binh đã có bạn đồng chí hẹn hò nội ứng. Nhưng khi đến nơi,
không may chính ông bị quân Pháp tập kích hạ sát. Nhân sĩ Nghệ An thương ông
anh dũng, có tinh thần chống Pháp nên làm bài văn tế rất thống thiết, ca ngợi
sự hy sinh của Ông.
Năm
1943-1944: Có thêm Việt Nam Ái Quốc Ðảng của các ông Nguyễn Xuân Chữ, Vũ Ðình
Duy và Lê Toàn nhưng cũng không gây được tiếng vang.
Năm
sau, có Dân Chủ Ðảng của ông Dương Ðức Hiền, Vũ Ðình Hòe, Phan Mỹ v.v… nhưng
hoạt động của Dân Chủ Ðảng không có thành quả tuy rằng có nhiều trí thức tham
gia, rồi cũng bị Hồ Chí Minh lợi dụng làm bình phong.
Hồ
Chí Minh đã thành công trong việc cướp công cách mạng chống Pháp của toàn dân
Việt Nam.
Trong
87 năm, từ 1858 đến 1945, nước Việt Nam bị mất chủ quyền, dân Việt Nam bị Pháp
đô hộ sống cuộc đời đau khổ, nhục nhã thì cũng trong 87 năm đó thực dân Pháp
cũng đã chịu bao nhiêu nhọc nhằn thiệt hại nhiều nhân mạng, bối rối trong việc
đặt nền cai trị trên đất nước Việt Nam.
Ðến
cuộc đảo chánh mồng 09-3-1945 thì có Ðại Việt Quốc Gia Liên Minh của Nguyễn
Xuân Mai, Bùi Như Uyển, Ngô Thúc Ðịch, Nguyễn Thế Nghiệp, Nguyễn NgọcSơn,
Nhượng Tống v.v… Nhưng không đảng nào mạnh và khéo tổ chức cho nên sau khi Nhật
Bản đầu hàng thì Việt Minh (tức Cộng Sản Ðông Dương) đã lợi dụng sự hy sinh
xương máu và lòng yêu nước của toàn dân Việt Nam, chụp ngay cơ hội cướp chính
quyền tại Hà Nội, ngày 19-8-1945, với danh xưng Mặt trận Việt Minh
Tại
Huế, ngày 24-8-1945, vua Bảo Ðại thoái vị. Qua hành động thoái vị của vua Bảo
Ðại là một “thảm họa” cho các nhà cách mạng yêu nước không Cộng sản nói riêng
và cho cả dân tộc Việt Nam nói chung. Việc thoái vị của vua Bảo Ðại lại là một
“thắng lợi” của Hồ Chí Minh (sẽ trình bày rõ ở Chương sau – Nói về các nhà lãnh
đạo quốc gia)
Qua
ngày 02-9-1945, Hồ Chí Minh tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa
là cái bình phong để Hồ Chí Minh tiếp tục làm tay sai cho Cộng sản Quốc tế.
Cuộc chiến chống Pháp, lúc lòe ra khói lửa, lúc âm như hòn than phủ một lớp
tro, có cơ hội lại bùng ra. Ðó là một sự trạng đã kéo dài trong giai đoạn hơn
80 năm giữa nhân dân Việt Nam và thực dân Pháp.
Trong thời gian thực dân Pháp đô hộ nước ta, kể từ 1858 đến 1945, vua chúa,
quan lại, sĩ phu, trí thức tân học, binh sĩ cho đến người bình dân Việt Nam đã
kế tiếp nhau đấu tranh không ngừng chống ngoại xâm bằng đường lối võ trang hay
chính trị Cách mạng để giành lại độc lập cho Tổ Quốc, tự do hạnh phúc cho toàn
dân.
Từ
Trương Ðịnh, Nguyễn Trung Trực, Thủ Khoa Huân, Thiên Hộ Dương, Phan Tôn, Phan
Liêm đến Phan Ðình Phùng, Tôn Thất Thuyết, Trần Cao Vân, Thái Phiên, Ðinh Công
Tráng, Nguyễn Thiện Thuật, Hoàng Hoa Thám, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Lương
Văn Can, Nguyễn Ngọc Quyến, Ðào Nguyên Phổ, Trịnh Văn Cấn, Tạ Thu Thâu, Nguyễn
An Ninh, Nguyễn Thái Học, Nguyễn Khắc Nhu, Ký Con, Cô Giang v.v… không làm sao
kể xiết, người này chết, kẻ khác xông lên, phong trào này bị dập tắt, mặt trận,
đảng phái khác mở ra liên tục quyết chiến với kẻ thù không thẹn với tiền nhân
anh hùng, liệt nữ từ Bắc thuộc đến thời đại lịch triều, để lại gương sáng cho
hậu thế soi theo.
Dân
tộc Việt Nam là dân tộc anh hùng. Trải qua bao thời đại chống ngoại xâm Tống ở
thế kỷ 10-11, Nguyên ở thế kỷ13, Minh ở thế kỷ 15, Thanh ở thế kỷ 18, dân tộc
Việt Nam anh hùng thường ở thế yếu chống mạnh, số ít đánh nhiều nhưng vì có
chính nghĩa nên cuối cùng vẫn giành được độc lập, tự do.
Thật
vậy, trong công cuộc quyết chiến chống Pháp, tuy khí giới ít ỏi, thô sơ, quân
lính hạn hẹp, lương thực thiếu thốn, hoàn cảnh kém thuận lợi nhưng các phong
trào khởi nghĩa, các cuộc vận động chính trị đã làm cho thực dân Pháp phải trả
giá rất đắt mà chưa bao giờ nền cai trị của chúng được ổn định.
Cuộc
đấu tranh liên tiếp hơn 80 năm, xuất hiện nhiều phương thức, tùy thời tiến
triển, không một sắc thái nào, không một phương pháp nào mà chẳng có.
Về
quân sự, thoạt tiên nghĩa sĩ Trương Công Ðịnh và Văn Thân trong Nam nối tiếp
dấy binh kháng Pháp bằng tấm vông, dần dà ra đến Trung Bắc. Cuộc đấu tranh quân
sự của ta mỗi ngày một tiến bộ hơn. Những trận Ba Ðình, Bãi Sậy, Hương Khê, Yên
Thế, Thái Nguyên, Tà Lùng, Yên Báy, Ðô Lương v.v… kế tiếp nhau phát khởi chứng
tỏ cuộc chiến đấu của dân tộc ta không thể xem thường, nhất là đối với chiến
lũy Ba Ðình, năm 1887 Pháp điều động một lúc hơn bốn nghìn (4,000) quân và vây
đánh hàng bao nhiêu tháng mới phá nổi căn cứ của Nghĩa Quân Phan Ðình Phùng.
Về
ngoại giao, bước sang đầu thế kỷ này, các nhà Nho khởi xướng Phong trào Duy
Tân, sang Trung Hoa, sang Nhật ngoại giao cầu viện mở ra phong trào Ðông Du;
thanh niên được xuất ngoại du học rất đông. Ảnh hưởng của phong trào ấy, bắt
buộc chính quyền thực dân phải bỏ “chính sách ngu dân” mà lần hồi mở mang việc
học tập.
Ngay
dưới triều Tự Ðức đã có những nhân sĩ ái quốc như ông Bùi Viện tự động sang Mỹ
ngoại giao vì mục đích chính trị, hay ông NguyễnTư Giản dâng sớ xin bí mật
ngoại giao với Ðức để họ kềm chế bớt thế lực Pháp bành trướng ở Việt Nam.
Về
phong trào vận động học sinh và dân chúng, nhiều người tưởng đâu nước ta sau
1925 trở đi, mới phát khởi phong trào ấy, sự thật từ 1885 đã có phong trào học
sinh ái quốc nhóm lên rồi: mấy nghìn sĩ tử tại trường thi Hương ầm ầm phá
trường đi ra, bỏ thi khi nghe tin kinh thành thất thủ.Từ năm 1908, ở nhiều tỉnh
Trung Bộ hàng ngàn người kéo đi tranh đấu đòi giảm bớt sưu thuế.
Cuộc
tranh đấu của dân tộc Việt Nam trải qua hơn 80 năm, đã diễn ra dưới nhiều hình
thức: văn hoá, lao công, báo chí, kinh tế, lập Hội hoạt động v.v… Mặt nào cũng
có người đứng ra gây nên phong trào tranh đấu và chấp nhận hy sinh.
Bước
sang đầu thế kỷ này, các nhà Nho miền Bắc và miền Trung tổ chức nhiều hiệu
buôn, nhiều cơ sở kỹ nghệ. Ðối với chính sách thực dân Pháp đó cũng là một cái
tội vì thế mà các nhà Nho đều bị bắt và bị án đi đầy. Với sự nhận định thời thế
mới, với sự hiểu biết mới, khuynh hướng đấu tranh kinh tế dưới hình thức công
thương của đồng bào ta mỗi ngày phát triển một nhiều, mục đích là muốn tranh
đoạt về cho Tổ Quốc những quyền lợi kinh tế hầu hết ở trong tay ngoại nhân nắm
giữ. Công việc hoạt động và sự nghiệp kinh tế của những nhà có óc kinh doanh
lớn lao như Bạch Thái Bưởi, Nguyễn Văn Thu, Nguyễn Thiều, Cai Ba Thục v.v…
không thể nào không được ghi vào lịch sử dân tộc tranh đấu.
Chọi
với chế độ thực dân có sức mạnh gấp trăm gấp nghìn, chủ nghĩa Quốc Gia Dân Tộc
Việt Nam luôn sôi nổi trong tấm lòng yêu nước và phát xuất ra những hành động
tranh đấu giành lại chủ quyền cho Tổ Quốc.
Trong
hơn 80 năm, nước Pháp đã không dập tắt được phong trào đấu tranh giành độc lập
mà còn làm cho phong trào càng ngày càng sôi nổi thêm, vững chắc thêm và cuối
cùng phải đi tới kết quả tất yếu, đúng theo trào lưu thế giới và dân nguyện
Việt Nam: Pháp phải rời khỏi Việt Nam. Không may cho dântộc và quê hương Việt
Nam là Hồ Chí Minh xuất hiện đã cướp hết công lao tranh đấu đó để áp đặt một
chế độ Cộng Sản phi nhân, phi nghĩa. Dân tộc Việt Nam lại phải tiếp tục tranh
đấu chống Cộng sản thêm một lần nữa, và cuộc chiến Quốc Cộng do Cộng sản gây ra
kéo dài đến năm 1975. Kết quả Cộng sản đã dùng mọi thủ đoạn thu tóm Việt Nam và
đưa đẩy quê hương, dân tộc Việt Nam vào cảnh lầm than, nghèo đói, lạc hậu và
chậm tiến. Tất cả những gì cao quí của dân tộc Việt Nam đều bị Cộng sản phá
nát, từ phong tục, văn hóa, xã hội, kinh tế …vvv…
Kết
cuộc Việt Nam xếp vào hàng các quốc gia lạc hậu, nghèo khổ nhất trên thế giới.
Ðất nước Việt Nam điêu tàn – Dân tộc Việt Nam bất hạnh chỉ vì Hồ Chí Minh xuất
hiện.
Nguyễn Thuyên
(Còn tiếp)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét