Thứ Hai, 26 tháng 8, 2013

TỔNG HỢP NHỮNG BÀI VIẾT VỀ NHÀ THƠ BÙI GIÁNG - PHẦN 5


MỘT TÂM HỒN MÊNH MANG ẢO DIỆU
Thanh Thảo

Không chỉ làm thơ, dịch tiểu thuyết, viết sách khảo luận triết học, Bùi Giáng còn viết rất nhiều tùy bút văn học, đặc biệt là tùy bút về thơ. Đọc những tùy bút này, ta nhìn thấy tâm hồn ông mênh mang ảo diệu, thăm thẳm như bầu trời. Ông cảm nhận được những điều tinh vi huyền bí nhất của thi ca. Ông đúng là tri âm của các thi sĩ. Chúng tôi xin giới thiệu một bài trong số đó, đây là bài Bùi Giáng viết về Tuệ Sỹ, trích trong tập Đi vào cõi thơ.
 Tuệ Sỹ là một vị sư. Ông viết văn quá nghiêm túc, những sở tri của ông về Phật học quả thật quảng bác vô cùng. Thấy ông vẻ người khắc khổ, không ai ngờ rằng linh hồn kia còn ẩn một nguồn thơ thâm viễn u u... Một bữa ông đọc cho tôi nghe hai câu thơ chữ Hán của ông:
Thâm dạ phong phiêu nghiệp ảnh tùy
Hiện tiền vị liễu lạc hoa phi


Ông bảo làm sao tiếp cho hai câu để nên một bài tứ tuyệt. Tôi đề nghị với ông nên nhờ ni cô Trí Hải tiếp giùm. Ông ngượng nghịu bảo tôi đừng nên rỡn đùa như thế. Vậy tôi xin lai rai thử viết:



Thâm dạ phong phiêu nghiệp ảnh tùy
Hiện tiền vị liễu lạc hoa phi
Phiêu bồng tâm sự tân toan lệ
Trí Hải đa tàm trúc loạn ty
Và xin ông chả nên lấy thế làm bực mình.



Nhưng ai có ngờ đâu nhà sư kín đáo e dè kia, không hề bao giờ có vướng lụy, lại còn mang một nguồn thơ Việt phi phàm ? Một bài thơ "Không đề" của ông đủ khiến ta khiếp vía mất ăn mất ngủ:



Đôi mắt ướt tuổi vàng khung trời hội cũ
Áo màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang
Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ
Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn
Mới nghe bốn câu thôi, tôi đã cảm thấy lạnh buốt linh hồn, tê cóng cả cõi dạ.
Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở
Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan
Cười với nắng một ngày sao chóng thế
Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng
Đếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ
Bụi đường dài gót mỏi đi quanh
Giờ ngó lại bốn vách tường ủ rũ
Suối nguồn xa ngược nước xuôi ngàn



Tôi hoảng vía đề nghị: Đại sư nên gác bỏ viết sách đi. Và làm thơ tiếp nhiều cho, nếu không thì nền thi ca Việt mất đi một thiên tài quá lớn.



Ông đáp: Để về hỏi lại ni cô Trí Hải xem có đúng như lời thế chăng.



Đôi mắt ướt tuổi vàng
Khung trời
Hội cũ



Xin xuống dòng thư thả như thế. Ắt nhìn thấy chất trang trọng dị thường của hoài niệm. Hoài niệm gì ? - Khung trời hội cũ.



Một hội Đạp thanh ? Một hội nao nức ? - "Giờ nao nức của một thời trẻ dại ?".



Đôi mắt ướt tuổi vàng khung trời hội cũ...



Mở lời ra, nguồn thơ trực nhập vào trung tâm cơn mộng chiêm niệm. Đầy đủ hết mọi yếu tố bát ngát: một cung trời xán lạn bao la, một hội cũ xao xuyến, một tuổi vàng long lanh... Một đôi mắt ướt ngậm ngùi của hiện tại.



Nhưng mạch thơ đi ngầm. Tiết nhịp âm thầm nhiếp dẫn. Thi sĩ không cần tới một hình dung từ nào cả, vẫn nói được hết mọi điều "phải nói" với mọi người "muốn nghe" với riêng mình "không thiết chi chuyện nói".



Người thi sĩ xuất chúng xuất thần thường có phong thái khác thường đó. Họ nói rất ít mà nói rất nhiều. Họ nói rất nhiều mà chung quy hồ như chẳng thấy gì hết. Họ nói cho họ, mà như nói hết cho mọi người. Nói cho mọi người mà cơ hồ chẳng bận tâm gì tới chuyện thiên hạ nghe hay chẳng nghe. Nỗi vui, nỗi buồn của họ, dường như chẳng giống lối vui buồn của chúng ta. Do đó chúng ta trách móc họ một cách lệch lạc hết cả (par manque de justice interne).



Trong một cuộc vui, ta hỏi họ vài điều. Họ lơ đễnh thờ ơ, ta tưởng họ kiêu bạc. Trong lúc mọi người đang gào khóc giữa đám tang, họ phiêu nhiên đi qua, trông có vẻ như mỉm cười, niêm hoa vi tiếu. Ta tưởng họ tàn nhẫn thô bạo.



Vua Gia Long ngày xưa đã từng lấy làm quái dị về thái độ Nguyễn Du: "Trẫm dùng người, không phân biệt kẻ Nam kẻ Bắc. Ai có tài thì trẫm trọng dụng (... ...). Cớ sao khanh lại u sầu ít nói suốt năm như thế ?".



Ông vua kia lấy làm lạ là phải lẽ lắm, hợp với lương tri thói thường thiên hạ lắm. Ông không thể hiểu vì sao vị di thần kia cứ miên man như nằm trong cõi mộng thần di, hồn dịch !



Vua đã ban cho chan hòa mưa móc, lộc trọng quyền cao đặc ân thâm hậu như thế, cớ sao Liệp Hộ chưa vừa lòng, vẫn chưa cứ thả



mộng chạy lang thang về chân trời hướng khác.



Đáp: Ấy chính bởi đôi mắt nhìn đây mà thấy những đâu đâu.



Đôi mắt ướt tuổi vàng
Khung trời hội cũ



Đôi mắt ướt ? Đôi mắt của ai ? Vì sao ướt ? Vì lệ trào, hay là vì quá long lanh ?



Thi sĩ không nói rõ. Ấy là giữ một khoảng trống vắng lặng phóng nhiệm cho thơ.



Tha hồ chúng ta tự do nghĩ hai ba lối. Hoặc là đôi mắt thi nhân ướt trong hiện tại vì nhớ nhung một trời hội cũ. Hoặc là đôi mắt giai nhân nào long lanh dịu mật như nước suối chan hòa, soi bóng một khung trời hội cũ bất tuyệt nào, mà ngày nay tại hạ đã đánh mất rồi chăng ?



"Áo màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang"



Áo nào màu xanh ? Màu xanh màu chàm của cô gái Mán gái Mường, gái núi nào xưa kia băng rừng và thi nhân đã ngẫu nhiên một lần nhìn đắm đuối ?



Tôi nói không sai sự thật mấy đâu. Vì Tuệ Sỹ vốn xưa kia ở Lào. Cha mẹ ông kiều cư trên đất Thượng Lào Trung Việt. Bà mẹ ông thỉnh thoảng cũng trở về Sài Gòn tới chùa viếng ông đem quà cho ông một đôi dép riêng biệt, một tấm khăn quàng riêng tây.



Đôi mắt ướt tuổi vàng
Khung trời hội cũ
Áo màu xanh
Không xanh mãi
Trên đồi hoang
Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ.
Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn



Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ ? Mình là thân Bồ tát, quanh năm kinh kệ trai chay, thế sao bỗng nhiên một phút vội vã lại dám làm thân du thủ ? Dám gác bỏ kệ kinh ? Dám mở cuộc thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn ?



Phải có nhìn thấy khuôn mặt khắc khổ chân tu của Tuệ Sỹ, mới kinh hoàng vì lời nói thăm thẳm đơn sơ nọ. Lời nói như ngân lên từ đáy sâu linh hồn tiền kiếp, từ một quê hương trên thượng du bao la rừng núi gió sương canh chiều nguyệt rung rinh trong đêm lạnh.

Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở
Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan
Cười với nắng một ngày sao chóng thế
Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng

Mối tình rộng thả suốt biển non im lìm lạnh lẽo. Một hạt muối vẫn chưa tan. Một nếp u ẩn của lòng mình bơ vơ không gột rửa.

Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở
Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan

Ta tưởng như nghe ra "cao cách điệu" bi hùng của một Liệp Hộ, một Nerval, một chỗ trầm thanh nhất trong cung bậc Nietzche.

Thi nhân đã mấy phen ngồi ngó trăng tàn ? Ngồi trên một đỉnh đá ? Bốn bề rừng thiêng giăng rộng ngút ngàn màu trăng xanh tiếp giáp tới chân trời xa xuôi đại hải?

Đỉnh đá và hạt muối là hai chốn kết tụ tinh thể của núi và biển. Đỉnh đá quy tụ về mọi hương màu trời mây rừng rú. Hạt muối chứa chất cái lượng hải hàm của trùng dương. Đó là cái bất tận của tâm tình sừng sững tại giữa tuế nguyệt phiêu du:

Cười với nắng một ngày sao chóng thế
Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng

Một tiếng "buồn chăng" lơ lửng nửa như chất vấn, nửa như ngậm ngùi ta thán, dìu về cả một khúc tâm thanh đoạn trường:

Sen tàn cúc lại nở hoa
Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân
Đếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ
Bụi đường dài gót mỏi đi quanh
Tiết nhịp lời thơ lại biến đổi:
Đếm tóc bạc
Tuổi đời
Chưa
Đủ
Bụi đường dài
Gót
Mỏi
Đi
Quanh

Tiết điệu rạc rời như gót mỏi đi quanh. Một tuổi đời chưa đủ ? Một tuổi xuân chưa vừa ? Một tuổi vàng sớm chấm dứt ? Một tuổi "đá" sớm từ giã mọi yêu thương ?

Giờ ngó lại bốn vách tường ủ rũ
Suối nguồn xa
Ngược nước
Xuôi ngàn

Bài thơ dừng lại. Dư âm bất tuyệt kéo dài trong đêm lữ thư khép mình trong bốn bức tường với nhạt nhòa ủ rũ ngục tù.

Chỉ một bài thơ, Tuệ Sỹ đã trùm lấp hết chân trời mới cũ Đường Thi Trung Hoa tới Siêu Thực Tây Phương. 

Thanh Thảo

TRƯỜNG HỢP BÙI GIÁNG 
(Nguyễn Hưng Quốc) 

Khi viết về thơ ở miền Nam trước 1975 cũng như thơ trong nước sau 1975, tôi ít nhắc đến Bùi Giáng. Không phải vì tôi đánh giá ông thấp. Ngược lại. Tôi đồng ý với Mai Thảo: Bùi Giáng là một tài thơ trác tuyệt. " Có Ông, thi ca mới đích thực có biển có trời" (1). Càng đọc Bùi Giáng tôi càng thấy ông lạ lùng. Con người ông lạ lùng: nói như Thanh Tâm Tuyền, qua lời kể của Mai Thảo, Bùi Giáng là người " ngủ ra thơ, thở ra thơ, đi ra thơ, đứng ra thơ. Chứ không phải nghĩ thơ, làm thơ" (2). Thơ ông càng lạ lùng, lạ lùng đến nổi ai cũng ngại ngùng khi viết về ông. Kể chuyện về ông: có, nhưng phê bình thơ ông: chưa. Có lần, Thanh-Tâm-Tuyền gọi Bùi Giáng là một " thiên tài tự hủy ghê gớm nhất của thi ca Việt Nam hiện đại" và là " một hồn thơ bị vây khốn" (3). Bị vây khốn bởi cái gì? Theo tôi, Bùi Giáng bị vây khốn, trước hết, bởi những hoài nghi, những dằn vặt. Thì một số khá đông các nhà thơ khác ở miền Nam thời kỳ 1954-1975 cũng hoài nghi, cũng dằn vặt. Song, có điều, không ai sống đến tận cùng sự hoài nghi, sự dằn vặt như là Bùi Giáng. Thơ Bùi Giáng là những phún thạch phun lên từ hỏa diệm sơn của hồn ông. Nhưng khác các nhà thơ khác, Bùi Giáng lại ngụy trang thảm kịch của mình bằng một giọng cợt nhã, bông đùa. Trong một bài viết về Hàn Mặc Tử, sau khi ghi nhận thơ Hàn Mặc Tử là " một tiếng thét và một lời than. Tiếng thét đầy máu, tiếng than tràn ngập hư vô. Lúc hãi hùng khiếp đảm, lúc quạnh quẽ lạc phách xiêu hồn" , Bùi Giáng nhắc đến thơ của chính ông như một sự so sánh: 

" Thơ tôi làm...là một cách dìu ba đào về chân trời khác. Ði vào giữa trung tâm bão giông một lúc thì lập thời xô ngôn ngữ thoát ra, phá vòng vây áp bức. Tôi gạ gẫm với châu chấu chuồn chuồn, đem phó thác thảm họa trần gian cho chuồn chuồn mang trên hai cánh mỏng bay đi. Bay về Tử Trúc Lâm, bay về Sương Hy Lạp, ghé Calvaire viếng thăm một vong hồn bát ngát, rồi quay trở về đồng ruộng làm mục tử chăn trâu. Làm mục tử chăn trâu không xong bỏ trâu bò chạy lạc, phá phách mùa màng khoai sắn, thì tôi chạy về bẩm báo với ni cô cho phép con chuồn chuồn của tôi cư lưu một phút giây trong linh hồn bao dung phương trượng. Ni cô xua đuổi tôi thì tôi ra bờ sông nằm ngủ khóc một mình thơ dại giữa chiêm bao. Trong chiêm bao, thơ về lãng đãng thì từ đó vần bất tuyệt cũng lãng đãng chiêm bao" .(4) 

Có dìu ba đào về chân trời nào khác thì ba đào vẫn cứ là ba đào, động biển vẫn cứ là động biển. Bay đi đâu cánh chuồn chuồn của Bùi Giáng cũng gặp giông bão. Giông bão dậy lên, trước hết, từ đôi cánh của nó: ngôn ngữ. Ðã đành làm thơ, ai cũng chú trọng đến ngôn ngữ. Song tôi có cảm tưởng ít có ai bị ám ảnh bởi vấn đề ngôn ngữ một cách nặng nề, triền miên như Bùi Giáng. Chữ " ngôn ngữ" thường xuyên xuất hiện trong thơ ông, đặc biệt trong hai tập thơ mới xuất bản ở hải ngoại sau 1975 (5), ở đó câu Ðường qua ngôn ngữ tuyệt trù, Ðường qua ngôn ngữ điệp trùng và Ðường qua ngôn ngữ cuối cùng được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong nhiều bài thơ khác nhau. Hãy để ý đến nhóm từ " đường qua ngôn ngữ" : với Bùi Giáng dường như công việc làm thơ chủ yếu là một cuộc hành trình vượt qua ngọn đèo cheo leo của ngôn ngữ trước khi là bất cứ một cái gì khác. Ngọn đèo ấy không những cheo leo mà còn mù mịt, thăm thẳm. Phần lớn các câu thơ kế tiếp mấy câu vừa dẫn đều là bóng đêm (Mừng xuân viễn vọng đêm bù cho đêm; Mừng xuân viễn vọng đêm lừng lẫy đêm; Mừng xuân viễn tuyệt đêm từng từng đêm...) Xuân, ừ thì xuân. Nhưng đêm vẫn mịt mùng đêm. Ðêm vô tận. Ngôn ngữ không làm cho bóng đêm ấy tan biến. Trái lại. 

Chấm ngòi bút sắt se vào mực 
Viết ra câu thúc giục sương mù 
(Mùa xuân chiêm bao) 

Trong lúc hầu hết các nhà thơ khác, mặc dù nhận chân được vị thế hẩm hiu của nhà thơ trong xã hội, vẫn tin tưởng vào ngôn ngữ và vẫn tự hào về công việc sáng tạo của mình, nói như Thanh Tâm Tuyền, " cuộc hành trình hoàn toàn cô độc" trên một " con đường chưa ai tới" (6), Bùi Giáng, ngược lại, tuy vẫn làm thơ, hơn nữa, còn làm thơ cực kỳ nhiều, nhiều hơn bất cứ một người nào khác, lại có vẻ rất coi thường cái việc làm thơ ấy và chắc chắn là không mấy tin tưởng vào khả năng thể hiện của ngôn ngữ: 

Người điên ngôn ngữ điệp trùng 
Dở chừng như mộng dở chừng như mê 
Thưa em ngôn ngữ quặt què 
Làm sao nói hết nghiệp nghề người điên 
(Người điên) 

Trong quyển " Mùa thu trong thi ca" , Bùi Giáng viết: 

Một hôm Mai Thảo bảo rằng 
Làm thơ bê bối sao bằng đi rong 
phố phường mọc cỏ quanh năm 
(Sa mạc phát tiết) 

Có người đọc câu thơ thấy đâm ra bực mình hỏi: " Phố phường đâu có cỏ nào mọc! Thằng thi sĩ ăn nói tầm phào, sai sự thật!" Ấy thế là người ta cưỡng bức thi ca một cách không chính đáng. Và trầm trọng hơn nữa, người ta tưởng chừng như tin rằng ngôn ngữ có thể nói ra được sự thật. Tưởng chừng như người ta chẳng bao giờ suy gẫm về Kim Cương Kinh. " Thế gian ngôn ngữ phi chân kinh" .(7) 

Ngôn ngữ không những quặt què, không những không nói ra được sự thật mà, hơn nữa, trong thời hiện đại, đặc biệt khi cuộc chiến tranh lạnh giữa hai khối Tư bản - Cộng sản đang gay gắt, khi cuộc chiến tranh giữa hai miền Nam và Bắc Việt Nam đang ác liệt, khi vấn đề thắng bại không những được quyết định ngoài chiến trường mà còn trên các bàn hội nghị quốc tế, ngôn ngữ còn có tác dụng ngược lại: nó che giấu sự thật và, thay vì đem lại sự cảm thông giữa loài người, nó lại làm cho con người ngộ nhận lẫn nhau, thù ghét lẫn nhau, say sưa chém giết lẫn nhau. Ðó là lý do tại sao Bùi Giáng lại: 

Tôi gọi Mỹ Tho là Mỹ Thỏ 
Mỹ Thọ muôn đời là lục tỉnh hôm nay 
Tôi gọi Sóc Trăng là Sóc Trắng 
Gọi người sương phụ gái thơ ngây 
(Lẫn lộn lung tung) 

Bùi Giáng xáo trộn chữ nghĩa để nói lên một sự thật: ngôn ngữ đang bị xáo trộn, đang bị tha hóa. Bùi Giáng gọi Mỹ Tho là Mỹ Thỏ, Mỹ Thọ, người ta cho là hài hước hoặc điên khùng, nhưng chẳng phải là trong cuộc sống, người ta đã không từng gọi một kẻ bán nước là yêu nước, một kẻ giết người như ngoé là nhân đạo, một kẻ bắn súng vào anh em vào đồng bào vào đồng loại vì một thiên đường không tưởng nào đó là cách mạng đó ư? Chẳng phải là người ta đã không từng gọi nhà tù là trại học tập, độc tài là tập trung dân chủ, sự ngu đần là đỉnh cao trí tuệ, khố xanh khố đỏ là quốc gia, thái độ khom lưng trước ngoại bang là biểu hiện của tinh thần dân tộc đó ư? Thử thế chữ Mỹ Tho bằng bất cứ chữ nào trong từ điển chính trị Việt Nam hiện đại, người ta sẽ thấy ngay cái điều mà Ionesco từng nói: " một nền văn minh của ngôn ngữ là một nền văn minh quẩn trí, hỗn độn" (8). Ngôn ngữ mất linh hồn. Ngôn ngữ xác xơ, rách mướp, tơi tả. Nhiều người thuộc loại nhạy cảm nhất trong thời đại chúng ta đã thất vọng não nề. Sự thất vọng ấy ở Tây phương, dẫn đến sự im lặng của một số người cầm bút, sự ra đời của loại kịch không lời; ở Bùi Giáng, tạo ra những vần thơ đại loại thế nầy: 


...Một hai hai một di hài 
Dài hi hữu mộng an bài chẩm ma 
Chả xin? Chả hỏi? Vịt gà? 
Và thân thể máu me và thịt xương... 

...Ma đên ỳ nẽ ô mà 
Xơ tin ô đố đâu là đến đây 
Xền nô đô thí xi đầy 
Xè rê tê nến ngọn lầy lội cơn 
A tin a tỉ oan hồn 
Vong lưu lỳ lẩy cung đờn cợt trêu 
Người ơi ô ướt dấu bèo 
ồ thôi thế vậy thu vèo sang thu 
Lừng bay thân thế pha mù 
Sương mây tuyết dậy thân bù cho thân 
(Ðạm Tiên) 

Gắn liền với sự hoài nghi ngôn ngữ là sự hoài nghi lý trí. Trong lúc hầu hết các nhà thơ khác, mặc dầu hoài nghi lý trí, luôn luôn khắc khoải tìm kiếm sự thật, với niềm tin dù mơ hồ và mong manh, là sự thật ấy có đâu đó, sẽ gặp được một ngày. Bùi Giáng, ngược lại, tuy dịch và viết khá nhiều tác phẩm về triết học hiện đại Tây phương, lại hoàn toàn phủ nhận đầu óc duy lý của Tây phương, hoàn toàn mất niềm tin với mọi cái gọi là chân lý. Cuộc đời, với Bùi Giáng, là chuổi dài những nghi vấn và phẩn nộ: 

Ði vào giữa cuộc thị phi 
Nửa tam bành tới nửa nghi vấn về 
(Y ư mộng, du ư mê) 

Làm thơ, với Bùi Giáng, là một hành động phản kháng, phản loạn. Như Từ Hải trong truyện Kiều của Nguyễn Du: Sao bằng riêng một biên thùy 

Cõi điên vũ trụ tùy nghi tung hoành 
Xiết bao vô ngại ngọn ngành 
Chọc trời khuấy nước tan tành thịt xương 
Ấy như thể, ấy như dường 
Ði vô tận ý đi đường chơn không 
Ði mây gió đi phiêu bồng 
Ngàn trăng ngậm bóng sương đồng ra đi 
Ði về thể lệ lâm ly 
Ði đi suốt cõi lời nghi vấn lời. 
(Sao bằng) 

Nghi vấn. Lúc nào cũng nghi vấn. Nghi vấn cả lời nói của mình. Bài thơ Tặng Mã Giám Sinh là một bài thơ hay: 


Hỏi tên? Rằng biển dâu xanh 
Hỏi quê? Rằng mộng ban đầu đã xa 
Gọi tên? rằng một hai ba 
Ðếm là diệu tưởng đo là nghi tâm. 

Tôi đoán là Bùi Giáng rất tâm đắc bài thơ nầy. Nó được in lần đầu trong " Mùa thu trong thi ca" với tựa là " Mã Giám Sinh" , sau in lại trong " Thơ Bùi Gíáng" xuất bản tại Canada năm 1990 với sự thay đổi nhỏ: thêm chữ " tặng" ở tựa đề. Có hay không có chữ " tặng" , thật ra cũng chả có gì quan trọng. Cũng như mọi cái tựa trong thơ Bùi Giáng chả có gì là quan trọng. Lười, ông thường nhặt bất cứ từ hay nhóm từ nào trong bài dùng để làm nhan đề. Bài thơ trên được đặt tựa là Mã Giám Sinh hay Tặng Mã Giám Sinh có lẽ để ghi lại xuất xứ một nguồn cảm hứng: nó xuất phát từ mấy câu thơ trong Truyện Kiều có liên quan đến Mã Giám Sinh: 


Hỏi tên, rằng: Mã Giám Sinh 
Hỏi quê, rằng: huyện Lâm Thanh, cũng gần. 

Trong bài Chiều nguyên xuân in trong tập Mưa Nguồn, xuất bản từ năm 1963, Bùi Giáng đã bị ám ảnh bởi vấn đề quê hương: 

Hỏi rằng: người ở quê đâu 
Thưa rằng: tôi ở rất lâu quê nhà 

Từ " ở rất lâu quê nhà" đến " mộng ban đầu đã xa" , tư tưởng của Bùi Giáng đã vượt biên, lấn sang một tầm khác. Với một sức oằn khác. Dẫu sao, ở đây điều quan trọng nhất là câu cuối cùng: " đếm là diệu tưởng đo là nghi tâm" . Mọi sự phân biệt đều bị xóa nhòa. Tôi cho đây là đặc điểm nổi bật nhất trong phong cách thơ Bùi Giáng: Thơ Bùi Giáng chính là sự xóa nhòa của mọi đường biên quen thuộc vốn được mọi người chấp nhận như là một quy ước, một luật lệ trong văn học từ xưa đến nay. 

Thứ nhất là xóa nhòa những đường biên về giọng điệu. Những ai từng viết lách ít nhiều cũng đều hiểu cái khó nhất đối với người cầm bút là pha trộn giọng điệu, nghĩa là, chẳng hạn, vừa nghiêm túc lại vừa cười cợt, vừa uyên bác lại vừa bình dân, vừa suy tư lại vừa thích thảng. Bùi Giáng vượt qua tất cả những khó khăn ấy một cách nhẹ nhàng. Ví dụ dưới đây, tôi chọn một cách tình cờ: 

Hai cô bán phở dịu dàng 
Ðừng nên nói bậy hai nàng buồn ta" 
-Trẫm từ lịch kiếp phôi pha 
Tái sinh bất chợt mà ra phụ lòng 
Tình thương ẩn mặt từ trong 
Nội tâm vô tận mà long đong vì 
Phong tao phấn đại tương nghi 
Tùy thời thể dựng mà tuy nhiên là. 
(Tặng quán phở Huyền Trân) 

Ai cũng thấy rõ hai câu đầu và sáu câu sau có giọng điệu khác hẳn nhau. Vậy mà, riêng tôi, thú thật, tôi không hiểu tại sao Bùi Giáng có thể chuyển từ hai câu đầu xuống sáu câu dưới một cách dễ dàng tự nhiên như vậy. Mà đây cũng lại là một đặc điểm rất phổ biến trong thơ Bùi Giáng. Nói một cách tóm tắt, thơ ông có hai loại từ vựng: một loại tạm gọi là bác học và một loại tạm gọi là bình dân. Bác học thì như thục nữ, thuyền quyên, cảo thơm, thượng thừa, miên trường, đoạn trường, băng tuyết, thập thành v.v...nghĩa là những từ Hán Việt lâu lắm không còn được sử dụng nữa. Còn bình dân thì như đại ca, Huê ky., Liên Xồn, lai rai, nhậu nhẹt, máu me, số dzách, dấn bước, dấn liều v..v...nghĩa là những khẩu ngữ còn lấm lem bụi bặm ngoài đường ngoài phố. Cả hai loại đều dễ khiến giới làm thơ chùn tay. Dùng loại trên thì dễ có nguy cơ trở thành sáo, cổ. Dùng loại dưới thì dễ có nguy cơ trở thành nhả nhớt, rẻ tiền. Bùi Giáng hoàn toàn thoát khỏi hai nguy cơ ấy. Hơn nữa, ông còn hòa trộn cả hai loại ngôn ngữ ấy lại với nhau một cách tài tình. Ðọc, người ta không hề có chút cảm giác lấn cấn nào. Như một phép mầu. 

Gắn liền với sự xóa nhòa trên là một sự xóa nhòa khác: xóa nhòa ranh giới giữa truyền thống và hiện đại. Không phải Bùi Giáng kết hợp truyền thống và hiện đại, như cái điều chúng ta có thể nói về một số nhà thơ khác. Nói đến sự kết hợp giữa truyền thống và hiện đại tức là thừa nhận chúng ta có thể ít nhiều khu biệt đâu là truyền thống và đâu là hiện đại. Ở Bùi Giáng, mọi nỗ lực khu biệt ấy đều trở thành vô vọng. Ở Bùi Giáng, tính chất truyền thống và tính chất hiện đại tan hòa vào với nhau. Là một. Thể thơ ông dùng: cũ; hình tượng ông dựng: cũ; ngôn ngữ ông viết: cũ, thế nhưng, rất lạ, toàn bộ bài thơ của ông thì lại mới, mới như chưa từng có ai viết được như thế. Mới đến độ tôi có cảm tưởng phần lớn những từ, những chữ nào đã được Bùi Giáng sử dụng một lần đều trở thành của riêng của Bùi Giáng, một thứ tài sản của Bùi Giáng, trên đó có dấu ấn của Bùi Giáng; sau đó, ai dùng lại những từ ấy, chúng ta cứ ngờ ngợ như họ ăn cắp của Bùi Giáng. Ðọc thơ của bất cứ người nào, hễ gặp chữ " giũ áo" , " rớt hột" , " đười ươi" , " chuồn chuồn" ," châu chấu" ...chúng ta hay tri hô lên: Bùi Giáng! Ngay cả một số từ quen thuộc hơn, như " thập thành" , " máu me" , " lai rai" ...chúng ta cũng lại tri hô lên: Bùi Giáng! Trong lịch sử thi ca Việt Nam hiếm có trường hợp nào lạ lùng đến như vậy. Phần lớn, tính chất độc đáo chỉ ở cấp độ bài hoặc cấp độ câu. Ở Bùi Giáng, tính chất độc đáo thể hiện ngay ở đơn vị từ. Với sự xuất hiện của Bùi Giáng, số phận các nhà thơ đâm ra lao đao hẳn. Khi chọn chữ không khỏi có cảm giác e dè vì sợ dẫm vào dấu chân của Bùi Giáng. 

Thứ ba, là sự xóa nhòa ranh giới giữa cái gọi là thơ và cái gọi là phi thơ. Ngổn ngang trong thơ Bùi Giáng những chi tiết ngỡ như không bao giờ thành thơ được, ngỡ như mãi mãi thuộc thế giới của văn xuôi, của tiểu thuyết, của đời thường. Nhớ người yêu, có lẽ ai cũng nhớ như Bùi Giáng nhưng không có ai viết được như Bùi Giáng: 

Bây giờ em đứng nơi đâu 
Cỏ trong mình mẩy em sầu ra sao 
(Gửi thôn nữ Vĩnh Trinh) 

Bùi Giáng có tài hóa giải những tình thế oái oăm: cái đáng lẽ sàm sỡ, dưới ngòi bút ông, tự nhiên thành thơ mộng, thiết tha, tội nghiệp. Bùi Giáng cũng có tài làm cho những cái lắt nhắt trở thành mênh mang: 

Sáng nay bao tử mơ mòng 
Cà phê bên nọ, cháo lòng bên kia 
(Sáng nay) 

Tất cả những chi tiết ấy đều tầm thường đến độ nhảm nhí. Ði vào thơ Bùi Giáng, tự dưng chúng lại có một âm vang gì rất lạ, rất xa, tưởng như không còn là chuyện " cà phê" hay " cháo lòng" nữa. 

Một nỗi phân vân giữa cuộc đời, chẳng hạn. Một niềm xót xa trong cảnh khốn cùng, chẳng hạn. Bùi Giáng còn có tài làm cho những cái linh thiêng trở thành bình thường. Những Thượng Ðế, Phật, Thánh Hiền...đi vào thơ ông, mất một chút hào quang, song bù lại, dường như đẹp hơn. Bùi Giáng làm cho cái đáng kính biến thành cái đáng yêu. Hình tượng ni cô trong thơ ông là một ví dụ. Bùi Giáng cũng lại có tài làm cho cái thô và tục trở thành những cái thơ mộng, xôn xao. Cuối cùng, thứ tư, tôi tạm gọi là sự xóa nhòa giữa cái lý và cái phi lý; ít có ai để ý trong thơ Bùi Giáng có đặc điểm nầy: ông rất thích dùng những từ có tính chất lý luận như " mặc dù" , " càng...càng" , " vẫn là" , " và" , " vì" . " rằng" , " bởi chưng" , " chỉn e" , " té ra" , và đặc biệt, nhiều nhất là từ " tuy nhiên" ... Chắc chắn là không có nhà thơ nào dùng các từ nầy nhiều bằng ông. Thế nhưng, cách Bùi Giáng sử dụng các liên từ nầy rất lạ lùng, không giống bất cứ người nào trước ông hoặc sau ông. Xin hãy đọc lại bài Tặng quán phở Huyền Trân dẫn ở trên, và hãy chú ý đến ba câu cuối cùng: chữ " vì" và chữ " là" đứng hết sức lửng lơ. Chúng không nối kết cái gì cả. Chúng cũng không giải thích cái gì cả. Chúng hoàn toàn trái ngược mọi luật lệ ngữ pháp. Chúng thường xuất hiện ở những vị trí thật bất ngờ: ở cuối câu, thường là câu cuối bài: 

-Em về - nhà cửa nhỏ nhoi 
Buồn rầu khôn xiết em soi gương và... 
(Em đi) 


-Nối đuôi khởi sự từ đầu 
Ví dù kết thúc trước sau vẫn là... 
(Vẫn là là) 

-Bá phương phảng phất rồi xa 
Mùi hương xa vắng càng xa xôi càng... 
(Băng tâm) 


-Mai sau dù có đi về 
Xin nhìn gió rụng ngành tre thưa rằng... 
(Em về) 

Một điều vừa thú vị vừa khó hiểu là: người đọc thơ Bùi Giáng lại ít chú ý, không bị giật mình vì những cách dùng từ, đặt câu ngược ngạo như vậy. Mà, ở những trường hợp nầy, Bùi Giáng đều cố tình cả. Một mặt, tần số xuất hiện của những kiểu câu như thế ê hề; mặt khác, nhiều lúc Bùi Giáng đem những liên từ lý luận ra đùa nghịch: 

-Nếu và nhưng vẫn ắt rằng 
Tuy nhiên thế nọ thường hằng thế kia 
Và nhưng tuy dẫu là chia 
Lìa cha biệt mẹ bốc tia sinh tồn 
(Tuy nhiên) 

-Tuy nhiên đất quạnh sơn hà 
Còn tuy nhiên mãi họa là nhiên tuy 
(Ich dụng hung sự) 

-Mần răng ra rứa ví dù 
Mần ri thế nọ tịt mù thế kia 
(Mỗi ngày) 

Một lần, Bùi Giáng giải thích: " Dù sao, tôi nói dù sao, bởi vì thiên hạ vốn ưa thích dù sao. Cho có mạch lạc. Chứ thật tình tôi chẳng rõ sao gọi là mạch lạc liên tục ngụ trong tính tình của ngôn ngữ dù sao dao sù" (9) 

Cách phân tích như trên khá nguy hiểm: nó dễ làm cho người ta có cảm tưởng thơ Bùi Giáng là một cái gì tĩnh tại và cố định. Thật ra, không phải. Theo dõi thơ Bùi Giáng chúng ta sẽ nhận ra ông thay đổi không ít. Tập Mưa Nguồn xuất bản năm 1962 rất trong sáng; từ tập Ngàn thu rớt hột (1963) về sau, thơ ông tối tăm hẳn; sau năm 1975, ở hai tập thơ xuất bản tại hải ngoại, thơ ông trong sáng trở lại, nhưng so với Mưa Nguồn, đằm hơn, lắng hơn và chín hơn. Mưa Nguồn là niềm nhớ thương đồng ruộng không nguôi: 


-Viết thơ lạc dấu sai dòng 
Viết trong tức tưởi sợ đồng lúa mong 
-Viết thơ là trở lại bên 
Con người thôn nữ răng đen hai hàng 
(Ca dao) 

Sau này, ông vẫn bâng khuâng nhớ đồng quê. Chỉ bâng khuâng thôi. Nghĩa là rất man mác. Có một câu thơ có lẽ ông thích, cứ lặp đi lặp lại rải rác ở nhiều bài thơ khác nhau: 

Trông về đồng ruộng đôi khi 
Thị thành tâm sự hoài nghi trăng tà 
(Gấu buồn) 

Nhưng tâm sự chính của ông là nỗi tuyệt vọng về khả năng giao cảm giữa người và người, niềm cay đắng trước một xã hội ngày một đảo điên. Ông hoàn toàn cô độc: 

quay về một cõi riêng thôi 
liệu trong tấc cỏ kiếm trời ba xuân 
(Ðời rộng đương chìm) 

Ông làm thơ cho hư không: 
Bây giờ xin ngó cụm cây 
Chắp hàng viết nốt áng mây về trời 
(Bây giờ) 

Ông độc thoại: 

Ngàn năm độc đối riêng hàng 
Tờ xanh ứa lệ đẫm trang xuân đầu 
(Khởi từ) 

Có khi ông im lặng: 

Từ đây đổi vịt thay gà 
Chán chường đến thế là ta ngậm lời 
(Nhà ma đi đời) 

Sau 1975, cảm giác cay đắng và tuyệt vọng ấy, không hiểu tại sao dường như nhẹ nhàng đi nhiều. Ðời sống ông cơ cực hơn, những cơn điên đến với ông thường xuyên hơn (10), song thơ của ông lại có vẻ thanh thản hơn. Ông bớt những thắc mắc siêu hình để quan tâm hơn đến khía cạnh cảm xúc, từ đó, nhấn mạnh đến yếu tố tâm hồn, coi đó là nguồn gốc của thơ: 

Chợt mùa thơ vội đổi giòng 
Cỗi nguồn cũng bởi tự lòng mà ra 
(Từ bấy tới nay) 

Với quan niệm như vậy, thơ không còn là trò đùa nghịch chữ nghĩa nữa mà là một sự bộc bạch tâm sự: 


Lời tỉnh táo, lời mê man 
Ðiệu thê thiết rống điệu bàng hoàng ca 
(Y ư mộng du ư mê) 

Do đó, ông khao khát được thông cảm: 

Xổ bầu tâm sự điêu linh 
Ai người chia xẻ với mình với ta 
(Một giờ) 

Bài Bao giờ in trong tập Thơ Bùi Giáng do Thế Kỷ 21 xuất bản là một bài thơ hay: 

Bằng bút chì đen 
Tôi chép bài thơ 
Trên tường vôi trắng 

Bằng bút chì trắng 
Tôi chép bài thơ 
Trên lá lục hồng 

Bằng cục than hồng 
Tôi đốt bài thơ 
Từng phút từng giờ 

Tôi cười tôi khóc bâng quơ 
Người nghe cười khóc có ngờ chi không 

Thơ, với Bùi Giáng, trước hết là một sự hiện hữu cụ thể với những màu sắc cụ thể nhất định: đó là một văn bản với những từ, ngữ, giấy, mực cụ thể. Văn bản ấy có đời sống riêng của nó: có sinh có tử. Nhưng đằng sau, ẩn náu phía trong cái hình thức cụ thể ấy lại là một tâm tình, là tiếng cười, là tiếng khóc. Tâm tình của người làm thơ òa vỡ bất chấp những giới hạn tự thân của ngôn ngữ: 

Ngữ ngôn khép kín mặc dầu 
Hùng tâm tim máu óc đầu mở ra 
(Bé con ơi) 

Bùi Giáng băn khoăn: 

Tôi cười tôi khóc bâng quơ 
Người nghe cười khóc có ngờ chi không ? 
Bùi Giáng lại năn nỉ: 

Tặng nhau từ ngữ lạc lầm 
Cũng xin hồng lệ hãy đầm đìa tuôn 
(Y ư mộng du ư mê) 

Trong bài Thuở chưa điên in trong tập Thơ Bùi Giáng do Việt Thường xuất bản tại Canada năm 1990, Bùi Giáng tự so sánh thơ mình ngày trước với thơ mình bây giờ: 

Ấy là thơ thuở chưa điên 
Ở trong dấu ngoặc quàng xiên reo cười 
Bây giờ xoang điệu đười ươi 
Ðiệu hoa lầu các ngậm ngùi dấn thân 

Sự khác nhau không phải ở chỗ: có lúc ông " quàng xiên reo cười" , có lúc ông lại " ngậm ngùi dấn thân" . Ở Bùi Giáng, cái cười và cái khóc đôi khi rất giống nhau. Theo tôi, chỗ khác nhau căn bản là: trước đây, Bùi Giáng loay hoay mãi trong " dấu ngoặc" của ý thức, của cái tôi; sau nầy, ông tung hê hết, ông hòa nhập vào cái chung của cuộc đời: 

Ta quên như thể mình ta quên mình 
(Tặng hai cháu Quỳnh và Na) 

Ông trở thành dễ thương và tội nghiệp vô cùng: 

Trái tim mỗi mới mỗi ngày 
Mỗi giờ phút động mây trời rung rinh 
Ðường đi mất hút thình lình 
Những khuôn mặt lạ những hình ảnh quen 
Tạm nhờ men rượu nguôi quên 
Niềm vui nỗi nhớ chênh vênh lạ lùng 
(Ðường quanh ngõ quẹo) 

Ở khía cạnh nầy, có thể nói Bùi Giáng xóa nhòa ranh giới giữa cái tôi và cái ta, giữa cái riêng và cái chung: Hoặc rằng người cũng là tôi 

Hay là tôi cũng là tôi như người 
Ấy rằng tinh thể đười ươi 
Lời rằng quyết tuyệt và tươi vui và 
Ấy rằng một cũng là ba 

Là hai mai một mốt là hôm nay. Xóa nhòa. Xóa nhòa ranh giới giữa các giọng điệu, giữa truyền thống và hiện đại, giữa thơ và phi thơ, giữa cái lý và cái phi lý, giữa cái tôi và cái ta, cái riêng và cái chung, xóa nhòa mọi sự phân biệt, biện biệt; theo tôi, đó là những đặc điểm nổi bật nhất trong thơ Bùi Giáng. Bằng những sự xóa nhòa ấy, Bùi Giáng xóa nhòa luôn cả ranh giới giữa cái gọi là văn hóa cao cấp và văn hóa bình dân. Ðồng thời, Bùi Giáng cũng xóa nhòa luôn cả tính chất nghiêm nghị, nghiêm túc với những khẩu hiệu ồn ào như " vị nhân sinh" , " vị nghệ thuật" vốn kéo dài rất lâu trong văn học Việt Nam. Khác với các nhà thơ khác, lúc nào cũng nhăn mặt nhíu mày, lao vào thơ như lao vào một trận địa, kỳ khu và khắc khổ, lúc nào cũng khắc khoải sáng tạo ra cái mới, mà chưa chắc đã mới và chưa chắc đã hay. Bùi Giáng, ngược lại, làm thơ cứ như đùa như giỡn, như không phải đang làm thơ, vậy mà tự nhiên thơ lại trở thành bát ngát, lấp lánh và lộng sắc lộng hương. Mai Thảo kể: " ba chữ " vui thôi mà" là câu trả lời mơ hồ nghịch ngợm duy nhất của Bùi Giáng trước mọi tìm hiểu của (về?) lực thơ và số lượng thơ không thể tưởng tượng được ở nơi ông" , rồi bình tiếp: " thơ Bùi Giáng vui thật. Một vĩ đại vui" (11). Theo Leslie Fiedler, sự xóa nhòa văn hóa giữa văn hóa bình dân và văn hóa cao cấp, và cùng với nó, việc đoạn tuyệt với chủ nghĩa đặc tuyển (elitism) và tính chất nghiêm cẩn (seriousness) là những đặc điểm chính yếu của chủ nghĩa hậu hiện đại (postmodernism) (12). Ở khía cạnh nầy, Bùi Giáng rất gần các nhà thơ hậu hiện đại. 

Bùi Giáng còn gần gũi các nhà thơ hậu hiện đại ở một khía cạnh khác nữa: một số khá nhiều các bài thơ của ông là loại thơ không thể giảng. Susan Sontag cho một trong những đặc trưng lớn của chủ nghĩa hậu hiện đại là tính chất phản diễn dịch (anti-interpretation), là sự nhấn mạnh vào hình thức và sự trình diễn (performance) hơn là nội dung và ý nghĩa (13). Chúng ta biết theo quan niệm của Ferdinand de Saussure, ngôn ngữ chỉ là một hệ thống ký hiệu, ở đó, mỗi đơn vị ký hiệu đều có hai mặt: cái biểu đạt (signifier) và cái được biểu đạt (signified). Cái biểu đạt là âm hoặc chữ viết. Cái được biểu đạt là ý niệm do âm hoặc chữ viết ấy gợi lên trong đầu chúng ta. Ví dụ, nghe âm " chó" (cái biểu đạt), chúng ta nghĩ ngay đến giống vật thường được nuôi trong nhà (cái được biểu đạt) (14). Từ đó, người ta đi đến chỗ coi bài thơ cũng là cái biểu đạt. Ðọc thơ là để tìm kiếm cái được biểu đạt, tức ý nghĩa, điều ẩn giấu phía sau bài thơ. Với Bùi Giáng, cũng như với các nhà thơ hậu hiện đại, ngược lại, bài thơ là cái được biểu đạt chứ không phải là cái biểu đạt. Nói cách khác, bài thơ là bài thơ. Không có ý nghĩa nào ẩn sau bài thơ để chúng ta đào xới, tìm kiếm. Nó giống như một bức tượng đá. Bề mặt: đá; trong ruột: cũng là đá. Do đó, nếu hỏi ý nghĩa bài thơ Ðạm Tiên tôi dẫn ở trên là gì ư? Chịu! ý nghĩa của nó là chính sự hiện hữu của nó, là bài thơ có nhan đề Ðạm Tiên, vậy thôi! Chúng ta không thể phân tích. Chúng ta chỉ cần nghiệm (experience). Ðọc lần thứ nhất: chúng ta không hiểu gì cả. Ðọc lần thứ hai: chúng ta vẫn không hiểu gì cả. Nhưng càng đọc, chúng ta càng nghe rõ, càng thấm, càng cảm cái nhạc điệu lầm rầm, lầm rầm của bài thơ. Nghe như thần chú. Như tiếng tụng kinh. Như lời cầu hồn. Chúng ta sống trong một không khí huyền bí, ma quái, không có gì rõ nét. Thì Ðạm Tiên là một bóng ma mà! Ở nhiều bài thơ khác, điều chúng ta nghiệm được thường là sự bất lực của ngôn ngữ; chúng ta không hiểu vì chính nhà thơ cũng không thể diễn tả được những gì ông chỉ cảm nhận một cách mơ màng hoặc bằng trực giác hoặc bằng tiềm thức. 

Chúng ta có thể gọi Bùi Giáng là nhà thơ hậu hiện đại được chăng? Khái niệm hậu hiện đại, mặc dầu xuất hiện từ thập niên 30 và 40 với Frederico de Oniz, Dudley Fitts và Arnold Toynbee, được sử dụng khá nhiều tại Mỹ vào thập niên 50 và 60, trở thành thời thượng tại Âu Mỹ từ giữa thập niên 80 đến nay (15), vẫn còn khá xa lạ với giới cầm bút Việt Nam. Ðiều đó dễ gợi cho chúng ta ấn tượng chủ nghĩa hậu hiện đại là cái gì rất mới, chỉ gần đây thôi, gắn liền với máy vi tinh, chẳng hạn. Tuy nhiên, trên thực tế, khác hẳn. Danh sách các nhà thơ hậu hiện đại được Jerome Mazzaro phê bình trong quyển Postmodern American Poetry bao gồm W.H.Auden (1907-73), Randall Jarrell (1914-65), Theodore Roethke (1908-63) v..v..(16). Với Margaret E. Gray, ngay cả Marcel Proust (1871-1922) cũng là một nhà văn hậu hiện đại (17). Chúng ta có thể gọi Bùi Giáng là nhà thơ hậu hiện đại hay hậu " iện" đại (người vượt ra ngoài chủ nghĩa " iện" đại tại Việt Nam) hay " ậu" hiện đại (người ít nhiều - chứ chưa hoàn toàn - nhích ra khỏi chủ nghĩa hiện đại theo cách hiểu truyền thống tại Tây phương) được chăng? Dù sao, vấn đề xác định danh xưng ở đây, tôi nghĩ, cũng không phải là điều quan trọng. Quan trọng hơn, chúng ta cần ghi nhận đóng góp lớn lao của Bùi Giáng: ông đã tiến một bước khá xa trên con đường hòa giải giữa thơ và hiện thực cũng như giữa nhà thơ và người đọc. 

Nguyễn Hưng Quốc (Trích " Thơ, v.v...và v.v.." ) 

Chú thích: 
(1) Mai Thảo (1994), " thay lời bạt: Một vài kỷ niệm với Bùi Giáng" , in trong tập Thơ Bùi Giáng, nxb Thế kỷ 21, California, 1994. tr. 146. 

(2) Như trên, tr. 139. 

(3) Thanh Tâm Tuyền (1994) " Bùi Giáng, một hồn thơ bị vây khốn" , Tạp chí Thơ (California) số 1, Mùa thu 1994, tr, 73-75. 

(4) Bùi Giáng (1969), Thi ca tư tưởng, Ca Dao, Saigon. tr, 102-3. 

(5) Thơ Bùi Giáng, Việt Thường xuất bản tại Montreal, 1990 và Thơ Bùi Giáng, Thế Kỷ 21 xuất bản tại CA, 1994. (6) Trong bài " Bao giờ" và " Bài thơ của tháng giêng" in trong tập Liên, đêm mặt trời tìm thấy, nxb Sáng Tạo, Saigon, 1964. 

(7) Bùi Giáng (1970) Mùa thu trong thi ca, Sống Mới in lại tại hải ngoại, không ghi năm, tr. 223-4. 


(8) Dẫn theo Steiner,G. (1967) Language and Silence, Faber & Faber, London, tr. 72. 



(9) Bùi Giáng (1970) Mùa thu trong thi ca, sđd. tr. 17. 



(10) Xem Phạm Xuân Ðài, " Kẻ cuồng sĩ trong vườn cây" lời tựa tập Thơ Bùi Giáng, Thế Kỷ 21, 1994, tr. 15-26. 



(11) Mai Thảo (1994), bài đã dẫn, tr. 141. 



(12) Fiedler, L. (1975) " Cross the Border - Close the Gap: Postmodernism" in trong tập American Literature since 1900 do Cunliffe chủ biên, Sphere Books, London, 1975, tr. 344-366. 



(13) Sontag, S. (1966), Against Interpretation and Other Essays, Delta, New York. 


(14) Tác phẩm chính của Saussure, Cours de linguistique générale, in tại Paris năm 1916, sau đó, được dịch ra nhiều thứ tiếng và tái bản rất nhiều lần; một thời gian dài, ít nhất cho đến đầu thập niên 70, được xem như một tác phẩm kinh điển trong ngành ngôn ngữ học trên khắp thế giới. Về Saussure, có thể xem quyển sách giới thiệu rất hàm súc của Jonathan Culler, Saussure, Fontana/Collins, 1976. 

(15) Về lịch sử thuật ngữ " chủ nghĩa hậu hiện đại" , có thể xem: Bertens.H.(1986), " The Postmodern Weltanschauung and Its Relation with Modernism: An Introductory Survey" in trong Approaching Postmodernism do Fokkema, D & Bertens, H. biên tập, John Bengamins xuất bản tại Amsterdam, 1986, tr. 9-51; Best, S & Kellner, D. (1991), Postmodern Theory, Macmillan, Hampshire, tr. 1-33. Về chủ nghĩa hậu hiện đại trong lãnh vực văn học, có thể xem: Hassan, (1982), The Dismenberment of Orpheus: toward a Postmodern Literature, Oxford University Press, NY.; Hassan, I. (1987), The Postmodern Turn: Essays in Postmodern Theory and Culture, Columbus; Spanos, W. (biên tập) (1979),Martin Heidegger and the Questions of Literature: toward a Postmodern Literary Hermeneutics, Indiana University Press, Bloongton; Connor, S. (1989), Postmodernist Culture: an Introduction to Theories of the Contemporary, Basil Blackwell, Oxford, đặc biệt chương 4, " Postmodernism and Literature" , tr. 103-131; McHale, B. (1986), " The Semantic and Syntatic Organisation of Postmodernist Texts" in trong tập Approaching Postmodernism, sđd, tr. 81-98; và Jameson, F. (1988), " Postmodernism and Consumer Society" in trong Postmodernism and its Discontents: Theories & Practices, Kaplan E.A. biên tập, Verso, London, tr. 13-29. 

(16) Mazzaro, J. (1980), Postmodern American Poetry, University of Illinois Press, Urbana. 

(17) Gray, M. E. (1992), Postmodern Proust, University of Pennsylvania Press, Philadelphia. 

CHÂN DUNG BÙI GIÁNG 
(La Toan Vinh) 

Có người nhìn Bùi-Giáng với một tấm lòng đầy thán phục qua tinh thần một nhà thơ, có người nhìn ông như một biến cố, một hiện tượng hay không khác hơn như một kẻ điên dại… 

Tôi lại khác hẳn, vì Bùi-Giáng đã như một tầm vóc của tự nhiên, của một dấu vết đi ngoài bao giới hạn, định chế mà con người đã áp đặt nên . Bởi thế cho nên tôi có những nhân sinh quan về chiều sâu, chiều rộng của ông trong lòng con người Sài-Gòn, trong lòng cuộc đời với đầy vẩy những bất an, cùng những vọng tưởng mà nhân loại đã cưu mang . Bùi-Giáng như một hình ảnh để giải thoát tất cả bao trói buộc, một con người khi tỉnh, khi mê, khi mộng tưởng, khi hóa bướm, khi làm người… 

Có thể nói Bùi-Giáng đã đi vào con người Sài Gòn với từng ngày một, những chuỗi ngày đó đã trải dài, khiến cho chúng ta biết về ông còn nhiều hơn tất cả những hình ảnh khác. 

Tôi không quen biết Bùi Giáng, thế nhưng, chúng tôi đã gặp ông rất thường xuyên trên các đường phố Sài-Gòn . Hình ảnh đó như một cái gì thân quen, không thể thiếu vắng, nhất là những ngày còn ở Cao đẳng Mỹ-Thuật Sài-Gòn, không hiểu tại sao ? Duyên cớ nào mà Bùi-Giáng xuất hiện rất thường xuyên ở trước ngôi trường của chúng tôi, những quảng đời dài miệt mài cùng sơn với cọ … 

Một buổi sáng vào năm 72, tình cờ tôi gặp một người ăn mặc dị dạng, mom mem đến bên cạnh một gánh hàng bán xôi . Đột xuất ông giật gói xôi trên tay của một khách hàng vừa mới mua . Hành động này làm bà khách hàng tỏ ra bực bội, không ngừng chưởi xối xả vào mặt ông . Về gã kia , chỉ cười hì hà và nhai một cách ngấu nghiến, luôn những mảnh lá gói xôi . Đồng thời ông tự nhiên nhảy múa như có vẻ khoái trá lắm… 
Câu chuyện này làm bao người hiếu kỳ chăm chú nhìn với một con mắt thật khó hiểu . Thế nhưng, sau đó có người bộ hành hoàn trả lại cho khổ chủ mua xôi . Ông ấy nói ”bà xem tôi lớn tuổi như vầy, nhưng ông ấy lại là thầy của chúng tôi, thôi bà đừng phiền hà gì cả”, câu chuyện đã giải quyết một cách êm thắm… 

Hôm ấy, khi vào lớp học, trong giờ phối cảnh của giáo sư Huyền Tôn Nữ Quỳnh Như, tôi thuật lại chuyện này, bà giáo tôi cười bảo: 

-Đó là thi sỹ Bùi-Giáng. 

Một thời gian sau đó, tôi lại tìm thấy ông với một ”Mode” mớị Bùi Giáng lúc đó chẳng ngại cái nóng bức của Sài-Gòn, ông mặc chiếc áo dài màu đen, bên ngoài lại thêm chiếc áo bà-ba khác, rồi lại vận thêm cái veston tây phương bên ngoài rõ là Đông Tây Kim Cổ . Lúc ấy ông đang lui cui ôm con gà nòi thật chiến, mom mem đến bên một quầy hàng chiên bánh tiêu . Bất thình lình, ông xông tới, đổ trọn cái chảo dầu, tiện đó dùng bàn tay vét lọ đen để bôi lên mặt mình… Tiếp đến, ông cũng không quên thoa lên cổ, lên đầu chú “gà độ”và nói thầm điều gì khó hiểu…. Tuy vậy, những lần thiệt hại trên, đều có người nể phục chi tiền để bồi thường, riêng phần ông, chỉ hì hà cùng nhảy múa một cách tự nhiên… 

Cũng từ lần gặp gỡ bên những hiện tượng đó, hình ảnh của ông đã ăn sâu vào ký ức tôị Đôi lúc tôi tự nghĩ, nếu như ông có điên dại, thời cái” điên “này cũng không phải như bao người điên khác. Chúng tôi đã gặp ông rất nhiều lần, khi ở Lăng-Ông Bà Chiểu…khi thời các sạp báo ở đường Lê-lợi… Rồi những ngày đi qua, con người Bùi Giáng đã ăn sâu vào xã hội Sài-Gòn, nó như hình bóng thân quen . Thậm chí còn nhiều hơn những tấm bích chương, những khuôn mặt chính trị mà tôi đã thấy nhan nhản trên vách tường ở các đường phố này: 
Ban ngày mặc quần Đỏ áo xanh 
Ban đêm mặc quần xanh áo đỏ… 
Đến những ngày sau 1975, Bùi Giáng vẫn cứ làm con người Bùi-Giáng, con người nhân chứng cho cảnh đời, cho bao bể dâu biến đổi và nếu như cuộc đời ví như một vở kịch, thời người thắng cuộc lại là những người đóng trọn vai tuồng một cách xuất sắc… 

Có lần Huy-Câ.n về nói chuyện ở Cao Đẳng Mỹ Thuật, Bùi-Giáng lại xuất hiện, đi tới đi lui ở trước cổng trường và chưởi đổng ”Mẹ mày Huy Cận…Mẹ mày Huy Cận”. Lúc bấy giờ một sinh viên đứng gác cổng trường vào báo cho ban giám hiệu cùng Huy Cận, nhưng tất cả đều im lặng… 

Có lần vào năm 77, tôi gặp lại tiên sinh với dáng dấp tiều tụy, hốc hác như người từ xa mới về, cũng với chiếc áo gấm đen, lai vảng trước cổng trường, . Lúc đó, Bùi-Giáng, quẩy trên vai một bó củi chồi, đầu kia thì đầy nồi niêu soong chảo . Hình ảnh này làm tôi liên tưởng đến các vị tiều phu thời xa xưa hay những người từ vùng “kinh tế mới” trở lại đô thành. Bao hình ảnh chợt thoáng qua như một đoạn phim ngắn, một bối cảnh, quãng đời mà Sài-Gòn đổi khác. Đời trở nên chật vật, trật tự xáo trộn, kinh tế khó khăn… 
Tối hôm đó,khi đi ngang qua Lăng Ông, tôi bắt gặp Bùi Giáng tỏa mình ở giữa “Ngã ba Đường”. Chợt một người xích lô hỏi: 

-Bác có muốn về nhà không? 
Ông liền trả lời: 
-Về thì về. 

Một mạch ông nhảy lên xe và biến mất . Một con người thật đặt biệt trong ý tưởng của tôi, nó như những câu hỏi, những câu trả lời một cách tự nhiên, cùng những tất nhiên phải đến. 

Sau thời gian đi vẽ ở Phan Thiết, Phan Rí Cửa, Cà Mau, Cần Thơ . Trở lại Sài-Gòn, bọn tôi kéo ra quán cà phê vỉa hè, ở cạnh ngôi mộ Nguyễn văn Học. Buổi sáng hôm ấy, tôi lại gặp Bùi-Giáng. Ông lúc này hiện thân như người bán thuốc lá, vẫn ăn mặc kỳ dị. Cái kỳ dị đó vẫn không làm chúng tôi thắc mắc mà nó trở thành bao hình ảnh quen thuộc… 

Đến cạnh bàn chúng tôi, ông mời: 
-Mua thuốc không mấy anh? 

Chúng tôi ngước nhìn ông và im lặng . Thấy vậy ông bèn mở một bao thuốc lá hiệu Hàng Không . Loại thuốc này chỉ bán ở phi trường cho những khách ngoại quốc. Ông đưa ra một điếu và nói: 
-Hút đi! Cứ tự nhiên đi 

Chúng tôi bốn người chia nhau điếu thuốc . Sau đó ông hỏi: 
-Sao ? Thấy saỏ 

Tôi gật gù thích thú . Ông xoè tay ra nói: 
-Môt đồng một điếu 

Một anh bạn gửi tiền trả cho ông và hỏi: 
-Thuốc ngoại phải không bác? 

Ông trả lời: 
-Liên Xô,,,Liên Xiếc…Liên Xô Liên xiếc 

Kế đó ông ngồi xuống và hỏi: 
-Mấy anh là sinh viên mỹ thuật? 

Tôi trả lời: " đúng như vậy bác à…" 

Tôi hỏi: Bác người miền trung phải không? Ông đáp lại: 
-Qua ..ả..ng Nôm 

Sau đó it lâu, tôi ra hải ngoại, không còn gặp lại hình ảnh đó, một hình ảnh gắn chặt trong khoảng thời niên thiếu của chúng tôi . Cuộc sống và người vẫn thay đổi, những đột biến cùng con người Bùi-Giáng luôn làm những tín hiệu của thời thế . Tôi chợt nhớ lại vài câu lục bát hay của ông mà tôi đã đọc thật lâu, như bài Phùng Khánh Mẫu Thân: 

Mẹ về trong cõi người ta, 
Một hôm mẹ gọi con ra bảo rằng: 
Trần gian vui sướng lắm chăng ? 
Hay là đau khổ hỡi thằng chiêm bao…? 

Tui kêu ông Bùi Giáng bằng anh và ông ấy kêu tui bằng em, đó là khi ông ấy tỉnh. Khi ông ấy không ... tỉnh mấy, thì ông ấy có thể kêu tui bằng đủ thứ chữ ông ấy có được trong đầu, nhưng thường thì các chữ ni hổng tìm thấy trong ... tự điển ! 

Ông Bùi Giáng là một nhà thơ lớn. Ai cũng nói vậy và tui yên trí phải là vậy. Thơ văn thì tui hổng rành lắm. Tui nói thế hổng phải vì khiêm tốn đâu, đức tính ni tui vẫn bị chê là thiếu hụt trầm trọng. Đọc thơ ông tui thấy nó ... vầy vậy. À, cái chuyện vầy vậy thì cũng có ngay trong cả Kiều, mà Kiều thì đã được xưng tụng là thiên tuyệt cổ lưu truyền. Hồi còn đi học, tui được nghe hỏi rằng : Trong mấy ngàn câu Kiều đó, có được bao nhiều câu hay ? Tui ấm ớ và bí lù. Rồi cái người hỏi mới dạy tui rằng : Những câu hay đó đã được trích dẫn cho hậu thế học hỏi và nghiền ngẫm liên tu bất tận thế nên người ta tạm quên đi những câu dở , cũng có đấy và còn rất nhiều nữa là khác. Má ơi, tui chỉ lập lại thôi nghe, cái người dạy tui ấm ớ đã cỡi hạc về trời mất rồi, nếu hàng phố có thắc mắc thì ngó bộ sẽ là chuyện ... huề vốn đó ! 

Xin trở lại với thơ văn ông Bùi. Tui được ông dúi cho rất nhiều thơ và sách. Xui xẻo cái là lúc đó tui trẻ người non dại, đọc mà thường hổng hiểu gì ! Ba mươi năm sau đọc câu Đếm là diệu tưởng đo là nghi tâm trong chữ ký của cô 123 thì thú thật tui cũng vẫn chưa hiểu mấy nên cũng hổng rõ nó có giá trị văn chương không ngoài cái giá trị triết học – Cô 123, xin cô tha lỗi, nếu được thì cô giảng cho tui hiểu với ha cô, xin cám ơn cô - Thế nhưng đọc câu Lá rơi có dội ở trong sương mù hay đọc Biển dâu sực tỉnh giang hà, còn sơ nguyên mộng sau tà áo xanh trong chữ ký của Tà Áo Xanh thì thiệt tim tui nó đập hụt ba bốn nhịp lận ! Tui biết còn nhiều người khác cũng ký tên bằng thơ BG hay lắm, nhưng thiệt là lúc này nhớ chưa ra ! 

Ông Bùi nhỏ con và gầy guộc. Ông cao cỡ 5 feet là cùng. Tui nói thế vì tui đứng ngang tầm với ông, thế nhưng leo lên bàn cân thì tui hơn ông tới cả chục pounds lận. Bao nhiêu răng cỏ của ông nó rủ nhau đi nghỉ hè dài hạn hết cả rồi, dòm ông trệu trạo ăn uống thiệt thương hết sức. Mà ông ăn thì hổng nhiều, ông đi nhiều hơn, thế nên người ông lúc nào cũng thanh cảnh là vậy. Có lần tui dỡn với ông, hẹn sẽ bầu rượu nắm nem theo ông cho có bạn, và ông tưởng thiệt đã đứng chờ tui trước cửa suốt ... 48 tiếng liền. Chừng hay ra tui biết là mình đã ... quá trớn ! Chuyện tui quá trớn là chuyện dài nhân dân tự vận, xin hàng phố nhớ cho như thế mà châm chước dùm ! 

Ông Bùi lăng xăng, nhưng lăng xăng theo kiểu hiền lành. Vụ giỏi giang uyên bác của ông thì có thiệt đó. Ông tự học tiếng Đức để đọc sách triết học rồi bình giảng ngon lành – triết thì tui hổng rành thế nên hổng nhớ là ai – ông còn cặm cụi định làm quyển tự điển Đức-Việt nữa, nhưng sự việc hổng thành vì thiếu tài trợ của Viện văn hóa Goethe, lý do hổng rõ ! Ông goá vợ sớm và rồi cũng chẳng tục huyền – người dưng khác họ của tui nói : Đừng tục huyền, ngu chi mà tục huyền ha anh ! – Đường sự nghiệp công danh của ông thì thiệt tui cũng hổng rành lắm. Tui hứa với cô 123 sẽ lục và mang thơ của ông vào Phố, nhưng ... ngó bộ không xong. Phần lớn những tài liệu tui có đã được ông Người-dưng chuyển về cho gia đình ông Bùi mới gần đây lúc họ định gom lại tất cả các trước tác của ông để làm sách. Còn lại một vài bài thơ thì sau khi đọc tui thấy không nên mang nó lên đây vì vài lý do riêng. 

Có một dạo tui gặp ông Bùi rất thường, do lương tâm bổn phận vậy mà. Chuyện chi ông kể tui cũng ậm ừ cho qua vì nó thiếu đầu thiếu đuôi không rành rẽ. Riêng có chuyện ni thì tui hiểu nên rồi cứ nhớ mãi . Xin kể lại cùng hàng phố như một kỷ niệm với thi nhân : 
Một sáng ông Bùi thinh không biểu tui cởi giày cởi dép ra cho ông ... dòm cẳng. Thì có sao. Xong rồi ông biểu tui kéo ống quần cho ông dòm ...bắp vế. Thì cũng có sao. Ông chê tui chân chi mà nhỏ xíu như đàn bà tàu (!) ông hỏi : Bộ nị có máu ba tàu trong người ha ? Rồi ông biểu tui kéo quần cao lên nữa để ông dòm ... bắp đùi. Tui hỏi dòm làm chi, ông nói xem tướng chân thì phải xem cho đủ (!) À ông Bùi đang xem tướng. Thì cũng vẫn chưa sao. Xui cái là hồi đó còn đang mode bận quần ống chật, mà cái bắp vế tui nó lại thuộc hạng người cày có ruộng thế nên cố gắng cách mấy quần kéo cũng hổng lên. Ông Bùi nói : vậy thôi cởi quần ra đi, em có bận xì líp mà ha ? Tới đây thì tui thấy có sao nên không dám, tui hẹn ông bữa khác mặc mini-jupe cho ông tha hồ coi đùi. Rồi ông lại lan man chuyện nọ xọ chuyện kia không ngớt, rồi cách chi đó hổng rõ ông nhảy sang bàn đề về lời nói. Ông nói thế này : Lòng người như đại dương, sâu thì thăm thẳm mà rộng thì mênh mông. Nói lời đau lòng như ném chiếc kim vào chốn không cùng ấy, có muốn lấy lại thì cũng chả biết đâu mà tìm ! Tui nghe mà lặng người. Nói nào ngay kể từ lúc biết ông, tui chưa bao giờ thấy ông nói câu chi nghe cho ... được. Thế nên bụng cũng có ý ... coi thường. Bấy giờ mới hay đằng sau những cơn địa chấn là cả một khu vườn tư tưởng mênh mông huyền hoặc. Tiếc rằng giao tình giữa tui và ông có ngắn ngủi, tui ra ngoại quốc lúc ông trở bệnh nặng, từ biệt nhau mà ngó bộ ông chẳng hiểu tui nói gì ! 

Mới gần đây lúc nghe người nhà báo tin ông qua đời tui buồn vui lẫn lộn. Vui vì ông đã ‘trở về’, buồn vì ông không còn nữa. Tài hoa thường mệnh bạc, nhưng xài câu này cho ông ngó bộ trật lất. Tài hoa thì có đấy, nhưng mệnh bạc thì không. Ông sống tới trên 70. Thất thập cổ lai hy, còn muốn chi nữa. Mà hơn nửa phần đời sau ông ... thây kệ mẹ đời, ông vui như tết. Thoạt đầu tui thấy điều đáng phàn nàn duy nhất là ông chết có một mình, sau ngẫm nghĩ lại thấy không phải thế. Biết đâu khi ấy dám ông có nàng thơ bên cạnh vuốt mắt và nhỏ lệ ân tình. À, cái tình của ông với nàng thơ nó là mối tình đầu và nó lớn lắm lận, thế nên chắc chắn nàng đã ở bên ông. Dù sao nghĩa tử cũng là nghĩa tận !

MỘT CHÚT VEEFBUIF GIÁNG

Tường Linh Nói Rõ Về Nơi Bùi Giáng Chăn Dê
Đầu năm 2007, trong thời gian nằm bệnh viện, tôi nhận được tin buồn muộn màng về anh bạn, cùng làng, cùng lứa tuổi với tôi, đã từ trần tại huyện Tân Hồng, tỉnh Đồng Tháp. Đó là anh Văn Phú Nhẫn. Viết văn, làm thơ, anh ký bút danh Bạch Linh. .......
 Trước năm 1945, làng Trung Phước của chúng tôi ở phía Tây huyện Quế Sơn tỉnh Quảng Nam có sáu phái (đơn vị như ấp, thôn) là phái Thượng, phái Hạ, phái Thị, phái Trung, phái Trà Viên và phái Giáp Nam. Nhà anh Văn Phú Nhẫn ở phái GiápNam, phái bên trái quan lộ theo hướng chợ Trung Phước vào đèo Le, giáp ranh với xã Quế Lộc ngày nay *.
 Anh Văn Phú Nhẫn chỉ có hai anh em, người em trai của anh là Văn Ngọc Hưng. Hai anh em mồ côi cha rất sớm. Thân mẫu của hai anh, được người làng gọi là bà giáo Nhẫn theo lối lấy tên con trai đầu để gọi một cách kính trọng, thuộc thành phần trung nông, lo thờ chồng, nuôi hai con ăn học nên người.
 Trong nhiều điều tôi nhớ về người bạn quê xưa vừa qua đời nói trên nổi đậm lên thời gian thi sĩ Bùi Giáng chăn dê tại quê chúng tôi. Nơi Bùi thi sĩ ngày ngày thả dê là rặng đồi cây lúp xúp, một chi sơn giữa dãy núi Chúa và núi Hòn Tàu. Rặng đồi này ở ngay phía sau nhà hai anh Phú Nhẫn và Ngọc Hưng.
 Thời gian này là trọn năm 1951 và mấy tháng đầu năm 1952. Thi sĩ Bùi Giáng chỉ chăn dê trong vòng một năm rưỡi ấy mà thôi.
 Như nhiều người trong chúng ta có biết, nơi sinh của Bùi Giáng là làng Vĩnh Trinh thuộc huyện Duy Xuyên tỉnh Quảng Nam, nhưng thân phụ của thi sĩ là cụ Cửu Tý có nhà cửa, vườn cây và nà trồng dâu bắp bên sông tại Trung Phước huyện Quế Sơn. Bùi thi sĩ thành hôn hồi đầu năm Ất Dậu 1945 rồi đôi vợ chồng trẻ lên Trung Phước ở với gia đình.
 Trung Phước và mấy làng lân cận như Đại Bình, Trung Lộc, Phước Bình… đời nào cũng có nhiều người làm thơ. Họ kết thân với nhiều nhà thơ gần xa và các nhà thơ này thường lui tới giao thiệp với nhau. Thời Bùi Giáng đến ở tại Trung Phước thì tại địa phương này có các nhà thơ đã thành danh như Huỳnh Lý, Hoàng Châu Ký, Huỳnh Hưng, Nguyễn Thụy Khái, Tạ Ký… Bạn thơ của họ từ các nơi xa thường đến đây ở chơi năm bảy hôm. Người viết bài này còn nhớ trong số đó còn có các nhà thơ nổi tiếng như Trinh Đường, Khôi Anh (Phạm Văn Kỳ), Hồ Thấu, Nguyễn Đình, Hồ Hiếu Dân… Bùi Giáng đến với quê hương thứ hai này có thể vì hai lý do: lập nghiệp với gia đình và kết bạn thơ.
 Sau Tết Ất Dậu ấy, khi đã rời làng Vĩnh Trinh lên Trung Phước, chị “Sáu Giáng” quản lý nà dâu, bán dâu rừng nứa cho các hộ nuôi tằm. Mẹ tôi thường bảo tôi đến mua dâu của chị vì chị tính giá “nới” hơn các chủ nà khác, chưa sẵn tiền trả ngay thì chờ xong lứa tằm sẽ thanh toán cũng được.
 Tôi và một số bạn yêu thơ trong làng rất quý mến thi sĩ Bùi Giáng. Chúng tôi gọi thi sĩ bằng cái tên thân mật là anh “Sáu Giáng”.
 Suốt mấy năm ở cùng làng, ngày ngày gần gũi nhau, tôi không hề thấy anh biểu lộ chút gì gọi là “điên” cả. Anh rất hiền, ít nói, hay cười, y phục luôn gọn gàng, sạch đẹp. Anh cũng chẳng mấy khi nói về thơ, tranh luận về lĩnh vực thi ca lại càng không. Chỉ khi nào chúng tôi đến nhà anh thì anh mới đưa cho xem bản thảo những bài thơ hoàn chỉnh của mình. Anh chỉ làm thơ tại nhà chứ không bao giờ ghi ghi chép chép trước mặt người khác tại bất cứ đâu.
 Sau ngày toàn quốc kháng chiến chống Pháp 19/12/1946, mấy nơi giáp ranh với Trung Quốc chỉ cách một dãy núi và đường truông Thạch Bàn như Thu Bồn, Kiểm Lâm, phía tả ngạn là Phú Thuận, Giao Thủy… đều bị Pháp tạm chiếm, đóng đồn. Vùng Trung Phước đổ lên mãi tận đầu nguồn sông Thu Bồn, chạy vào phía Nam của tỉnh gồm huyện Quế Sơn, Thăng Bình, Tam Kỳ, Tiên Phước, Trà Mi là vùng tự do rộng lớn của ta tiếp giáp với các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, suốt chín năm chống Pháp là vùng bất khả xâm phạm. Địa phương tôi ở là khu Hoàng Văn Thụ có một công binh xưởng lớn chế tạo vũ khí, có nhiều cơ quan, kho tàn của ta. Đấy cũng là địa bàn thường có các đơn vị chính quy cấp tiểu đoàn trú đóng và xuất kích đánh địch tại vùng xuôi.
 Không tiến công, lấn chiếm, đóng đồn được, Pháp dồn sức vào việc dùng máy bay thả bom, bắn phá ác liệt vùng tự do của ta. Xã tôi, nhất là khu vực chợ Trung Phước, phải chịu vô số lần máy bay giặc trút bom, bắn phá, có cả bom napalm (xăng đặc). Xóm cụ Cửu Tý (thân phụ anh Bùi Giáng) nhà cửa khang trang, vườn xanh tốt nhất địa phương, lại gần chợ, nên thường bị máy bay giặc oanh kích nhiều hơn các nơi khác.
 Thi sĩ Bùi Giáng có cái “tật” chết người là không bao giờ chịu vào hầm trú ẩn để tránh bom đạn của máy bay giặc. Khi nghe tiếng kẻng báo động vang lên từ gò Đồn, mọi người vội chạy ra khỏi nhà và xuống hầm, chỉ riêng anh Sáu Giáng cứ đứng nơi góc sân để… coi. Anh theo dõi hoạt động của máy bay giặc và tùy từng lúc mà la lớn cho mọi người trong hầm nghe:
 - Nó thả bom. Hai quả… bốn quả…
 - Nó chúi… bắn.
 - Xóm chợ có nhà cháy! (…)
 Cụ Cửu Tý và mọi người cự nự anh về chuyện không nấp hầm thì thi sĩ của chúng ta lại cười và giải thích một cách rất… Bùi Giáng: “nó thả bom, nó bắn chắc chi đã trúng, lỡ trúng chắc chi đã chết?”.
 Thấy nguy hiểm quá nên sau cái Tết năm Tân Mão 1951, cụ Cửu Tý mua bầy dê năm con vừa lớn vừa nhỏ cho “Bán Giùi” của cụ làm công việc chăn dê. Cụ thuê người vào thôn Giáp Nam làm cái chuồng dê thô sơ bên mé đồi sau nhà bà giáo Nhẫn như đã nói ở trên. Sáng thật sớm, Bùi thi sĩ mang theo cơm gói bằng mo cau và ống tre đựng nước chè, vào đấy mở cửa chuồng lùa bầy dê lên đồi cho chúng ăn lá cây. Chủ dê ngồi hay nằm trên cỏ dưới bóng mát của một lùm sim già. Anh nhìn trời, ngắm núi, ngâm nga thơ của các nhà thơ nổi tiếng. Tôi chưa bao giờ nghe anh ngâm hay đọc thơ của anh, lại càng không bao giờ nói về thân thế mình với bất cứ ai. Điều này anh giữ cho đến cuối đời:
 Hỏi tên, rằng biển xanh dâu
 Hỏi quê, rằng mộng ban đầu đã qua
 Và Bùi Giáng đã trả lời chung những ai muốn hiểu sâu về con người, đời riêng, tâm sự của mình như nhiều người đã thấy nơi bìa sau cuốn Tư Tưởng Hiện Đại của anh viết được tái bản tại Sài Gòn năm 1972:
 “Thi sĩ sinh ra như mọi người giữa cỏ cây ly kỳ và chết đi giữa cỏ cây ly kỳ gay cấn”…
 Hồi ấy, cụ Cửu Tý giao việc nuôi dê cho anh Sáu Giáng mục đích là để anh tránh xa vùng oanh kích hàng ngày của máy bay Pháp chứ không phải vì kinh tế.
 Thời gian này, các vùng hậu phương thực hiện chủ trương “tăng gia sản xuất, tự cấp tự túc”. Thấy anh Bùi Giáng chăn dê, tưởng đây là một kiểu làm ăn có lợi nên có người cũng tạo bầy dê thả rong trên cùng dãy đồi này. Năm ấy tôi đã thoát ly. Một lần về phép, tôi đến thăm và ở chơi trọn ngày với anh Sáu Giáng. Hai anh Văn Phú Nhẫn và Văn Ngọc Hưng cũng có mặt. Gần trưa, “ông chủ dê” lấy gói cơm mo cau cắt ra từng miếng ngon lành mời chúng tôi ăn. Cơm gói chấm muối mè, lại ngồi dưới bóng lùm sim râm mát, bốn anh em chuyện trò quá đỗi hưng phấn, gói cơm hết veo mà bụng mỗi người  vẫn còn… ấm ức. Nhưng không sao, bà giáo Nhẫn đã đoán trước cớ sự này nên tăng cường kịp thời cho chúng tôi một rổ cơm nóng lót lá chuối với một trã cá đồng kho lá gừng ngon tuyệt!
 Khi uống nước chè tươi, anh Giáng nói với chúng tôi rằng anh ngại dê của anh lộn với dê người khác. Chúng tôi đề nghị anh hãy tròng vào cổ mỗi con dê một cái vòng tre nhuộm màu khác nhau. Ba đứa chúng tôi tìm tre, pha phẩm màu thực hiện ngay. Do đó sau này mới có giai thoại mỗi “em dê” của thi sĩ Bùi Giáng mang một chiếc “kiểng” có màu trắng, đen, xanh, vàng, đỏ. Điều này, sau khi Bùi Giáng từ trần thấy có người viết gần đúng sự thật. Kỳ dư, về sự chăn dê, địa điểm và số năm chăn dê của thi sĩ Bùi Giáng đã có nhiều người viết nhưng đều không đúng. Chẳng hạn có người nói Bùi Giáng chăn dê vì bất mãn cuộc đời, anh chăn dê tại Vĩnh Trinh nhiều năm gần giống như ông Tô Vũ đời Hán Vũ Đế bên Tàu…
 Chính xác, thi sĩ Bùi Giáng không hề chăn dê tại quê nhà Vĩnh Trinh và anh chỉ chăn dê trong vòng một năm rưỡi như đã nói ở trên. Đầu năm 1948, phu nhân của anh từ trần. Sau đám tang, anh bỏ nhà đi đến các địa phương phía Nam của tỉnh Quảng Nam, vào Quảng Ngãi, Bình Định, vào tận Phú Yên. Đến năm 1950, anh trở về nhà. Nghe có kỳ thi Tú tài đặc biệt của Liên khu 5 tổ chức tại Bồng Sơn tỉnh Bình Định, anh đi thi và đỗ Tú tài toàn phần. Về nhà, anh chuẩn bị mọi thứ rồi theo đoàn người băng rừng lội suối ra Liên khu IV để học đại học tại Hà Tĩnh. Đây là trường đại học của ta trong thời kháng chiến chống Pháp. Nhưng ngay hôm khai giảng, vì không vừa ý điều gì đó, Bùi Giáng bỏ học và lại băng rừng lội suối về lại Quảng Nam. Chuyến đi ra rồi đi trở vào toàn luồn đường rừng, tránh các đồn bót của Pháp… mất trọn 3 tháng. Nội cái chuyện ra đi vào hết sức gian nan, nguy hiểm này cũng đã nói lên một phần tính-cách-Bùi-Giáng.
 Khoảng tháng 5 năm 1952, Bùi Giáng đã từ giã Trung Phước, ra Đà Nẵng rồi ra Huế một thời gian ngắn, sau đó vào Sài Gòn tự học, làm thơ, biên khảo, trước tác, dịch thuật một khối lượng tác phẩm đồ sộ đủ loại cho đến tận ngày cuối đời. Thi sĩ Bùi Giáng từ trần lúc 14 giờ 15 phút ngày thứ Tư, 7-10-1998, nhằm ngày 17 tháng 8 năm Mậu Dần tại Bệnh viện Chợ Rẫy Sàigòn, thọ 73 tuổi (17-2-1926 – 1-7-1998).
 Nơi thi sĩ Bùi Giáng chăn dê thuở trước, bây giờ mé đồi đã thành đất thổ cư, nhiều nhà mọc lên, toàn cảnh đã khác xưa. Bà giáo Nhẫn khả kính, thi sĩ Bùi Giáng, anh Văn Phú Nhẫn và bao người quen thân nhau thời ấy đã không còn nữa. Anh Văn Ngọc Hưng, một trong những người thuộc lứa đàn em rất gần, rất kính mến thi sĩ Bùi Giáng nay là Đại đức Thích Thiện Huệ, trụ trì chùa Tâm Thành, xã Phú Cường, huyện Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp…
 Đêm trực tang thi sĩ Bùi Giáng tại chùa Vĩnh Nghiêm các bạn văn nghệ sĩ đã nói với nhau: cuộc đời và sự nghiệp văn thơ của Bùi thi sĩ là “bất khả tư nghị”.
 Vâng, tôi cũng nghĩ như vậy. Tuy nhiên, riêng về việc chăn dê của cố thi sĩ thì tôi xin phép được viết để trả lại đúng sự thật cho một mẩu giai thoại về một con người, một thi sĩ có khá nhiều giai thoại.
                                                                     Tường Linh

Uyên Thúy Lâm: Nhân Đọc Bài Viết Về “Bùi Giáng – Người Thơ Rong Chơi Cuối Chân Trời”
ĐÔI DÒNG LAN MAN TẢN MẠN
Nhân Đọc Bài Viết Của VH Tạo Ân: “ Bùi Giáng – Người Thơ Rong Chơi Cuối Chân Trời”
“… Hiểu về Bùi Giáng đã khó, viết về Ông thật khó vô cùng, nhất là Cõi Thơ riêng Ông.” (Nhà văn Cung Tích Biền).
Phải có một cảm hứng sâu đậm, và cũng “miệt mài” lắm, Tạo Ân mới chọn viết về Bùi Giáng! Đúng không?
Vậy mà VH Tạo Ân đã viết, và còn cho chúng ta đọc một bài viết rất đẹp và thật công phu nữa kia.
Anh đã mở đầu bài viết về Nhà Thơ Bùi Giáng bằng hai câu đầu của bài Chào Nguyên Xuân:
“Xin chào nhau giữa con đường
Mùa xuân phía trước miên trường phía sau…”
Và Tạo Ân đã xoay một… vòng luân vũ khá điệu nghệ, tỉ mỉ, chu đáo với hai câu lục bát này. Hai câu mà, nhắc đến danh Bùi Giáng, thường ai cũng liên nghĩ đến.
Tạo Ân viết rằng Anh đã “bổ câu thơ ra làm đôi, chẻ ra làm tư…” để tìm nghĩa hai chữ “miên trường”, hai chữ thật sự không chỉ riêng Anh, còn nhiều độc giả (cả tôi) thấy hay quá, mà không biết… tại sao nó hay! Rồi Tạo Ân chiết tự ra để tiếp cận cho được cái ngữ nghĩa bí ẩn của tác giả còn để đâu đó đằng sau.
Tôi cũng chưa quên sự xúc động của mình, ngày xưa ở tuổi đôi mươi, khi lần đầu tôi đọc Bùi Giáng, đọc Chào Nguyên Xuân và bâng khuâng rất lâu trước các câu thơ này, đặc biệt với hai chữ “miên trường”.
Như vừa chạm phải sợi tơ vàng! Tiếng tơ ngân rung xao động lòng người. Thơ có sức âm vang trong tâm tư người đọc ngay lần đầu tiên. Dù chỉ là cảm nhận và rung động, chứ chưa thể nào là “thấu hiểu”…
Bùi Giáng sử dụng ngôn ngữ ra ngoài quy ước. Bùi Giáng ngộ thức ngôn ngữ, Ông đã tặng cho đời biết bao nhiêu châu ngọc. Bùi Giáng chất ngất một trời chữ nghĩa, trùng trùng một biển văn chương… Bùi Giáng “lậm” Kiều. Bùi Giáng rong chơi như trong một hành trình vô định. Và cũng tư bề khó hiểu!
Rồi Tạo Ân nghĩ là khi Anh gần như đã giải mã được hai câu thơ bí ẩn sau nhiều chục năm, cũng là lúc Anh đồng thời khám phá ra rằng hai chữ “miên trường” đã vơi đi ít nhiều mầu nhiệm!
Tôi nghĩ hơi khác một chút, là không vơi đâu, người viết Tạo Ân ơi! Tôi lại thấy, dù qua bao soi rọi, kiếm tìm, những câu thơ đó, từ ngữ đó vẫn tuyệt hay. Khi đọc trở lại, câu thơ BG vẫn như sẽ còn giữ được mãi nét… nhiệm mầu tiên thiên mà thơ đã có, đã cuốn hút người đọc như từ thuở ban đầu.
Ai khen cứ khen. Ai chê cứ chê. Nhiều người đã viết về Ông. Và còn nữa những người sẽ viết tiếp, như chuỗi mong muốn khám phá bất tận. Mà nay thì Bùi Giáng đã:
“Thưa rằng: ly biệt mai sau
Là trùng ngộ giữa hương màu Nguyên Xuân.”
Còn Hoàng Nguyên Nhuận thì viết: “Thơ Anh là một chén thuốc đắng dịu dàng chỉ dành cho những người liều ham thắc mắc vấn nạn…”
Hôm nay, có phải Tạo Ân đã viết với sự rung cảm thực sự của người thưởng thức, kiếm tìm? Và cũng phần nào chăng Anh đã “bị” chén-thuốc-đắng-dịu-dàng ấy cuốn hút bấy nay?
Hay vào một chiều nào đó Anh thấy như đã hòa nhập được tâm tình mình với cuộc rong chơi đằng đẵng của Bùi Giáng. Lúc mà phong sương đã trải, được thua ít nhiều đã từng, có phải người ta dễ đi gần đến ý niệm xem việc đời không có gì là quá quan trọng nữa. Sao lại phải theo một khuôn mẫu nhất định. Sao phải hành xử cho vừa lòng mọi người, cho phù hợp với các giá trị mà chung quanh chấp nhận từ lâu? Lề thói thì đã cũ kỹ sáo mòn. Mà cuộc thế đổi thay từng giờ, từng phút.
Sao không là: Đến, được tự nhiên lừng lững sống, hát ca khi cần, nói viết những gì mình thích, mình cảm nhận được. Nghĩ sao thì làm vậy. Theo cái cách riêng của mình. Đến ngã ba đường để sau đó sẽ là định mệnh nổi trôi, là tiếp tục cuộc hành trình vô định.
Rồi khi đến ngõ cuối, đoạn cuối thì Đi. Ra đi. Như muôn đời nay mỗi người sau cuộc rong chơi ai rồi cũng sống gửi, thác về…
Người Thơ rong chơi cuối chân trời như vậy, gần như tung hê mọi thứ, bất chấp, không màng. Trông cái vẻ ngoài không giống ai, bất cần đời tưởng như khi điên khi tỉnh ấy, biết đâu nhà thơ Bùi Giáng lại đã đạt được “tỉnh thức” sớm sủa hơn người!….
VH Tạo Ân có lẽ đã đọc Bùi Gíáng từ lâu, đã nghe tâm tư ngân rung và cảm xúc đặc biệt với thi ca, cách sống, hành trình, tài năng của Ông nên Anh mới chọn BG làm đề tài.
… Nhưng tôi vẫn mong được một lần nghe Anh xác định. Rằng sắc mầu âm thanh nào, lời thơ ý tưởng nào, hay cung cách thể hiện ra sao ở Bùi Giáng đã cho Anh niềm cảm xúc miên man sâu lắng nhất. Những điều gì trong thơ văn Ông gợi được nơi tâm tư Anh sự ngân rung đồng điệu, chan chứa hòa thanh. Để Anh sớm muộn rồi cũng sẽ phải chọn viết về Người Thơ Rong Chơi cuối trời quên lãng này …
Hỏi người viết Tạo Ân mà cũng là hỏi lại niềm xao động của chính tâm tư mình, trước một Người Thơ tài hoa thâm trầm bí ẩn. Người mà thơ Ông kỳ diệu như tới cái sâu thẳm nhất của ngôn ngữ.

Một khối trầm hương chữ nghĩa! Và sự uyên bác thì thật là đến tận cùng.
Lý luận và cảm nhận Thơ Văn, Hành Trình Bùi Giáng là riêng tư của Anh. Nhưng bài viết như đã giúp tôi tìm lại được niềm rung động thanh khiết, dịu dàng như đã có, lần đó năm nào trong thư viện. Chiều chiều sau giờ học ở giảng đường, tôi mải miết tìm đọc thơ BG, (cũng như vẫn tìm đọc “tùm lum tá lả” thơ văn khác nữa …). Đọc triền miên, dù chưa chắc mình đã hiểu thấu được phần nào, câu chữ Ông đang dùng, ý tình Ông muốn tỏ.

Một thoáng, bài viết của Anh như đưa tôi quay về khung trời cũ, Thư Viện Sài Gòn xưa những chiều lá đổ. Nhiều buổi không vào ngồi trong phòng đọc sách rộng, tôi hay mang theo cặp sách sau buổi học, một mình ra ngồi ở lối cầu thang vòng cung có trải thảm. Thảm cũ đã phai màu trải theo cầu thang và hành lang vắng vẻ. Học bài xong, tôi lại ngồi đọc thơ Bùi Giáng. Trong ánh nắng chiều nhạt dần buổi cuối ngày, nhìn xuống đường, mỗi cơn gió thổi qua cuốn theo nhiều lá rụng rơi. Tôi còn như nhớ cả âm thanh rì rầm của tiếng xe di chuyển dưới đường phố vọng vang từng ngày.
Có những chiều, tôi nghĩ đến các bạn thời còn ở trung học. Còn nơi giảng đường đại học, cứ mấy tuần trôi qua lại vắng mặt một vài nam sinh viên. Ít lâu sau hỏi lại bạn bè có liên hệ, mới hay các anh đã vào quân trường, đã lên đường nhập ngũ. Và giờ đây vai ba lô tay súng, các anh đang dãi dầu nơi chiến trường xa. Trận chiến ngày càng sục sôi máu lửa! Các anh đang dâng trọn tuổi trẻ cho đất nước, và nhờ vào sự hy sinh đó chúng tôi mới còn được tạm yên ổn mà học tập ở nơi này.
Lúc đó Việt Nam đang ngập tràn chinh chiến. Không ai biết được ngày mai những gì sẽ đến cho mình và cho cả quê hương…
†††
Mới thoáng đó mà đã mấy mươi năm qua rồi.
Xin cảm ơn VH Tạo Ân về bài viết Bùi Giáng – Người Thơ Rong Chơi Cuối Chân Trời. Bài Anh viết như đã đưa tôi về gặp lại nơi chốn ấy, ngày đó lâu rồi. Bài viết rất đẹp, thật công phu mà quý độc giả đã thưởng thức vài tuần trước đây tại mục Văn Hữu trên Trang Người Việt Boston này ./.
UYÊN THÚY LÂM
Boston Mùa Xuân
VỀ BÙI GIÁNG
Nhiều buổi chiều Sài Gòn, tôi chẳng còn có thể nhớ đích xác vào những năm nào, đâu như năm 1962, đâu như năm 1965 (nếu sai, nhờ hai anh Cung Tiến, Phạm Công Thiện nhớ lại dùm cho), tôi thường được mời tới những họp mặt ăn nhậu trên căn lầu ngăn nắp, thoáng mát của thầy Thanh Tuệ ở đường Lý Thái Tổ. Mỗi họp mặt vớiù Thanh Tuệ, hồi đi là giám đốc của nhà xuất bản An Tiêm và còn là nhà sư trẻ tươi tắn chưa cởi áo hồi tục, thường vì một cuốn sách. Một cuốn sách mới, vừa in xong chưa ráo mực. Và trước khi gởi sách vào nắng mưa đời, họp mặt An Tiêm với thân hữu là một tiệc rượu lạc thành cho sách.
Những họp mặt vì sách và do sách đó thường có tôi, Thanh Tâm Tuyền, Phạm Công Thiện, đôi khi Nguyễn Ðình Toàn, Dương Nghiễm Mậu, Doãn Quốc Sĩ, và đương nhiên nhân vật chủ chốt là tác giả sách là Bùi Giáng. Tôi chỉ kể tới Bùi Giáng, bởi suốt thời kỳ đó, có thể nói, thầy Thanh Tuệ vì một tấm lòng liên tài đặc biệt, chỉ mê thích thơ văn Bùi Giáng, chỉ in Bùi Giáng, dành trọn phương tiện cho ưu tiên xuất bản trưóc mọi tác giả khác. Và giai đoạn có thể đặt tên là giai đoạn Bùi Giáng này, An Tiêm đã in đêm in ngày, in mệt nghỉ, vì những năm tháng đó chính là những năm tháng đánh dấu cho thời kỳ sáng tác kỳ diệu sung mãn nhất của Bùi Giáng, cõi văn cõi thơ Bùi Giáng bấy giờ ào ạt vỡ bờ, bát ngát trường giang, mênh mông châu thổ, Bùi Giáng bấy giờ mỗi tuần viết cả ngàn trang khiến chúng tôi bàng hoàng khiếp đảm, ngôn ngữ và tư duy của Bùi Giáng bấy giờ hiển lộng tới không bền không bờ, vô cùng vô tận, và tài năng ông cũng vậy.
Bùi gíang chất ngất một trời chữ nghĩa, Bùi Giáng trùng trùng một biển văn chương. Vậy mà mỗi lần gặp thi sĩ hồi đó, cảm tưởng bao giờ cũng giữ được là đã gặp một Bùi Giáng rất nhàn rỗi, rất rong chơi. Bước chân vào nhà Thanh Tuệ chúng tôi đã thấy Bùi Giáng ngồi trước đó, tươi cười, ung dung, trong cái phong thái của một người nhàn nhã nhất thế giới, chẳng có một dấu vết nào của một người viết đang gió táp mưa rơi trên ngàn ngàn trang sách. Có như Bùi Giáng trước sau vẫn đang chập chờn với đời như một cánh bướm, lững thững với đời như một áng mây. Có như Bùi Giáng, cái áo vải cũ, râu tóc để mặc, điếu thuốc trên tay, chén trà trước mặt, vẫn chỉ ngồi chơi thảnh thơi ngày ngày với An Tiêm như thế. Sau này, sống với Bùi Giáng nhiều hơn, tôi cũng chỉ thấy Bùi Giáng như hồi đầu thấy ở An Tiêm. Trong một phiêu hốt, một ung dung chưa từng thấy. Có như, trọn một đời cái đầu của thi sĩ không một chút nào dành cho suy nghĩ, bàn tay thi sĩ không một phút nào dành cho cây bút. Có như trang giấy trắng, mặt bàn viết là những vật thể xa lạ chẳng bao giờø ông biết tới. Vắn tắc là Bùi Giáng chẳng làm gì hết, chẳng ai một lần nhìn thấy Bùi Giáng đang làm gì hết. Mà hoàn toàn phiêu bông, hoàn toàn rong chơi.
Vậy mà cái sức viết hồi đó đến như Bùi Giáng là tột đỉnh, là không tiền khoáng hậu. Vậy mà cái lực viết đến như Bùi Giáng và thấy Bùi Giáng là ngàn người không một, là phi phàm, là vô địch rồi.
Một lần, tôi đem cái điều khó hiểu này ra hỏi một người cũng làm thơ thật nhiều, cũng làm thơ rất đều tay là Thanh Tâm Tuyền. Tác giả Liên Ðêm Mặt Trời Tìm Thấy lắc đầu cười: “Chịu không giải thích được. Chỉ biết Bùi Giáng khác. Với tôi. Với hết thẩy. Là cái chỉ có một. Với tôi là từng bài thơ. Nói đến từng bài thơ Bùi Giáng, bài thơ này bài thơ kia của Bùi Giáng lại là chuyện tức cười lắm lắm. Bùi Giáng là cái hiện tượng dị thường của một suối thơ ăm ắp không ngừng. Ðọc thơ Bùi Giáng cũng phải đọc như thế. Ðứng trên đơn vị từng bài. Bùi Giáng đặït tựa cho từng bài là ngắt thơ ra, ngắt chơi ra vậy thôi. Nói đến mấy ngàn bài thơ Bùi Giáng là đúng. Mà nói thơ Bùi Giáng chỉ có một bài, vô tận vô cùng là đúng hơn. Ngủ ra thơ, thở ra thơ, đi ra thơ, đứng ra thơ. Chứ không phải nghĩ ra thơ, làm thơ. Ta cứ tạm hiểu cái trạng thái thơ kỳ lạ khác thường ở Bùi Giáng là như vậy.”
Sự ngược nghịch giữa cái rong chơi một đời của Bùi Giáng với cái lực thơ, cái số thơ, cái lượng thơ khủng khiếp làm ra, tôi đem hỏi thêm nhà xuất bản hằng ngày sống cùng Bùi Giáng, rồi đến chính thi sĩ, cũng không được sáng tỏ gì hơn ngoài suy diễn có tính chất phỏng đoán của Thanh Tâm Tuyền. Thầy Thanh Tuệ cũng chỉ lắc đầu cười. “Tôi cũng lấy làm kỳ”, Thanh Tuệ nói. “Anh lang thang suốt ngày, chẳng thấy lúc nào ngồi viết hết. La cà hết nơi này đến nơi khác, uống rượu say ngất rồi về lầu lăn ra sàn ngủ, nhiều ngày bỏ cả bữa ăn. Ðêm cũng không thức, chỗ nằm tối thẳm. Tôi in không kịp, nói ảnh tạm ngừng thì ảnh ngừng. Nói có máy, có giấy, nói buổi sáng buổi chiều ảnh đã tới ném bịch xuống cả năm, bảy trăm trang. Cứ thế đem sắp chữ thôi, đâu có thì giờ đọc. Ðiều kỳ lạ là không riêng một thể loại mà thể loại trước tác nào anh cũng có ngay sách, dễ dàng và nhanh mau vô tả. Từ thơ đến văn. Từ một cuốn tiểu luận về Camus đến một cuốn tiểu luận về Nguyễn Du. Từ dịch thuật tiểu thuyết đến phê bình triết học. Tất cả như đùa như chơi vậy.”
Nhà An Tiêm suốt mấy mùa sách, hầu như không thở được nữa trước cái viết tràn bờ của Bùi Giáng, điều này ai cũng biết.
Rồi tôi rủ Bùi Giáng tới quán. Ðãi ông uống rượu. Vặn hỏi chính thi sĩ. Ðể cũng chỉ được Bùi Giáng cười cười thích thú trước tìm hiểu có vẻ ngớ ngẩn của tôi. Ông không chịu giải thích, chừng như ông không có gì giải thích, sự thành hình tác phẩm nơi Bùi Giáng cuối cùng vẫn là một bí ẩn hoàn toàn trong cái vùn vụt, cái bất tuyệt thao thao, cái chớp mắt đã là của nó. Cười cười, ông đốt điếu thuốc, cầm lấy ly rượu: “Vui thôi mà”.Ừ vui, ba chữ “vui thôi mà” là câu trả lời mơ hồ nghịch ngợm duy nhất của Bùi Giáng trước mọi tìm hiểu của lực thơ và số lượng thơ không thể tưởng tượng được ở nơi ông, cõi thơ vô bờ của ông trăm phương nghìn ngã mênh mông và chính ông là hiện tượng thân của mênh mông nghìn ngã trăm phưong ấy.
Bùi Giáng nói vui thôi mà. Quả vậy, thơ ông vui cực kỳ. Con châu chấu, con chuồn chuồn. Cơn chuồn chuồn, con châu chấu. Rừng Marylyn. Biển Brigitte Bardot. Ngành Novak. Ðóa John Keats. Ngành Mật niệm. Ðóa U Linh. Hồng Lĩnh Hạc Lâm. Quỳnh Lai Thị Xứ. Thơ đốt pháo bông, ngôn ngữ triệu triệu, như chữ thần diệu:
Người nằm ngủ thấy gì
Thấy rất nhiều nắng lạ
Giấc ngủ đầy nắng, đầy nắng lạ. Bùi Giáng nói vui thôi mà. Thơ ông vui thật. Từ cánh tay áo rộng, thơ bay. Từ trí tuệ gió lộng, thơ phất. Nghìn thu cổ lục. Ngày Hy Nga. Ðêm bé chị. Mọi trên ngàn. Sóng Hồng Hoang. Thềm dục vọng. Thơ ghé thăm đá, thăm bàn ghế, thăm bún bò, thăm lá.
Ghé thăm trái mận ban đầu
Bình minh bắt gặp nguyên màu ban mai
Tiếng thơ sáng rỡ, chói lọi, kỳ ảo, cánh rừng ngôn ngữ ấy suối reo, chim hót, hoa nở, cây ào ào sóng vỗ, sóng từng từng xanh cây, beo gấu rởn nghịch, con chuồn chuồn hóa thân, con châu chấu suy tưởng, những môi nhỏ hằng ngày, gì cũng là thơ, thảy đều biến dạng. Thơ Bùi Giáng vui thật. Một vĩ đại vui. Hãy đọc thơ ấy, như cùng ông đi vào một trận vui lồng lộng. Ðừng cần tìm hiểu. Ðừng cần giải thích. Hãy đọc lại Mưa Nguồn, Bài Ca Quần Ðảo:
Xin chào nhau giữa con đường
Mùa Xuân phía trước, miên trường phía sau

Sẽ thấy cái vẫy tay chào lấp lánh của thi sĩ. Cái sự “vui thôi mà” trước sau ông chỉ nói vậy, ba chữ này tôi ao ước được thấy khắc vào mộ chí ông khi ông mất đi, ông và giữa con đường vui, không dưới không trên, không đầu không cuối gì hết. Giữa và mùa xuân phía trước, miên trường phía sau.
Thơ là người. Ngoài đời Bùi Giáng cũng thật vui. Thời kỳ Thanh Tuệ chấm dứt, nhà xuất bản An Tiêm tạm ngừng hoạt động, Bùi Giáng gặp lại Thanh Nam, viên Linh, Vũ Khắc Khoan và tôi ở toà soạn tuần báo Nghệ Thuật và những kỷ niệm chúng tôi có với thi sĩ thời gian này vẫn là những kỷ niệm vui. Lúc này, thần thái ông ấy không còn được rạng rỡ như mấy năm về trước. Cuộc phiêu bồng qua đời sống của ông kỳ dị và tận cùng hơn. Mái tóc ông đổi màu. Mấy chiếc răng cửa bị gãy, nụ cười trẻ thơ vừa móm mém. Cặp ma-sát sâu hóm xa khuất dần với mọi hình hài thực tế. Những con đường trên đó ông đi, cái túi vải thơ nào, những ngã tư ông ngừng lại, tách thoát với nhân thế, tất cả ở Bùi Giáng phơi hiện dần dần một hủy hoại khô khốc, ấy là tôi chỉ biết nhìn thấy ông một cách “hình hài” như vậy, nhưng “vui thôi mà” thì vẫn là rất vui. Ông vào tòa soạ, ngồi xuống ghế, nhìn mọi người, cười trẻ thơ, thường nói khát quá và xin một chai bia uống. Ông uống từng ngụm nhỏ, nói thích chai bia lớn vì uống được nhiều hơn, châm thuốc hút, những ngón tay vụng về lóng ngóng. Uống cạn chai bia, cái túi vải đeo lên và bỏ đi. Ðó là cái đến cái đi êm ả của Bùi Giáng. Nhiều lần không thế. Ông ra tắm ở cái máy nước trước tòa soạn, thản nhiên trước người qua kẻ lại, quần áo lướt thướt đi qua đường, một đám con nít tròn mắt đi theo. Một lần khác, chúng tôi đi ra ngoài một lát trở về, thấy ông nằm ngủ ngon lành trên hai cái bàn viết kê liền lại. Giấc ngủ dài, quên đời, quên hết, mặc hết, phải đánh thức dậy. Những lần đó, ông ngồi im lặng, bất động, thầm thì “vui thôi mà” rồi lặng lẽ bỏ đi, cái bóng dáng gãy đổ, gầy guộc trong chiều xuống.
Chính là trong cái tình trạng suy nhược đã trầm trọng quá chừng và tiều tụy quà thể này của Bùi Giáng mà chúng tôi bắt đầu cảm thấy quan tâm thực sự đến thi sĩ. Ðến sức khỏe ông, ngày mỗi cạn kiệt. Ðến cách sống ông ngày mỗi tiều tụy. Ðến tâm thức ông, ngày càng bất định. Cuộc vui của ông Bùi Giáng tuyệt vời nhưng chẳng thể phiêu bồng mãi mãi. Phải làm một cái gì về ông. Ðể ghi nhận lại. Về thế nào là cái tiếng thơ trác tuyệt của Bùi Giáng, cõi ngôn ngữõ đạt tới hoang đường kỳ ảo của Bùi Giáng. Trong khi còn gần ông. Trước khi ông chẳng gần, chẳng chịu sống cùng ai nữa.
Số biệt về thiên tài thi ca Bùi Giáng phải chờ đến hơn một năm sau, tờ Nghệ Thuật đình bản, tôi sang trông coi tờ Văn chung với Nguyễn Xuân Hoàng thực hiện được. Cũng nhờ số Văn này mà tôi mới nhìn thấy và hiểu được sự không hiểu của tôi nói ở trên là sự ngược nghịch giữa Bùi Giáng tháng ngày rong chơi với Bùi Giáng mộ tuần lễ cả ngàn câu thơ, cả ngàn trang sách. Số Văn ấy, phần nhận định nhờ Thanh Tâm Tuyền, Ninh Chữ, Tuệ Sỹ, Trần Tuấn Kiệt… viết. Bài phỏng phấn Nguyễn Xuân Hoàng thực hiện. Phần giới thiệu những bài thơ mới nhất là tôi. Chưa biết kiếm tìm Bùi Giáng ở đâu, thi sĩ bất ngờ ghé thăm tòa soạn. Ông ấy chỉ còn là da bọc xương trong quần áo thùng thình, mái tóc dài đạo sĩ, cái túi vải còn thêm cây gậy. Kéo ông ra trước báo quán chụp chung tấm hình làm kỷ niệm rồi tôi hỏi xin ông những bài thơ mới nhất. Ông gật. Tưởng lấy ở túi vải ra. Hoặc nói về lấy, hoặc nói hôm sau. Tất cả đều không đúng. Ông hỏi mượn một cây bút, xin một xấp giấy, một chai bia lớn nữa, đoạn ngồi xuống, và trước sự kinh ngạc cực điểm của chúng tôi, bắt đầu tại chỗ làm thơ. Ông không chép lại thơ đã làm. Ông làm thơ tại chỗ. Lần đầu tiên tôi thấy Bùi Giáng viết, thoăn thoắt, vùn vụt, nhanh không thể tả. Như thơ không thể từ đầu, từ tim chảy xuống, lâu quá, mà ngay từ ngọn bút từ đầu ngón thôi. Làm thơ ứng khẩu, làm thơ tại chỗ, nhiều người cũng làm được. Nhưng là thơ thù tạc, và chỉ năm bảy câu một bài thôi. Bùi Giáng khác. Chai bia còn sủi bọt, ông ngồi viết không ngừng, tự dạng nắm nót chỉnh đốn, chỉ một thôi đã xong hơn hai mươi bài thơ, chúng tôi cầm lên coi, thấy bài thơ nào cũng khác lạ, cũng thật hay, cũng đích thực là từng hạt ngọc của cái thơ thượng thừa Bùi Giáng. Lần đó, tô đã hiểu tại sao Bùi Giáng cừ cánh bướm rong chơi, cứ phiêu bồng lãng du mà vẫn có ngay nghìn câu một buổi. Ðúng là ngủ ra thơ, thở ra thơ, uống la-de, hút thuốc lá ra thơ. Mà thơ không ai sánh bằng, thơ không ai đuổi kịp. Ông uống cạn chai la-de, lập lại ba tiếng bất hủ “vui thôi mà” rồi đứng lên từ biệt.
Mấy tháng cuối cùng trước biến cố 1975, tôi không thấy Bùi Giáng trong đời sống tôi nữa. Chỉ tỉnh thoảng nghe thấy ông vẫn lang thang đây đó, một quán này, một bãi hoang kia, ngủ bất cứ ở đâu, dưới trời sao, ở một gầm cầu, dưới một mái hiên. Có lúc thấy nói ông đeo một xâu chuỗi toàn dày dép và quần áo phụ nữ quanh cổ như một vòng gai quái dị, đám con nít reo hò chỉ trỏ người điên, người điên. Có khi nghe thấy, ông ẩn lánh ở ngôi chùa vùng ngoại vi thành phố, ăn chay niệm Phật cả ngày không nói.
Ở trình trạng này, anh em chúng tôi, những bạn bè một thời thân thiết với Bùi Giáng, từng đã chén thù chén tạc với Bùi Giáng bao lần trên căn gác đường Lý Thái Tổ của nhà xuất bản An Tiêm, nhận sách tặng của Bùi Giáng, ở với ông và trời thơ trác tuyệt của ông, chúng tôi biết chúng tôi chẳng làm gì cho Bùi Giáng được nữa. Chẳng phải bỏ ông. Ông cũng không bỏ. Chỉ là ông đã đi khỏi, đi xa, vào một trời đất khác.
Hai câu thơ hay tuyệt hay vào tập cho tập Mưa Nguồn:
Xin chào nhau giữa con đường
Mùa xuân phía trước, miên trường phía sau
Ðã mang một ý nghĩa khác. Lời chào như một xa cách vĩnh viễn. Một bỏ đi. Một vĩnh viễn. Cái kho tàng chữ nghĩa phong phú vô tận ở đó Bùi Giáng vừa tạo dựng nên cái thế giới ảo huyền của mình vừa phá hủy tan tành cái thế giới ấy, kho tàng ấy thi sĩ không thèm sử dụng nữa, và chúng tôi chẳng còn con đường nào tới được với ông.
(…..)
Bùi Giáng đã đem lại cho cuộc đời biết bao nhiêu châu ngọc. Bằng tài thơ trác tuyệt. Bằng cõi ngôn ngữ ảo diệu, không tiền khoáng hậu. Có ông, thi ca mới đích thực có biển có trời. Từ ấy, thi ca mới không cùng không tận. Ðọc lại Mưa Nguồn, đọc lại Ngàn Thu Rớt Hột, Bài Ca Quần Ðảo, tôi còn muốn bật cười với thơ Bùi Giáng. Vui thôi mà. Ðúng vậy, vui thôi, có khác gì đâu. Mất Bùi Giáng , thơ ta lại trở về với cái hữu hạn đời đời của thơ. Nhiều người bảo ông chỉ là một thằng điên. Tôi chỉ muốn nghĩ thầm cho tôi là nếu có thêm được ít người điên như Bùi Giáng, thơ ca ta văn học ta còn được lạ lùng được kỳ ảo biết bao nhiêu.
MAI THẢO

Bùi Giáng trong chiếc kính vạn hoa
Bài phát biểu của Bùi Văn Nam Sơn
trong buổi tọa đàm về Bùi Giáng tại trung tâm L’espace, Hà Nội, 20.12.2011.

Nhân dịp ra mắt một tuyển tập thơ Bùi Giáng, chúng tôi rất vui mừng và vinh hạnh được tham dự buổi tọa đàm hôm nay. Vào cuối năm 2008, kỷ niệm mười năm ngày mất của cố thi sĩ (17.12.2006 - 07.10.1998), Trung tâm Văn hóa Ngôn Ngữ Đông Tây đã tổ chức sưu tầm, biên soạn tập sách dày dặn: Bùi Giáng trong cõi người ta, tập hợp bài viết của hơn 30 tác giả trong Nam ngoài Bắc, trong nước và nước ngoài. Đó là một tập giai phẩm có chất lượng học thuật rất cao về Bùi Giáng quy tụ những tiếng nói từ nhiều chân trời khác nhau, đến với người đọc cả nước. Nhưng hôm nay, có lẽ là lần đầu tiên, một buổi tọa đàm về Bùi Giáng được tổ chức trang trọng tại thủ đô Hà Nội, trong không gian L’Espace thật thân quen này. Xin chân thành cám ơn Công ty Văn hóa và Truyền thông Nhã Nam và trung tâm L’Espace đã có nhã ý mời và tạo điều kiện cho chúng tôi được ra Hà Nội dự buổi tọa đàm này. Xin rất cám ơn nhà văn Phạm Xuân Nguyên, người hướng dẫn tọa đàm và các diễn giả chính là nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo và dịch giả Nguyễn Nhật Anh đã ưu ái cho tôi được phép phát biểu đầu tiên để có dịp thay mặt gia đình và thân nhân cố thi sĩ cảm tạ sáng kiến của ban tổ chức và bày tỏ sự xúc động của mình trước tình cảm nồng hậu của quý vị khách quý có mặt hôm nay dành cho cố thi sĩ.
Được phát biểu đầu tiên là sự ưu ái, đồng thời cũng là một khó khăn đặc biệt cho tôi khi phải mở đầu cuộc tọa đàm về một tác giả thật thú vị nhưng cũng rất độc đáo, đa diện và sâu thẳm như Bùi Giáng. Không phải là người sáng tác lẫn một người chuyên phê bình hay nghiên cứu văn học, tôi chỉ xin phép nêu vài cảm nghĩ với tư cách một độc giả bình thường đối với tác giả mình yêu thích.
Trước mắt tôi, Bùi Giáng xuất hiện như trong một chiếc kính vạn hoa. Với tôi, hình ảnh ấy là một sự nhìn nhận, một vinh hạnh và một niềm an ủi lớn lao đối với bất kỳ tác giả nào không đơn điệu và nhất phiến. Người đọc nhiều thế hệ - từ những người bạn văn sống đồng thời, những người có cơ duyên hạnh ngộ và kết giao, những bà con lao động lam lũ vốn quen thuộc với một Bùi Giáng “phóng túng hình hài, ngang tàng tính mệnh” giữa phố thị Sài Gòn suốt mấy mươi năm, cho đến những nhà nghiên cứu và các bạn đọc trẻ tuổi ngày càng tinh tường, uyên bác hiện nay - đều tha hồ đến với ông tùy theo sở thích, cảm nhận và “căn cơ” riêng của mỗi người. Bùi Giáng quả là một trường hợp đặc thù và lý thú cho một môn mỹ học tiếp nhận đang thịnh hành hiện nay!
Chỉ cần điểm qua một cách ngẫu nhiên nhan đề của một số trong rất nhiều bài viết về Bùi Giáng, ta hình dung phần nào về chiếc kính vạn hoa ấy: “Bùi Giáng dị biệt”; “Bùi Giáng, một hồn thơ bị vây khổn”; “Bùi Giáng, một tâm hồn mênh mông ảo diệu”; “Bùi Giáng, một năng lực phi thường của kẻ suốt đời rong chơi”; “Người lữ khách cuồng điên và khôn cùng kỷ niệm”; “Viết vào Bùi Giáng mong manh”; “Những sát-na của Bùi Giáng”; “Yêu đời hơn từ thơ Bùi Giáng”; “Bùi Giáng, một bài thơ lạc vận”; “Bùi Giáng, giang san một gánh dị thường”, “Bùi Giáng, nhà thơ cuối cùng của thế kỷ 20”; “Cuộc hòa giải vô tận: trường hợp thơ Bùi Giáng”; “Bùi Giáng, tận cùng chủ nghĩa hư vô”; “Bùi Giáng; tiếng ca chung cục”; “Bùi Giáng, ai người chia sẻ?”; “Bùi Giáng, từ phá thể đến hội nhập”; và mới đây nhất, “Bùi Giáng, nhà thơ của các nhà thơ” v.v.. và v.v..
Không phải các tác giả đều đồng ý với nhau trong cách hiểu, cách đánh giá về Bùi Giáng, nhất là về thơ của ông, mặc dù cùng chia sẻ chung một niềm cảm thông, trân trọng. Có người đan xen kỷ niệm riêng với những xúc cảm vô bờ trước những câu “thần cú”, những ý tình bát ngát của họ Bùi. Có người khảo sát thơ ông trong mối tương quan mật thiết với hồn thơ dân tộc, với các truyền thống tư tưởng Đông Tây. Có không ít tác giả thử nghiệm hệ khái niệm tinh vi của bộ môn phê bình văn học đương đại nhằm “thông diễn” thơ Bùi Giáng dưới nhiều bầu khí và ánh sáng khác nhau. Bùi Giáng chủ yếu là một nhà thơ lãng mạn cổ điển phá cách và hý lộng? Bùi Giáng là một nhà thơ tân kỳ, “là kẻ làm thơ trước hết với chữ”, bằng cảm thức và bút pháp hậu-hiện đại, cho dù một cách mặc nhiên? Đọc thơ ông bằng cách tiếp cận “hủy tạo và phá thể”? “Thơ tư tưởng phải hiểu bằng tư tưởng, không phải bằng câu chữ”? Vậy, Bùi Giáng có “cách tân” thơ không, và nếu có, ở phương diện nào? Giá trị đích thưc của thơ Bùi Giáng ở đâu? Ông là bậc thầy của những câu thơ hay?, của những bài thơ hay?, hay của một hồn thơ bất tuyệt, một nguồn thơ vô tận hiếm có, mà mọi bài, mọi câu chỉ là sự ngắt mạch theo quy ước giả tạo, từ đó cắt nghĩa được những chỗ trùng lặp như một ám ảnh khôn nguôi? Kỳ cùng, Bùi Giáng có làm thơ không, nếu hiểu làm thơ theo nghĩa “thêu thùa”, “bịa đặt” của từ “art” (nghệ thuật”) cổ truyền? Hay Bùi Giáng, nói thậm xưng, là một hiện thân của Nàng Thơ, ăn, ngủ, thở, sống với thơ và trong thơ?
Về bản thân tác giả, Bùi Giáng là một “hồn thơ bị vây khổn”, hoặc “thánh thiện và tự do tuyệt đối”? Là một “hành giả chỉ đạt tới tiểu ngộ mà không đạt tới đại ngộ của thực tướng vô tướng, thực tánh vô tánh”, hoặc là người “đã cuồng điên để sáng suốt” như một lựa chọn hiện sinh của một kẻ đạt đạo, “thỏng tay vào chợ” để thực hành “Bồ tát hạnh”? Thật không dễ trả lời và cũng thật không phải ngẫu nhiên khi Bùi Giáng là cả một kho giai thoại, thậm chí, huyền thoại. Soạn giả Huyền Li đã khéo chọn nhan đề: “Bùi Giáng, 99 giai thoại” (1999) cho bộ sưu tập của mình, khi con số 99 ngụ ý sự vô lượng, vô hạn, bất tận. Thông thường, trong văn chương, giai thoại là món quà thú vị cho người đọc, nhưng không có ý nghĩa gì nhiều lắm trong việc đọc tác phẩm, nhất là khi khắp nơi đang vang lên hồi chuông báo tử về “cái chết của tác giả”! Bùi Giáng có lẽ là một trong những ngoại lệ trong cách tiếp cận “thuần văn bản” chăng? Dù thật dù giả, dù trung thực hay thêm thắt, giai thoại là một phần không tách rời với văn nghiệp Bùi Giáng. Không chỉ để hiểu thêm chút ít tình tiết trong nhiều câu thơ đẹp và bí hiểm của ông (“Trời đêm tinh tú chạy vòng, Ruổi rong về bích ngạn hồng vàng chiêu” để nhớ ngày trẻ chạy “sô” theo tiếng hát ma mị của những “ngôi sao” Thanh Thúy, Bích Chiêu, và còn nhiều nữa: “Trang mờ em vẫn là em thu đầu”, “Về trong vân thạch em ngồi vén xiêm”, “Sông ơi em bỏ sa mù, đi thiêm thiếp cõi quân thù gọi nhau”, hay “Ngày mai cá sóng phiêu bồng, ngàn trăng ngậm bóng sương đồng ra đi”...) mà còn giúp “giải mã” phong độ “thần thông du hý” với nhiều mật ngôn, ẩn ngữ tràn lan trong một cuộc đời không biết và không hề phân biệt giữa thực và mộng, giữa sống và thơ. Do đó, ít nhất trong trường hợp Bùi Giáng, tôi e rằng nếu tách những giai thoại, hay đúng hơn, tách con người và cuộc đời của tác giả ra khỏi văn nghiệp, thì thơ văn Bùi Giáng sẽ mất đi sự bảo chứng. Thử hỏi những câu chuyện thiền, những bài thơ thiền sẽ còn lại gì, nếu bị tước mất đi kinh nghiệm tâm linh thực chứng của chúng?
Có tác giả mạnh dạn đi tìm cái tưởng như bất khả: bản chất của văn chương: “Bản chất của văn chương Bùi Giáng là sự tổng hòa những nghịch lý. Trong cái đùa rỡn có sự đau xót, trong bỡn cợt có nỗi ngậm ngùi, trong sự nghịch ngợm hồn nhiên trẻ thơ có sự uyên bác, trong điên loạn cuồng si là cõi mộng bát ngát đẫm tình... Cái nét riêng ấy không ai có được, không ai bắt chước được và không thể có người thứ hai” (Trần Đình Thu). Và có lẽ vì thế chăng, tuy không đồng ý hẳn với nhau, hầu như tác giả nào khi viết về Bùi Giáng cũng vô hình trung cảm nhận sâu sắc cái “không ai có được” ấy để chọn riêng cho mình một cách viết, một nhan đề thật đắc ý, thật “gan ruột”, như thể viết cho chính mình, về chính mình, nhờ đó, mở hết độ tinh nhạy của tai mắt, làm bùng vỡ nội tâm. Bùi Giáng, một cách âm thầm, trao tặng cho những ai đến với ông chiếc kính vạn hoa. Viết về Bùi Giáng, ai cũng thấy mình như vui hơn, đẹp hơn, sâu hơn, “vô ngần trong bóng nguyệt”, hay, nói như Paul Éluard: “thi sĩ không chỉ mang lại hồn thơ cho chính mình, mà còn trao cảm hứng cho người khác”. Thiết tưởng, đó cũng là một đóng góp hải hà của Bùi Giáng.
Gần đây, thật vui mừng khi thấy việc đọc Bùi Giáng đã được nâng lên một cấp độ đáng kể về chất lượng lý thuyết. Theo thứ tự thời gian, tôi muốn nhắc đến một số lượng không nhỏ các luận văn Cử nhân và Thạc sĩ văn học. “Thơ Bùi Giáng dưới lăng kính phê bình cổ mẫu”, luận văn thạc sĩ của Trần Nữ Phượng Nhi tại Khoa Văn Đai học KHXH&NV TP HCM (2011, do PGS TS Nguyễn Thị Thanh Xuân hướng dẫn) là một trong số đó (và tiếc rằng đây là luận văn duy nhất tôi may mắn được đọc). Bằng cách tiếp cận của phân tâm học miền sâu ở cấp độ vô thức tập thể, tác giả Phượng Nhi đã tìm cách phát hiện các cổ mẫu tự nhiên như Đất, Nước, Vườn và các cổ mẫu xã hội như tình yêu siêu năng (cổ mẫu Linh Âm/anima) và đường về bản thể (cổ mẫu Tự ngã/Self) để khai quật những mạch ngầm trong thơ Bùi Giáng, một khảo hướng đầy hứa hẹn. Gần đây nhất, là chuyên luận công phu còn ở dạng bản thảo của PGS TS Đỗ Lai Thúy, nhà nghiên cứu và phê bình văn học thẩm quyền: “Bùi Giáng, nhà thơ của các nhà thơ”. Từ ngôn ngữ-ký hiệu đến ngôn ngữ-sự vật, rồi từ chơi chữ đến trò chơi ngôn ngữ, tác giả đã dõi theo hành trình ngôn ngữ thi ca Bùi Giáng để đi đến nhận định: “Nếu trước đây Nguyễn Du mở ra thời kỳ trung đại cổ điển trong văn học Việt nam, nâng nó lên ngang tầm khu vực Đông Á, còn Tản Đà vào những thập niên đầu của thế kỷ XX đã mở đầu cho thời hiện đại, đưa văn học Việt nam vào quỹ đạo thế giới, tuy có sự lệch thời gian, thì Bùi Giáng ở những năm cuối của cùng thế kỷ ấy đã đi đầu trong việc mở ra một thời đại mới cho văn học Việt Nam, văn học hậu hiện đại. Có điều lần này, ít nhất với trường hợp Bùi Giáng, sự phát triển của văn học Việt Nam so với thế giới không còn là sự phát triển tương ứng nữa mà là đồng thời, tức nhịp bước cùng thế giới. Bởi thế, theo cái cách mà Heidegger gọi Hölderlin, tôi cũng muốn vinh danh Bùi Giáng, cũng như Nguyễn Du và Tản Đà trước đây, những thi nhân làm thay đổi hệ hình tư duy nghệ thuật của thời đại các ông, không phải là “nhà thơ giữa các nhà thơ, mà là nhà thơ của các nhà thơ”.
Nhân nhắc đến quan hệ giữa Heidegger và Hölderlin, giữa triết gia và thi sĩ, xin mạn phép lưu ý thêm rằng: thật bất công và đáng tiếc nếu ta bỏ quên một Bùi Giáng văn xuôi! 1000 trang của Lời Cố Quận và Lễ Hội Tháng Ba, Bùi Giáng đã dành để dịch công trình đồ sộ của Heidegger giảng giải thơ Hölderlin, thi sĩ Đức mà hình ảnh dường như song sinh với Bùi Giáng. Ý thức minh nhiên về thi ca và triết học của Bùi Giáng thể hiện đậm đặc nhất trong dịch phẩm này. Thời gian chỉ cho phép tôi trích dẫn một đôi lời của Heidegger qua ngòi bút dịch của họ Bùi: “Giữa tiếng ồn ào, những bài thơ giống như một chiếc chuông treo ở ngoài trời và chỉ cần một chút tuyết rơi nhẹ nhẹ chạm vào, đủ khiến chiếc chuông lạc đi âm điệu (...). Vì thế, thể theo ân tình của tiếng thơ mà lời giảng thơ phải gắng làm sao để tự khiến mình thành thừa thải (...). Từ đó, bài thơ đứng lên trong cốt cách, thể lệ của riêng nó, lập thời mang lại ánh sáng cho những bài thơ khác”. Bùi Giáng cũng đặc biệt nhấn mạnh đến tiêu ngữ (Leitwort) hay đúng hơn, Lời nhiếp dẫn thứ ba trong năm tiêu ngữ của Heidegger về “một nhà thơ của những nhà thơ: “Từ khi chúng ta là một hội thoại... (Seit ein Gespräch wir sind...)” là một trong những lời sâu thẳm nhất của Hölderlin. Bản chất của ngôn ngữ không ở nơi từ vựng và ngữ pháp mà ở trong đối thoại. Ngôn ngữ sống trong đối thoại. Đối thoại là thể cách để con người hiện hữu là người. Và, theo Hölderlin, chỉ có thể đối thoại, nhất là “hội thoại-suy tư”, khi chúng ta biết nghe nhau. Nói chỉ trở thành đối thoại, khi nó có thể được nghe. Nếu không, chỉ là những tràng âm thanh vô nghĩa.
Vì thế, mở đầu Lời tựa tiếng Pháp cho tập Dialogue (1966) của một số trí thức miền Nam gửi cho các trí thức Tây phương, Bùi Giáng viết: “Một cuộc đối thoại bao giờ cũng phơi mở, dễ trở thành một cuộc độc thoại. Mà một cuộc độc thoại lại có thể tràn trề sức sản sinh, nếu là cuộc độc thoại trong-mờ, qua đó xuyên một “ánh đêm”. Bản chất của độc thoại là ở chỗ Hiện Tồn tự phân thân: hai vũ trụ soi mình trong một thế giới; một thế giới chia thành hai được ngăn cách bởi một hố thẳm. Và bản chất của hố thẳm là ở chỗ nó có thể vượt qua bằng một cuộc nhảy. Và bản chất của cuộc nhảy lại là sự chấp nhận rủi ro. Nói khác đi, chấp nhận rủi ro là bản chất của chính cuộc sống vậy. Sống, tức là đánh liều. Mà đằng nào đã “một liều ba bảy cũng liều”, thì cớ sao không chọn cuộc liều trong-mờ?” (le risque diaphane).
“Trong-mờ” (“diaphane”) là bầu khí dịu dàng, “lung linh sương bóng”, cần thiết cho đối thoại, nhất là một cuộc đối thoại mạo hiểm.
Bùi Giáng cũng có khi gọi đối thoại là hội đàm:
Còn nguyên phố thị hội đàm
Với trăng châu thổ muôn vàn đã xa
Đạp Thanh hội cũ hào hoa
Giấc vàng buổi Tảo Mộ đà cáo chung...

Yêu thơ Bùi Giáng, xin hãy giữ nguyên Hội Đạp Thanh nao nức và Giấc Vàng long lanh!

Tôi đã từng “mê” Bùi Giáng khi còn  là một “mầm non văn nghệ”. Lý do vì ông là đồng hương, lại chịu chơi hết mực - trong thơ văn lẫn đời sống.

|Tôi nhớ đã “biết” nhà thơ Bùi Giáng khi còn học lớp đệ thất, đệ lục. Một người bạn học thời tiểu học là anh Bùi Văn Phát (bà con trong họ của Bùi Giáng) rủ tôi tới thăm ông. Tôi mừng rơn vì được gặp “thần tượng” của mình. Tôi nhớ như in những củ khoai lang luộc ông mời bọn tôi ăn và những câu chuyện “tầm phào” về thuật “nói lái” của Quảng Nam mà ông truyền cho bọn tôi. Lúc ra về ông đề tặng tôi hai tập thơ mới in của ông là “Lá hoa cồn” và “Ngàn thu rớt hột”...

Bẵng đi hàng chục năm, năm 1992, lúc đó tôi làm ở Báo Công an thành phố Hồ Chí Minh. Tình cờ một buổi sáng nghe có tiếng la lối om sòm ở dưới sân tòa soạn. Lúc đó tôi ngồi ở phòng anh Huỳnh Bá Thành (họa sĩ Ớt). Anh Ba Ớt bảo tôi xuống xem có chuyện gì. Tôi thấy một ông già râu tóc bờm xờm, áo quần dán đầy giấy xanh, đỏ, đôi dép đeo trước cổ đang múa may, la lối... Đến gần tôi nhận ra Bùi Giáng. Mấy em bảo vệ nói ông già điên ở đâu vô quậy tùm lum, mời ổng ra ổng còn trợn mắt quát “đứa nào dám đuổi Trẫm?”. Tôi hỏi ông muốn gặp ai? Ông nói đi ngang thấy Báo CA nên ghé chơi (ông đã quên mất thằng học trò như tôi từ thuở nào!). Tôi báo anh Ba Ớt, anh rất vui nói tôi mời ông vào chơi. Anh Ba hỏi ông đủ điều về công việc, ăn ở đâu... ông cười “toe” trả lời: biết “đại ca” (ai mới gặp thi sĩ đều gọi là “đại ca” cả) đã lâu nhưng nghĩ tình “Quảng Nam” nên trẫm ghé thăm chơi. Ông quay sang tôi hỏi tên. Tôi thưa. Gần trưa chúng tôi mời thi sĩ ở lại dùng cơm. Ông vội đứng dậy: “Không được, các đại ca bận nhiều việc... Thôi cho ta về...”.

Thi sĩ Bùi Giáng làm thơ tại Tòa soạn Báo CATPHCM năm 1993

Tôi đưa nhà thơ xuống cổng liền thấy ông ngoắc một chiếc xích lô đâu sẵn và bảo tôi “đại ca trả giùm tiền xích lô đi”. Tôi hỏi anh bao nhiêu. 18.000 đồng. Tôi gởi tiền cho anh. Bùi Giáng nhìn tôi cười: phải 20.000đ mới đủ. Tôi ngạc nhiên không hiểu. Thi sĩ bèn “khai tâm” cho tôi khi trả lời: “Hắn còn phải chở ta về nữa chứ!”. À ra thế! Mấy mươi năm gặp lại cố nhân, tôi được thi sĩ “giác ngộ” về cái đầu “u mê” của mình. Sau chuyến viếng thăm đột xuất của thi sĩ, anh em trong cơ quan thường hỏi tôi về ông. Tôi liền “trưng” ra bản lý lịch thuộc loại “hàng độc” của ông: “Hỏi rằng người ở quê đâu; Thưa rằng người ở rất lâu quê nhà” và “Hỏi tên? Rằng biển xanh dâu; Hỏi quê? Rằng mộng ban đầu rất xa; Gọi tên là một, hai, ba; Đếm là diệu tưởng, đo là ghi tâm”.

Và ông là một “thi tổ” của trường phái yêu ngút trời mây với hàng trăm mỹ nhân kim, cổ, đông, tây từ Thúy Kiều đến các em Mọi nhỏ, tới Marilyn Monroe, Brigitte Bardo, Kim Cương Kỳ nữ... “Xin yêu mãi yêu và yêu nhau mãi. Trần gian ôi! Cánh bướm cánh chuồn chuồn; Con kiến bé cùng hoa hoang cỏ dại; Con vi trùng cùng sâu bọ cũng yêu luôn...”, “Em ở đâu rồi trẫm nhớ em; Trẫm buồn chẳng biết viết gì thêm; (Em có nhớ trẫm chăng em nhỉ; Trẫm viết dòng nào cũng rối ren)”. Để rồi “Trăm năm trong cõi sinh tồn; Cá bờ mương nhảy sô hồn xuống hang; Biết bao là gái lộn đàng; Nhớ nhung như nhớ lang thang mây chiều”.

Kể từ đó, vài tuần thi sĩ lại đến thăm tòa soạn một lần. Lúc thì xích lô, người bạn hay anh Hoài (cháu nhà thơ) chở đến. Những lần sau này cả tòa soạn đều vui, phấn khởi khi nhìn thấy ông vì tôi đã “giới thiệu” một ít thơ ca chịu chơi cho các bạn ở cơ quan về ông. Tôi nhớ một lần anh Ba Ớt  hứng chí bảo tôi lấy xe cùng Vũ Đức Sao Biển đưa thi sĩ đi nhậu. Lúc ấy là 5 giờ chiều. Hỏi ông muốn đến đâu. Ông bảo đến 81 TQT. Lúc này quán thật đông vui, khách phần đông là các nghệ sĩ nên ai cũng biết thi sĩ cả. Đang ngồi uống bia anh Thành bảo tôi mời chủ quán đến bàn và đề nghị với họ là sau này thi sĩ có đến nhậu thì vui lòng ghi lại để cuối tuần tôi sẽ đến thanh toán. Tôi đến vài lần hỏi thăm để thanh toán tiền thì biết rất ít khi thấy ông Bùi Giáng ghé lại đây. Có lẽ tại đây thiếu “nước mắt quê hương” chăng? Tiệc tan, anh Thành bàn với tôi là đưa thi sĩ đến chơi nhà ông bộ trưởng nội vụ. Hỏi ý ông. Ông nói “Trẫm đi với”! Chúng tôi cho xe đến đường Phạm Ngọc Thạch. Ông bộ trưởng bận đi họp ngoài HN. Chỉ còn có ông bác sĩ Mười L. tiếp chúng tôi. Hôm ấy chúng tôi được uống một thứ rượu thuốc rất ngon do ông bác sĩ mang ra chiêu đãi thi sĩ. Khi chúng tôi còn trên đường, hỏi thi sĩ về đâu? Ông bảo Xóm Gà! Và ông đòi bỏ ông giữa đường... Rồi nhiều lần khác, thỉnh thoảng ông ghé chơi. Anh Thành hỏi tôi ông sống ra sao? Tôi nói ông không ở đâu nhất định, có khi ngủ ngay ở công viên, hè phố... Anh Ba Ớt giao tôi phải lo tìm thuê một căn nhà nhỏ, tìm thuê một người giúp việc hơi lớn tuổi để lo giặt giũ, cơm nước cho thi sĩ. Tôi tìm ông và nói ý của anh Thành. Ông giãy nảy lên phản đối: “Ta là người giang hồ, thích sống ngoài đường, ngủ đâu cũng được, vả lại trẫm có máu công an trong người nên khoái đi các ngã 4, 7... để điều khiển giao thông thôi. Trẫm cám ơn các đại ca”. Và sau đó, lúc chạy xe ngoài đường tôi hay thấy thi sĩ với bộ đồ “hành hiệp” đang miệng huýt còi, tay chỉ lung tung tại một ngã 4, 5 nào đó trong thành phố. Ông hiện thân là một “Tế Điên hòa thượng” thời đại! Một lần khác, Trần Tử Văn - lúc đó là Phó tổng biên tập Báo Công An Nhân Dân (CAND) phụ trách phía Nam - đặt bài báo xuân cho Báo CAND (một bài báo Tết) của thi sĩ. Ông bảo tôi hai ngày nữa “khanh” đến lấy về đưa cho thằng Tử (ông hay gọi TTV như vậy). Thằng nớ chịu chơi lắm. Tôi nhớ như in, sáng 24-1-1997, Trần Tử Văn nhờ tôi mang nhuận bút bài thơ đến cho ông. Ông mở xem rồi “phán”: “Tau nói rồi, thằng Tử chịu chơi thiệt. Bài thơ có 10 câu mà hắn trả nửa triệu! Sướng thiệt!”. Thỉnh thoảng ông lại đến thăm thằng Tử rồi trở về trên những cuốc xích lô do... thằng Tử trả tiền. Ông rất khoái Trần Tử Văn vì tính cách “giang hồ mã thượng” của một người cầm bút có tài, có tâm.

Thời gian trôi đi. Tin trung niên thi sĩ qua đời là một cú sốc không chỉ cho những “đệ tử” trung kiên của ông mà cả cho bạn bè, anh em  - nhất là trong làng văn nghệ nước nhà. Ông ra đi để lại một  gia tài khá đồ sộ từ thơ văn, dịch thuật đến khảo cứu... Ông là  một “kỳ nhân” trong văn học nước nhà. “Kỳ nhân” trong lối sống, tư duy, đến ngôn ngữ... đầy tính triết lý mà chịu chơi vô kể. Ông đã gởi lại trần gian tình yêu vô bờ dành cho con người qua cái - nhìn - Bùi - Giáng: “Bờ trùng ngộ một phen này phen nữa; Tờ cảo thơm như lệ ứa pha hồng; Hồn hoa cỏ phượng thành Hy Lạp úa, Nghe một lần vĩnh viễn gặp hư không”. Ông luôn nuối tiếc  trần gian với tấm chân tình mật ngọt: “Nhưng em hỡi trần gian ôi ta biết; Sẽ rời xa vĩnh viễn với người thôi” và “Ngày sẽ hết và tôi không ở lại; Tôi sẽ đi và chưa biết sẽ đi đâu; Tôi sẽ tiếc thương trần gian mãi mãi; Vì nơi đây tôi sống đủ vui sầu”.

Bài viết này thay một nén nhang, thay những thân hữu Báo Công an thành phố kính gửi đến hương hồn trung niên thi sĩ được mãi phiêu bồng chốn bồng lai tiên cảnh nhưng vẫn luôn nhớ đến chốn trần - gian - sung - sướng: “Mở hai hàng cỏ long đong; Úp môi vào thút thít trong một vùng”.


HOÀNG YÊN DY
Bùi Giáng - Đại lão Cái Bang
Bước vào năm Bính Tý (1996), Bùi Giáng vừa tròn tuổi thất thập. Với cuộc sống lang bạt kỳ hồ, túi vải, chân đất, lang thang giữa chợ đời, gầm cầu, hè phố, dầm sương dãi nắng, bữa đói bữa no gần 4 thập niên, qua bao thăng trầm bệnh tật, vẫn còn sáng tác ở tuổi cổ lai hy, đó là một hiện tượng.
Trong sinh hoạt Văn học, Nghệ thuật Việt Nam, Bùi Giáng để lại cho đời biết bao giai thoại, đó là một hiện tượng. Ngôn ngữ thi ca của Bùi Giáng là một hiện tượng. Hiện tượng Bùi Giáng.
Bùi Giáng, nhà giáo, dịch giả, nhà văn, nhà phê bình văn học, triết học nhưng đó chỉ là quán bên đường, người bạn tri kỷ tri bỉ: thi ca.

NGƯỢC DÒNG THỜI GIAN

Bùi Giáng sinh ngày 17.12.1926 tại Vĩnh Trinh, Quảng Nam. Lúc nhỏ theo học Trung, Tiểu học ở Hội An, Quảng Nam rồi sau đó tiếp tục học Trung học ở Thuận Hóa, Huế. Năm 1945 đậu bằng Thành chung (Trung học), ông ở trong vùng kháng chiến thuộc Liên Khu V (Nam Ngãi bình Phú), năm 1950 ông đỗ Tú Tài II Văn chương. Ông ra Liên Khu IV (Thanh Nghệ Bình Trị Thiên) theo học Ðại học nhưng khi nghe Viện trưởng Ðại học đọc diễn văn, ông bỏ ý định theo học và theo đường núi Trường Sơn trở lại cố hương.
Theo lời người bào đệ, ông Bùi Vịnh, trong ngày Hội Thi Văn & Tư Tưởng Bùi Giáng ngày 21.10.95 tại Majestic, Huntington Beach, CA, Bùi Giáng "Có vợ vào lúc còn rất trẻ, sau năm 1945. Nhưng vì đi tản cư ở vào những nơi rừng thiêng nước độc, người vợ trẻ đã qua đời sau cơn bạo bệnh". Ông chung tình chung nghĩa với "mộng ban đầu", suốt nửa thế kỷ ôm vọng tưởng, điên loạn bởi "hồn nguyên tiêu" bao nhiêu hình ảnh mang dáng dấp của người tình muôn thuở vào cõi thiên thu, ngôn ngữ Bùi Giáng trở thành kỳ bí.
Theo lời người em là Bùi Vịnh: "Vào tháng Năm 1957, ông quyết định bỏ vùng Việt Minh trốn qua vùng Quốc gia. Và tại Huế, ông thi lại bằng Tú Tài tương đương, rồi vào Sài Gòn, ghi danh vào Ðại học Văn Khoa. Cả lần nầy nữa, sau khi nhìn danh sách các giáo sư giảng dạy, ông đã quyết định chấm dứt việc học ở trường của mình tại đây . Ông bắt đầu viết khảo luận, sáng tác và đi dạy học ở các trường Trung học tư thục ..." .
Ông tinh tường về Anh, Ðức, Pháp & Hán văn, không biết ông theo học tiếng Ðức & tiếng Anh lúc nào nhưng khi nghiên cứu triết học Ðức, thơ văn Anh Mỹ, ông dịch và viết rất tài tình. Ông có trí nhớ kỳ lạ và "trí quên" rất độc đáo. Quên của ông cũng là hiện tượng và có lúc không biết gì cả, cùng với cử chỉ, hành động kỳ quái, người điên thời đại.
GS Vũ Ký, thầy dạy của ông, trong bài "Nhớ Về Ba Người Em Lỗi Lạc" trong Giai phẩm Quảng Ðà 94 "Từ năm 1943 ấy, Bùi Giáng thôi học ở Hội An, rồi lui về cố hương làm Tô Vũ mục dương ở Trung Phước, miền rừng núi xứ Quảng. Theo nhiều người cho biết, Giáng nghêu ngao làm thơ, ca hát, điên khùng suốt năm tháng. Lúc tôi gặp lại ở Sài gòn thì Bùi Giáng đã nghỉ dạy học tư để cầm cọ bôi mực loay hoay vẽ tranh trong căn nhà lụp xụp ỏ ngõ hẻm Trương Minh Giảng và Giáng cũng vừa mới in xong mấy cuốn sách giáo khoa".
"Với Tất Cả Bùi Giáng" của Trần Phong Giao, Bùi Giáng "Lập gia đình năm 18 tuổi, nhưng không được hưởng hạnh phúc bao lâu vì chiến tranh và nạn lụt đã cướp mất vợ và hai đứa con thơ của ông".
Ðó là mốc thời gian tuổi niên thiếu của ông được đề cập qua ba người có liên quan với ông nhưng đã khác nhau. Theo sự ghi lại của "người thầy cũ và cũng là người anh" thiếu chính xác dấu ấn quan trọng trong giai đoạn 9 năm "kháng chiến" đã ảnh hưởng sâu đậm trong cuộc đời Bùi Giáng. Ông tham gia "kháng chiến", theo Việt Minh nhưng khi đụng chạm thực tế, ông ngán ngẫm, gặp bất hạnh trong tình yêu, tâm hồn điên loạn...
Sau 3 năm "chia cắt" đất nước, phân ranh Quốc/Cộng, ông mới chọn lựa quyết định ranh giới giữa 2 miền. Bài thơ "Nỗi lòng Tô Vũ" của ông đã ghi "Kỷ niệm một đoạn đường mười năm chăn dê ở núi đồi Trung Việt".
Không bao giờ muốn và để ai đề cập "tiểu sử", theo ông "Thi sĩ sinh ra như mọi người giữa cỏ cây ly kỳ, và chết đi giữa cỏ cây ly kỳ, gay cấn". Tuy nhiên, công việc của nhà nghiên cứu Văn học cần phải tìm hiểu chính xác, nhìn lại Văn học Việt Nam, ông là khuôn mặt đặc biệt. Hy vọng, một ngày nào đó, có được "tiểu sử" của ông từ tuổi thơ đến thời điểm "tam thập nhi lập".
Trước năm 1975, nhiều cây bút viết về tư tưởng, thơ văn Bùi Giáng nhưng không đề cập về "tiểu sử" nên có nhiều nghi vấn cùng với giai thoại quanh ông. Tháng 5.1973, Mai Thảo và Nguyễn Xuân Hoàng của tờ Văn thực hiện "Số báo đặc biệt về thiên tài thi ca Bùi Giáng", 10 câu hỏi của Nguyễn Xuân Hoàng về Bùi Giáng có tính cách khác lại và cả hai cùng hỏi và nói "Chuyện rong chơi". Nhận định thơ văn của ông với Thanh Tâm Tuyền, Nam Chữ, Trần Tuấn Kiệt, Tuệ Sĩ.
Có nhiều tác phẩm đã đề cập đến ông, điển hình như Cao Thế Dung: Văn Học Hiện Ðại, Thi Ca & Thi Nhân, Du Tử Lê: Năm sắc Diện, Năm Ðịnh Mệnh, Tạ Tỵ: Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay, Trần Tuấn Kiệt: Thi Ca Việt Nam Hiện Ðại...
Gần 2 thập niên, tác phẩm của ông với số lượng đáng kể:
Sách Giáo khoa, Luận đề (1957 - 1959) : - Bà Huyện Thanh Quan, - Lục Vân Tiên, Chinh Phụ Ngâm & Quan Âm Thị Kính, - Truyện Kiều & Truyện Phan Trần, - Cung Oán Ngâm khúc, - Nguyễn Công Trứ, - Tản Ðà Nguyễn Khắc Hiếu, - Phan Bội Châu, - Chu Mạnh Trinh, - Tôn Thọ Tường & Phan văn trị.
Sách dịch: - Cõi Người Ta của Saint-Exxupéry, _ Trăng Tỳ Hải của Albert Camus, André Gide, Martin Heidegger, - Khung Cửa Hẹp của A. Gide, - Hoa Ngõ Hạnh của Shakespeare, - Bạo Chúa Caligula của Albert Camus, - Ngộ Nhận của A. Camus, - Con Người Phản Kháng của A. Camus , - Mùa Hè Sa Mạc của A. Camus , - Kẻ Vô Luân của A. Gide, Orphélia Hamlet của Shakespeare , - Hòa Âm Ðiền Dã của A. Gide, - Hoàng Tử Bé của Saint-Exupery , - Mùi Hương Xuân sắc của Gerald de Narval, - Sương Bình Nguyên của các tác giả Âu Mỹ , - Kim Kiếm Ðiêu Linh của Ngọa Long Sinh...
Sáng tác: 
-Thơ: Mưa Nguồn, - Lá Hoa Cồn, - Ngàn Thu Rớt Hột, - Màu Hoa Trên Ngàn, - Bài Ca Quần Ðảo, - Sa Mạc Trường Ca...
-Biên khảo, Tạp văn, Tùy bút: - Tư Tưởng Hiện Ðại, 3 quyển, - Martin Heidegger & Tư Tưởng Hiện Ðại, 2 quyển - Sao Là Không Có Triết Học Heidegger?, - Ði Vào Cõi Thơ, - Thi Ca Tư Tưởng, - Sa Mạc Phát Tiết, - Sương Bình Nguyên, - Trăng Châu Thổ, - Mùa Xuân Trong Thi Ca, - Mùa Thu trong Thi Ca, - Thúy Vân, Tam Hợp Ðạo Cô, - Biển Ðông Xe Cát, - Ngày Tháng Ngao Du, - Ðường Ði Trong Rừng, - Lời Cố Quận, - Lễ Hội Tháng Ba, - Con Ðường Ngã Ba...
Tại hải ngoại, có 3 tuyển tập về thơ Bùi Giáng sáng tác vào sau năm 1975:
- Thơ Bùi Giáng, năm 1990, nhóm Việt Thường ở Canada thực hiện, gần 200 bài thơ.
- Thơ Bùi Giáng, Thế kỷ 1994, Phạm Xuân Ðài thực hiện, gồm 106 bài thơ.
- Thơ Bùi Giáng, California 1995, Bùi Vịnh & thân hữu thực hiện, gồm 81 bài thơ, tranh bìa "Thiếu nữ" do Bùi Giáng vẽ.
Sau khi Bùi Giáng qua đời , có rất nhiều tác phẩm của ông được ấn hành tại hải ngoại
Suốt 4 thập niên, Bùi Giáng đã cống hiến cho đời, cho nền Văn học Nghệ thuật Việt Nam thật nhiều tác phẩm gồm đủ mọi thể loại. Một con người không có nơi nương tựa ổn định, thể chất gầy gò, bệnh tật, tâm tính lúc bình thường khi điên loạn mà tạo dựng "kho tàng quý báu" cho Văn học Việt Nam, điều rất lạ, không thể hiểu được.

NGÔN NGỮ & CUỘC SỐNG

Gần gủi, tiếp xúc với Bùi Giáng, mỗi lần, có thể nói giai thoại về ông, thương mến, cảm quý con người tài hoa nhưng sống đầy khổ hạnh.
Viết về Bùi Giáng, với Mai Thảo: " Bùi Giáng chất ngất một trời chữ nghĩa, Bùi Giáng trùng trùng một biển văn chương... Sự hình thành một tác phẩm nơi Bùi Giáng cuối cùng vẫn còn là một bí ẩn hoàn toàn trong cái vùn nụt, cái bất tuyệt thao thao, cái chớp mắt đã là của nó... Bùi Giáng đã đem lại cuộc đời biết bao nhiêu châu ngọc. Bằng tài thơ trác tuyệt. Bằng ngôn ngữ ảo diệu, không tiền khoáng hậu. Có ông, thi ca mới đích thực có biển có trời. Từ ấy, thi ca mới không cùng không tận". Thế mà, chân dung & đời sống của nhà thơ "Mái tóc ông đỗi màu. Mấy chiếc răng của bị gẫy, nụ cười vừa trẻ thơ vừa móm mém. Cặp mắt sâu hoắm xa khuất dần với mọi hình hài thực tế... Ông ấy chỉ còn da bọc xương trong quần áo thùng thình, mái tóc dài đạo sĩ, cái túi vải còn thêm cây gậy... Có lúc thấy nói ông đeo một xâu chuổi toàn giày dép và quần áo phụ nữ quanh cổ như một vòng gai quái dị, đám con nít reo hò chỉ chỏ người điên, người điên. Có khi nghe thấy, ông ẩn lánh ở ngôi chùa vùng ngoại ô thành phố, ăn chay niệm Phật cả ngày không nói". "Bùi Giáng cũng tạo được một cái lạ mà theo tôi là một cái ngang...
"Trần gian lắm kẻ không cơm áo
Mà con thờ thẩn cứ nhìn trăng."
Bùi Giáng có cái giọng bạt đó và cái giọng bạt đã ảnh hưởng vào âm vận của thơ Giáng" (Uyên Thao - Thơ Việt Hiện Ðại).
Sau năm 1975, thảm họa chung của đất nước, Bùi Giáng cũng bị nhốt 3 tháng ở trại giam Gia Ðịnh. Ông bất chấp tất cả. Ông gọi mầy tao khi bị hỏi cung, thản nhiên với thức ăn "cặn bả" của con người mà không bị nhiễm trùng. Thế rồi, tháng ngày sau đó, theo Phạm Xuân Ðài "Cuộc sống của anh tại Sài gòn hiện nay là của một cuồng sĩ, khi thì thu mình trong túp lều của anh tạ một khu vườn bên Gia Ðịnh, khi thì lang thang vô định trong cơn điên...Ði lang thang hàng chục cây số bất kể nắng mưa, múa may la hét suốt mấy ngày liền, kẻ lực sĩ chưa chắc đã làm được". Thế nhưng "Bùi Giáng như một ngọn lửa cháy liên tục mấy mươi năm nay trong thế giới thơ ca - của anh và của chúng ta. Ngọn lửa có khi thu lại thành một đám nhỏ, có khi bùng lên dữ dội, có khi bị gió bão lắt lay, nhưng vẫn là nguyên một ngọn lửa ấy từ đầu cho đến bây giờ".
Vũ Ký viết nhiều giai thoại về Bùi Giáng, một Bùi Giáng thông minh, tài hoa, điên khùng, lang bạt... một Bùi Giáng với tình yêu ảo tưởng trong thơ văn và một Bùi Giáng lãng mạn với bóng hồng ở tuổi 60. Không hiểu vì cơn gió nào, bỗng nhiên có hai cô, một cô là Ð.N.L.H ( giáo viên cấp ba, người Huế ) và một cô là H.H.T.V, cháu của nhà văn Cung Giũ Nguyên xách đồ đạc đến nhà Thùy ở luôn 2 tháng. Thùy là bạn học, đồng hương với Bùi Giáng, thường gặp gỡ nhau. Thế rồi cô L.H "lại rất mến trọng Giáng, thường la cà với Giáng tại nhiều quán cà phê, nhiều lúc tình tứ khiến mọi khách trong quán rất ngạc nhiên". Ðó cũng là một hiện tượng, thử tưởng tượng hình ảnh Ðại lão Cái bang ăn mặc rách rưới kỳ dị lại song bước cùng bóng hồng tuổi còn đôi mươi, tâm tình với nhau.
Ngày nay, ở trong nước đã có vài bài viết về ông với hình ảnh con người điên loạn sống bên lề cuộc đời nhưng thi văn của ông vẫn giữ thế đứng trong nền văn học. Văn chương, Nghệ thuật của ông như một cõi trời bao la, khác xa với tư tưởng của người cầm bút theo giáo điều chủ trương "hiện thực xã hội"!
Dẫn chứng vài cây bút tượng trưng viết về ông ở trên cho thấy con người của ông nửa tỉnh nửa động, đời sống của ông bất định, nay đây mai đó, ngôn ngữ của ông có lúc thật huyễn hoặc, kỳ bí, lúc thật bình dị, nhẹ nhàng, lúc thanh lúc tục. Quan niệm sáng tác của ông "chơi mà thôi", chẳng có gì bận tâm, chẳng có gì để bàn. Cuộc đời của ông ở giữa trần thế chỉ là Ngày Tháng Ngao Du, rong chơi, ung dung tự tại.
Trước kia, Thượng Tọa Thích Minh Châu dành cho ông căn phòng ở Ðại học Vạn Hạnh, ông chỉ để sách vở rồi rong chơi đầu đường xó chợ, gặp đâu ngũ đó bất kể nắng mưa, đêm ngày. Sau nầy, thân nhân lo cho ông túp lều trong vườn ở Gia Ðịnh, căn phòng nhỏ trên lầu ở đường Trần Quang Diệu Sài gòn, ông để đó, rong chơi dưới gầm cầu Công lý, vĩa hè.
Với ông, tư tưởng triết học Ðức của M. Heidegger, Nietzsche, thi ca của Holderlin, Walt Witman, Emily Dickinson...Văn chương Pháp của A. Gide, St Exupery, A. Camus, văn chương Anh của Shakespeara. Ông chọn lựa và chuyển ngữ rất tài tình. Cuộc đời của ông điên, tỉnh, ông đã đề cập trong tác phẩm, tình yêu huyễn hoặc thấy bàng bạc trong thơ văn. Tư tưởng triết học, tư tưởng cao siêu của con người, theo ông, đều có đề cập trong Kiều của Nguyễn Du.
Sức sáng tạo của ông rất kỳ diệu. Như một tay võ công tuyệt luân khi xuất chiêu liên tục bất tận. Trong một đêm, ông viết cả trăm trang cho một tác phẩm. Gặp ông, hỏi thơ để đăng, ông sáng tác ngay tại chỗ, viết như đã nhập tâm từ trước.
Ông có năng khiếu về ngoại ngữ và cách học của ông, chọn tác phẩm để học, đọc, tra cứu. Biết hết chữ nghĩa của tác phẩm là biết được ngôn ngữ nước đó. Vì vậy, khi tìm hiểu M. Heidegger, ông học tiếng Ðức mới hiểu được tư tưởng. Văn chương Pháp, Anh, ông chuyển dịch từ nguyên tác. Ông dịch Kim Kiếm Ðiêu Linh để học thêm chữ Hán. Chuyển ngữ lại từ tác phẩm "chuyển ngữ" thì không còn thoát được cái ý của nó. Chẳng hạn Ngàn Thu Rớt Hột nghe rất văn chương bóng bẩy, đó là "hình ảnh cứt" dê bao năm ông gần gủi với nó trên núi rừng. Làm sao chuyển ngữ thoát được cái âm điệu, hình ảnh bóng bẩy đó được.
Có lần Huy Tưởng gặp và hỏi chơi với ông chuyện chăn dê có thi phẩm "rớt hột", nghe nói ông có chăn bò ở quê đúng không? -đúng! đúng? đúng với cái đầu của họ. Rồi cười thoải mái, xem như hỏi chơi, nghĩ chơi, đáp chơi rồi thôi.
Nguồn thơ của ông dạt dào, bất tận, ông viết nhiều về hình ảnh ở quê hương, ở núi rừng Trung Việt. Ðiều bắt gặp trong thơ của ông với chữ Kim ở đầu. "Người tình trong thơ" Kim Novak, Kim Cương. Ngài ra với vài hình bóng Kim thấp thoáng:

"Ôi phương cảo Ôi Kim Liên
Cảo thơm Kim Thúy diện tiền Kim Hoa!
Ôi Kim Ngọc Ôi Kim Nga
Chắc gì mai hậu mà ra phụ lòng".
(Ra Hoa)

"Tuy nhiên hồn mộng chan hòa
Ðầu tiên Kim Thúy Kim Hoa thập thành
Cuối cùng thừa thượng Kim Thanh
Ði về vô tận tập thành Kim Liên
Kim Nga Kim Ngọc diện tiền
Ðầu sương cuối tuyết thần tiên bấy chầy".
(Cuối Ngày Em Ði)

Ông lang thang suốt 4 thập niên, thời gian quá dài cho một đời người, xem cuộc sống nhẹ như tơ hồng, xem cuộc đời ảo thật, thật hư, thế nhưng đôi lúc tìm trong thơ ông mới cảm nhận được nỗi thống khổ thiết tha cho mối tình đầu đời đã hoài công tìm lại:

"Chắp tay tôi lạy ông trời
Tìm người yêu giúp giùm tôi một lần"
(Tìm Em)

"Em nhớ hay không hồn hòa dại cỏ
Những ngậm ngùi đầu núi canh khuya
Vàng cao gót nai đầu truông hãi sợ
Gió cây rung trút lá mộng tan lìa"
(Nỗi Lòng Tô Vũ )

Hình ảnh người vợ, người tình ban đầu, yêu thương say đắm, đã vĩnh viễn ra đi để lại cho ông "điên" với tình, với thủy chung hình bóng cũ:

"Em chết bên bờ lúa
Ðể lại trên đường mòn...
...Ðêm cuồng mưa khóc điên
Trăng cuồng khuya trốn gió...
...Anh đi về đô hội
Ngó phố thị mơ màng
Anh vùi thân trong tội lỗi
Chợt đêm nào gió bờ nọ bay sang"

Bất hạnh trong tình trường, ông rong ruỗi trong nỗi bất hạnh đó qua ngôn ngữ bằng thơ, văn, bằng rái tim rướm máu, bằng tài hoa lỗi lạc của Bùi Giáng và có lẽ duy nhất với cái tên Bùi Giáng.
"Văn Thơ cùng Tư tưởng của Bùi Giáng đi vào lịch sử văn học đất nước, đánh dấu một giai đoạn của văn chương Việt Nam", phải hiểu con người Bùi Giáng mới cảm nhận được ý thơ, văn và tư tưởng của ông, ông sáng tạo lúc tĩnh, ngao du lúc động để mãi mãi đi tìm hình ảnh xa thẳm, mịt mù! Hồn thơ luôn luôn chất chứa trong Bùi Giáng, bất luận ngày đêm, gặp đối tượng khơi động, dòng thơ tuôn trào. Tâm hồn Bùi Giáng chu du, mộng mị khắp bốn phương trời để "thơ và giai nhân" kết tinh thành "thiên cổ lụy" ngất ngây, nồng nàn, say đắm hòa cùng điên dại trong ngôn ngữ thi ca.
Một hình bóng, suốt cả cuộc đời trôi nỗi với hệ lụy khổ đau, một nhân tài không bao giờ có được mùa xuân nhưng với tâm hồn thanh thoát.

Vương Trùng Dương

--------------------------------------------------------------------------------

Tôi cười tôi khóc bâng quơ
Người nghe cười khóc có ngờ chi không? 
1926-1998 


Bùi Giáng, tuổi Bính Dần, sinh năm 1926 tại Thanh Châu, Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Con thứ của ông bà Bùi Thuyên và Huỳnh Thị Kiều. Năm Mậu Dần ông được tròn 6 giáp, 72 tuổi. Ông được văn giới, không phân biệt không gian thời gian, yêu mến trọng vọng. Những tác phẩm đầu của ông là sách giáo khoa in năm 1957, như Một vài Nhận xét về Bà Huyện Thanh Quan, Lục Vân Tiên, Chinh Phụ Ngâm ... Nhưng tiếng tăm ông nổi bật từ tập thơ "Lá Hoa Cồn" (1963). Ông là một nguời tự học và học rất trễ, tuy nhiên khả năng tinh thông nhiều ngôn ngữ của ông, kể cả những ngôn ngữ khó như chữ Hán và tiếng Đức, làm kinh ngạc mọi người trong văn giới. 

Những cuốn sách đầu của ông là sách giáo khoa in năm 1957, Bùi Giáng đã là một tên tuổi quá quen thuộc với đông đảo bạn đọc. Ông thường tự nhận là "trung niên thi sĩ" cùng hàng loạt biệt danh trào lộng : thi sĩ Đười ươi, Brigitte Giáng, Giáng Moroe, Bùi Bán Dùi, Bùi Bàn Dúi, Bùi Tồn Lưu, Bùi Tồn Lê, Bùi Bê Bối, Bùi Văn Chiêu Lỳ... 

Ông được xem như một "ngôi sao" trên vòm trời văn hóa văn nghệ miền Nam trước đây, được không ít độc giả xưng tụng là "thiên tài", là "bậc thượng trí", là "đáng tiêu biểu hơn cả về thi ca bây giờ và có lẽ... vạn đại" và tôn ông làm "thần tượng". Gần đây, một số tác phẩm, dịch phẩm của Bùi Giáng được tái bản rộng rãi.Ông đã dịch nhiều sách Pháp, Anh, Hán văn như Hamlet của Shakespeare, Hoàng tử bé của Saint'Exupéry, Ngộ nhận của Albert Camus, Khung cửa hẹp,và Hòa âm điền dã của André Gide, Kim kiếm điêu linh của Ngọa Long Sinh... 

Ông đã biên soạn các tiểu luận triết học và văn học như Tư tưởng hiện đại,Thi ca tư tưởng, Lễ hội tháng ba, Con đường ngã ba, Con đường phản kháng, Đi vào cõi thợ.. Đặc biêt, gây nhiều tranh luận sôi nổi nhất là những tập thơ của ông, từ Mưa nguồn, Lá hoa cồn... đến Trăng châu thổ, Sương bình nguyên, Bài ca quần đảo, Rong rêu...Ai đã từng tiếp xúc Bùi Giáng trong trang sách lẫn ngoài cuộc đời, hầu như chưa thể bình luận gì về ông. Biết bình với luận thế nào khi kẻ khen thì tâng hết lời mà người chê thì lại đả tới số. Riêng vấn đề họ Bùi có điên chăng cũng đã làm tốn hao bao giấy mực. Người bảo ông điên. Người cho rằng ông giả vờ điên. Người lại quả quyết Bùi Giáng không điên. Sự thật ra sao, nếu nhìn từ góc độ khoa học ? 

Về tài dịch, thì cuốn "Terre des hommes" đã được ông dịch và đặt tên là "Cõi Người Ta" thì quả thật không còn gì thần tình hơn. 

Tin tức trích từ báo SaigonUSA, 9/10/98 

SAIGÒN ' Thi sĩ Bùi Giáng đã qua đời lúc 2 giờ chiều ngày Thứ Tư 7 Tháng Mười (tức 11 giờ đêm ngày 6'10'1998 tại California) trong lúc đang điều trị tại Bệnh viện Chợ Rẫỵ Ông Bùi Giáng, 73 tuổi, là một thi sĩ có tiếng thơ độc đáo, cũng là tác giả nhiều tác phẩm văn suôi về triết học, văn học, và ngay khi còn sống đã trở thành một huyền thoại trong làng văn nghệ Việt Nam vì nếp sống ngang tàng, không màng danh lợi của ông, dưới bất cứ chế độ nàọ 

Thi hài thi sĩ Bùi Giáng sẽ được nhập quan vào sáng ngày 8 Tháng Mười và quàn tại Nhà Tang lễ chùa Vĩnh Nghiêm, Sài Gòn. Gia đình thi sĩ tại Sài Gòn cho biết sẽ an táng ông tại Nghĩa Trang Gò Dưa, Thủ Đức. Bào đệ của ông là ông Bùi Văn Vịnh sẽ tổ chức lễ phát tang, và các văn nghệ sĩ và độc giả yêu thơ sẽ làm lễ tư ởng niệm ông tại vùng Tiểu Sài Gòn, miền Nam California. 

Người Việt đã loan tin khi thi sĩ Bùi Giáng được đưa vào bệnh viện ngày 23 Tháng Chín vì bị té, đứt mạch máu nãọ Theo tin của ông Bùi Văn Nam Sơn, một người bà con ở Đức về thăm thì thi sĩ Bùi Giáng té ngã khi đứng lên thắp đèn, sau khi ông đã uống nhiều rượụ Ông đã được đưa vào Bệnh viện Chợ Rẫy, đươ .c mổ đêm 25 Tháng Chín, nhưng quá yếu nên rất ít hy vọng phục hồi. 

Giới văn nghệ sĩ ở Sài Gòn rất xúc động khi nghe tin Bùi Giáng vào bệnh viện, kéo nhau đến thăm ông. Tin ông vào bệnh viện được báo chí khắp nơi loan báo, ở trong nước cũng như ở hải ngoại. 

Thi sĩ Bùi Giáng sinh năm 1925 tại Quảng Nam, thủa nhỏ đã học ở Quảng Nam và 4 năm ở Huế. Khi trưởng thành ông sống ở Sài Gòn, nổi tiếng với hành trạng và văn chương phóng túng, ngang tàng. Những tập thơ nổi tiếng của ông là Mưa Nguồn, Lá hoa cồn, Mùa thu bi ca, Ngày Tháng ngao du, v.v. Ông viết các sách triết học như Tư tưởng hiện đại, Thế nào là siêu thực, Heidegger và Husserl, Hình ảnh Jean Paul Sarte, Martin Heidegger và tư tưởng hiện đại, Khô ?ng Tử, Lão tử, Gandhi, v.v. Ông cũng dịch các tác phẩm của Albert Camus (L'homme révolté), André Gide, St'Exupéry, René Char, v.v. Về văn học Việt Nam, ông đã viết các khảo luận về truyện Kiều, Bà huyện Thanh Quan, Tản Đà, v.v. 

Nhưng khi nghe tin thi sĩ Bùi giáng qua đời, các độc giả trước hết sẽ nhớ đến các vần thơ trác tuyệt, mênh mông lãng đãng như các lời nhắn nhủ của ông sau đây: 

Em về mấy thế kỷ sau 
Nhìn trăng có thấy nguyên mầu ấy không 
Ta đi còn gửi đôi dòng 
Lá rơi có dội ở trong sương mù 

Và người V.Nam ở nước ngoài chia sẻ nỗi ngậm ngùi khi đọc Bùi Giáng: 

Hỏi rằng: người ở quê đâu?
Thưa rằng: tôi ở rất lâu Quê nhà. 

Lễ động quan Bùi Giáng được cử hành vào lúc 7 giờ sáng chủ nhật 11.10.1998, có đông đủ thân nhân và Bùi Tộc Vĩnh Trinh, tiễn đưa Bùi Giáng từ Chùa Vĩnh Nghiêm về chôn cất tại Thủ Đức. Họ Bùi nguyên gốc ở Nghệ An, sau dời đến Quảng Nam lập nghiệp kể từ đời Hậu Lê, qui tụ bao quanh các làng Vĩnh Trinh, Lệ Trạch, Cù Bàn, An Lâm, Cổ Tháp và Thành Châụ Tổ đình của họ Bùi đặt tại Thủ Đức. Trước ngày động quan Bùi Giáng, Hội Nhà Văn muốn biểu lộ sự kính trọng đối với một ngòi bút lớn đã qua đời, bằng cách đề nghị đuợc an táng Bùi Giáng tại Nghĩa Trang Thành Phố nhưng người em trai của Bùi Giáng là Bùi Văn Luân không chấp thuận. Sau đó Hội Nhà Văn đề nghị hiến tặng hai mảnh đất hợp với hai mảnh đất của Bùi Tộc Vĩnh Trinh cho được rộng rãị Tối thứ Bảy, số người mến mộ thi văn Bùi Giáng, đa số là các học sinh, sinh viên, giới trẻ, đô ? tới nhà quàn Vĩnh Nghiêm tiễn biệt một thiên tài đã vĩnh viễn ra đi kéo dài tới 2 giờ khuya khiến không còn một chỗ trống để chứa ngườị Sổ tang ghi tên nhiều nguời, dày tới hàng trăm trang. Đám tang có tới hàng ngàn người tham dự, được đánh giá là một trong những đám tang có đông người dự kể tư ` sau năm 1975... Trước khi hạ huyệt, nữ nghệ sĩ Kim Cương - một người từng được Bùi Giáng lúc sinh thời nói tới nhiều bên cạnh những nhân vật có thật của đương thời như Phùng Khánh, Marylin Monroe, Brigitte Bardot, Kim Novak, John Keats... - được mời đọc điếu văn. Tiếp tới nhà văn Sơn Nam, Huy Tuởng tiếp tục ngỏ đôi lời trước mộ người quá cố

Trích từ Văn Bút Ngày nay ( USA )
 Ly Tao 1
Giờ ngẫu nhĩ như hồng bay em ạ 
Và yêu thương như lá ở bên hoa 
Và luyến ái như tơ vàng bốn ngả 
Bủa vi vu như thoáng mộng la đà .

Em đã lại với đời về nắng ấm 
Thắm không gian thương nhớ bóng hình em 
Anh đã đợi chờ em từ lâu lắm 
Ngày đi không để lại lạnh trăng rằm. 

Anh mơ ước với ngàn xuân mở rộng 
Quên não nùng sa mạc của yêu thương 
Chân cứ bước theo nhịp hồn cử động 
Em là em anh đợi khắp nẻo đường. 

Em có nụ cười buồn buồn môi mọng 
Em có làn mi khép lá cây rung 
Em có đôi mắt như sầu xanh soi bóng 
Hồ gương ơi! sao sóng lục vô chừng! 

Con mắt ấy có gieo buồn rớt lệ 
Trê n nẻo đường lạnh lẽo lối lang thang 
Môi thắm ấy mấy lần thao thức kể 
Với đèn khuya vò võ mộng khôn hàn. 

Trời đất nhớ lần đầu ... năm trước ... 
Đó một lần đôi mắt đã nhìn lên 
Và trời hiểu ngày sau đôi mắt ngước 
Một lần kia sẽ còn dịp đáp đền. 

Em ở lại với đời ta em nhé 
Em đừng đi. Cho ta nắm tay em 
Ta muốn nói bằng thơ bay nhẹ nhẹ 
Vào trong mơ em mộng giấc êm đềm .

Ta sẽ đặt mười ngón tay lên mắt 
Để nhìn em qua khe hở du dương 
Vòng theo máu hai vòng tay khép chặt 
Ồ thưa em ta thấy mộng không thường.
Ly Tao II
Bàn chân bước nghe một lần sóng dậy 
Sắc khuynh thành một thuở động binh đao 
Người lên ngựa ngoảnh đầu về có thấy 
Bờ xa bay tuyết bạch phủ sương đào. 

Vì mong đợi ngày về xuân hối hả 
Ở bên mành thỏ lặn bóng ngàn dâu 
Sầu lục thúy sầu thu sen thủy tạ 
Mộng hoa đầu trong nước ngập theo nhau 

Vì con mắt một lần kia đã ngó 
Giữa nhân gian bủa dựng một màu trời 
Đài vũ trụ hồn chiêm bao rạng tỏ 
Một nụ cười thế giới sẽ chia đôi 

Giòng nước bạc giòng sông trôi theo dõi 
Cuối chân trời hình bóng một chân mây 
Đời xiêu đổ nguồn xưa anh trở lại 
Giữa hư vô em giữ nhé chừng này.
Ly Tao III
Em đi về như mây núi đầu xuân 
Gió bay qua nước chảy suối vô cùng 
Mừng như thể hôm qua về đồng nội 
Buồn bã cũ đã bẽ bàng bước vội 
Để bây giờ còn một mối riêng tây 
Lời nhân gian không tiếng để phơi bày 
Thu trăng mộng như trang mờ cổ lục 
Mưa vội vã như bình minh thúc giục 
Vào nhớ nhung như vào giữa hội hoa 
Lá xanh xao như cành nhánh gật gù 
Và thánh thót đến cây già cổ thụ 
Anh lại thấy một trời xưa đã cũ 
Đã đi về cùng với gót chân em 
Đã đi qua cùng với cánh tay mềm 
Anh mở miệng không nói lời nào cả 
Vì bất chợt thấy môi cười em ạ 
Vì vui mừng xa lạ bỗng quen nhau 
Vì vu vơ vui sướng ngó pha màu 
Cây im cỏ nước cợt cồn đùa cát 
Và vạn vật rủ rê nhau bát ngát 
Dàn mênh mông vây bủa gió xa bay 
Anh đến bên em ghé sát mi mày .
Nỗi Lòng Tô Vũ
(Kỷ niệm một đoạn đời 15 năm chăn dê ở núi đồi 
Trung Việt Nam Ngãi Bình Phú ) 

Đồi tăm tắp chạy về ôm chân núi 
San sát đồi phủ phục quấn núi xanh 
Chiều xuống rồi tơ lòng rộn ràng rối 
Trời núi đồi ngây ngất nhảy dê nhanh 
Thôi từ nay tha hồ em mặc sức 
Nhảy múa tung sườn núi vút giòng khe 
Thôi từ nay tha hồ em mặc sức 
Vang vang lên đồi núi giọng be be 
Những bận nào Trà Linh qua Đá Dừng Hòn Dựng 
Dùi Chiêng về Phường Rạnh ngược Khe Rinh 
Bao lần anh cùng chúng em lận đận 
Bôn ba qua rú rậm luống rùng mình 
Những bận nào Quế Sơn Rù Rì con suối ngược 
Nước trôi nguồn nước lũ xuống phăng phăng 
Những bận nào mịt mùng mưa gió ướt 
Đẫm thân mình co rúm lạnh như băng 
Em nhớ hay không? hồn hoa dại cỏ 
Những ngậm ngùi đầu núi canh khuya 
Vàng cao gót nai đầu truông hãi sợ 
Gió cây rung trút lá mộng tan lìa 
Nhưng từ nay Giáp Nam anh đóng trại 
Cố định rồi - em khỏi ngại ngày đêm 
Dưới nắng mưa tha phương du mục mãi 
Cay đắng từng, bùi ngọt mặn mà thêm 
Chiều hôm nay bên chó vàng chễm chện 
Anh lặng nghe em bé hé bên sườn đồi 
Khoanh mấy vòng tay anh thoăn thoắt bện 
Vòng cho em từng chiếc sắp xong rồi 
Chiều đã xuống em đà no nê chắc 
Huýt tù và! em xúm xít lại anh đeo cho 
Mỗi chúng em mỗi vòng mây mỗi sắc 
Lại mau đây! to nhỏ cổ anh so 
Này em Đen chiếc vòng vàng tươi lắm 
Này em Vàng chiếc trắng há mờ đâu 
Này em Trắng chiếc hồng càng lóng lánh 
Này em Hoa Cà (1) hỡi! chiếc nâu 
Ngẩng đầu lên! dê ơi anh thong thả 
Đeo vòng vào em nghển cổ cong xinh 
Ngẩng đầu lên! đây lòng anh vàng đá 
Gửi gắm vào vòng mây nhuộm tơ duyên 
Ngẩng đầu lên nhìn anh mờ mắt lệ 
Từ lần đầu vòng ngọc tuổi hai mươi 
Trao người em trăm năm lời ước thệ 
Đây lần đầu cảm động nhất mà thôi (2)
Vòng em xong, vòng anh dành riêng chiếc 
Dành riêng mình - Dê hỡi hiểu vì sao ? 
Vì lòng anh luống âm thầm tha thiết 
Gán đời mình trọn kiếp với Dê Sao 
Nhìn anh đây các em Vàng Đen Trắng 
Tía Hoa Cà lổ đổ thấu lòng chưa ? 
Từ từ đưa chiếc vòng lên thủng thẳng 
Anh từ từ đưa xuống cổ đong đưa 
Và giờ đây một lời thề đã thốt 
Nghìn thu sau đồi núi chứng cho ta 
Cao lời ca bê hê em cùng thốt 
Hòa cùng lời anh nghẹn nỗi thiết tha 
Và giờ đây hoàng hôn mờ trĩu nặng 
Bốn bề tràn lan bóng mịt mùng sa 
Xếp hàng ngay nhanh lên hàng ngũ thẳng 
Rập ràng về bế hế rập ràng ca 
--- 

(1) Dê Hoa Cà có lông lổ đổ tía hồng xem như hoa cà vậỵ Đẹp vô cùng. Nhất là những buổi chiều, sắc 
lông óng ả dưới nắng vàng - xa xa hình bóng dê rực rỡ nổi bật trên triền núi xanh lợ Dê Hoa Cà còn gọi là Dê Sao (vì lông lổ đổ sáng như sao). 

(2) Ý nói cái lần đầu, thuở hai mươi tuổi, trao cái 
vòng ngọc cho vị hôn thê mà không cảm động bằng lần đầu đeo vòng cho dê vậỵ
Bùi Giáng ... Những ngày ngắm gió
Ta đi còn giữ đôi giòng
Lá rơi có dội ở trong sương mù 
B.G.

Như thế Nàng Kiều hay Nàng Thơ đã mang Trung Niên Thy Sỹ ra đi tít cõi sa mù, đi khuất. Tôi đã lặng người khi nghe tin ông mất vì bị té và bể mạch máu trong đầụ Không biết là ông té thật hay ông chỉ vung một tuyệt chiêu cuối cùng cho hai vùng não bộ trái và phải hòa nhập thành một cõi uyên nguyên mà cánh chuồn chuồn của ông đã không ngừng nghỉ kiếm tìm trong mấy chục năm qua ? 

Có thể lắm bởi vì cái sự vụ hai miền hai cõi đã không từng gây ra lắm cảnh đoạn trường cho chúng ta đó hay saọ Hẳn là ông đã tìm thấy được mùa xuân phía trước, cái cõi nguyên xuân của Mưa Nguồn , Xin chào nhau giữa con đường .

Mùa xuân phía trước miên trường phía sau ? Ngày ông mất, anh Thi Vũ tặng tôi tập thơ " Đêm Ngắm Trăng " của Bùi Giáng mới xuất bản ở Việt Nam gần đâỵ Thật là một món quà quý giá vì xa nước đột ngột năm 75, tôi không giữ được một tập thơ nào của ông ngoại trừ vài ấn bản mới xuất hiện sau này ở hải ngoạị 

Một trong những trang đầu của Đêm Ngắm Trăng có ba chữ Ngày Ngắm Gió được đặt trong dấu ngoặc, đứng đơn độc một mình. Có thể ít người chú ý tới nhưng tôi đã dừng lại thật lâu để đọc mãi ba chữ ấy và bất giác đối với tôi nó mang một ý nghĩa thật mênh mông phiêu hốt như cuộc đời của Bùi Giáng.

Ông đã đứng ngắm những trận gió hỗn mang từ Cổ Hy đến Tây Phương Tuyệt Mù Hư Vô Chủ Nghĩa, trở lại chốn huyền môn tâm pháp Đông Phương, một đôi lần lận đận trước Con Đường Ngả Ba (1), những cơn tẩu hỏa nhập ma làm ông thất điên bát đảo trước Ngả Ba của Bát Nhã Ba La Mật. 

Hãy nghe ông định nghĩa thế nào là Ngả Ba : " Ấy là một loại Ngả Ba riêng biệt. Một loại ngả ba theo dõi mãi con đường trong mỗi bước chân đi , trong từng mỗi mỗi niệm, mỗi mỗi sát na thù thắng. Trên con đường tư tưởng, không ai một lần vượt qua Ngả Ba là coi như vĩnh viễn từ nay không còn Ngả Ba nào chon von eo óc khiến bàng hoàng. Phải luôn luôn thể hội một điều : Ngả Ba còn hằng tại ở mãi dưới bước chân đi hàng hai theo thể lệ chữ 'Bát' cho máu me đánh mãi nhịp chữ 'Không'..." Nhưng không sao, trước những câu hỏi siêu hình hiểm hóc của Đường Vô Núi, Lối Ra Rừng ông tiếp tục hô lớn "không phải, không phải" hoặc "không biết, không biết, và không biết..." sống trọn vẹn vai trò Lão Ngoan Đồng của cõi tư tưởng bởi chưng

Ngày mai cá sóng phiêu bồng
Ngàn trăng ngậm bóng sương đồng ra đi
(Đêm Ngắm Trăng)

Không biết, không biết hay chỉ là sự bất lực của chữ nghĩa - "Ở trong còn lắm điều hay/ Nỗi đêm khép mở nỗi ngày riêng chung" (Nguyễn Du). Và thản nhiên ngắm gió trước những ngả ba sinh tử kiệt cùng của tư tưởng trong suốt cuộc đời của ông, thái độ rất chịu chơi của kẻ có nội công thâm hậu khác hẳn với những lối làm dáng của các triết gia đùa giởn với chữ nghĩa đương thờị

Nói đến những cơn điên tam đảo tứ , trong những bài viết về Bùi Giáng, một số không nhỏ thường đặt câu hỏi là ông có điên hay không và những giải thích dài dòng chung quanh chuyện điên. Có lẽ chúng ta không nên mất thì giờ cho những câu hỏi như vậy, câu hỏi không cần phải đặt ra bởi vì " Người ta vốn điên, điên một cách thiết yếu đến nỗi không điên cũng là điên theo một lối khác - Les hommes sont si necessairement fous, que ce serait être fou par un autre tour de folie, de n'être pas foụ (Pascal)". 

Bùi Giáng đã dùng câu này để mở đầu cho lời tựa của bản dịch Mùi Hương Xuân Sắc (Sylvie Souvernirs Du Valois) của
Gérard De Nerval. Như vậy câu hỏi nên đặt ra là liệu chúng ta có phải điên hay không điên một cách thiết yếu để thấy cái nghĩa lý của những câu thơ: 

Người điên ngôn ngữ điệp trùng
Dở chừng như mộng dở chừng như mê
Thưa em ngôn ngữ quặt què 
Làm sao nói được nghiệp nghề người điên
(Thơ Bùi Giáng, Thế Kỷ 1994)

Lời tỉnh táo, lời mê man
Điệu tha thiết rống điệu bàng hoàng ca
......................................
Tặng nhau từ ngữ lạc lầm 
Cũng xin hồng lệ hãy đầm đìa tuôn
(Y Ư Mộng Du Ư Mê, sđd)

Hiển nhiên vấn đề không còn phải là điên nhưng chính cái hạn hữu của ngôn ngữ đã làm con người ngộ nhận nhaụ Không gì đáng buồn hơn khi chợt thấy rằng chúng ta không hơn không kém chỉ là những người mù sờ voi, mọi lối nhìn chỉ là phiến diện của lăng kính đờị Người ta đã nhân danh những giá trị, những danh xưng để Việt Nam trở thành một bãi chiến trường trong mấy chục năm quạ Thế hệ của tôi là những thanh niên lớn lên ở thời sáu mươi, chúng tôi chóng già với khói thuốc ở những quán cà phê và những khắc khoải hiện sinh. Ý Thức Mới , Im Lặng Hố Thẳm của Phạm Công Thiện như những làn gió mới để chúng tôi quên đi cái chủ nghĩa hiện sinh buồn nôn của thời thượng lúc bấy giờ. Nhưng chiến tranh sát nách, chúng tôi đã không còn có nhiều thì giờ nữạ Đa số chúng tôi từ giả hố thẳm của tư tưởng và lao đầu vào cuộc chiến trước mặt, một hố thẳm thực sự, kết tủy của những bế tắt của triết học Tây phương trước những Ngả Bạ Tôi nhớ Phạm Công Thiện với lời gởi thật trang trọng đến Nguyễn Du trong đầu trang sách của Im Lặng Hố Thẳm như một "người cha tóc trắng của thi ca và tư tưởng Việt Nam, ngồi im lặng trên mây núi Hồng, già với gió thụ.." nhưng hình như ông không dành nhiều trang sách ở phía trong cho Nguyễn Du vì một lý do này hay một lý do khác cho đến gần ba mươi năm saụ Trái lại, Bùi Giáng trong mọi vần thơ đã làm sống lại người cha tóc trắng đó, đã mang sinh khí mới cho dòng lục bát nói riêng và thi ca Việt nói chung. 

"Thơ Nguyễn Du thị hiện một cách đoạn trường như thế, thì sự cố nào xảy ra cho thằng tài tử ? Ấy là sự cố Mưa Nguồn, Lá Hoa Cồn... Mọi bài thơ tôi viết ra, đều là vịnh thơ Nguyễn Du tại chỗ gay cấn âm thầm nhất. Dịch thơ từ đó biến ra làm Vịnh Kiều, trong từng cơn cưỡng bức. Cưỡng bức thơ Nguyễn Du cũng là tự mình cưỡng bức mình."
(Thi Ca Tư Tưởng, An Tiêm, tr. 63)

Tại sao ông lại cưỡng bức mình quá đổi như thế ? 

"Thơ là cái gì không thể bàn tới, không thể dịch, diễn gì được. Người ta có thể diễn tả một trận mưa rào bằng lời thợ Thì có lẽ muốn diễn tả một bài thơ, người ta chỉ có thể phát động một trận mưa rào, hoặc một cơn gió thụ Mà muốn thực hiện sự đó, thì ngoài việc làm thơ ra, con người không còn phép gì khác. Thế có nghĩa là : muốn bàn tới thơ, diễn dịch thơ, người ta chỉ có thể làm một bài thơ khác."
(Thi Ca Tư Tưởng, An Tiêm, tr. 14)

Và ông đã làm rất nhiều bài thơ khác, những thiên khảo luận như là một lối gõ cửa, đưa người đọc bước vào những ngưỡng cửa khác nhau của Thi Ca và Tư Tưởng, từ Tây sang Đông, Heidegger, Hoelderlin, Nietzsche, Khổng, Lão, Trang, Nguyễn Du... Những lối dẫn nhập có vẻ đùa giởn nhưng rất gạn lọc và nghiêm túc vì ông cho rằng "...kẻ nào tự xét mình từ trong tinh thể mà ra chả có chi là phiêu bồng tí chút thì chả nên cưỡng cầu tự ép uổng ghé vào thi ca thâm xứ làm chị.." (Đi Vào Cõi Thơ). 

Lời nhắn nhủ cần được gởi đến cho những nhà phê bình văn học theo lối từ chương sách vở. Đã có một vài nhà phê bình ở hải ngoại mất rất nhiều thì giờ phân tích ông với lối chả có chi là phiêu bồng tí chút đó. Quả thật họ không nên cưỡng cầu tự ép uổng vào thi ca thâm xứ của ông làm gì. 

Tôi yêu Bùi Giáng nhất ở chỗ ông cũng là một thi sĩ ngợi ca tình yêu lãng mạn. Ai trong chúng ta lại không một lần lận đận, một lần lỡ dở trong tình trường nhất là khi sự đổ vỡ ấy lại là lần đầu tiên trong đờỉ
Có lẽ sự trắc trở của thuở ban đầu đó đã khiến ông yêu Thúy Kiều nhiều hơn vì đồng cảnh ngộ ?
Những nàng kiều nữ gặp giông bão trong tình trường hoặc là những quyến rũ mê hoặc của thuỡ thanh xuân trở thành những nhân vật hoặc đề tài ưng ý đối với ông. Alissa của Khung Cửa Hẹp chết trong cô đơn, Môi cười ở cuối sân ga/ Phố nào cố quận xưa là tiễn nhau/ Lệ vàng xanh mắt mai sau/ Chùm bông tuyệt mỏng pha màu vĩnh lỵ Adrienne của Mùi Hương Xuân Sắc chết trong tu viện, Trang hồng kim hải ra hoa/ Trổ bông mùa phượng tên là Adrienne/ Anh về đuối mộng cuồng điên/ Mùa thu quốc sắc ưu phiền ngập trang. Cô Gái Lạ Thiên Thu Thánh Nữ Thấp Thoáng Adrienne đã có những liên hệ gì đến Mẫu Thân Phùng Khánh Trí Hải Ni Cổ (Không biết, không biết và không biết. Chắc ông sẽ trả lời như vậy nếu được hỏi). Từ Mưa Nguồn đến Chớp Biển, Bùi Giáng luôn luôn nhắc đến đâu đó một mối tình đầu dang dở nhưng cảm động hơn cả là trong tập thơ cuối cùng Đêm Ngắm Trăng, ở tuổi hơn bảy mươi hình bóng người tình đầu tiên, Nàng Tiên Một Lần, rõ ràng hơn và xuất hiện trong nhiều bài thợ Một điểm cần ghi nhận là có nhiều câu từ những tập thơ trước như Mưa Nguồn chẳng hạn đã được lập lại trong những tập in sau nàỵ

Mai sau còn dự Hội nào 
Ngó nhau từ kỷ niệm đầu bão giông
(Đêm Ngắm Trăng, Mưa Nguồn)

Tình thứ nhất ? mộng mưa nguồn 
Từ nay vĩnh viễn con đường chẻ đôi
(Đêm Ngắm Trăng)

Bỏ người yêu bỏ bóng ma
Bỏ hình hài của tiên nga trên trời 
Bây giờ riêng đối diện tôi 
Còn hai con mắt khóc người một con
(Mưa Nguồn)

Ngày mai vĩnh biệt cõi đời 
Trùng lai có lẽ cuối trời biệt ly
(Đêm Ngắm Trăng)
....................................................

"Có Một Ngày Như Thế... anh đị.." lời nhạc của Trịnh Công Sơn như một nhắc nhở cho chúng ta cái mỏng manh của kiếp ngườị Đến và đi, phiêu bồng như một áng mây nhưng đã từ lâu trong cõi Mưa Nguồn ta đã thấy một người Thi Sĩ Của Trần Gian đã yêu chốn này rất mực...

Ngày sẽ hết tôi sẽ không ở lại
Tôi sẽ đi và chưa biết đi đâu
Tôi sẽ tiếc thương trần gian mãi mãi 
Vì nơi đây tôi sống đủ vui sầu
(Mưa Nguồn)
Những Giai Thoại Về Bùi Giáng
Những giai thoại về Bùi Giáng nơi đây , đã không còn mang tính giai cấp chế độ hoặc một hình thức chính trị nào , mà chính là chúng ta ... những người yêu thích tâm hồn ngỗ ngáo của ông .

Lục Bát 

Sau khi chiếm miền Nam, các cán bộ văn hóa từ Bắc vào rồi lần lượt nắm giữ các chức vụ của đảng và nhà nước giao phó, đô `ng thời để "làm việc" với các đối tượng văn hóa miền nam. Một trong những người được giao công tác để chỉnh huấn giới văn nghệ Quảng Ðà là một cán bộ tập kết xuất thân từ địa phương. Cán bộ đó có bút hiệu là Thu Bồn, lấy tên của giòng sông lớn nhất tỉnh. 

Trước sự miễn cưỡng và chống đối lộ hoặc ngầm của giới văn nghệ sĩ địa phương, trong một buổi sinh hoạt tư tưởng văn hóa, cán bộ thơ Thu Bồn muốn thúc đẩy các văn nghệ sĩ miền Nam tham gia tích cực vào sinh hoạt mới của nhà nước, đã ép mời nhà thơ Bùi Giáng lên diễn đàn để trổ tài làm thơ lục bát "như hơi thở" của ông mà người ta vẫn đồn. Bùi Giáng khiêm nhượng từ chối nhưng vẫn bị nài ép. Cuối cùng, không thể chô 'i từ, Bùi Giáng lên bục, và chỉ vào nữ sĩ Thu Ba, lúc ấy đang ngồi cạnh nhà thơ Thu Bồn, mà ứng khẩu rằng: 

"Thu Ba ngồi cạnh Thu Bồn Thu Bồn thích quá, sờ ? tay Thu Bạ" 

Rồi tức thì ngồi xuống trước sự ngẩn ngơ của diễn giả Thu Bồn, nữ sĩ Thu Ba, và cử tọạ 

Mọi người nhao nhao: Thơ lục bát gì lạ thế? Vần điệu niêm luâ .t trật lất! Không chuẩn, phải làm lại! 

Thế là Bùi Giáng lại bị lôi lên. Ông làm mặt nghiêm đọc tiếp: 

"Thu Ba ngồi cạnh Thu Bồn Thu Bồn thích quá, sờ ? vai Thu Bạ" 

Cả hội trường lại cười ầm lên, rồi náo loạn. Người ta kháo nhau, thơ văn miền Nam quả là tệ hại! Chả thế mà phải cải tạo cho nghiêm chỉnh lên. 

Bùi Giáng bị ép phải làm lại cho nghiêm chỉnh luật thơ lục bát trước khi ngồi xuống. 

Cuối cùng ông mới nói đôi lời phân trần về yêu cầu của ngư ời nghe, đại ý là nếu mọi người nhất định bắt ông phải làm thơ cho đúng với niêm luật, thì ông phải sửa như thế nầy: 

"Thu Ba ngồi cạnh Thu Bồn Thu Bồn thích quá, sờ ? mồm Thu Ba" 

Rồi ông đủng đĩnh bước ra cửa trước những con mắt ngơ ngác của Thu Bồn. Còn Thu Ba thì thẹn đỏ mặt. Mọi người được một trận cười nghiêng ngửạ 

Sữa Mẹ 

Một chuyện khác, được dân Sài Gòn chuyền nhau với nụ cười ý nhị. Có nhiều nguời quả quyết chuyện dưới đây có thật một trăn phần. Có người khác nghi ngờ đây là một chuyện ngụ ngôn ẩn ý do lòng người dân muốn tìm mọi cách khéo léo bày tỏ thái độ chống lại nhà nước CSVN và quan thầỵ 

Chuyện kể rằng, một lần, Bùi Giáng lang thang ngoài đường phố Sài Gòn. Chợt mọi người tụ lại nói năng chỉ chõ om xòm. Công an hình cảnh được triệu đến. Một cảnh náo nhiệt xảy rạ Mỗi người nói một chuyện, kẻ nói một dàng, không ai rõ chuyện gì. Mãi hồi sau cảnh sát mới hiểu sơ nội vụ và câu lưu đương sự họ Bùi vì bị tố cáo là dã "xâm phạm tiết hạnh" của một nữ du khách người Ngạ Cán bộ hình cảnh lấy cung nghi can: 

'Anh kia, có phải anh đã bóp vú bà Liên Xô kia không? 

Bùi Giáng thản nhiên đáp: 

'Dạ có. 

'Quả thật tội anh rành rành, mà anh không biết xấu hổ. Tại sao anh lại dám làm một chuyện tồi bại ngay giữa ban ngày ban nhật như thế? 

Cán bộ xem xét bà Liên Xô "nạn nhân" với bộ ngực đồ sộ, rô`i nhìn lại thân hình ủ rũ héo úa của thủ phạm. Không giữ được tò mò, hỏi nghi can: 

' Thân thể ốm yếu như anh thì làm gì được, mà cứ đòi mò mâ ~m bà tả vĩ đại thế kiả 

Bùi Giáng lúc lắc cái đầu bù xù tóc rối: 

'Tui đâu dám ham hố gì bả. 

Tui chỉ muốn coi thử cái "vú Liên Xô" nó vĩ đại cỡ nào để xem nó có nuôi nổi dân tộc mình không ! 

--------------------------------------------------------------------------------

Tôi có "hân hạnh" thấy BG 2-3 lần trong đời . 1 lần vào trước 1975, lúc đó tôi khoảng 9-10 tuổi, theo ông anh vào Viện Đại Học Vạn Hạnh Saigon mà BG là 1 giảng viên . Lên phòng ông thấy ông đang đánh cờ với 1 ông bạn trên 1 cái giường . Còn gói xôi ông đang ăn thì nằm bên 1 cái giường khác trong phòng . Thỉnh thoảng giữa 2 nước cờ ông chạy về giường múc miếng xôi ăn . Tôi chỉ thấy mắc cười sao ông không để gói xôi ngay bên cạnh dể vừa ăn vừa dánh cờ . Nhưng dĩ nhiên là không dám hó hé gì, chỉ xớ rớ bên ông anh rồi đi về .

Vài năm sau 1975, trước khi vượt biên tôi gặp ông trong 1 quán càphê . Khi đó ông đã không còn bình thường . Ông ngồi lẩm nhẩm :" Mẹ kiếp ! thà đi lăn lóc như tao còn hơn ngồi coi cái con Kim Cương sạo sự hằng đêm " . Không biết ông có ý nói gì . Hay là ông mỉa mai KC (người mà ông rất si mê) được nhà nước cưng, lúc đó đóng kịch đều đều . Rồi ông múa may 1 chút rồi lại đi đâu mất . Gặp ông 1 lần nữa cũng trong cái trạng thái cuồng sĩ như vậy, dơ dáy, rách rưới, điên hay bất cần đời hay tuyệt vọng với thế nhân, thách đố / đầu hàng với hiện hữu tôi cũng chẳng biết . . Hồi đó tôi đã biết là mời ông vào nhà, cho tiền hay quần áo, thức ăn là điều vớ vẫn với ông mà thôi . 

Thật sự sau này tôi đọc lại và đọc thêm 1 số sách của ông, tôi mới thưởng thức nhiều hơn vì tuổi đã lớn khôn . Đọc 1 đọan văn dịch có phần sáng tác của ông tôi mê mẩn thích thú rồi lại thẫn thờ suy nghĩ . Không hiểu vì sao 1 tấm lòng yêu tha nhân thắm thiết như thế, 1 nhân cách tài hoa lãng mạn như vậy, 1 lối phân tích tỉnh táo có phần trào phúng như vậy mà cuối cùng lại dẫn đến sự tuyệt vọng trong tư tưởng đến độ phát điên (hay bất cần đời đến cực điểm - cũng không khác gì điên) . Sao ông không nghe Trịnh Công Sơn ... Tôi ơi đừng tuyệt vọng ... (Hình như ông đâu thèm nghe TCS . Hình như ông chê TCS . Tôi có nghe nói nhưng mà tôi không tin lắm . Bởi vì nếu vậy thì BG chưa hẳn là thoát tục - Ờ, mà có thể BG không thoát tục, có thể ông tục lụy đến cực đoan thì sao ??? ) 

Tôi để ý thấy ngoài thơ Kiều, BG rất thích thơ Hồ Dzếnh . Câu nào ông gắn vào dịch phẩm của ông cũng đúng chóc . 

Sau khi được cứu trên sa mạc bởi 1 người du mục Trung đông, St Exupery viết trong "Cõi Người Ta" : "Anh hiện ra với chúng tôi trong phong độ lai láng cao vời, và bao dung nhân hậu, như một đấng chí tôn có quyền lực ban cho nước uống . Tất cả bạn hữu của tôi, tất cả kẻ thù của tôi, cùng bước tới bên tôi trong hình hài của anh, và tôi không còn 1 kẻ thù nào ở thế gian nữa cả . " BG kết bằng Hồ Dzếnh : " Ý thiêng choán hết linh hồn . Còn đâu gió nhớ cung buồn mà ca " .

Và đây " Chiều buồn như mối sầu chung . 
Lòng im nghe thoảng tơ trùng chốn xa " . (H Dzếnh)
Khi BG mở đầu cho 1 đoạn tâm sự về Con Người .

Không hoàn toàn sống trong tâm trạng của tác giả, không có cái tài hoa của sự hiểu biết thấu suốt Pháp ngữ thì BG không thể gắn những câu thơ xuất thần như thế trong bản dịch .

Và vẫn làm tôi luôn tự hỏi vì sao ông chọn làm người điên . Vì sao ông chối bỏ cái thế giới này mà đã có lần ông (cùng với tác giả) đã yêu thương rất mực . Không lẽ cái điên của BG chỉ hoàn toàn là bệnh lý ? 

--------------------------------------------------------------------------------
BÙI GIÁNG VÀ NỖI LÒNG TÔ VŨ 

PHẠM XUÂN ĐÀI 

Tôi đọc bài thơ Nỗi Lòng Tô Vũ của Bùi Giáng lần đầu tiên vào thập niên 50, trên tờ Phổ Thông do ông Vũ Quốc Thúc chủ trương, xuất bản tại Hà Nội trước cuộc di cư năm 1954. Tuổi học sinh, đọc là tôi mê bài ấy ngay, nỗi mê gần giống như khi đọc Les Étoiles của Alphonse Daudet, có lẽ với nhiều cảm động hơn. Một bên là chàng chăn dê giữa rừng núi với tình yêu bầy dê của mình, một bên là chàng chăn cừu với mối tình chớm nở với cô con gái ông chủ. Tuổi thanh thiếu niên dễ "bắt" những rung động ấy lắm. Và tôi không ngờ "mối tình" của tôi với Nỗi Lòng Tô Vũ của Bùi Giáng lại dai dẳng đến thế, sau này tôi đã đọc nhiều thơ, văn của anh, đã quen biết anh, nhưng hình ảnh chàng chăn dê trên núi trong một buổi chiều "ước thệ" với những vòng đeo cổ dê và cổ chính mình vẫn ở mãi trong lòng tôi như một vùng trong sáng thuộc vào tuổi trẻ. Tuổi trẻ của tác giả, và sau đấy, của tôị 

Một bài thơ cảm động mô tả việc chăn dê ở vùng đồi núi Quảng Nam và tình yêu bầy dê của tác giả, với các hình ảnh vô cùng nên thợ Nhưng câu đề từ ở đầu bài: Kỷ niệm một đoạn đời 15 năm chăn dê ở núi đồi Trung Việt - Nam Ngãi Bình Phú gây thắc mắc cho nhiều người, trong đó có tôị Trong những dịp gặp Bùi Giáng trước năm 1975 và gần đây, đầu thập niên 90, tôi đều quên nhờ anh giải thích những điều rõ ràng là nói quá lên: về thời gian, không làm gì có chuyện Bùi Giáng đi chăn dê trong 15 năm, về không gian thì cả vùng núi đồi Nam Ngãi Bình Phú là quá lớn đối với địa bàn chăn dê thật của nhà thi sĩ. Bây giờ tôi đành tìm cách giải thích câu ấy một mình vậỵ 

Công việc chăn dê của Bùi Giáng chỉ có vào một thời gian ngắn tại núi đồi huyện Quế Sơn tỉnh Quảng Nam, trong khoảng từ 1945 đến 1952 là năm anh "nhảy đồn" để về thành phố. Câu đề từ trên về thời gian và không gian đều được nới dài và rộng ra, để nhằm gợi một cái gì đấy nhiều hơn là để tường trình một giai đoạn của đời tác giả. "Mười lăm năm" có lẽ được mượn từ đoạn đời trôi nổi của nàng Kiều, một khoảng thời gian trở thành chuẩn mực để chỉ nỗi trắc trở lênh đênh; trong giới văn học, "mười lăm năm lưu lạc" gần như thành một thành ngữ. Và miền núi đồi bốn tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên gợi nên cái không gian Liên khu Năm trong thời kháng chiến chống Pháp mà Bùi Giáng đã đi lại nhiều lần. Thời gian ấy, không gian ấy sẽ hỗ trợ cho không khí và nỗi lòng của chàng Tô Vũ mới, và làm cho mối tình của chàng với bầy dê thấm đượm một màu sắc riêng. Mười lăm năm nói lên một nỗi truân chuyên, mượn số năm lưu lạc của nàng Kiều để chỉ một thời gian ngắn hơn nhiều của đời mình, Bùi Giáng có lẽ đã có tiên cảm về nỗi bất trắc lớn lao của dân tộc trong vòng vây không thoát được của chủ nghĩa cộng sản. Và núi rừng Nam Ngãi Bình Phú là một không gian đặc biệt của thời ấy, lúc phá hết phố phường biệt ly đời gấm hoa, đời sống cả một vùng giai đoạn đầu kháng chiến nhuốm đầy vẻ tươi sáng hào hùng dù rất kham khổ thô sơ, nhưng từ đầu thập niên 50 bắt đầu xuất hiện các vệt đen của đấu tranh giai cấp và việc ép buộc đổ vào một khuôn tất cả mọi sinh hoạt tinh thần, tư tưởng -- cái khuôn mác xít. 

Nỗi lòng Tô Vũ là nỗi lòng của kẻ lưu đàỵ Tô Vũ là một nhân vật bên Tàu thời Hán Vũ Đế, khi đi sứ sang Hung Nô đã bị nước này giữ lại, bắt đi chăn dê trong 19 năm, gọi là Tô Vũ Mục Dương. Bùi Giáng học ở kinh đô Huế, năm 1945 ở vào tuổi 19, đầu óc đang trong cơn khao khát rộng mở đến bao chân trời kiến thức, thì vì thời cuộc phải ngưng học đột ngột, về sống với xóm làng rừng núi quê nhà. Nhưng điều quan trọng là khi cuộc kháng chiến bùng nổ, vùng Nam Ngãi Bình Phú thành biệt lập với thế giới bên ngoàị Một đời sống hoàn toàn tự cấp tự túc, kể cả và nhất là về học thuật, văn hóa, tư tưởng. Thời ấy nền giáo dục của cả Khu Năm chỉ đến hết bậc trung học, muốn học đại học phải ra đến Khu Bốn mới có. Năm 1950 Bùi Giáng thử thời vận một lần với việc học vấn, lên đường đi dọc theo dãy Trường Sơn ra đến Hà Tĩnh để theo học đại học tại đấỵ Nhưng ngay trong buổi khai giảng, sau khi nghe diễn văn của ông Viện trưởng thì Bùi Giáng quyết định bỏ về không học nữạ Bài diễn văn ấy có lẽ đã bắt đầu có dấu hiệu của sự nô dịch dân tộc bằng hệ ý thức mác xít. Bùi Giáng thất vọng. Các dự cảm đang biến thành sự thật. Sau đó ông chỉ còn một con đường là tự biến mình thành Tô Vũ. Đó là sự tự lưu đày trên quê hương, với ý thức rất rõ rằng tư tưởng của mình, đời sống trí tuệ của mình đang bắt đầu bị vây khổn. Cuộc đời chăn dê và hình ảnh bầy dê chỉ là lối thoát mặt nổi của riêng một người, trong một thời mà bao nhiêu dáng vẻ phong phú bay bổng của tinh thần đang dần dần phải đưa hết vào trong một cái rọ. 

Rõ ràng "đoạn đời 15 năm" và "núi đồi Trung Việt Nam Ngãi Bình Phú" là lối nói thậm xưng để thành một loại mật ngôn, nhằm chuyển tải một tâm sự. Ngay cả việc chăn dê cũng chỉ là một cái cớ. Thời gian, không gian, công việc ấy chỉ là các khái niệm tượng trưng, nhờ đó gợi lên những tình ý mông lung hơn về một thời điểm, một nơi chốn và một tình trạng. Nội dung bài thơ chỉ thuần túy nói về việc chăn dê và cái tình của tác giả đối với bầy dê, với hình ảnh, ý tứ và ngôn từ đẹp, nên thơ, độc đáọ Duy chỉ tựa đề bài thơ và nhất là câu đề từ hơi lạ, khiến người đọc suy nghĩ, và tìm cách đưa ra một giải thích. Nhưng đó là một mấu chốt không thể không giải của bài thơ Nỗi Lòng Tô Vũ. 

----------------------------------------------------------------------------------

ANH GIÁNG 

BÙI VĂN NAM SƠN 

Anh Giáng là sao Văn Khúc "hạ giáng" vào cửa họ Bùi ta chăng? Là một Thi Quỷ hay Thi Tiên có một không hai trong nền văn Dân tộc? Là một bậc La Hán tự phát nguyện trở thành xác thịt để khóc cười an ủi chúng sinh? Khen hay chê, thích hay không, Anh vẫn thuộc vào loại thiên tài không định nghĩa được (génie indéfinissable) làm bằng một thứ nguyên liệu rất hiếm, là một giống chim lạ rất dễ tuyệt chủng mà Trời Đất -- không nỡ làm đứt mạch văn, làm cạn nòi tình -- lâu lâu lại cho phục sinh một lần. Thứ nguyên liệu ấy rất nhẹ đồng cân nên ít bám bụi, lung linh sương bóng ( hốt hề hoảng hề ), khó nắm bắt mà lại cũng rất kềnh càng "quá cỡ thợ mộc," nếu ta không chịu khó gắng sức lên một tí thì không đo lường được: 

Hỏi tên, rằng biển xanh dâu 

Hỏi quê, rằng mộng ban đầu đã xa; 

Gọi tên, rằng một hai ba... 

Đếm là diệu tưởng, đo là nghi tâm! 

(Trích từ bài "Vài nét về Bùi Giáng") 

BÊN LINH CỬU THI SĨ BÙI GIÁNG 

Hai ngày 8 và 9 tháng Mười 1998, đông đảo văn nghệ sĩ, các nhà hoạt động văn hóa, bạn hữu và những người mến mộ đã đến viếng linh cữu thi sĩ Bùi Giáng quàn tại Nhà tang lễ chùa Vĩnh Nghiêm ở Sài Gòn. 

Liễn thờ thi sĩ do Bùi tộc Vĩnh Trinh và gia đình soạn, ghi: LÔ HỎA THUẦN THANH (Lửa lò xanh biếc), với câu: 

Tái tửu thân du Hoan Hỷ địa 

Thao bút thi thành Phương Ngoại thiên 

(Quảy rượu thân chơi miền Hoan Hỷ 

Múa bút thành thơ chốn Ngoại Thiên) 

Bên linh cữu treo hai câu của các môn đệ khóc: 

Mưa gió ngàn thu rớt hột về thăm dăm gái núi 

Lá hoa mấy độ bãi cồn vương vấn trận mưa nguồn 

Nhà thơ Tường Linh, người đồng hương, đã viết vào sổ tang: 

Bùi huynh! Trung Phước đợi anh về 

Đồi cũ mong người thuở giữ dê 

Đến thời tụng kinh trưa ngày 9/10, người ta thấy có mặt nghệ sĩ Kim Cương, người mà trung niên thi sĩ Bùi Giáng chép tặng bài Sầu ca sĩ trong cuốn Đường đi trong rừng, và thường xuyên nhắc lại với hai tiếng "mẫu thân." Bên thềm chùa, gợi hỏi: 

* Thưa, trong những "ngày tháng ngao du" thi sĩ Bùi Giáng có gặp chị năm nàỏ 

Kim Cương: Trong một đám cưới của người bạn cách đây hơn 40 năm. 

* Từ đó đến nay, qua gặp gỡ, chị có thể vui lòng cho biết vài cảm nhận về dịch giả Cõi Người Tả 

Kim Cương: Tôi may mắn được thi sĩ Bùi Giáng nhắc đến trong thơ và ngoài đường lang thang. Một khuya đã lâu lắm rồi, chừng hơn 25 năm trước, anh đập cửa nhà tôi và hét: "Mẫu thân, mở cửa!" Tôi hỏi anh Giáng ở đâu về mà bơ phờ vậỵ Anh bảo ở nhà thương Biên Hòa, khi không có một Bồ Tát hiện tới bảo anh phải về Sài Gòn gấp để nhờ "mẫu thân" Kim Cương bảo lãnh mới "an toàn hiện sinh sinh hiện." Tôi nói không dám nhận mấy tiếng "mẫu thân." Về sau anh quát: "Đồ phàm phu tục tử như ái khanh một triệu năm sau chưa hiểu thấu tình yêu của trẫm!" Tôi chỉ cười và kính anh là tài hoa muôn một.

Ngày khác, anh Giáng đến mặc bộ đồ nhiều màu, vai deo lủng lẳng mấy lon sữa bò rỗng. Con tôi thấy vậy thiệt thà nói: "Trông bác Giáng cứ như một chiếc xe hoa dzậỵ" Tôi bảo không phải dzậy: "Bác Giáng là nhân tài đất nước, không lấy bề ngoài mà nói lung tung được." Cách đây bốn, năm tháng tôi có mua mấy bộ đồ đem đến nhà anh ở Gò Vấp. Rất cảm động, trong các đồ liệm theo anh có bộ đồ của tôi...
Thử phác họa đôi nét về cõi thơ Bùi Giáng
Một ngôi văn tinh kỳ, lạ lùng, quái đản vừa rụng trên bầu trời văn học. Chỉ cần nói như vậy thì có lẽ bất cứ ai cũng biết ngay là thi sĩ Bùi Giáng vừa qua đời. 
Trong vòng nửa thế kỷ vừa qua, chưa có một nhà thơ nào tạo được một bóng dáng lồng lộng trên vòm trời thơ như Bùi Giáng. Ông làm thơ, viết văn, bình luận về văn học, triết học, chuyển dịch nhiều tác phẩm văn chương của thế giới sang Việt ngữ. Tất cả đều theo một thể điệu riêng biệt của ông. Văn nghiệp của Bùi Giáng vô cùng đồ sộ. Nội chuyện làm một bảng thư mục Bùi Giáng cũng đòi hỏi chúng ta mất nhiều thì giờ và công phu lắm, chứ chưa nói đến vấn đề gì khác. 
Bùi Giáng có một sức đọc và viết vô cùng kinh khủng. Viết liên tu bất tận, ngưng viết thì đọc, ngưng đọc thì viết. Đọc sách Tây, sách Tàu, Đức ngữ, Anh ngữ, Pháp ngữ. Cái lạ lùng vô cùng quí báu mà Bùi Giáng mang lại cho chúng ta chính là sự uyên bác, tài hoa, thâm trầm, bí ẩn của ông, tất cả đều nhào biến một cách vô cùng tự nhiên rồi hiện ra trong một vẻ giản dị tài tình của một tâm hồn và ngôn ngữ Việt. Trước bế tắc tư tưởng của phương Tây cùng sự tràn lan của chủ nghĩa hư vô, ông đã trở về với ngọn nguồn phương đông nhất thể, trở lại với cái hài hoà của đạo tự nhiên, đạo vũ trụ, mộc mạc, sơ nguyên, ẩn mật nơi tư tưởng Trang, Lão, Thiền, để nối kết những phân ly nứt rạn càng lúc càng vô cùng trầm trọng. Ông gom hết mọi chuyện lại rồi đưa đẩy tuôn trào thành một chuyển động tư tưởng bát ngát, một dòng thơ yêu kiều, thâm thuý. 
Tư tưởng và chất thơ cổ kim đông tây tuôn chảy qua tâm hồn Bùi Giáng, biểu hiện thành một dòng thơ độc đáo và tuyệt vời nhất mực. Tinh thể thi ca di động qua một vài đỉnh núi chon von cô độc như Nguyễn Du, Holderlin Heidegger, Nietzche, càng bát ngát hơn khi chuyển động qua hồn thơ mênh mông của Bùi Giáng. Mỗi chữ, mỗi lời, từng câu từng tiếng đều là thơ. Lời nói thiệt với tinh thể của ngôn ngữ là thơ, mà lời nói dỡn chơi duới chiếc áo dùng dằng của ngôn ngữ cũng là thơ. Đi, đứng, nằm, ngồi, cười khóc, vui đùa đều là thơ. Lúc không điên là thơ, mà lúc điên vẫn cứ là thơ. Đi cho tới cùng cái sâu thẳm nhất của ngôn ngữ, tới đỉnh cao chót vót của nó, sống với nó trong từng mỗi giây phút, trong từng mỗi sát na, xưa nay có lẽ mới chỉ mới có Bùi Giáng là một. 
Từ Nguyễn Du đến Bùi Giáng, đường bay của thơ thực là kỳ diệu, mênh mông, vô lượng. Ông là chiếc bóng của Nguyễn Du, hay chính ông đã đẩy Nguyễn Du đến tận cùng thể tính của thi ca, làm lồng lộng, chất ngất một hồn thơ nước Việt. 
Sống với thơ, giỡn chơi với ngôn ngữ để tạo nên thơ. Chữ nghĩa của Bùi Giáng lúc nào cũng có một điều gì đó rất dị thường. Ông chỉ cần sắp đặt những đề tựa từ mục lục một tập thơ của một tác giả khác thì đã mang lại cho chúng ta một bài thơ tuyệt đẹp. Nhưng sắp đặt và xô đẩy chữ nghĩa phải là theo cách của ông, chớ không thể của người nào khác được. Hay ông ngắt câu, ngắt đoạn từ một bài thơ lục bát của một người làm thơ khác, biến đổi hình thức thành một bài thơ tự do, tức thời bài thơ ấy sẽ trở nên vô cùng kỳ dị và đẹp đẽ lạ lùng. Rất nhiều người làm thơ đã biến đổi thể thơ lục bát 6/8 thành 3/3/2/6, 4/2/6/2, hay 2/4/8, hay 6/4/4, hay còn biến đổi nhiều hơn nữa thành 1/2/3/2/2/2/2 thì có lẽ là đều bắt nguồn từ cách giỡn chơi của Bùi Giáng. 
Cuộc đời Bùi Giáng và thơ của ông, ngay từ bước khởi đầu dường như đã có nhiều điều bất thường : 

Lỡ từ lạc bước chân ra 
Chết từ sơ ngộ màu hoa cuối cùng

Gần đây, thân nhân Bùi Giáng xuất bản tập thơ "Chớp Biển", kỷ niệm Bùi Giáng vừa đúng 70 tuổi, giúp cho chúng ta nhiều dữ kiện để hiểu biết ông hơn. Hiểu một tác giả qua cuộc đời và hoàn cảnh sống của tác giả ấy như phương pháp phê bình của Saint Beuve vẫn còn là một trong những cách thẩm thấu với văn chương rất thông tình đạt lý. Bà Bùi Giáng qua đời cách đây hơn nửa thế kỷ, cảnh ly tan đó đã xô đẩy Bùi Giáng đến những đổ vỡ cùng cực. Bóng dáng người nữ ám ảnh ông suốt đời, để rồi từ đó ông sẽ nghiệm ra được một cách vô cùng sâu thẳm về tính nữ, về nguyên lý mẹ. Nói như Nguyễn Xuân Hoàng, ai cũng cần một bà mẹ. Bà mẹ đó cũng thể hiện ra trong một bóng dáng khác là người chị, cô em gái nhỏ hay chính là đứa con gái của mình. Tất cả cái thiêng liêng và tục luỵ của mẫu người nữ đã biến hiện chập chùng qua hình ảnh người vợ, để rồi chuyển động nhiều hơn mà trở thành bà mẹ uyên nguyên của đất trời. 
Nhiều lúc ông kể lể nghiêm trang, đạo mạo, có lúc lại đùa giỡn, cười cợt với hình bóng các mẫu thân, tuy vẫn có pha đôi chút ngậm ngùi : 

Mẹ về trong cõi người ta 
Một hôm mẹ gọi con ra bảo rằng 
Trần gian vui sướng lắm chăng ? 
Hay là đau khổ hỡi thằng chiêm bao.

Giữa những vần thơ điên của ông, đôi lúc chúng ta sẽ tìm thấy những câu thơ vô cùng kỳ diệu nói về bà mẹ thiêng liêng ấy, tất cả đều như rạo rực, sinh sôi, triển nở. 

Một hôm nào em mở cửa đầu khe 
Và bữa đó đến bây giờ cỏ rạ 
Thi nhau mọc mặt trời lên lả tả 
Bông lúa chín trong rừng kêu tiếng lá 
Chóc chim xanh đòi đẻ trứng bây giờ.

Nhắc đến các hình ảnh mẫu thân của Bùi Giáng, tôi cũng muốn nhân đây chép thêm mấy câu thơ rất đẹp của ông về cô em gái nhỏ, mà đọc lên hẳn rằng chúng ta dễ liên tưởng ít nhiều đến người vợ cũ năm xưa đã chia lìa với ông quá sớm, khi họ vừa mới cùng nhau bước chân vào đời. Dĩ nhiên, cô em gái nhỏ ấy cũng có thể là một trong những người nữ Bùi Giáng tiếp tục gặp về sau : 

Em là em anh đợi khắp nẻo đường 
Em có nụ cười buồn buồn mây mọng 
Em có làn mi khép lá cây rung 
Em có đôi mắt như sầu xanh soi bóng 
Hồ gương ơi ! sao sóng lục vô chừng ! 
(. . . ) 
Em ở lại với đời ta em nhé 
Em đừng đi cho ta nắm tay em 
Ta muốn nói bằng thơ bay nhẹ nhẹ 
Vào trong mơ em mộng giấc êm đềm 
Ta sẽ đặt mười ngón tay lên mắt 
Để nhìn em qua khe hở du dương 
Vòng theo máu hai vòng tay khép chặt 
ồ thưa em ta thấy mộng không thường .

Cái tang bà Bùi Giáng đóng đinh suốt đời ông. Rồi cùng lúc, ông gặp nhiều điều bất ưng ý giữa một thời đại mà bạo lực là phương tiện hàng đầu của con người. 
Thời kháng chiến, ông đi chăn bò giữa những đồi sim ở một vùng rừng núi nào đó giữa miền Trung đất nước, để tự thấy mình là một thứ Tô Vũ của thời đại. Ông kết những vòng hoa dại đeo vào cổ bò, cổ dê, và đùa giỡn suốt ngày với đàn thú hiền từ. Cho mình là Tô Vũ, có lẽ đó cũng là một cách Bùi Giáng nói cho chúng ta biết ông là người bị lưu đày ngay chính nơi quê nhà của mình chứ không cần biệt xứ nơi đâu. Sau này, thỉnh thoảng ông cũng nhẹ nhàng vẽ lại cho chúng ta thấy đôi chút cảnh quan rùng rợn, tang thương của những ngày ấy : 

Hãi hùng bi kịch đồi tranh 
Trùng quan vó ngựa tế nhanh trong mù 
Thây người ở nát phía sau 
Nghìn thu khép mắt khổ đau khôn hàn .

Rồi hòa bình được lập lại, nhưng Bùi Giáng không còn thể nào trở lại sống cuộc đời bình thường như chúng ta nữa. Những chấn động dữ dội của thời tuổi trẻ đã góp phần dồn đẩy ông tới bờ vực chon von. Định mệnh đã chọn ông là một thiên tài điên của của dân tộc, đẩy ông bước chân theo Nguyễn Du, để ông kết bạn với Gérard de Nerval, Saint Exupéry, Khuất Nguyên, Tô Đông Pha, Apollinaire, André Gide, Camus, René Char, để đôi khi nghiêm trang đàm đạo với Khổng Tử, Heraclite, Parménide để sống cuộc đời quỉ khốc thần sầu của một cuồng sĩ ngoài chợ, và tuyệt vời nhất vẫn là viết để lại cho đất nước những dòng thơ kỳ diệu độc nhất vô nhị. 
Cuộc đời Bùi Giáng và thơ Bùi Giáng chỉ còn chập chùng lên nhau giữa những giấc chiêm bao, phù du, mộng mị. Ông sống ở đời lúc tỉnh lúc điên : lúc tỉnh đã là chiêm bao nhưng lúc điên thì càng là chiêm bao quá cỡ. Trước năm 75, thỉnh thoảng ông mới lên cơn điên nhưng sau năm 75 cơn điên kéo dài lâu quá. Bà Irina, một phụ nữ Nga có nhiều liên hệ thân thiết với Việt Nam, khi gặp Bùi Giáng đã lặng lẽ tuôn chảy những dòng lệ nóng hổi cho một thiên tài mà bà nhìn thấy như hình bóng một Diogène thời đại, cầm cây đuốc đi giữa ban ngày để tìm chân lý. Chân lý đã bị khuất lấp cả hai mươi thế kỷ rồi, chứ phải đâu chỉ là những ngày trước mắt. Vậy nên, nơi chiếc bàn viết lữ thứ, khi cầm bút viết lại để sống đời của một nhà văn lưu vong, Mai Thảo nhắc đến Bùi Giáng, phác thảo đôi nét về Bùi Giáng rất hay, sống động và tài tình, nhưng tôi cho là Mai Thảo rất nhầm lẫn khi qui tội điên của Bùi Giáng cho những nguyên nhân thời đại : 

Và ở Sài Gòn vẫn còn Bùi Giáng 
Tối tối về chùa đêm làm thơ 
Ngày ca múa khóc cười giữa chợ 
Kẻ sĩ điên thế kỷ mù rồi . 
(Mai Thảo, Viết văn trở lại)

Hãy thử đọc lại vài câu thơ sau của Bùi Giáng tự nói về mình. Ông gần như luôn sống giữa một lớp sương mù dày đặc của những giấc mộng chồng chất. Ông sống như một ông đạo, như một trích tiên, như ma quỉ hay như một đứa trẻ hồn nhiên, ngây thơ đến cùng cực : 

Đi về với gió phù du 
Mở trang mộng mị cho mù sa bay . 

Quê nhà chỉ còn là giấc mộng đã qua, thân thế cũng chỉ là một nỗi đời hư huyễn : 

Hỏi tên, rằng biển xanh dâu 
Hỏi quê, rằng mộng ban đầu đã xa 
Gọi tên, rằng một hai ba 
Đếm là diệu tưởng, đo là nghi tâm !

Ông đã tự hỏi và rồi tự đáp về tên tuổi và quê hương thực của mình : 

Hỏi tên ? - Cổ lục phong trần 
Hỏi quê ? - Mộng tưởng tiền trình bơ vơ

Ông luôn lập đi lập lại ý tưởng ấy khi có dịp : 

Hỗn mang về giữa hiên nhà 
Bây giờ cố quận tên là chiêm bao

Cái thế giới chiêm bao mộng mị ấy, có lúc ông chợp bắt được thành những câu thơ rất đẹp : 

Ta đã gọi chiêm bao về mộng mị 
Chắp ân tình cho nghĩa rộng tinh sương 
Về tuế nguyệt bước ngao du tận mỵ 
Người có nghe tang hải réo vô thường ? 

Sống và mơ mộng giữa thế giới đó, ông vác cần câu đi câu con cá hư vô ngoài biển đông : 

Tôi làm Nam Hải Điếu đồ 
Ngồi câu con cá hư vô giữa trời

Ông yêu mến, quí trọng từng đốm nhỏ li ti của trời đất và sự sống, từng cây cỏ dại, từng cánh bướm, cánh chuồn chuồn : 

Xin yêu mãi và yêu nhau mãi mãi 
Trần gian ôi ! Cánh bướm cánh chuồn chuồn 
Con kiến bé cùng hoa hoang cỏ dại 
Con vi trùng cùng sâu bọ cũng yêu luôn.

Khi tỉnh táo mà viết được Tôi nói điệu điên rồ / ấy là vui vậy thì quả là ông đã thoát ra khỏi mọi phiền trược của cuộc đời, chẳng còn câu chấp gì cả, ông sống hoan hỉ như một đứa trẻ với một nguồn thơ tinh khôi, hồn nhiên, đầy hoan lạc. 
Đọc thơ Bùi Giáng để cảm cái tình và cái ý của nó, để sống cái thâm diệu của tư tưởng đã hé mở và như luôn hứa hẹn một cõi mênh mông bát ngát dị thường sau đó. Đọc thơ ông cũng là để thưởng thức chữ dùng cực kỳ tài tình của ông. Có những chữ rất thông tục, tầm thường, nhiều khi chúng ta không muốn sử dụng vì không được nhã, nghe hơi nặng tai. Vậy mà khi những chữ ấy rớt vào tay họ Bùi, không cần tỉa gọt trau chuốt gì cả, chỉ xô đẩy tự nhiên như hít vào thở ra, thì nó sẽ trở thành thơ. Hãy đọc thử bốn câu thơ sau, chúng ta sẽ thấy ngay cái tài hoa lạ lùng của Bùi Giáng khi biến đổi một chữ tầm thường thành chữ của thơ như thế nào. Ông phả vào chữ cái tài hoa ẩn mật của hồn thơ để mang lại cho nó một sức mạnh vô cùng kỳ bí : 

Người con gái lội qua khe 
Bàn chân với nước lạnh đè lên nhau 
Nỗi niềm tưởng lại xưa sau 
Bàn chân với nước cùng nhau lại đè .

Chữ khe, rồi lại chữ đè thực là đắc địa. Dùng chữ đến như vậy thì không còn là viết văn, làm thơ nữa, mà là thợ trời của chữ. Ngay khi ông lên cơn điên, nhưng chưa điên quá độ, mà mới chỉ trôi nổi giữa những cơn điên nhẹ, ông cũng mang lại cho chúng ta những câu vần vè quàng xiên rất vui vẻ. Nhớ lại những ngày đi chăn bò chăn dê giữa núi rừng, thời trai trẻ rồi liên kết với việc làm thơ và một số hình ảnh khác, tức thời những hình ảnh và các con chữ sẽ xô đẩy nhau. Ông viết mấy dòng sau, như một bức tranh của trẻ con vẽ, không đầu không đũa, không luật tắc, thấy và thích gì thì cứ quẹt bừa, cứ bôi bác bừa những vệt màu đường nét, vậy mà sẽ mang lại cho người xem nhiều điều lý thú : 

Làm thơ như thể chăn trâu 
Chăn bò, chăn ngựa ngõ hầu chăn dê 
Chăn hùm thiêng mệt chán chê, 
Chăn beo, chăn gấu, nghiệp nghề chăn voi.

Đi vào cõi thơ Bùi Giáng, bên những cơn điên dài của ông, giữa những cơn chiêm bao mộng mị, đôi lúc thấy ông điên vậy mà nhìn kỹ lại thì ông chẳng điên chút nào. Vậy nên, có nhiều người cho là Bùi Giáng không điên, như Viên Linh cho rằng ông chỉ chọn một thái độ sống như vậy mà thôi. Trước thế giới Bùi Giáng, chúng ta như đứng nơi một ngã ba đường, hay giữa những lối mòn trong rừng thẳm mà cần phải chọn một hướng đi, mỗi người phải tự định hướng cho riêng mình. 
Riêng tôi, lúc nào tôi cũng thấy Bùi Giáng là một thiên tài điên. Điên nhưng rất hiền hoà, rất thơ mộng, điên như thánh. Giữa những cơn điên kéo dài lâu quá, ông như không còn phân biệt cái thực và hư. Có một bữa, ông đòi tôi chở về một căn nhà nào đó bên miệt Phú Nhuận để ông cho vịt ăn, vì nhiều ngày quá rồi ông chưa trở về chắc là vịt đói lắm. Trên căn gác tôi đưa ông về, ông rào một chuồng vịt khoảng mấy thước vuông ông ném gạo cho vịt ăn, nói nói cười cười rất hoan hỉ, nhưng đàn vịt ấy chỉ toàn là một bầy vịt bông nhựa. Trước năm 75, tôi gặp ông rất thường vì mỗi buổi chiều rảnh rỗi tôi thường ghé Đại học Vạn Hạnh viếng thăm thầy Tuệ sĩ rồi cũng tạt qua thăm ông. Lúc nào cũng thấy ông làm việc, nằm ở một góc nhà, chung quanh đầy sách vở, đọc đọc chép chép không ngừng nghỉ. Ngoài những cơn cuồng, Bùi Giáng rất lặng lẽ, ghét chuyện thị phi, tranh chấp ô trọc. Tôi còn nhớ khoảng năm 1971, tuần báo Tìm Hiểu của cô Phan Lâm Hương (con gái út cụ Phan Huy Quát) có thực hiện một cuộc nói chuyện với Bùi Giáng rất hay và nghiêm trang, có thể giúp cho người đọc chia sẻ được nhiều điều với Bùi Giáng. Nhưng sau đó thì có vấn đề, vì bài báo ấy mà một thi sĩ khác, cũng là loại cô phong đỉnh của vòm thơ Việt Nam hiện đại, gây hấn với Bùi Giáng quá cỡ. Bùi Giáng sau đó rất sợ mấy nhà báo. Ông than phiền hoài, cho rằng mấy ông làm báo đã kéo Bùi Giáng vào việc thị phi ở đời, từ đó ông không còn muốn gặp mấy người ký giả, viết báo thường thích gây chuyện chộn rộn ở đời. 
Bùi Giáng tránh né chuyện thị phi, và ông rất ghét bạo lực, bạo động, bạo quyền. Hơn 25 năm trước, tôi thấy ông nuôi một đàn chó nhỏ, đi đâu cũng dẫn theo làm chúng sủa vang các hẻm đường, có lúc ông cho hết vào bao bố và vác trên vai làm chúng cũng muốn ngất ngư, ngộp thở, chỉ còn kêu hục hục trong bao. Có lần ông để quên đàn chó ở nhà bà Bé Ký cả tuần lễ làm Bé Ký phải nuôi ăn và chăm sóc rất mệt, hở tay ra là chúng sủa vang nhà không ai chịu nổi. Đàn chó này, mỗi con đều có tên, và tôi rất kinh hoàng thấy ông gọi con chó xấu xí, nhếch nhác nhất trong đám bông tên nhân vật số một của lịch sử hiện đại. Và sau năm 75, chẳng lạ gì khi mà cứ những chỗ đông người, chợ búa xô bồ, cuồng sĩ họ Bùi thường đứng diễn thuyết, hùng hồn kể tội cụ Hồ Chí Minh và dàn cầm quyền chóp đỉnh hiện nay. 
Tôi cũng còn nhớ, có lần nói chuyện với ông, tôi mới chỉ lỡ lời nhắc đến các nhà nho cách mạng đất Quảng, hai cụ Phan Tây Hồ, Huỳnh Thúc Kháng, thì ông tức giận rồi lên cơn điên ngay, chộp lấy cổ áo tôi, gần như muốn xô tôi xuống từ lầu ba trường Vạn Hạnh. 
Qua mấy chuyện nhỏ này, tôi cảm thấy rằng, Bùi Giáng chỉ muốn sống với mọi người trong một thế giới hài hoà, an lạc. Đua tranh rồi bạo động chỉ là mầm mống của phân ly, mất quân bình và rối loạn. Ông yêu thích cuộc sống lặng lẽ tự nhiên, như một đôi lần tôi thấy ông len lén chào mấy người đệ tử của ông Đạo Dừa với một vẻ hỉ hoan bất tận bộc lộ ra trên khuôn mặt. Ông chào rất kính cẩn mấy ông đạo này, những người đã tự phát nguyện tịnh khẩu vài ba năm, có người quyết tịnh khẩu cho đến khi nào hoà bình được lập lại mới sẽ mở miệng, cất tiếng với đời. 
Bên trên là vài giai thoại về Bùi Giáng bởi vì đề cập dến Bùi Giáng mà không nhắc qua các giai thoại dính dáng đến ông thì quả là thiếu sót. Mới đây, trên Việt Báo Kinh Tế số ra ngày 17 tháng 10 năm 1998, ông La Toàn Vinh, cựu sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định nhắc lại vài hình ảnh Bùi Giáng mà ông bắt gặp ở Sài Gòn trước đây, đọc rất vui. Đọc đến chỗ khi Xuân Diệu diễn thuyết trong khuôn viên Trường Mỹ Thuật, ông đi tới đi lui ngoài cổng trường và chửi đổng : " Mẹ mày Xuân Diệu... Mẹ mày Xuân Diệu... ", tôi phải cười phì và nhớ ngay đến dáng đi, điệu nói, tiếng cười của ông. 
Có thể không cần đọc Bùi Giáng, mà chỉ cần nghe những giai thoại về ông thì cũng đủ để sống được chất thơ và đời thơ của Bùi Giáng. Những giai thoại như thế, nếu cất công đi ghi chép lại nơi bạn hữu, thân nhân của Bùi Giáng và trên khắp đường phố Sài Gòn thì có lẽ chúng ta sẽ có cả một quyển sách dày như tự điển, góp phần phong phú đời sống văn học đất nước trước mắt và cho cả mai sau. 
Chúng ta vừa đi qua một vài nơi giữa khu vườn bát ngát mênh mông của cõi thơ Bùi Giáng. Khi viết bài này, tôi rất tiếc là không có trong tay tài liệu gì về Bùi Giáng, chỉ đành nhặt nhạnh mấy câu thơ nơi các bài báo gần đây, tuy nhiên cũng hi vọng là đã vẽ phác được đôi nét về ông, làm sống lại đôi chút hình ảnh một thiên tài của dân tộc. 
Bùi Giáng là thiên tài nhưng là một nhà thơ điên, vì vậy ông viết quàng xiên nhiều quá. Nhưng cũng chẳng hề gì, mấy ngàn trang sách của ông chỉ cần lọc lại thành một tập thơ nhỏ, rồi với tập thơ ấy chỉ cần tinh lọc thêm một lần nữa để chỉ còn lại chừng mươi bài, thì với mươi bài thơ ấy ông cũng đã là một nhà thơ lớn bậc nhất của thời hiện đại, một vì sao lấp lánh rạng rỡ hoài trên vòm trời thơ của dân tộc Việt. 

Huỳnh Hữu Uỷ 
( Viết xong ở gác nhỏ đường Hồ TâyThành phố Vườn, ngày 19.10.1998 )

oOo

Tái bút : Bài viết trên đây đã gửi đi để kịp chuẩn bị sắp chữ và lên khuôn thì tình cờ tôi vừa tìm lại được tờ Tạp chí Thơ số ra mắt vào mùa Xuân 1994 có in một bài viết rất hay của Thanh Tâm Tuyền về Bùi Giáng cùng với hai bài thơ của Bùi Giáng. Tôi chẳng thể nào không viết thêm mấy dòng tái bút này, dù biết có làm phiền hà toà soạn trong việc sắp xếp lại trang báo trước khi đưa đi in, để trích lại ở đây một đoạn văn của Bùi Giáng mà Thanh Tâm Tuyền đã trích dẫn cùng một bài thơ của Bùi Giáng mà Tạp chí Thơ đã chọn để in lại. 

Đây là bài thơ Bao giờ của Bùi Giáng : 

Bằng bút chì đen 
tôi chép bài thơ 
trên tường vôi trắng 
Bằng bút chì trắng 
tôi chép bài thơ 
trên lá lục hồng 
Bằng cục than hồng 
tôi đốt bài thơ 
từng giờ từng phút 
Tôi cười tôi khóc bâng quơ 
Người nghe người khóc có ngờ chi không. 

Quả là một bài thơ tuyệt đẹp với những hình ảnh tự động xô đẩy đuổi bắt nhau. Những hình ảnh chuyển động trên một đường biên của hữu thức và vô thức. ảnh tượng và sắc màu rất cụ thể mà rõ ràng là vô thực và đầy mộng mị. Tất cả là để dẫn đến một dấu hỏi về cuộc đời và ý nghĩa nhân sinh, đầy khúc mắc mà nhẹ nhàng, tế nhị, và vô cùng bao dung. Có thể nói đó là một bài thơ siêu thực hiện đại mà vẫn chứa chất một cái hồn cổ kính thơ mộng. 
Và đây là mấy ý kiến về thơ của Bùi Giáng mà Thanh Tâm Tuyền đã dẫn : 

"Thơ là một cái gì không thể bàn tới, không thể dịch, diễn thì được. Người ta có thể diễn tả một trận mưa rào bằng lời thơ. Thì có lẽ muốn diễn tả một bài thơ, người ta chỉ có thể phát động một trận mưa rào, hoặc một cơn gió thu. Mà muốn thực hiện sự đó, thì ngoài việc làm thơ ra, con người không còn phép gì khác. Thế có nghĩa là muốn bàn tới thơ, diễn dịch thơ, người ta chỉ có thể làm một bài thơ khác. 

Người xưa am hiểu sự đó, nên họ chỉ vịnh thơ, chứ không điên rồ mà bàn luận về thơ. Người đời nay trái lại, họ buộc phải luận thơ có mạch lạc luận lý, không được "bốc đồng", vịnh lăng nhăng. Cái chỗ ngu si đó là điều bất khả tư nghị vậy. 

Thơ tôi làm chỉ là một cách dìu ba đào về chân trời khác. Đi vào giữa trung tâm bão dông một lúc thì lập thời xô ngôn ngữ thoát ra, phá vòng vây áp bức. Tôi gạ gẫm với châu chấu, chuồn chuồn, đem phó thác thảm hoạ trần gian cho chuồn chuồn mang trên cánh bay đi. Bay về Tử Trúc Lâm, bay về Sương Hy Lạp, ghé Calvaire viếng một vong hồn bát ngát, rồi quay về đồng ruộng làm mục tử chăn trâu.... Trong chiêm bao thơ về lãng đãng thì từ đó vần bất tuyệt cũng lãng đãng chiêm bao." 

Có lẽ chưa từng có ai bàn về thơ với giọng điệu dị thường như vậy. Ông đã mở ra một cõi mênh mông, thăm thẳm cho thơ, và mời gọi người ta bước vào. Và tôi hết sức đồng ý cũng như thích thú với mấy lời của Thanh Tâm Tuyền : 

"Đừng có nghĩ, hãy buông mặc theo ông, như ông đã từng buông mặc trong trận đồ kẻ trước. Ông luôn luôn nhắc nhở nơi ông là những bóng vang ai khác. và ta hãy là bóng vang của ông". 

Xin cảm ơn thi sĩ Thanh Tâm Tuyền, chỉ với bài viết Bùi Giáng, một hồn thơ bị vây khốn rất ngắn của ông, đã soi sáng cho tôi nhiều điều về cái sâu thẳm không cùng của nhà thơ Bùi Giáng. Vậy thì, hãy bước vào cõi thơ Bùi Giáng bằng cách trút bỏ tất cả hệ luỵ, vứt bỏ cả những phân tích, phê bình, lý luận để mà hít thở và mơ mộng cùng ông, để phiêu bồng cùng ông qua những chân trời không cùng

Huỳnh Hữu Uỷ .
Bùi Giáng - Những giai thoại tiêu biểu

Cung Tích Biền
Vừa qua, Trung tâm Văn hóa Đông Tây ra mắt cuốn sách Bùi Giáng- trong cõi người ta, còn có cuốn Bùi Giáng 99 giai thoại. Đây là bài viết trong tập giới thiệu sách. Thấy thú vị, xin post lên cho bạn đọc tham khảo. Cũng để hiểu thêm về một thi nhân, một con người. VCN 
Ðã có rất nhiều giai thoại, huyền thoại về ông; vô số được thế gian tô bồi sau này, khó minh xác thực hư. Xin lai rai vài chuyện tiêu biểu.
Chuyện thứ nhất. Xưa kia ở Quảng Nam, quê chúng tôi, người ta kể rằng khi còn trẻ Bùi Giáng đã có vợ. Vợ sớm qua đời.  Hôm tẩm liệm, ông nhờ người hàng xóm làm thịt 21 con gà. Ông thành tâm bỏ thịt con gà còn sống vào quan tài tẩm liệm người vợ thân yêu. Họ hàng thấy quái. Bèn can ngăn. Ông bảo: “Vợ tôi ưa ăn thịt gà, nay có thể lên thiên đường hoặc xuống địa phủ chi đó, thịt gà đâu ăn”. Câu chuyện trên là hoàn toàn khó tin. Bịa đặt, phao tin đồn nhảm, gia đình người ta kiện cho. Nhưng cái tuyệt hảo ở đây là người đời rất đỗi yêu ông, giai thoại trên như phóng họa phần nào những quái ảnh kỳ tâm nơi một Bùi Giáng lắm điều xem ra bất khả tư nghị. 
Bà đi thể điệu bước ra/ Tay khăn tay áo là hoa thêu thùa/ Bà về cỏ rậm dậu thưa/ Đêm tàn cấm nguyệt chiều trưa lâm tuyền.
Chuyện thứ hai. Vào đầu thập niên sáu mươi có lúc ông đi dạy Việt văn ở trường trung học tỉnh lỵ. Một hôm giảng Truyện Kiều, đến chỗ nàng Kiều phải hồng trần lưu lạc, thầy Giáng khóc òa. Khóc vỡ tan. Nhảy phóc qua cửa sổ lớp học, băng bộ ra bến xe, về Sài Gòn. Học trò nam nữ ngồi chờ mãi, tưởng thầy đi đâu đó sẽ trở lại. Trên bàn sách vở, bao thuốc lá hãy còn. Hóa ra thầy “bay” luôn, bỏ lớp bỏ trường, bỏ cả tỉnh lỵ nhiều năm sau. Hỏi hà cớ. Thầy ngậm ngùi nói mần răng trở lại nơi Em Kiều đã một lần hy sinh cho cái trò chơi nhân gian kỳ ảo chỗ liên tồn.
Nguyễn Du xưa kia đã một lần than thở “Ðịa địa xứ xứ giai Mịch La” (Trên mặt đất này đâu đâu cũng là dòng Mịch La) . Bùi Giáng hôm nay cũng có thể.
Sau này, đọc Mùa Thu Thi Ca, đoạn nói về Ðoạn trường tân thanh, ta thấy ông viết:
“Nguyễn Du không kinh hoàng nhảy lui. Cũng không bị tẩu hỏa nhập ma rú lên một tiếng như Zarathustra also sprach. Ông đạm nhiên làm Nam Hải Ðiếu Ðồ. Kẻ câu cái gì tại Nam Hải?
Ðáp cho câu hỏi ấy, ta mượn một câu thơ Phùng Khánh:
 Con làm Nam Hải Ðiếu Ðồ
 Ngồi câu con Cá Hư Vô Tâm Hồn.
Tựu trung mỗi phen sờ mó vào Kiều nhi, vừa chạm tới những tuyệt diệu từ lãng đãng phù động kia, chớm gặp Xuân đã ngộ phải Thu, vừa ướm hỏi ra Thu đã vấp phải Ðông Phong Thanh Hạ, vừa tân thanh ngâm bãi đã trường đoạn thê nhiên, chợt mới hội thương tình đã hốt bách cảm sinh, mới vừa mơ màng nhìn Hồng Lĩnh vân phong đã giật mình nghe ra Tiền Ðường triều tiêu, chưa kịp qui ẩn kinh, đã bàng hoàng với phiến oan thanh. Bỏ ra Nam Hải buông câu chỉ bắt được Hư Vô Con Cá...” 
Chuyện thứ ba. 1975. Thời của thu vàng một loáng hóa rừng phong hoang hồng, xao xác đến muôn trùng số mệnh con người hoa cỏ. Tôi có dịp lai rai sống với Bùi Trung Niên Thi Sĩ. Thưở ấy đói kinh. Người người tăng gia, nhà nhà sản xuất. Cuốc đào cả lề đường hè phố, vườn biệt thự, trồng luống khoai hàng sắn. Cày xới nát bộ não vì cái ăn, cái Ði - Ở. Tâm linh màu chì. Một hôm chúng tôi đang đi long nhong gần nhà thờ Ba Chuông kiếm vài chung quốc lủi, Bùi Giáng bỗng nói: nè cha, ta về nhà chút đã. Tôi hỏi về mần chi. Ông bảo cho heo gà ăn chớ không tụi nó chết. Hóa ra thi sĩ cũng tăng gia sản xuất. Về nhà - trong hẻm, gần cửa xe lửa số 6 - đã thấy ngay trước hàng hiên có mấy con... heo đất, mấy con vịt nhựa - loại được khoét một đường rãnh trên lưng, để bỏ tiền tiết kiệm. Chúng được đặt trong rọ, hoặc úp bằng những cái rổ đàng hoàng, như heo gà thật. Bên con heo đất hãy còn mấy cọng rau tươi, nơi gà vịt nhựa có dăm hạt gạo vung vãi. Một người bà con nói nhỏ với tôi: “Phải chăm sóc cẩn thận, ảnh về thấy heo gà không có thức ăn ảnh khóc”. 
Trên đây, ba giai thoại tiêu biểu về mỗi Bùi Giáng.
Giai đoạn đầu, thuở liệm vợ bằng thịt gà sống đã phôi pha hoang đường, định mệnh chỉ ra ông sẽ là một hiện tượng kỳ vĩ, khác người. Một cái Ðiên đang hăm he cái Tỉnh. Một Muôn Ðiệu Tài Hoa sẽ vùi chôn người Bùi Giáng thường tình. Cuộc điêu linh sẽ gạn lọc, phiên dịch, phơi bày ông ra giữa trận đồ hoang vu nồng cháy của Phố Thị Ðìu Hiu, của Mù Sa Cố Quận. Sông ơi em bỏ sa mù/ Đi thiêm thiếp cõi quân thù gọi nhau/... Một đời lận đận đo rồi đếm/ Mỏi gối người đi đứng lại ngồi. 
Giai thoại thứ hai nhằm vào thời ông rời quê nhà - xứ Trung Việt nơi ông đã từng chăn dê; đã lùa bò vào đồi sim trái chín - để vào Sài Gòn; là khởi nguyên nơi ông mùa tinh hoa tụ hội: Thi tập Mưa Nguồn chào đời. Xin chào nhau giữa con đường/ Mùa xuân phía trước miên trường phía sau. Sau đó là những tuyệt phẩm: Lá Hoa Cồn, Ngàn Thu Rớt Hột, Mùa Thu Thi Ca, Ðường Ði Trong Rừng, Sương Tỳ Hải, Sa Mạc Phát Tiết, Sa Mạc Trường Ca, Trăng Châu Thổ, Lễ Hội Tháng Ba, Sương Bình Nguyên, Biển Ðông Xe Cát, Lời Cố Quận, Ngày Tháng Ngao Du v.v... Ông dịch vô số tác giả từ Đông chí Tây, cổ kim; dịch rất tài hoa thông suốt, như Hoàng Tử Bé, Ngộ Nhận, Khung Cửa Hẹp, Kim Kiếm Ðiêu Linh, Hòa Âm Ðiền Dã v.v... 
Sức điên, sức rong chơi, sức đọc, sức làm việc của Bùi Giáng là vô cùng tận. Ông là tượng trưng cho sự nhạy cảm, sự thông minh thoáng đạt, và sự bất định, bay bổng. Ðây là tai họa tự chính ông - tự đọa đày trực diện. Lúc này ông đã là một hấp lực kỳ vĩ với người đọc. Ðọc ông là si mê mơ màng, là lơ đãng tìm ra thuốc chữa cho một cần thiết thoát ly, đối kháng, chối từ, tái thẩm định. Là dìu dặt vào hương vị đắng cay mật ngọt thời hoang hóa hòn đạn làm nổ trái bom, điêu linh giữa tồn sinh phân hủy, giữa gươm đao đang thừa mà hụt hao nhân ái. Là chiến đấu thoát vượt cuộc khổn vây công bằng tự do; một xô bồ rừng rú tư tưởng; một trần gian xanh đen đến tiêu hao, phân ly chính mình. Bờ Lúa của Bùi Giáng.
Em chết bên bờ lúa
Ðể lại trên đường mòn
Một dấu chân bước của
Một bàn chân bé con 
Anh qua miền cao nguyên
Nhìn mây trời bữa nọ
Ðêm cuồng mưa khóc điên
Trăng cuồng khuya cuốn gió
Mười năm sau xuống ruộng
Ðếm lại lúa bờ liền
Máu trong mình mòn rỗng
Xương trong mình rã riêng 
Anh đi về đô hội
Ngó phố thị mơ màng
Anh vùi thân trong tội lỗi
Chợt đêm nào gió bờ nọ bay sang. 
Giai thoại thứ ba là hiển thị cuộc hí lộng đã dắt díu thi sĩ chơi với đồ nhựa vô tri. Ký gởi sự sống trên những “con-vật-không-có-sống-không-có-chết”, là lúc ông xấn tới tột đỉnh đất trời đổ lộn nguyên khê. Ông tỉnh táo trong một trạng thái đặt biệt của người điên. Ông sắp xếp cái Ðiên theo cách người tỉnh. Cái điên phần nào giúp ông siêu thoát. Nhưng cũng đặc biệt đọa đày cho ông là chính ông ý thức về cái điên của mình: Xuống sông xuống biển hãi hùng/ Mà không thể giết được linh hồn mình/ Trải bao nhiêu trận bất bình/ Cuồng điên tôi tự giết mình tôi chơi. Là tự hiểu: Tôi từ khởi sự cuồng điên/ Tôi từ uống rượu triền miên tháng ngày/ Hét la tháng rộng năm dài/ Tình yêu tiêu diệt từ ngoài tử sinh.
Khoảng đầu thập niên 70 có lần người ta đưa ông vào nhà thương Biên Hòa chữa cái bệnh đứng ngã ba nhìn ra ngã bảy. Từ nhà thương điên trở ra, bữa gặp nhau thấy ông rất tỉnh, bèn hỏi một câu thường tình: “Nhà thương điên Biên Hòa trị cái tẩu hỏa hay hỉ!”. Ông trả lời tỉnh queo: “Chữa trị quái gì đâu. Chẳng là ở ngoài mình thấy mình điên số một, khi vô nhà thương điên mới hiểu ra mình là đồ bỏ, điên nhí, điên tiểu thủ công nghiệp; trong nhà thương điên nhiều cha điên thượng thừa, điên vĩ đại hơn mình nhiều. Do vậy mà mình tự động thôi điên”.
Có thể Bùi Giáng chẳng điên. Thiên địa nó tẩu hỏa nhập ma; chính thái cực lưỡng nghi nó lôi ông vào trận địa gây cấn tà huy. Hãy đọc một đoạn nhỏ trong Mùa Thu Thi Ca, sau khi nhà thơ đứt phèo phổi được tin Marilyn Monroe đang lộng-lẫy-một-tòa lại tự động chuyển-sang-từ-trần bên trời Tây: 
"Mọi Nhỏ - Tại sao chị tự tử
Monroe - Tại vì chị là người da trắng. Huống hồ nữa là...
Mọi Nhỏ - Là sao huống nữa?
Monroe - Huống nữa là màu da trắng của chị còn trắng hơn tất cả màu da của mọi người da trắng khác.
Mọi Nhỏ - Thế nghĩa là màu da trắng của chị đã đạt quai nhai cảnh giới của lô hỏa thuần thanh thánh thần thiên tiên liên tồn tố bạch?
Monroe - Nhiên
Mọi Nhỏ - Sao gọi là liên tồn tố bạch?
Monroe - Tố bạch là tách bộ.
Mọi Nhỏ - Còn liên tồn? Cũng đồng nghĩa với tồn liên chăng?
Monroe - Nhiên”.
Sau, chết rồi mà em Monroe lại gặp tình cờ em Mọi Nhỏ. Mọi Nhỏ lúc này đã dấn mình một cách nhiệt huyết vào trung tâm điểm lửa đạn chiến tranh Việt Nam. Monroe ngậm ngùi hỏi: 
"Monroe - Chị tự tử đã đành. Sao em cũng tự tử? Em ở trong rừng mát mẻ, em tự tử làm gì cho phí mất màu da bồ quân bánh mật của em như thế?
Mọi Nhỏ - Em đâu có tự tử. Chính là thật ra cái hòn đạn nó tự tử em.
Monroe - Hòn đạn nào như thế?
Mọi Nhỏ - Hòn đạn hoặc trái bom gì đấy. Nó nổ một trận tam bành. Nó tự tử mất em, đồng thời với cái truông đèo thơ mộng chiều hôm qua.
 Monroe - Sao em không dời đi nơi nào ẩn trú, lại ở yên một chỗ mà chờ đợi đạn bom mà làm gì như thế?
 Mọi Nhỏ - Dời đi nơi khác thì đồng thời phải dời cái truông đèo đi nơi khác. Em sức mấy mà làm cho xuể sự đó. Kể ra lúc bấy giờ em cũng định lặn xuống ở dưới đáy nước cái khe kia thì thật là bảo đảm nhưng không kịp. Cái bom nổ còn chớp nhoáng hơn cái ý định nảy ra trong đầu óc em.” 
Ðâu phải con người không chuẩn bị kịp cho một trái bom nổ chớp nhoáng. Trong kiếp người chúng ta có những cái vô cùng không kịp. Ðã vô cùng từ bỏ vườn cũ truông đèo không mang theo, trong hun hút máu xương. Ðã một phương trời gom nhặt phút sống, mà vắng mất nắm đất bên đàng chỗ cổng làng khe nước rẫy nương. Bây giờ ta hỏi lại thu/ Khu vườn lá ngọc sao thu phiêu bồng. Nơi hải giác thiên nhai anh hay tôi, Em Mọi hay Ðêm Nguyệt Cầm Ca - Ly, đã thức giấc nỗi lòng Nhật mộ hương quan hà xứ thị( Lúc trời chiều đứng ngắm cảnh tự hỏi đâu là quê nhà – Hoàng Hạc Lâu, Thôi Hiệu) Và đâu phải anh tự do hân hạnh được quyền có hay không cái tẩu hỏa nhập ma. Trái bom nó - tự - tử - em kia mà.
Khi 'Trẫm' Bùi Giáng tặng thơ cho các 'Đại ca'
TP - Cân nhắc mãi, rồi tôi thấy không thể không viết về con người có nhiều giai thoại này. Bởi cơ duyên, nhiều câu chuyện về ông tôi được tận mắt chứng kiến, bất ngờ thấy được. Đặc biệt là chuyện ông tặng thơ cho người đời.
Tranh của Nguyễn Xuân Hoàng.
Tôi xin gọi ông theo nhiều danh xưng mà người đời đặt cho Bùi Giáng: Bùi tiên sinh, Trung niên thi sĩ, Đười ươi thi sĩ. Còn Bùi Giáng thì ngấm ngầm cà rỡn tự cho mình là Đại Vương nên chỉ yêu những người đẹp nhất trên trần gian, và ông thường tự xưng là Trẫm.
Nhắc đến thi sĩ Bùi Giáng người ta thường hay nhớ đến một gã trung niên sặc sỡ màu sắc xanh xanh vàng vàng đỏ đỏ với đôi mắt sáng quắc sau một đôi kính cận dày cộp.
Khắp Sài Gòn Chợ Lớn người ta thường thấy thi sĩ thoắt ẩn thoắt hiện như một kiếm khách có thân thủ phi phàm với lối phục trang quái dị vá chằng vá đụp nhìn như đệ tử của cái bang trong truyện kiếm hiệp Kim Dung.
Nhưng nếu ai có một chút thẩm mỹ nhứt định sẽ phải thán phục cho cách chọn màu sắc của thi sĩ vì nhìn kỹ sẽ thấy đây là một mảng màu hội họa sạch sẽ cực đẹp.
Đây đúng là một kiểu thời trang của Bùi Giáng từ cái kính cho đến đôi giày rách, cái nón và cái bị, tạo thành một bức tranh kì lạ. Giống như một đạo sĩ của thời Xuân thu Chiến quốc, cái màu sắc ấy cũng thay đổi từng ngày khi người ta chợt bắt gặp Bùi đại ca đang múa may quay cuồng ở chợ Tân Định và chỉ một loáng sau đã thấy thi sĩ đang ngao du ở tận chợ Bà Chiểu.
Ông đi như mây lang thang như gió, hết quận nầy đến quận khác, hết quán nầy đến quán kia. Cung cách ăn uống của Bùi Giáng thì phải nói là đặc biệt, chỉ Bùi Giáng mới có.
Xích lô là phương tiện phổ quát nhất mà Bùi đại ca thường hay dùng để di chuyển khắp Sài Gòn Chợ Lớn, ngoài việc đi bộ. Ông có cả một đội xích lô thân quen.
Nhiều anh em văn nghệ yêu thích ông nên cũng thường hay xin ông cho thơ, việc này không hề khó, thi sĩ luôn sẵn lòng dâng hiến cho những ai yêu thi ca. Nhưng ông luôn đề tặng theo ý mình.
Nghe mấy anh xích lô này kể, mỗi lần chở Trung niên thi sĩ là vui nhất trên đời vì ông luôn luôn cho ăn nhậu no say. Không biết tiền ở đâu ông luôn cho anh em rất hậu, mỗi lần chở “bệ hạ” là có thể sống được ba bốn ngày.
Nói “bệ hạ” vì Bùi Giáng có một lối xưng hô rất ư là phiêu bồng cà rỡn hảo hán Lương Sơn Bạc: “Cho Trẫm về Chợ Lớn đi Đại ca”. Chỉ cần nghe như vậy, đại ca xích lô đã sướng rân lên cười toe và cung kính hạ càng: “Dạ xin mời Bệ hạ an tọa, Đại ca xin hầu ngài”. Với nụ cười an nhiên vi tiếu, Bùi đại vương nhảy tót lên xe một cách điệu nghệ, hai thầy trò bắt đầu cuộc “Sài Gòn Chợ Lớn rong chơi/ Đi lên đi xuống đã đời du côn”.
Đói thì ăn khát thì uống mệt quá thì nghỉ, gốc cây hè đường công viên ghế đá bất cứ chỗ nào thích là dừng. Nhưng có điều lạ là “Trẫm” vẫn ngự trên xích lô bất cứ nơi đâu, Đại ca thì tùy thích nhưng làm ơn đừng cho chiếc xích lô chổng gọng ngã nhào khi Trẫm đang ngự là được rồi.
Trẫm thích lim dim trong cái náo nhiệt ầm ì giữa Sài Gòn hoa lệ. Nếu có mỏi qúa vì phải ngồi lâu, Trẫm sẽ đột nhiên phóng cái ào xuống đường chơi một vài điệu luân vũ của đười ươi rớt hột trước những đôi mắt thảng thốt của con người... Xong rồi, “phóc” lên yên đi thôi Đại ca, hỏi rằng Trẫm sẽ đi đâu/ Thưa rằng Trẫm sẽ đi lâu chưa về.
Đi đâu bây giờ, Đại ca gióng tiếng hỏi... Trẫm trả lời: “Đại ca chở Trẫm về quận 3 đi, vào cái quán bia ấy biết không”. Tất nhiên là phải biết rồi làm sao không. Xe trực chỉ quán 81 (đường Trần Quốc Thảo – trước đây tôi đã có bài viết về những kỷ niệm văn nhân thi sĩ tại quán này – TG).
Từ xa, anh em đã thấy xe của Trung Niên Đười Ươi Thi sĩ xuất hiện cập vào hàng hiên của quán. Vẫn trên xe, thi sĩ quát vào: “Cho hây [hai] chai Soài goòn”.
Bia được đưa ra kèm theo một đĩa đậu phụ. Hai thầy trò ngồi ngay trên xe nhậu khề khà. Ông Bùi nhậu không nhiều, chỉ mới hai ve là mặt đỏ gay mắt sáng rực lên như hai ngọn đèn pha.
Đại ca xích lô muốn uống bao nhiêu thì uống, nhưng nhớ không được say kềnh ra vì còn phải đưa Trẫm về nữa. Bao nhiêu Trẫm thanh toán hết lại còn boa lưng tưng đầu mày cuối mắt cho mấy em phục vụ.Và cũng nhanh như lúc đến hai thầy trò lại ra đi sau một màn nhảy múa ngay trên sân của quán nhậu.
Chuyện đi xe xích lô của Trung niên thi sĩ cũng nhiều cái kỳ quái. Như lần ông đi đường vào giờ cao điểm, làm sao để có thể vượt qua cái đám đông lô nhô lúc nhúc kia đang kẹt cứng sau buổi chiều tan tầm đây?
Chuyện nhỏ đối với Trung niên thi sĩ, không biết từ đâu Anh Dzoáng bỗng có một cái tu huýt thổi lên rầm trời cùng với một chiêu lăng ba vi bộ bay ra giữa ngã tư bắt đầu một cuộc nhảy nhót hoành tráng tả xung hữu đột như phim.
Bùi thi sĩ biến thành một cảnh sát giao thông có một không hai trên cái trần gian lộn xộn hỗn mang này. Lạ thay, dòng xe cộ đang dừng như bị một cái đập ngăn bỗng dưng như được tháo chốt lăn bánh trôi từ từ theo những động tác điều khiển điệu đàng như một nhạc trưởng của Trung niên thi sĩ.
Chưa vội chấm hết cho cuộc trình diễn, thi sĩ tiếp tục múa may theo nhịp điệu tiếng còi thêm một hồi nữa cho đến khi xe cộ lưu thông theo ý muốn rồi tự dưng ông biến mất. Lát sau, người ta đã thấy hai thầy trò thong dong ngao du ca hát cùng bạn bè ở Bà la chân Tân Định kia rồi.
Như đã viết, Bùi Giáng có một lối ngồi ăn uống và cả làm thơ hết sức đặc biệt, nghĩa là chỉ ngồi trên xe xích lô thôi không bao giờ ngồi trên ghế của bất cứ quán nào.
Ngay cả cách xưng hô “Trẫm và Đại ca” cũng là một cách tếu táo thâm trầm nhưng vô cùng cà rỡn của Bùi Giáng. Nhiều anh em văn nghệ yêu thích ông nên cũng thường hay xin ông cho thơ, việc này không hề khó, thi sĩ luôn sẵn lòng dâng hiến cho những ai yêu thi ca. Nhưng ông luôn đề tặng theo ý mình.
Vậy nên mới có chuyện một anh chàng làm thơ nọ được Bùi thi sĩ tặng thơ có lời đề tặng như sau: “Bài thơ này Trẫm tặng cho Đại ca QYZ, kí tên Trẫm, Bùi Giáng”.
Sướng quá, anh này bèn đem khoe với mọi người và toáng lên rằng: “Được Bùi Giáng nể lắm nên mới gọi là Đại ca”.
Nhưng khi nghe một đàn anh phân tích, anh này mới tá hỏa vì hiểu ra Trung niên thi sĩ đang cà rỡn la cà chữ nghĩa với mình, nhưng có hề chi chỉ vui vui vì cái kiểu cà rỡn ta bà của thi sĩ.
Không chỉ một mình anh này mà nhiều người khi được Bùi Giáng tặng thơ cũng đều có chung một lời đề tặng như thế không sai một chút nào.
Có một giai thoại do Bùi Chí Vinh kể rằng, anh cũng được Bùi Giáng nâng một cái... chổi truyền lại cho Bùi Chí Vinh như truyền vương trượng sau khi nghe Vinh đọc thơ.
Hư thực không biết nhưng có người bảo rằng Vinh bị Bùi Giáng cà rỡn mà thôi chứ làm gì có chuyện truyền “ngôi báu thi ca”. Vì nói cho cùng thì Bùi Giáng vẫn là Bùi Giáng, không ai có thể là truyền nhân được.
Vì sống điêu linh thơ mộng được như Bùi thi sĩ đã là chuyện vô cùng khó rồi. Còn làm thơ lại càng khó hơn vì cái lối tung hứng chữ nghĩa độc nhất vô nhị đến vô ngôn vô cùng của thi sĩ họ Bùi, lại có vô chừng ngữ nghĩa rập rờn âm thanh trong thơ của ông.
Anh Dzoáng phóng bút làm thơ trên… phong bì
Bùi Giáng.

Hỏi rằng tiền bạc của Trung niên thi sĩ ở đâu mà ra? Câu trả lời ở giữa lộ trình ngao du: Bỗng nhiên Đại ca xích lô nghe: dừng lại đây đi Đại ca. Điểm dừng là một biệt thự kín cổng cao tường, từ bên trong nghe tiếng chó dữ hực lên.
Đại ca mới nghe đã muốn tháo chạy, nhưng Trẫm thì điềm nhiên, bảo Đại ca cho xe chạy sát vào cánh cổng nơi có nút bấm, tiếng chuông vang lên rền rĩ kèm theo tiếng của chủ nhân lao xao ra mở cửa.
“Ai đó...” - một giọng điệu kéo dài hách dịch. Hắng giọng: “Trẫm đây Đại ca...”. Cửa mở toang và giọng người reo vui: “Trời đất ơi, anh Dzoáng ngọn gió nào đưa anh tới đây”.
Vẫn kẻ đứng người ngồi, Trẫm tỉnh queo: “Thì đi rong chơi, mi có buồn không nếu tao vay mi ít tiền”. Chủ nhân không một chút buồn phiền trái lại còn vui mừng ra mặt vì được cụng phụng cho thi sĩ: “Dạ được được mà anh Dzoáng chờ em một chút!”.
Nói xong, chủ nhân quay thật nhanh vào nhà, và cũng thật nhanh đã quay trở lại, dường như sợ nếu chậm anh Dzoáng sẽ đi mất tiêu, trên tay là một phong bì màu xanh kính cẩn dâng lên.
Thi Sĩ nhét vào lưng quần xong rồi nhàng nhẹ: “Ta viết cho mi một bài thơ hí?”. Nói xong không đợi trả lời anh Dzoáng phóng bút làm ngay một bài thơ ngay trên chính cái phong bì đó. “Đây ta tặng”. Chủ nhân chưa kịp cám ơn thì thi sĩ đã vỗ càng xe “Đi thôi Đại ca ơi...”.
Nguyễn Tấn Cứ
 BÙI GIÁNG 99 GIAI THOẠI
Giai thoại, có thể hiểu đơn giản, là những câu chuyện hay, hấp dẫn truyền tụng “dân gian”, dựa trên những cứ liệu thật nhưng có thêm thắt, hư cấu, phóng đại, khuếch tán…Nhìn vào những giai thoại, người ta có thể dựng lên được một bức chân dung sống động về đối tượng nó đề cập đến, bức chân dung ấy thường gắn liền với những cảm xúc chủ quan, những thương ghét riêng tây.
    Với Bùi Giáng, cuộc đời ông đã là một giai thoại lớn bao trùm lên những giai thoại nhỏ về tình yêu, thơ ca, cách hành xử độc đáo. Ông là một thi sĩ kỳ dị, một hiện tượng lạ trong văn chương Việt Nam thế kỷ XX, nên quanh cõi “ngàn thu rớt hột” của ông, mọc lên biết bao lời bàn tán, những câu chuyện truyền tụng nửa thực nửa hư…
   Bùi Giáng qua 99 giai thoại là một cuốn sách cóp nhặt từ nhiều nguồn sách báo những chuyện kể về Bùi Giáng để “kể hầu bạn đọc”, nói như ngôn ngữ Bùi Giáng, “Vui ấy mà !”
    Có những giai thoại về ông từ những ngày “ 15 năm chăn dê” cho đến khi giã lìa cõi thế, gắn với những câu chuyện tình, những lần làm thơ, hoạ thơ     “tặng chuồn chuồn, châu chấu”, những lúc lang thang phiêu bồng, những cuộc rượu ngất say, tỉnh ra lại thấy mình quá cô đơn giữa chốn nhân gian… Đó còn là câu chuyện về một trái tim đa cảm, thương người thương đời và một trí tuệ siêu việt, viết nghiên cứu văn học, dịch sách triết học và “làm thơ như thể chăn trâu”….
    Ông đến và sống giữa đời với một tâm hồn anh nhi, một tài năng “ vô sư tự ngộ” (chữ dùng của Huỳnh Ngọc Chiến). Những giai thoại về ông đi đôi với lượng tác phẩm đồ sộ trên nhiều lĩnh vực mà ông đã để lại cho đời. Đến giờ, quanh ông vẫn còn tồn tại những câu hỏi : Ông có điên thật không? Ông sáng tác vào thời gian nào giữa chuỗi tháng ngày “đã đời du côn” ?…
    Lúc sinh thời, có lần Bùi Giáng gọi giai thoại là “giẻ rách”. Đấy là thứ ông khoác lên người trong những cuộc rong chơi, là thứ ông tỉ mẩn ngồi vá trong những ngày tịnh khẩu. Thứ ấy, là lớp vỏ ngoài của một trái tim và khối óc đáng quý, đáng trọng. Để rồi có lúc, mỗi giai thoại quanh ông thật sự là một trang Du Hý trong tâm hồn người đọc, như lời thơ của ông từng gửi gắm “ Đi về với gió Phù Du/ Mở trang Du Hý cho mù sa bay…”
(*) Nhân đọc Bùi Giáng qua 99 giai thoại, NXB Lao Động & Trung tâm văn hoá ngôn ngữ Đông Tây, 2008
Lê Minh Kha

Bùi Giáng - một hiện tượng kỳ lạ
Nhân dịp kỷ niệm 10 năm Bùi Giáng (1998 – 2008) rời “cõi người ta”, nhà văn Đoàn Tử Huyến, Chủ tịch Hội đồng Khoa học Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, đã tổ chức biên soạn và gửi tới độc giả cùng giới nghiên cứu hai cuốn sách về Bùi Giáng: Bùi Giáng trong cõi người ta và Bùi Giáng qua 99 giai thoại

Phóng viên: Thưa nhà văn Đoàn Tử Huyến, từ đâu mà trung tâm cho phát hành hai cuốn sách về Bùi Giáng?
- Nhà văn Đoàn Tử Huyến: Vào Sài Gòn, biết bạn đọc miền Nam yêu thích Bùi Giáng, một lần gặp nói chuyện với anh Nguyễn Thanh Hoài – người cháu và là bạn vong niên của Bùi Giáng vào cuối đời - tôi nảy ra ý định làm sách về nhà thơ độc đáo này. Tôi cho rằng Bùi Giáng là hiện tượng, một hiện tượng kỳ lạ, kỳ dị, lớn lao, nhưng phức tạp, chưa – mà rất cần - được nghiên cứu thấu đáo, sâu sắc. Sau cuộc trò chuyện đó và được sự giúp đỡ của anh Hoài cùng một số bạn bè khác, chúng tôi đã bắt tay vào làm cuốn sách này.
Tuy nhiên, nói cho cùng, việc tổ chức làm hai tập sách này về Bùi Giáng và những cuốn tương tự là nằm trong định hướng xuất bản chung của Trung tâm Đông Tây. Chúng tôi nhận thấy, do hoàn cảnh lịch sử cũng như những điều kiện xã hội của nước ta, hiện nay chúng ta đang rất thiếu các nguồn tư liệu – có hệ thống và đáng tin cậy - để làm cơ sở cho công việc nghiên cứu cơ bản và dài hơi (tôi nói về các ngành khoa học xã hội và nhân văn như văn học, lịch sử, nghệ thuật, v.v...). Chẳng hạn, nói về Bùi Giáng, nhiều người có biết, có nghe đâu đó, mang máng về ông là một nhà thơ điên, với cuộc sống kỳ dị, những câu thơ kỳ lạ; nhưng tìm kiếm tư liệu, xác thực và đầy đủ về ông, có được một nhận định sâu và đúng về thơ ca và tư tưởng của ông - thì không dễ. Do đó, chúng tôi chủ trương tổ chức xuất bản những cuốn sách mang tính tư liệu, hồ sơ, về các tác giả, các hiện tượng văn học, để làm cơ sở cho những công việc nghiên cứu tiếp theo. Làm sao hiểu, nghiên cứu Bùi Giáng nếu không có tư liệu về Bùi Giáng?
Chúng tôi thực hiện hai cuốn sách về Bùi Giáng là nhằm cung cấp một khối tư liệu về Bùi Giáng để người ta hiểu thêm về ông, để có một cách nhìn tương đối toàn diện về ông. Tất nhiên, khám phá về Bùi Giáng rất vô cùng, đây cũng chỉ là một bước đầu.
. Nhà thơ Bùi Giáng được bạn đọc miền Nam yêu thích. Khi làm sách ở miền Bắc, ông có thấy đó là một bất lợi?
- Bất lợi về chuyện gì? Tôi không nghĩ đến vấn đề này. Đúng là Bùi Giáng quen thuộc với bạn đọc phía Nam, nhiều người yêu thích Bùi Giáng và cũng nhiều người viết về Bùi Giáng. Còn ở miền Bắc, ở ngay Hà Nội, bạn đọc còn biết ít về ông. Như thế theo tôi là không bình thường trong điều kiện ngày nay. Không công bằng. Như tôi đã nói trong Lời nói đầu của sách Bùi Giáng trong cõi người ta, chẳng lẽ thơ Bùi Giáng chưa vượt khỏi khu vực, địa phương, vẫn mới nằm trong mối quan tâm dân gian, báo chí? Vì vậy, việc tổ chức xuất bản những cuốn sách này là một cách khắc phục điều bất lợi trong việc hiểu Bùi Giáng nói riêng và văn học Việt Nam nói chung.
Còn nói về bất lợi trong việc phát hành, thì không có vấn đề. Đất nước thống nhất, hai miền Nam – Bắc là một thị trường, chỉ cần sách hay, được độc giả yêu thích, thì ở đâu họ cũng sẽ mua đọc.
. Trong quá trình tổ chức bản thảo, ông đã gặp những khó khăn gì?
- Khó khăn lớn nhất là rất thiếu tài liệu. Ở Hà Nội, sách báo về Bùi Giáng không nhiều – ngoài mấy cuốn sách in di cảo, tác phẩm của Bùi Giáng mới xuất bản gần đây (tuyệt đại đa số do các nhà xuất bản phía Nam phát hành), gần như không tìm được những bài viết (chứ chưa nói công trình) nghiên cứu về Bùi Giáng. Thêm vào đó, ở miền Bắc hầu như không có những người trực tiếp quen biết, thân gần với Bùi Giáng lúc ông còn sống, cho nên rất khó tìm kiếm những thông tin và tư liệu lưu trữ cá nhân về ông. May mà thời nay còn có Internet, nhờ đó mà chúng tôi tìm kiếm được một số khá lớn tài liệu và nhất là thông tin về các tác giả có bài viết về Bùi Giáng để chúng tôi tìm cách liên hệ nhờ giúp đỡ. Khó khăn thứ hai là thời gian. Do bị “khống chế” về thời gian – chúng tôi muốn sách ra kịp kỷ niệm 10 năm ngày mất Bùi Giáng – nên việc biên soạn sách phải tiến hành khá gấp gáp và kết quả là những công trình mới, mặc dù đã đặt một số nhà nghiên cứu viết, vẫn chưa có mặt trong tập sách này.
. Hai cuốn sách: Bùi Giáng trong cõi người ta và Bùi Giáng qua 99 giai thoại có điểm gì đặc biệt so với những cuốn sách về Bùi Giáng đã từng xuất bản trước đó?
- Bùi Giáng trong cõi người ta là cuốn sách, ngoài 82 bài thơ chọn lọc của Bùi Giáng, đã tập hợp tương đối đầy đủ những bài viết tiêu biểu về Bùi Giáng từ trước đến nay, có thể nói, là việc tìm hiểu hiện tượng Bùi Giáng từ góc độ học thuật. Còn Bùi Giáng qua 99 giai thoại tập hợp những câu chuyện mang tính hư cấu dân gian nhiều hơn, đưa ra một chân dung Bùi Giáng từ một góc độ khác - cảm nhận đã được dân gian hóa. Như vậy, cả hai cuốn sách đều cố gắng dựng lại một chân dung Bùi Giáng nhưng từ các góc nhìn khác nhau. Và khác với “những cuốn sách khác đã từng xuất bản” là đầy đủ và dày dặn hơn.


(Dịch thuật)Những độc giả yêu thích và thần tượng Bùi Giáng (vốn khá đông) sẽ có thêm dịp “truy nguyên ngọn nguồn” cùng thi sĩ này khi tác phẩm Đười ươi chân kinh (NXB Hội Nhà văn và Nhã Nam, 536 trang) vừa ấn hành nhân ngày sinh của ông (17/12). Đây là tuyển tập khá công phu mà những người thực hiện muốn đạt đến “chân kinh” của một thi sĩ có sức viết như “cuồng phong, sóng dựng”.Để đánh dấu sự kiện này, Nhã Nam đã phối hợp cùng L’Espace (Hà Nội) tổ chức đêm thơ Bùi Giáng và giới thiệu tinh tuyển vào lúc 18h ngày 20/12, với sự tham gia của học giả Bùi Văn Nam Sơn, nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo, dịch giả Nguyễn Nhật Anh, nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên và nghệ sĩ ngâm thơ Ngọc Lan. Cũng tại hội trường L’Espace, đã có triển lãm giới thiệu khoảng 70 quyển sách của Bùi Giáng xuất bản trước 1975 và một số tranh ảnh, thủ bút độc đáo, thuộc sưu tập của Yên Ba và Nguyễn Nhật Anh, kéo dài trong 5 ngày.
Huyền thoại…
Đương thời, Bùi Giáng (1926-1998) có rất nhiều bút danh, như Trung Niên Thi Sĩ, Bùi Bàn Dúi, Bùi Văn Bốn, Vân Mồng… và Đười Ươi Thi Sĩ. Có lẽ vì “tinh thần đười ươi” mà tuyển tập có tên Đười ươi chân kinh đã tập trung tuyển những tác phẩm xuất bản thời Bùi Giáng còn sống.
Bùi Giáng (17/12/1926 tại Quảng Nam – 7/10/1998 tại TP.HCM). Ảnh: TL
Nhiều người hẳn còn nhớ cuốn Bùi Giáng – Qua 99 giai thoại (NXB Lao động, 1999) do Huyền Li sưu tập, đủ thấy xung quanh thi sĩ này có rất nhiều giai thoại. Có nhiều ý kiến cho rằng giai thoại về Bùi Giáng, nếu so với các thi sĩ khác và nếu tính về số lượng, chắc nhiều nhất thế kỷ 20 (!?); nhiều giai thoại đã trở thành huyền thoại.
Nhà thơ Vũ Ngọc Giao có một quãng dài đi chơi với Bùi Giáng nói đại ý rằng, các giai thoại được sinh ra vì hai lý do chính: muốn chứng tỏ mình thân với đười ươi thi sĩ nên tự “sáng tạo” ra một câu chuyện riêng; có giai thoại riêng rồi thì không cần đọc thơ họ Bùi nữa, vì thơ ông rất nhiều và không hề dễ đọc chút nào.
Đương thời, Bùi Giáng thích “ngao du ngày tháng”, có thể nói chuyện triết lý, văn thơ suốt ngày đêm, nhưng rất ghét kể giai thoại. Xét trên bình diện văn bản, điều này được ông thể hiện khá rõ khi viết về Lý Bạch, đại thi hào gắn liền với nhiều giai thoại. Bùi Giáng viết: “Người Trung Hoa đã điên rồ thêu dệt những giai thoại ngớ ngẩn tưởng là làm vinh dự cho ông, nhưng thực ra đã bôi nhọ ông một cách cổ kim chưa từng có. Tại hạ đã nhiều phen muốn nêu sự vụ kia ra, nhưng vừa nghĩ tới đã cảm thấy buồn nôn gớm guốc khôn tả”.
Thơ là chân kinh…
Dịch giả Nguyễn Nhật Anh (đại diện Nhã Nam) nói rằng tham vọng duy nhất của tuyển tập này là giúp độc giả bận rộn ngày nay có một cái nhìn bao quát, xuyên suốt về tất cả khía cạnh văn chương của thi sĩ vô tiền kháng hậu này.
Trong lời giới thiệu, Thiên Hải Đoạn Trường Nhân viết: “… Chúng tôi chủ trương chỉ chọn lọc những gì “đọc được” (readable) trở lên của “đười ươi thi sĩ”, và bằng nguyên tắc này, gạt bỏ ra ngoài hết thảy những gì mà chúng tôi cho là tạp nham, không cơ bản, những “sấm ngữ” tối nghĩa…”.
Tuyển tập Đười ươi chân kinh có vẻ như chia sẻ được quan điểm của nhà nghiên cứu Huỳnh Hữu Ủy: “Bùi Giáng là người tài, nhưng là một nhà thơ điên, vì vậy ông viết quàng xiên nhiều quá. Nhưng cũng chẳng hề gì, mấy ngàn trang sách của ông chỉ cần lọc lại thành một tập thơ nhỏ, rồi với tập thơ ấy chỉ cần tinh lọc thêm một lần nữa để chỉ còn lại chừng mươi bài, thì với mươi bài thơ ấy ông cũng đã là một nhà thơ lớn bậc nhất của thời hiện đại, một vì sao lấp lánh rạng rỡ mãi hoài trên vòm trời thơ của dân tộc Việt”.
Ngoài hình ảnh, các trích lục và phụ lục được tuyển lựa có tiêu chí, quyển sách còn dành ra một chương cho “những câu thơ lẻ xuất thần, đặc biệt là lục bát” và một “tự điển” về những từ ngữ có tần số xuất hiện nhiều, tiêu biểu trong thơ Bùi Giáng. Nhìn chung, đây là tinh tuyển khá thành công trong việc phác thảo diện mạo một tác giả quan trọng của văn học Việt Nam thế kỷ 20.
Văn Bảy (TTVH)


BÙI GIÁNG: TẬN CÙNG CHỮ NGHĨA HƯ VÔ

Tôi đã viết một số bài về Bùi Giáng. Vẫn chưa ngớt băn khoăn về ông.
Bùi Giáng để lại một sự nghiệp khá đồ sộ, với hơn 50 đầu sách khác nhau, vừa thơ vừa văn xuôi. Văn xuôi của ông bao gồm ba thể loại chính: dịch thuật, biên khảo về triết học và bình luận về văn học. Gây sôi động trong dư luận và được nhiều người nhắc nhở nhiều nhất - cả khen lẫn chê - là hai thể loại đầu, nhưng tôi thích Bùi Giáng ở thể loại sau hơn. Trong thể loại sau đó, tôi đặc biệt thích những bài viết về thơ của Bùi Giáng, phần lớn tập trung trong hai tập Đi vào cõi thơ và Thi ca tư tưởng, cũng như rải rác trong nhiều cuốn sách khác, từ Mùa thu trong thi ca đến Ngày tháng ngao du, v.v... Có thể nói, ở miền Nam, từ năm 1954 đến 1975, Bùi Giáng là người viết về thơ nhiều nhất và có một số bài có thể nói là hay.
Hay, không phải ở những sự đánh giá về từng nhà thơ hay từng bài thơ cụ thể. Ở phương diện này, Bùi Giáng khá lạc hậu và dễ dãi: ông vẫn chưa thoát được mỹ học của Thơ Mới, thời 1932-45, chủ yếu qua cách nhìn của Hoài Thanh, vốn đậm màu sắc lãng mạn chủ nghĩa, trong cách cảm thụ và phân tích, do đó, những nhà thơ hoặc những bài thơ được ông khen ngợi một cách nồng nhiệt thường không thực sự hay, hoặc nếu hay, thì cũng là những cái hay cũ, của một thời đã xa. Đáng chú ý hơn, trong những bài viết về thơ của Bùi Giáng, là những nhận xét về thơ nói chung hoặc về từng chữ và từng câu thơ cụ thể, nhưng từ đó, thỉnh thoảng ông làm sáng lên một số điều thuộc về bản chất của thơ. Chính ở khía cạnh này, Bùi Giáng tỏ ra là một cây bút nhạy bén, có những ý kiến thú vị và bất ngờ.
Dù sao, Bùi Giáng chủ yếu cũng vẫn là một nhà thơ.
Với tư cách là nhà thơ, Bùi Giáng là một hiện tượng lạ lùng, nếu không nói là lạ lùng nhất trong lịch sử văn học Việt Nam hiện đại. Con người, cuộc đời và sự nghiệp của ông chứa đựng những nghịch lý không dễ gì có thể giải thích được. Ngay cái cách làm thơ cực kỳ dễ dàng của ông cũng là một bí nhiệm, làm nhiều người, nhất là giới cầm bút, không ngớt bàng hoàng. Với cách sáng tác ào ạt và trong điều kiện hiếm khi đủ tỉnh táo để nhuận sắc thơ mình, Bùi Giáng ít khi, rất ít khi, có được những bài thơ thực sự hoàn chỉnh. Thơ ông thường hay ở câu chứ không phải ở bài. Và có một hiện tượng thú vị là những câu thơ được xem là hay của Bùi Giáng thường được lặp lại khá nhiều lần, ở những bài thơ khác nhau, có khi cách nhau đến cả hàng chục năm. Điều đó chứng tỏ Bùi Giáng không những tâm đắc mà còn sống thường trực với những câu thơ ấy. Điều đó cũng có nghĩa là ông rất tự giác về những câu thơ hay của mình, đồng thời cũng chính là mặt mạnh của mình. Ông làm cả hàng ngàn bài thơ, thật ra, là để ngắm nghía từ nhiều góc độ khác nhau sự huyền diệu của một số câu thơ hay.
Thơ Bùi Giáng hay ở câu, ở một số câu. Nhưng ngay cả ở những câu không hay, thậm chí, ở những câu hoàn toàn nhảm nhí, Bùi Giáng vẫn đóng được dấu ấn của mình. Bùi Giáng là một trong vài nhà thơ hiếm hoi tạo được một phong cách riêng ở đơn vị rất nhỏ trong thơ: từ. Có một cú pháp thơ của Xuân Diệu, của Thanh Tâm Tuyền. Và có một từ vựng thơ của Bùi Giáng (cũng như của Trần Dần). Cái gọi là từ vựng thơ riêng ấy không phải là những từ do Bùi Giáng sáng chế ra mà là, chủ yếu là những từ được Bùi Giáng sử dụng. Chúng là những từ ngữ thông thường, có khi đã cũ mèm trong thơ văn cổ (như: thập thành, tháp tùng, ban sơ, phong nhuỵ, phiêu bồng, v.v...) hay có khi còn lấm lem bụi bặm của đường phố (lai rai, cà chớn, số dzách, tùm lum, nhe răng, chân đi chữ bát, v.v...), nhưng có điều oái oăm là, khi đi vào thơ Bùi Giáng, dường như chúng trở thành vật sở hữu của Bùi Giáng, để, sau đó, nếu có ai sử dụng những từ ngữ ấy, người ta cứ ngờ như là họ... ăn cắp của Bùi Giáng.
Nhưng thơ Bùi Giáng không phải chỉ đặc sắc ở cấp độ chữ hay cấp độ câu. Ỡ Bùi Giáng còn có một cái gì khác hơn thế nữa: thơ ông còn có một khí quyển riêng. Chính cái khí quyển ấy làm cho, một là, từng chữ của Bùi Giáng đều mang hơi hướm của ông; hai là, hoá giải những khác biệt trong phong cách của mỗi chữ khiến cho những chữ Hán Việt cổ kính nằm cạnh những tiếng lóng rất mới mà không hề thấy chỏi nhau; và ba là, làm cho mọi câu thơ, dù hay hay dở, dù nghiêm trang hay nhả nhớt, đều mang phong cách của ông, không lẫn với ai được.
Nói đến phong cách Bùi Giáng, trên báo chí, từ trước đến nay, thỉnh thoảng có người xem đó là một phong cách tắc tị hay quậy phá, bỡn cợt, rất thiếu nghiêm túc. Hình như không phải. Theo tôi, ít có nhà thơ nào say mê và trân trọng ngôn ngữ như Bùi Giáng. Ông có đùa nghịch với chữ nghĩa thì cũng chỉ là một cách để trắc nghiệm quyền năng của ngôn ngữ: từ chữ này, ông liên tưởng đến chữ khác; rồi từ chữ khác đó, ông lại liên tưởng đến những chữ khác khác nữa. Chữ nghĩa cứ gọi nhau. Thành trùng trùng điệp điệp chữ. Động một chữ mà bao nhiêu chữ khác cùng vang động. Tương tự kinh nghiệm được Bùi Giáng mô tả trong cuốn Mùa thu trong thi ca (1969, tr. 236):
“Ta ngồi dưới gốc cây sim, lắng tai nghe bò đương gặm cỏ, thong dong đưa tay vói một cành, hái một trái ăn chơi. Và bỗng dưng? Bỗng dưng nảy ra một sự tình kỳ lạ: bàn tay ta vừa chạm tới một trái sim riêng lẽ, thì suốt dãy rừng, toàn thể ngàn sim lục bỗng chấn động lừng vang. Đó là một bí quyết lạ lùng.”
Và bí quyết lạ lùng ấy thể hiện trong nhiều bài thơ của Bùi Giáng. Phần lớn những bài thơ có vẻ lảm nhảm hay tối tăm của Bùi Giáng là những bài thơ trong đó ông đuổi bắt miên man những khả năng kết hợp mới của một chữ hay lắng nghe những tiếng nói huyền bí của ngữ âm. Bài “Ngẫu hứng” sau đây có thể được xem như một ví dụ thuộc loại tiêu biểu nhất cho phong cách thơ ông:
Một hôm gầu guốc gầm ghì
Hai hôm gần gũi cũng vì ba hôm
Bôm ha? đạn hả? bao gồm
Bồm gao gạo đỏ bỏ gồm gạo đen
("Ngẫu hứng")
Đoạn thơ chỉ là một chuỗi liên hệ vô tận trong ngôn ngữ. Chữ "gầu guốc" làm Bùi Giáng liên tưởng đến chữ "gầm ghì" và "gần gũi": tất cả đều bắt đầu bằng phụ âm [g]. Chữ "một hôm" làm ông liên tưởng đến "hai hôm" rồi "ba hôm"; chữ "ba hôm" làm ông liên tưởng đến cách nói lái "bôm ha"; trong "bôm ha", từ tố "bôm" khiến ông liên tưởng đến "đạn"; từ âm tố "gao", ông liên tưởng đến "gạo"; từ "gạo đỏ", ông liên tưởng đến một điều không hề có: "gạo đen", v.v... Thành ra, chữ "một hôm" mở đầu đoạn thơ trên không phải chỉ là ý niệm về một đơn vị thời gian mà còn bao hàm ý niệm về sự tranh chấp ("gầu guốc gầm ghì"), về súng đạn (và từ đó, chết chóc), là cơm gạo (và phía sau của nó, sự cùng cực, khốn quẫn), cuối cùng, là may rủi trong sự thành, bại và cả trong sự sống, chết. Xin mở một dấu ngoặc: bài thơ này được Bùi Giáng sáng tác trong giai đoạn chiến tranh Việt Nam đang hồi khốc liệt. Thời ấy, với rất nhiều người, thời gian được đo lường bằng khả năng chịu đựng những đe doạ từ chiến tranh và từ sinh kế, tuỳ thuộc vào những sự đỏ đen của số mệnh.
Tuy nhiên, nếu ngôn ngữ chỉ là một chuỗi những liên hệ bất tận như vậy thì, như các nhà hậu cấu trúc luận sau này đã chỉ rõ, ngôn ngữ không còn khả năng quy chiếu về hiện thực và do đó, cũng không còn khả năng phát hiện chân lý được nữa. Bùi Giáng hoàn toàn hiểu điều đó. Trong bài "Phố phường cỏ mọc" in trong tập Mùa thu trong thi ca, ông mỉa mai: "người ta tưởng chừng như tin rằng ngôn ngữ có thể nói ra được sự thật." Ai tưởng thì cứ tưởng, riêng ông, ông rất bi quan:
Tôi gọi Mỹ Tho là Mỹ Thỏ
Mỹ Thọ muôn đời là Lục Tỉnh hôm nay
Tôi gọi Sóc Trăng là Sóc Trắng
Gọi người sương phụ gái thơ ngây.
("Lẫn lộn lung tung")
Nên lưu ý là những cách đổi tên gọi như vậy xuất hiện không phải một lần trong thơ Bùi Giáng. Trong bài "Trường giang lục tỉnh", ông lại viết:
Tôi gọi Cần Thơ là Cần Thở
Cần Thở muôn đời là Gió Việt đêm nay
...
Tôi gọi Bình Dương là Bình Dưỡng
Dượng dì ơi thương nhớ cháu nhiều không...
Hoài nghi khả năng "tái hiện hiện thực" của ngôn ngữ, có khi Bùi Giáng bỏ cuộc chơi trong lãnh vực ngữ nghĩa để đuổi bắt một trò chơi ở lãnh vực ngữ âm, với nhịp điệu trầm bổng của các thanh, các âm. Đó là những lúc Bùi Giáng làm những câu thơ toàn bằng chữ Hán hoặc những câu thơ hoàn toàn vô nghĩa, trong đó, chỉ có những tiếng động lanh canh lách cách của các âm, các vần, các thanh điệu va chạm vào nhau mà thôi.
Có thể nói Bùi Giáng làm thơ như một người chơi cờ không nhắm tới mục đích chiếu tướng mà nhắm tới việc khám phá khả năng biến chuyển vô tận của các nước cờ. Bùi Giáng là người làm thơ thuộc loại hồn nhiên nhất trong thơ Việt Nam. Ông là kẻ làm thơ, trước hết, với chữ.
Nhưng khi các từ ngữ chỉ, hay chủ yếu chỉ, liên hệ với các từ ngữ khác thì quan hệ giữa các từ ngữ ấy và hiện thực được chúng ám chỉ trở thành hàm hồ và xa xôi hẳn như cái điều các nhà hậu cấu trúc luận đã từng phân tích. Bùi Giáng, từ rất sớm, đã nhận ra điều đó. Bùi Giáng đã cảm nhận sâu sắc hơn ai hết sự bất lực của ngôn ngữ. Không phải là sự bất lực của người sử dụng ngôn ngữ mà là sự bất lực của chính ngôn ngữ. Thơ Bùi Giáng có khi là thơ về sự bất lực của ngôn ngữ. Do đó, một mặt, người ta có thể nói Bùi Giáng là nhà thơ hồn nhiên, nhưng mặt khác, người ta cũng có thể nói Bùi Giáng là một nhà thơ bi quan nhất trong lịch sử văn học Việt Nam, người đi đến tận cùng sự tuyệt vọng đối với cái gọi là chức năng phản ánh hay tái hiện hiện thực và từ đó, chức năng truyền thông và giao cảm của ngôn ngữ.
Với các nhà thơ khác, ngôn ngữ là một thứ chất liệu. Với Bùi Giáng, ngôn ngữ không phải chỉ là một chất liệu mà còn là một đề tài, một cảm hứng. Bùi Giáng làm thơ không phải bằng ngôn ngữ, với ngôn ngữ mà còn về ngôn ngữ. Cái bi kịch của Bùi Giáng là ở chỗ: là người cầm bút, ông chỉ có một thứ vũ khí duy nhất phải sử dụng, đó là ngôn ngữ, một thứ vũ khí ông rất yêu, nhưng đồng thời, tự thâm tâm, khác hẳn các nhà thơ khác, ông không ngớt hoang mang hoài nghi về hiệu năng của nó.
Trong văn học Việt Nam, hình như chưa có ai đi đến tận cùng chủ nghĩa hư vô như Bùi Giáng. Ở khía cạnh này, có thể nói Bùi Giáng là nhà thơ tiêu biểu nhất của thời kỳ chiến tranh lạnh, lúc mọi niềm tin đều bị sụp đổ.
 Nguyễn Hưng Quốc

Hiện tượng Bùi Giáng

    Sinh thời, Bùi Giáng bảo: "Hãy để cho tôi yên, tôi dại. Ðừng ai nói đến tôi. Và nhất là đừng có ai bàn đến thơ tôi ."  (1) Có lẽ vì tôn trọng nhà thơ, cho nên ít ai bàn đến thơ ông (2). Ca tụng Bùi Giáng thì nhiều, nhưng phê bình Bùi Giáng thì ít.
     Như thơ, Bùi Giáng sống tiêu dao suốt cõi mù sa bên rừng, cả đời lục bát. Tại sao lục bát? Lục bát bởi vì, đối với Bùi Giáng: "Lục bát Việt Nam là cõi thi ca hoằng viễn nhất, kỳ ảo nhất của năm châu bốn biển, ba bẩy sông hồ." (3) Ðó là lộng ngôn Bùi Giáng.
     Về bản thân mình, Bùi Giáng tự họa: "Nhe răng cười trong bóng tối... Không bao giờ bắt chuồn chuồn mà cứ bảo rằng mình luôn luôn bắt chuồn chuồn... Không thiết chi đọc sách mà vẫn cặm cụi đọc sách hoài... Chán chường thi ca mà cứ làm thơ hoài... Chuốc sầu vạn đại thì bảo rằng mua vui cũng được một vài trống canh." (4) Ðó là mâu thuẫn Bùi Giáng.
     Hỏi về tiểu sử, Bùi Giáng trả lời:
  Hỏi tên? Rằng biển xanh dâu
  Hỏi quê? Rằng mộng ban đầu rất xa.
  Gọi tên là một hai ba,
  Ðếm là diệu tưởng, đo là nghi tâm.
 Ðó là vô căn Bùi Giáng.

     Trên báo Văn, số 26 tháng 8 năm 1984, Mai Thảo kể lại rằng khi hỏi về cái lực viết phi phàm của Bùi Giáng, Thanh Tâm Tuyền lắc đầu cười: "Chịu, không giải thích được. [...] Nói đến mấy ngàn bài thơ Bùi Giáng là đúng. Mà nói thơ Bùi Giáng chỉ có một bài, vô tận, vô cùng là đúng hơn. Ngủ ra thơ. Thở ra thơ. Ði ra thơ. Ðứng ra thơ. Chứ không phải nghĩ thơ, làm thơ."
     Vẫn theo lời Mai Thảo, ông Thanh Tuệ, giám đốc nhà xuất bản An Tiêm, thuật lại: "Ảnh lang thang suốt ngày, chẳng thấy lúc nào ngồi viết hết. La cà hết nơi này đến nơi khác, uống rượu say ngất rồi về lầu lăn ra sàn ngủ, nhiều ngày bỏ cả bữa ăn. Ðêm cũng không thức, chỗ nằm tối thẳm. Tôi in không kịp, nói ảnh tạm ngừng thì ảnh ngừng. Nói có máy, có giấy, nói buổi sáng, buổi chiều ảnh đã tới ném bịch xuống cả năm bẩy trăm trang. Cứ thế đem sắp chữ thôi, đâu có thì giờ đọc."
     Mai Thảo kể tiếp, khi làm số Văn, đặc biệt về Bùi Giáng: "Tôi hỏi xin ông những bài thơ mới nhất. Ông gật. Tưởng lấy ở túi vải ra. Hoặc nói về lấy, hoặc nói hôm sau. Tất cả đều không đúng. Ông hỏi mượn một cây bút, xin một xấp giấy, một chai bia lớn nữa, đoạn ngồi xuống và trước sự kinh ngạc cực điểm của chúng tôi, bắt đầu tại chỗ làm thơ [...] Lần đầu tiên tôi thấy Bùi Giáng viết, thoăn thoắt, vùn vụt, nhanh không thể tả. Như thơ không thể từ đầu, từ tim chảy xuống, xa quá, lâu quá, mà ngay từ ngọn bút, từ đầu ngón thôi [...] Lần đó, tôi đã thấy, đã hiểu tại sao Bùi Giáng, cứ cánh bướm rong chơi, cứ phiêu bồng lãng du mà vẫn có ngay nghìn câu một buổi."
     Về những cơn điên Bùi Giáng, Phạm Xuân Ðài kể trong lời tựa tập Thơ Bùi Giáng   (5): "Chỉ có thơ và những cơn điên [...] Bây giờ (năm 1992) anh ít làm thơ lắm, còn các cơn điên thì vẫn viếng thăm anh gần như định kỳ. Những lúc ấy anh đi nhiều nơi, nhưng thường xuất hiện ở vùng chợ Trương Minh Giảng (chỗ Ðại Học Vạn Hạnh, là nơi ngày xưa anh thường trú ngụ) đứng giữa đường vung tay, điều khiển xe cộ, cử chỉ rất linh động, đặc biệt đôi mắt sáng quắc bừng bừng [...] Có khi anh múa may trong một lớp áo lòe loẹt, động tác mạnh mẽ chính xác gần như múa võ, miệng hò hét như đang nạt nộ với một đối tượng vô hình."
     Ðó là hiện tượng Bùi Giáng, qua lời kể của những người thân trong giới văn học.
*

Bùi Giáng là ai? Bùi Văn Vịnh, em của Bùi Giáng, cho biết (6): Bùi Giáng sinh ngày 17 tháng 12 năm 1926 tại làng Thanh Châu, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam.
     Thuở nhỏ, học trường Bảo An tại Ðiện Bàn, Quảng Nam, trung học ở trường Thuận Hóa, Huế. Năm 1950, đậu Tú Tài II văn chương ở Liên Khu V. Sau đó ra Liên Khu IV học tiếp đại học. Nhưng sau khi nghe qua bài diễn văn khai giảng của ông viện trưởng, Bùi Giáng quay về Quảng Nam và bắt đầu quãng đời được gọi là "Mười lăm năm chăn dê ở núi đồi Trung Việt".
     Tháng  năm 1952, Bùi Giáng về Huế thi Tú Tài tương đương và vào Sài gòn ghi danh Ðại Học Văn Khoa.
     Lần này, sau khi nhìn danh sách giáo sư giảng dậy ở Văn Khoa, Bùi Giáng quyết định chấm dứt việc học ở trường và bắt đầu viết khảo luận, sáng tác, dịch thuật và đi dạy học tại các trường tư thục.
 Từ 1957 đến 1997, Bùi Giáng có khoảng 55 tác phẩm đã in về thơ, dịch và triết. Như lời Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Thanh Tuệ, thơ có đến nghìn bài. Và nội trong một ngày, có thể ném bịch một vài trăm trang sách. Ðúng là một kỷ lục có một không hai.

     Chúng ta thử tìm hiểu bản chất của kỷ lục ấy qua một vài trang sách của Bùi Giáng trong Con Ðường Ngả Ba Bước Ði Của Tư Tưởng, do An Tiêm xuất bản lần thứ nhất tại Sài gòn năm 1972, và tái bản tại hải ngoại.
     Có thể nói trong cuốn sách này, cái gọi là điên của Bùi Giáng phát hiện rõ rệt dưới hình thức loạn ngôn, ngộ chữ cao độ. Về Heidegger, Bùi Giáng viết: "Tất cả con đường tư tưởng của Heidegger là mọi lối nhiếp dẫn bước đi về những vùng u kín trong cổ lục uyên nguyên." (trang 13)
     Về Nietzsche, ông viết: "Nietzsche không phải là đại hải đại dương. Nietzsche đã đón vào lòng mình một dòng sông dơ bẩn. Và từ đó? Từ đó, Nietzsche biến thành một loại người mạt hậu theo mọi nghĩa thái thậm ly kỳ. Con người mạt hậu và hư vô chủ nghĩa, con người mạt hậu và sa mạc tinh hoa, con người mạt hậu và Mạt Hậu "Tử Sinh Môn" Hoạt Tinh Thể, con người mạt hậu và Siêu Hình Học Lãnh Ðịa, con người mạt hậu và Ðịnh Mệnh Phối Tiết Sử Lịch Tồn Lưu, Ðịnh Mệnh Phối Tiết Sử Lịch Tồn Lưu và Siêu Hình Học theo nghĩa Sử Lịch chân lý của Hiện Thể như là Hiện Thể, Sử Lịch chân lý của Hiện Thể và Ðịnh Mệnh Tồn Lưu thoái tàng ư mật, Tồn Lưu thoái tàng ư mật và Hằng Thể bước vào vòng di vong trầm một, từ di vong trầm một, còn chút hậu tình ân ốc nào sẽ "trột mầm" cho một trận Dịch Chuyển thông hành của Ðịnh Mệnh hay không? hay là Siêu Hình Học vẫn mãi mãi kiên trì tồn lập trong cuộc đù đỡn "trệ lưu ư ngoại" bất khả tư nghì khuyết phạp từ Hoạt Tinh Thể của Hư Vô? ..." (trang 17)
        Và cứ như thế, Bùi Giáng sản xuất 499 trang Con Ðường Ngả Ba, Bước Ði Của Tư Tưởng. 

       Ðiểm thích thú nhất của người đọc trong cuốn sách này là những trích đoạn thơ Bùi Giáng, phần lớn là những câu thơ hay, tỏa ra những suy tư sâu lắng về bản chất con người.
     Nhưng trong 499 trang chữ ấy, người đọc tìm thấy rất ít dòng đứng đắn và tỉnh táo bàn về những vấn đề triết học như hiện sinh và bản thể, tồn tại và thời gian, mặc dù ông rất ngưỡng mộ Heidegger, người thầy hiện sinh được ông trích, dịch một cách kỳ cục. Ví dụ như câu này, dịch ra từ tiếng Pháp, tiếng Ðức: "Nhưng mà lời thuyết thoại trì ngự, trong (khởi từ) Ðịnh Mệnh Phối Tiết mở phơi, sẽ ra sao nếu như cái Sở Khải Khai trong Song Trùng Tịch Hạp bị Ðịnh Mệnh Phối Tiết (ruồng rẫy) bỏ phó mặc cho cuộc thể hội vất vơ nhân tuần (dung thường nhật lệ) của con người từ diệt chúng tử chúng sinh?" 
(Con Ðường Ngả Ba Bước Ði Của Tư Tưởng, trang 12-13)
     Dù đặc sệt những tên tuổi triết gia, nặng ký trích dẫn thiên kinh, vạn điển, dù có một số ý trội lên về vấn đề đọc sách, đọc Nguyễn Du, đọc Bùi Giáng, về sự gặp gỡ giữa những nhà tư tưởng lớn, đả kích một số nhà xuất bản không tôn trọng văn bản của tác giả, Con Ðường Ngả Ba vẫn không phải là cuốn sách bàn về triết học, hoặc đưa ra một hệ thống tư tưởng mạch lạc; mà có thể nói đây  chỉ là cuốn phiếm luận bí hiểm, ngôn ngữ thần chú, nhại triết học, nhạo người đọc. Cho nên khi Tạ Tỵ viết: "Bùi Giáng đối thoại với Nietzsche, Sophocle, Parménide, Khổng Tử, Lão Tử, Sartre, Camus..."  thì e rằng Tạ Tỵ quá lời. Sự tìm kiếm siêu hình nơi Bùi Giáng, như chỉ dừng ở phần vỏ của ngôn từ: tồn sinh, tồn lưu, hằng thể, hư vô, logos, ... mà không đi vào nội tâm của suy tưởng. Hoặc có lẽ Bùi Giáng chỉ muốn rỡn chơi. Nếu ông có nhắc tới Như Lai, Bồ Tát, Heidegger, Parménide, Platon, Socrate cũng chỉ như ông nói đến Nam Phương Hoàng Hậu, Dương Quý Phi, Marilyn Monroe, đười ươi, chuồn chuồn, châu chấu v.v... vậy thôi, trong một trạng thái "tẩu hỏa nhập ma", một tinh thần anarchiste toàn diện. Một "người phá", để nói theo ngôn ngữ Trần Dần. "Người phá" trong cái nghĩa tiêu cực của nó, chứ không phải trong cái nghĩa sáng tạo, ít nhất là ở cuốn sách Con Ðường Ngả Ba.
 
     Phải chăng Bùi Giáng chỉ muốn "hù dọa" người đọc không chuyên môn? Hay ông muốn nhại, diễu, những hệ thống suy tưởng mà một số trí thức quen dùng như mẫu mực hoạt động tinh thần? Biến chúng thành một thứ charabia, ngôn ngữ vấn đáp chuồn chuồn, châu chấu, nói trẹ, nói xàm, nói bá láp và ông có khả năng sản xuất mỗi ngày vài trăm trang như thế?
     Thái độ anarchiste toàn diện này mở rộng trong đời sống, trở thành một bản năng phản kháng quẫy đời: Cởi quần áo giữa lớp học, tắm nơi công cộng, ngủ vỉa hè, trở thành clochard (hành khất say rượu), mặc áo rằn ri lính ngụy,  để chỉ đường..., tất cả những "cơn điên" ấy của Bùi Giáng chứng minh sự sáng suốt của một Bùi Giáng không điên.
     Không điên vì ông chỉ đẩy đến cùng trạng thái hiện sinh, chứng nghiệm ý thức trần trụi về bản thể. Cởi dần năm bẩy lớp quần áo chẳng qua chỉ là hình ảnh "rút gọn hiện tượng", bóc vỏ các tầng lớp bề ngoài của "hiện tượng" để tìm ra bản chất trong hiện tượng luận Husserl.
     Trở thành clochard là một cách thể nghiệm tự do và tự hủy.
     Trong những đệ tử của hiện sinh thời ấy, Bùi Giáng là người đi xa nhất trong hành động tự hủy và hành xác. Tự hủy để chứng minh: Cá nhân con người đã chán ngấy cuộc sống, nó có một quyết định tự do lựa chọn, và sự hủy hoại bản thân là sự lựa chọn tiến gần nhất đến tự do tuyệt đối.
     Sau 75, người ta càng yêu Bùi Giáng hơn, vì trong một xã hội được bị lồng vào khuôn phép, một xã hội đã ổn định cơ chế, công chúng yêu mến những gì bất thường, yêu những kẻ ngoại đạo, bất ổn.
     Bùi Giáng là người ngoại đạo duy nhất dám làm lũng đoạn môi trường ổn định bằng thái độ tự hủy. Cái điên của Bùi Giáng là cái điên sáng suốt trong một tình thế không có cứu cánh nào khác nếu không tìm về bản thể của con người.
 

Thơ Bùi Giáng, hiện sinh trong đoạn trường và định mệnh
     Những "dạ thưa", những "tồn sinh", những "phố thị", những "cố quận", "đười ươi", đã trở thành những cốt cách, những địa chỉ rất Bùi Giáng:
  Dạ thưa phố Huế bây giờ
  Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương
  Dạ thưa Vỹ Dạ về gần
  Ðã từ xa lắm thiên thần nhớ em
     Thơ Bùi Giáng, ngay từ thuở đầu đã rong chơi, lãng mạn, đã tinh nghịch, nhẹ nhàng, hóm hỉnh, luôn luôn là những lời vấn đáp lẩn thẩn về ý nghĩa cuộc đời, về lẽ tồn sinh, về những chuyện phù du, dâu bể, ẩn khuất một dục tình khép mở Xuân Hương:
  Cá ở ngoài khe có ít nhiều
  Cồn lau cỏ lách có hoang liêu
  Em về có hỏi răng ri rứa
  Nhắm mắt đưa chân có bận liều.
                      (Bờ trần gian)
hoặc:
  Bỏ hai chân xuống một vùng
  Nước truông là lá thu rừng xuống khe.
                      (Bỏ hai chân)
     Những dòng thơ trên đây, theo như lời Mai Thảo, Bùi Giáng đã làm một mạch, tại   chỗ, xuất bút thành thơ. Huyền thoại Bùi Giáng, thi sĩ bẩm sinh, poète né, trong thập niên 60-70, được xác định như một hiện tượng văn học độc đáo. Như thể ông đã biết trước đường đi nước bước của thơ. Có khả năng thiên bẩm về sự lang thang ngơ ngẩn của chữ trên đời, và chỉ cần huơ tay, bắt chúng, nhốt vào câu lục bát, như Bình Nguyên Lộc "nhốt gió", là có ngay thơ Bùi Giáng:
  Một hôm đếm một ra ba
  Thật là lạ lắm, ấy là cái chi
 hay:
  Người con gái lội qua khe
  Bàn chân với nước lạnh đè lên nhau
  Nỗi niềm tưởng lại xưa sau
  Bàn chân với nước cùng nhau lại đè.
                       (Lá hoa cồn)

*
  Hỏi tên? Rằng biển xanh dâu
  Hỏi quê? Rằng mộng ban đầu rất xa
  Gọi tên là một hai ba
  Ðếm là diệu tưởng, đo là nghi tâm
     Bốn câu tự họa trên đây dường như đã gói trọn bản chất thơ ca và tư tưởng Bùi Giáng. Một bản chất đa mang nỗi hiện sinh hoang tưởng trong một "đạo khờ" gắn bó với đoạn trường tái tân thanh (chữ của Bùi Giáng) tiếp nhận Nguyễn Du như một thông đạo, thông thư, thông mệnh văn học.
     Thân phận dâu bể của con người, nỗi hoài nghi về số kiếp, ta từ đâu lại? Ta là ai? Những trầm luân, biến đổi làm sao đo, đếm, đặt tên được? Ðến bản thân ta, ta còn không biết, nữa là... Nếu trường phái hiện sinh (Sartre) bác bỏ tính chất định mệnh, thì ở Bùi Giáng, định mệnh (Kiều) và hiện sinh giao hưởng với nhau thành một cấu trúc tư tưởng mới, tạo nên những vần thơ đậm dấu Ðạm Tiên, hắt ra những ánh siêu thực:
  Em chết bên bờ lúa
  Ðể lại bên đường mòn
  Một dấu chân bước của
  Một bàn chân bé con
  Anh qua miền cao nguyên
  Nhìn chân trời bữa nọ
  Ðêm cuồng mưa khóc điên
  Trăng cuồng khuya trốn gió
  Mười năm sau xuống ruộng
  Ðếm lại lúa bờ liền
  Máu trong mình mòn ruỗng
  Xương trong mình rã riêng
                          (Mưa nguồn)
     Bùi Giáng có những câu thơ rất cao, rất tĩnh, rất sâu, thanh thản, gợi đến hư vô trong một không gian lãng mạn trữ tình, ít thấy xuất hiện trong thơ Việt.
  Buổi trưa đi vào giữa lòng lá nhỏ
  Tiếng kêu kia còn một chút mong manh
  Dòng nức nở như tia hồng đốm đỏ
  Lạc trời cao kết tụ bóng không thành
              (Hư vô và vĩnh viễn - Mưa Nguồn)
     Không gian Bùi Giáng, một cõi hư không đầy dấu hỏi, bồng bế nhau đi, năm này qua tháng khác, một cõi trùng sinh, di động luân hồi.
  Những nhịp bước trên đường còn dội mãi
  Vang về đâu không vọng lại hồi âm
  Của réo rắt riêng một lần mãi mãi
  Gió phương trời ủ mộng giữa hoa tâm
  Em hỏi mãi tuy biết lời đáp lại
  Chẳng bao giờ thỏa đáng giữa đời câm
  Em ngó mãi những chiều về trở lại
  Mang những gì về trong cõi trăm năm...
                      (Chiều - Mưa Nguồn)
     Từ Nguyễn Du, Bùi Giáng trích tạo nên một mô típ bạc mệnh hiện đại, mầu sắc siêu thực, tài tử và tài hoa, một chất thơ giao thoa Nguyễn Du Bùi Giáng
  Lớp phiêu bồng mọc trăng ngàn
  Thành xưa phố cũ muôn vàn phía sau
  Ðạp thanh vẽ bóng lộn mầu
  Góp dâng cữ gió nghiêng đầu sương mây
  Ngõ ban sơ hạnh ngân đài
  Cổng xô còn vọng điệu tài tử qua
  Xin chào giữa bước chân ra
  Chết từ sơ ngộ mầu hoa trên ngàn
                      (Mầu hoa trên ngàn)
     Nơi Bùi Giáng còn một mô típ bạc mệnh, cuồng khất, tổng hợp đoạn trường, tồn sinh, ngông ngôn, rất liều và rất loạn, mà cũng là vọng âm của niềm hoang mang tuyệt đối:
  Hồng quần rất mực bước ra
  Trường quần duệ địa phong hoa lá cồn
  Phải rằng nắng quáng dập dồn?
  Hay là đèn trút linh hồn oái oăm?
  Phải là nguyệt giữa đêm rằm?
  Nguyên tiêu lãng đãng lá nằm ngẩn ngơ?
  Kể từ hằng thủy ban sơ?
  Kể từ sơ thủy về tờ vẽ trang?
  Kể từ thu tạ lên đàng?
  Rừng phong thu đã quan san nhuộm mầu?
  Phải rằng đó trước kia sau?
  Hay là sau trước còn tao ngộ gì?
                      (Con đường ngả ba)
*
     Nhưng bi kịch của Bùi Giáng là ông lập lại chính mình.
 
    Trong gần nửa thế kỷ làm thơ, Bùi Giáng để lại hàng ngàn bài, có những câu thơ tuyệt hay, nhưng chính sự lập lại những khám phá ngôn ngữ buổi đầu khiến thơ ông trở thành khuôn sáo, về mặt từ ngữ cũng như tư tưởng. Những dạ thưa, tồn sinh, trùng lai, phố thị của Bùi Giáng, tà huy của Nguyễn Gia Thiều, mù sa, trăm năm của Nguyễn Du... ban đầu làm xuyến xao người đọc: Em về rũ áo mù sa, trút quần phong nhụy cho tà huy bay. Nhưng vì lập lại nhiều lần chúng bị phá giá. Hiện tượng phá giá này có mặt ngay ở những tác phẩm đầu và chủ yếu của Bùi Giáng.
     Từ Mưa Nguồn, Lá Hoa Cồn, năm 62, 63 đã thấy xuất hiện tính chất đoạn trường, tồn sinh như tinh thần chính trong tư tưởng Bùi Giáng: Nguyễn Du, Tản Ðà gặp gỡ Heidegger, Breton phóng sinh một tạng chán đời mới lạ. Bài Rượu Uống trong Lá Hoa Cồn, một thứ đoạn trường ngông rất lãng mạn siêu thực, tiêu biểu cho tính chất lang thang trong cấu trúc thơ Bùi Giáng:
  Thưa em rượu uống bây giờ
  Là trăm năm gục hai bờ tử sinh
  Ðộng hờ hững chúa điêu linh
  Em làm Hoàng Hậu mọc tình cỏ phơi
  Nhà ma cửa quỷ đi đời
  Chìm hơi thở đục trong lời sương xanh
  Càn khôn xiêm mỏng che mành
  Về trong thiên hạ em thành thiên thân.
  Thưa em rượu uống bây giờ
  Là thiên cổ lụy còn trơ bên mình
  Tài hoa tiếng vọng điêu linh
  Phạm Ðan Phượng chết theo Quỳnh Như sao.
  Thưa em từ bữa nghiêng chào
  Chớm trang đầu chợt sóng trào trường giang
  Em đi rắc lá trên đàng
  Cỏ xanh rì mọc suốt càn khôn kia
  Mùa xuân mưa rưới mộng lìa
  Về trong nắng hạ mép bìa sai bâu
  Thưa em rượu uống bây giờ
  Là trong lát nữa lên bờ đuổi ma
  Chạy quang cồn cụm lá già
  Rách như bươm suốt ruộng sa mạc đồng
  Càn khôn gió đổ chất chồng
  Rú như beo rống như hùm đổi hang
  Trên rừng dưới lũng tan hoang
  Vẫn sừng sững bóng chắn ngang quỷ sầu
  Thưa em rượu uống bây giờ
  Là trong lát nữa trăng mờ hỏi ma
  Hỗn mang về giữa hiên nhà
  Bây giờ cố quận tên là chiêm bao
  Nhìn nhau trong lũy ngoài hào
  Lời phôi dựng một điệu chào dị sai
  Trên đầu thế kỷ chia hai
  Nguồn man mác lạnh tìm ai bây giờ
  Thưa em rượu uống bây giờ
  Là thiên thu lại còn trơ hận trường
  Chung cầm dâu biển khôn lường
  Chân trời mộng lý con đường chia ba
  Nam đình doanh trại dàn qua
  Trống chầu trùng ngộ thưa là không mong
  Hoạt tồn phát tiết sầu đong
  Tràng giang thế kỷ xô dòng xuống lên
     Bài thơ gồm năm nhịp nối tiếp nhau bằng điệp khúc Thưa em rượu uống bây giờ. Mở đầu Thưa em rượu uống bây giờ, điệp khúc mấu chốt, mở cửa dẫn đến câu thơ thứ nhì: Là trăm năm gục hai bờ tử sinh. Cả hai nằm trong cấu trúc song song, tổng hợp quan niệm ngông, đoạn trường và hiện sinh của toàn bài. Câu ba, câu bốn: Ðộng hờ hững chúa điêu linh, Em làm Hoàng Hậu mọc tình cỏ phơi, đệm thêm chất lẳng lơ dục tính, nhưng đã loãng đi vì loại hình này được Bùi Giáng dùng nhiều. Rồi Chìm hơi thở đục trong lời sương xanh, một câu rất hay bị đặt bên một câu lãng xẹt: Nhà ma cửa quỷ đi đời.
     Nếu chúng ta đọc đến nhịp thơ thứ nhì:
  Thưa em rượu uống bây giờ
  Là thiên cổ lụy còn trơ bên mình
cũng vẫn thấy nguyên những nhược điểm như nhịp thơ đầu, tức là trong phần thơ đệm có những vội vàng, dễ dãi, ghép chữ, ghép ý rất sáo: Tài hoa tiếng vọng điêu linh, Phạm Ðan Phượng chết theo Quỳnh Như sao.
     Ở những nhịp sau, thì ngay chính điệp khúc mấu chốt:
  Thưa em rượu uống bây giờ
  Là trong lát nữa lên bờ đuổi ma
  Thưa em rượu uống bây giờ
  Là trong lát nữa trăng mờ hỏi ma
  Thưa em rượu uống bây giờ
  Là thiên thu lại còn trơ hận trường
đã có sự lập lại chính mình, như thể nhà thơ tiện tay bắt được chữ nào vội bỏ ngay vào lục bát, không màng nhìn lại những câu thơ đầu nữa.
*
     Tất nhiên láy là một quy ước rất thường trong thi ca. Nhưng láy chỉ làm tăng giá trị thơ khi nó đưa đến những dồn dập hoặc trong cảm xúc, hoặc trong nhịp điệu, hoặc trong sinh động... Tức là láy phải đưa tới một trạng thái căng thẳng, tới một vận tốc khác trong tiến trình âm và ý.
     Ví dụ:
  Này chồng, này vợ, này cha
  Này là em ruột, này là em dâu
là một trong những cách láy của Nguyễn Du, vừa tăng vận tốc miêu tả, vừa gia tốc sức ép của hiện thực, rành rành, chính xác, chỉ mặt, chỉ tên.
     Hoặc:
  Làm cho cho mệt cho mê
  Làm cho đau đớn ê chề cho coi
     Láy ở đây lũy thừa mật độ ác liệt của Tú Bà.
     Hoặc:
  Buồn trông cửa bể chiều hôm
  Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
  Buồn trông ngọn nước mới sa
  Hoa trôi man mác biết là về đâu
     Mỗi lần láy này là một lần Nguyễn Du chuyển cảnh, chuyển tình.
     Sự láy lại, nơi Bùi Giáng, rất thường khi chỉ là láy dập dình tại chỗ, láy lười, thấy hợp vần, tiện thể thì láy. Láy hồ đồ ít khi mang tới trạng thái mới, cảm xúc mới, hoặc một sức ép gia tăng, mà chỉ cho ta một cảm tưởng dằng dai, lai tạp:
  Hãy mang tôi tới giữa đời
  Giết tôi chết giữa cõi đời mốc meo
  Hãy mang tôi tới nắng chiều
  Giết tôi chết giữa một chiều khe mương
  Hãy mang tôi tới dặm trường
  Giết tôi chết giữa con đường bơ vơ
  Hãy mang tôi tới bất ngờ
  Giết tôi ngẫu nhĩ trong giờ ngẫu nhiên
  Hãy mang tôi tới diện tiền
  Giết tôi chết giữa người thuyền quyên kia
                  (Sa mạc trường ca, Cầu Nguyện Ca)

*
     Jacques Brel, năm 1966, khi tuyên bố ngừng hát ở tột đỉnh danh vọng, trả lời câu hỏi: "Tại sao ông ngừng hát lúc này?" Brel bảo: "Tôi ngừng vì muốn giữ lòng ngay thẳng với thính giả và với chính mình. Bởi vì khi người nghệ sĩ như tôi, đã nắm vững được tất cả những yếu tố kỹ thuật làm lay động lòng người, thì người đó sẽ có khuynh hướng ăn gian (tricher), phong tỏa người nghe bằng tất cả những kỷ sảo của mình, và khi tôi biết mình sắp đi đến chỗ bước vào kỷ sảo , tôi ngừng." Tất nhiên, Brel chỉ ngừng hát hai năm và năm 68, khi ông trở lại với âm nhạc, đã với một tinh thần khác, hẳn Brel biết mình đã đoạn tuyệt được với ý định dùng kỷ sảo để thu phục   lòng người. Và Brel ở lại với âm nhạc thêm sáu năm nữa.
     Ở Bùi Giáng hình như không có sự tự giới ấy. Cho nên biết bao lần người đọc tiếc, giá Bùi Giáng đừng ham chơi, chịu khó dừng lại ở chỗ đáng dừng để những câu thơ sáng giá như:
  Bụi thu mờ ai phủi với hai tay
hoặc:
  Em về mấy thế kỷ sau
  Nhìn trăng có thấy nguyên màu ấy không
  Ta đi còn giữ đôi giòng
  Lá rơi có dội ở trong sương mù
khỏi bị lọt vào khu rừng hoang, ôm đồm những lời thơ vội vàng, mọc lên như cỏ dại.
*
     Ám ảnh đoạn trường, tư tưởng và ngôn ngữ Nguyễn Du theo đuổi Bùi Giáng suốt đời. Những tập thơ mới nhất, in ở hải ngoại những năm gần đây càng lộ rõ. Trong những cuốn Thơ Bùi Giáng (sđd), Bùi Giáng 94 (in tại California năm 95),  và một phần tập Chớp Biển (sđd), Bùi Giáng tìm về người thầy Nguyễn Du như một cứu cánh. Hầu như mỗi bài thơ của ông đều có ít nhất một chữ hoặc một câu của Nguyễn Du. Và cấu trúc toàn bài thường dựa vào ý một câu Kiều:
  Rằng xưa ký ức đàn bà
  Tên là phụ nữ, tuổi là dấn thân.
  .....
  Trước đèn một tập mở ra
  .....
  Biển dâu lục địa cõi miền
  .....
  Cảo thơm lần giở gió giăng dậy thì
     Ám ảnh "mù sa", ám ảnh "chỉn e", ám ảnh "vân mòng", "mai sau", "trăm năm", "ngẫu nhĩ", "phong tình", "cổ lục", "dặm về", "tử sinh"... trở thành lớp da thứ nhì của Bùi Giáng:
  Rừng phong thu đã nhuốm màu
  Quan san ngần ấy tư trào ngần kia
  .....
  Chốn nào mộng mị chiêm bao
  Chốn này tỉnh táo tiêu tao vân mồng
     Từ cảnh sang tình, từ mơ sang thực, ám ảnh ngôn ngữ trở thành ám ảnh tư tưởng. Bùi Giáng đã cạn dần hồn mình và sống hồn Nguyễn Du trong đoạn cuối đời:
  Em đi từ tỉnh mộng đầu
  Một mình anh ở mang sầu trăm năm
  Em từ vô tận xa xăm
  Trùng lai chất vấn: Từ trăm năm nào?
     Những câu hỏi mà Bùi Giáng trải suốt đời thơ, thắc mắc, tìm kiếm, đặt nghi vấn về cõi đi, cõi ở, cõi có, cõi không, biết đâu hôm nay Bùi Giáng chẳng đã tìm được Nguyễn Du ở một cõi trùng lai nào đó, và ông đang chất vấn người thầy về nỗi đoạn trường ấy, từ trăm năm nào?
Tháng 10/1998
Thụy Khuê

Chú thích:
(1) trích theo Thanh Tâm Tuyền, Bùi Giáng, Hồn Thơ Bị Vây Khổn, Văn, số đặc biệt Bùi Giáng, tháng 5 năm 1973.
(2) Trừ một số bài như bài của Tạ Tỵ, trong cuốn Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay, in năm 1972, tại Sài gòn, tái bản ở Hoa Kỳ và các bài viết của Thanh Tâm Tuyền, Cao Huy Khanh, Trần Hữu Cư, Nam Chữ, Tuệ Sỹ, Trần Tuấn Kiệt và Thục Khưu trên báo Văn, số đặc biệt Bùi Giáng, tháng 5 năm 1973 tại Sài gòn.
(3) trích theo Thanh Tâm Tuyền, s đ d.
(4) trích theo Thanh Tâm Tuyền, s đ d.
(5) nhà xuất bản Thế Kỷ in năm 1994 tại Hoa Kỳ.
(6) trong cuốn Chớp Biển, thơ Bùi Giáng in tại Canada năm 1996.
© 1995-2001 Thụy Khuê
Một bài viết đầu năm về nhà thơ Bùi Giáng,một thi sĩ kì lạ.Những vần thơ của ông đã in sâu vào tâm trí N : 
"Ta sẽ đặt mười ngón tay lên mắt
Để nhìn em qua khe hở du dương."
----o0o----

1. Trạng thái "điên" của Bùi Giáng có ý nghĩa gì?

Theo thầy Thích Nguyên Tạng (chùa Pháp Vân, Gia Định, Sài Gòn), Bùi Giáng tự ghi tiểu sử của mình cho thầy trong cuốn sổ tay vào buổi trưa ngày mùng 10 tháng 11 năm 1993 như sau: 

Điên rồ lừng lẫy chết đi sống lại vẻ vang
Rong chơi như hài nhi (con nít)
Được gia đình ông Phó Chủ Tịch (482) Lê Quang Định, Hội Đồng Thành Phố đối xử
thơ mộng thênh..."
Bùi Giáng sinh ngày 17 tháng 12 năm 1926 ở làng Thanh Châu xã Vĩnh Trinh huyện Duy Xuyên, Quảng Nam. Tạ thế tại bệnh viện Chợ Rẫy Sài Gòn, hồi 2 giờ chiều ngày 7 tháng 10 năm 1998. Ông là cháu ngoại của tổng đốc Hoàng Diệu, con của ông Bùi Thuyên và bà Huỳnh Thị Kiền làm nghề dậy học ở Đà Lạt, Sài Gòn, biên soạn sách giảng luận về văn học, triết học, kiếm hiệp, viết văn, làm thơ...

Theo Võ Đắc Danh, hồ sơ lưu trữ tại nhà thương điên Biên Hoà ghi nhận Bùi Giáng nhập viện hai lần. Lần thứ nhất vào năm 1969, lần thứ hai vào năm 1977, thời gian này Nguyễn Ngu Í vẫn còn trong bệnh viện, hai người cùng ở khu 3.
Bệnh án của Bùi Giáng có đoạn ghi: "Bệnh tái phát từ tháng 4 năm 1969, có hôm thức suốt đêm để viết, nói huyên thuyên, chơi chữ, có khi la thất thanh, ý tưởng tự cao tự đại. Hay phát biểu ý kiến về những vấn đề chính trị, văn hoá trọng đại, có ý nghĩ bị người ta phá hoại sự nghiệp văn chương. Tháng 3 năm 1969 bị cháy nhà và cháy tất cả sách vở quý báu nên đương sự bị bệnh mỗi ngày một nặng hơn...". 
Tuy nhiên đọc thơ Bùi Giáng, tôi không thấy bệnh điên ảnh hưởng gì đến câu chữ của ông. Trái lại, ông ý thức rõ trạng thái điên của mình, điên là một thái độ sống có ý thức.

Đời này đất đá cằn khô
 Điên duỗi dọc, điên ngửa nghiêng
 Điên là hạnh phúc thần tiên ở đời. (Dzách)

Viết vào Bùi Giáng mong manh...
Đọc thơ Bùi Giáng là thuốc thử về quan niệm thơ, về mỹ học thi ca. Đã và sẽ không ai sai nhiều lắm, cũng không ai đúng là bao, khi bình bàn về thơ họ Bùi. Nhắc về cái tuyệt đỉnh trong thơ Bùi Giáng, độ cao sâu tư tưởng ở trước tác Bùi Giáng nhiều bao nhiêu cũng thấy thiếu; mà chỉ ra những câu thơ dở, những bài thơ tệ, những đoạn văn chán trong chữ nghĩa Bùi Giáng bao nhiêu cũng bằng thừa.

Viết vào Bùi Giáng mong manh...

ĐỖ QUYÊN

"Đêm nay
Những lứa đôi gặp gỡ
Để ngày mai
Ra đời
Những đứa trẻ mồ côi"...
(Bertolt Brecht)

Trong bài Bài Thơ Ấy của Trung niên thi sĩ, có hai câu
"Viết vào tờ giấy mong manh
Bao nhiêu tình tự long lanh không lời".
Đọc thơ Bùi Giáng là thuốc thử về quan niệm thơ, về mỹ học thi ca. Đã và sẽ không ai sai nhiều lắm, cũng không ai đúng là bao, khi bình bàn về thơ họ Bùi. Nhắc về cái tuyệt đỉnh trong thơ Bùi Giáng, độ cao sâu tư tưởng ở trước tác Bùi Giáng nhiều bao nhiêu cũng thấy thiếu; mà chỉ ra những câu thơ dở, những bài thơ tệ, những đoạn văn chán trong chữ nghĩa Bùi Giáng bao nhiêu cũng bằng thừa.

Cái Hay cái Dở ăn ở ở thơ Bùi Giáng

Hay dở dở hay: Đây là đầu mối của các bình giá về thơ Bùi Giáng!
Đa số các nhà phê bình đều đánh giá thơ Bùi Giáng đến mức cạn nguồn tiếng Việt ở độ ca ngợi. Tôi theo "phe" này, nhưng ngợi ca bằng lời nôm: thơ Bùi Giáng, một là: hay... ơi là hay; hai là: không phải chỉ có hay! "Phe" chê thì không nhiều, điển hình là Trần Hữu Thục, Thụy Khuê, Phan Nhiên Hạo...

Giá có ai cầm bút dọa... giết, tôi cũng không đồng ý với Trần Hữu Thục rằng: "Nói cho rõ ràng ra, thơ của Bùi Giáng dở. Trừ một số câu thơ hay – chưa hẳn là rất hay –, còn lại hầu hết thơ ông đều dở", "Ta có thể nói, cái dở trở thành tính cách của thơ ông". Cũng như ít san sẻ được với Thụy Khuê: "Bùi Giáng để lại hàng ngàn bài, có những câu thơ tuyệt hay, nhưng chính sự lập lại những khám phá ngôn ngữ buổi đầu khiến thơ ông trở thành khuôn sáo về mặt từ ngữ cũng như tư tưởng". Vâng, sự nhàm lặp là có. Nhưng với cái "thằng" nhàm lặp chịu trách nhiệm ở nhiều câu dở, cũng khó có thể thể thổi tội hắn lên như vậy. Trong một dịp ngồi chuyện phiếm với Phạm Duy, tôi nhắc đến thơ họ Bùi với ý ca, họ Phạm gật gù vẻ cho qua, rồi không đừng được ông hơi nhăn mặt: "Nhưng lắm câu nhàm! Lặp lại quá, cậu ạ!" Cái nhàm ở cấu tứ, nhịp điệu, ngôn từ trong thơ Bùi Giáng, nhiều người nhận ra như thế. Nguyễn Hưng Quốc đã bình giá thơ Bùi Giáng mà tôi nghĩ có thể như một lý giải khả ái về vụ nhàm lặp: "Tôi cho đây là đặc điểm nổi bật nhất trong phong cách thơ Bùi Giáng: thơ Bùi Giáng chính là sự xoá nhòa của mọi đường biên quen thuộc vốn được mọi người chấp nhận như là một quy ước, một luật lệ trong văn học từ xưa đến nay". Tôi thật tiếc cho Thụy Khuê khi chị tiếc cho một cái tiếc xây nên tất cả "ngôi nhà Bùi Giáng", tác phẩm cùng con người: "Cho nên biết bao lần người đọc tiếc, giá Bùi Giáng đừng ham chơi, chịu khó dừng lại ở chỗ đáng dừng để những câu thơ sáng giá (...) khỏi bị lọt vào khu rừng hoang, ôm đồm những lời thơ vội vàng, mọc lên như cỏ dại". Ô! Nếu như Bùi quân đừng thế này phải thế kia (đóng complet, leo lên mạng mà chat mà mail thì thơ của ông đã... giáng trần mất rồi!
Thưởng thức thơ, bất nhất như với ẩm thực. Vì "mùi sầu riêng" ở thơ Bùi Giáng mà sinh tranh cãi – đó là điều dễ hiểu. Như, trong bài Tặng Quán Phở Huyền Trân,
"Hai cô bán phở dịu dàng
Đừng nên nói bậy hai nàng buồn ta
Trẫm từ lịch kiếp phôi pha
         ( . . . )
Tuỳ thời thể dựng mà tuy nhiên là"
khi mà Nguyễn Hưng Quốc ngạc nhiên "Ai cũng thấy rõ hai câu đầu và sáu câu sau có giọng điệu khác hẳn nhau. Vậy mà, riêng tôi, thú thật, tôi không hiểu tại sao Bùi Giáng có thể chuyển từ hai câu đầu xuống sáu câu dưới một cách dễ dàng tự nhiên như vậy", thì cũng thú thật là tôi hiểu tại sao rồi.

Cái dở trong thơ của các nhà thơ hay

Sẽ rất thú vị về những phát hiện vết đen trên mặt trời thi ca mà các chiêm tinh gia, thiên văn gia với đầy đủ kính viễn vọng, vô tình hay cố ý, hoặc bị ràng buộc bởi cách thức phê bình đã không nhận ra ở các bài phê bình mô phạm. Cái dở trong thơ của các nhà thơ hay. Đó không phải dọn vườn thơ ở các thi sĩ đã mang thương hiệu. Càng không là hành vi "lật đít tượng" hay "đốt đền"! Đó cũng không hẳn là "nói đến cái dở thì cũng chỉ cốt làm nổi cái hay" (Hoài Thanh). Tìm hiểu điều dở trong thơ ở các thi nhân, xét cho cùng, là – vươn qua các thi nhân cụ thể – để thấy cái thú vô tận trong cõi chung, bất định, bất toàn của nghệ thuật thi ca.
Với các bậc kỳ tài, có những cái dở tệ trong thơ có thể chấp nhận được. Nhưng, thơ rất khó tính: có những cái thơ không thể cho phép một nhà thơ đã đến thế mà lại có thể hạ một chữ thơ, một câu thơ, một bài thơ như thế. Điều đó nằm ở đâu: Đề tài? Nội dung? Chi tiết? Câu chữ? Cấu tứ? Hình tượng? Nhịp điệu? Âm vần? Xúc cảm? Tất cả đều có thể. Và ở từng tác giả, từng câu, bài cụ thể nó hiện ra mỗi cách, khi hiển hiện khi ẩn tàng. Trong thơ, chúng là cái dở vô cớ; nói nôm là lãng xẹt, vớ vẩn. Phân tích từng nhà thơ với văn phong, tính cách, cuộc đời, bối cảnh xã hội… ta có thể tiếp cận nguyên do của các cái dở vô cớ. Nói chung, với những nhà thơ tránh được lỗi này, ta gọi họ là những người biết tự biên tập thơ. Làm thơ là khó, là phiêu lưu; biên tập thơ là chuyện sống chết! Chiến công trong các chuyện sửa thơ thường được lưu truyền như giai thoại.
Bạn bè chúng tôi hay bày trò lập "Top” cho thơ Việt hiện đại. Đương nhiên kết quả rất khác nhau. Tùy sân chơi. Tôi ghi nhận được rằng Bùi Giáng thường có trong "Top-10"; thi thoảng lọt vào "Top-7"; rất hiếm khi trúng "Top-5". Trong các nhà thơ được xếp hạng đó, hình như Thanh Tâm Tuyền, Huy Cận là các nhà thơ ít có những cái dở vô cớ. Xuân Diệu, Nguyễn Bính rồi Bùi tiên sinh nhà ta là các đấng tài hoa kiêm các đấng "hơi bị nhiều" các cái dở vô cớ, các đoạn, bài vớ vẩn. Thật chí vớ va vớ vẩn! (Ở đây không xét những gì gọi là "phục vụ chính trị" đưa đến cái dở vô cớ của một số vị nói trên. Nhấn mạnh: quan hệ giữa chính trị và chất lượng thơ lại là một đề tài khác. Ta đang hàm ý việc nhiều nhà thơ vốn không hạp gu chính trị thì dễ có cái dở vô cớ ở thơ trong khi phải phục vụ chính trị tức thời.)
Còn điều nữa, tương tự: Cái dở trong các bài thơ hay. Tìm hiểu điều dở, điểm bất cập trong những thi phẩm đã được xếp hạng kinh điển xét cho cùng, là – vươn qua các thi phẩm cụ thể – để thấy cái thú vô tận trong cõi chung, bất định, bất toàn của thi ca.
Hàn Mặc Tử có thơ rằng "Người thơ phong vận như thơ ấy". Bùi Giáng có một đời thơ; và trên hết, còn có những bài thơ, có một trường thơ vĩnh cửu trong làng thi ca tiếng Việt.
Các tiểu phẩm, dịch phẩm, biên khảo, sách giáo khoa của thi sĩ dường như chỉ mang giá trị tinh thần, không nhiều người tìm được giá trị sử dụng. Đọc xong ít nhiều trang văn xuôi của ông, tôi chẳng biết dùng nó vào việc gì, nhưng đinh ninh chúng là thứ của chìm cho hành trang sáng tác, suy tư của mình. Còn với Phan Nhiên Hạo: " (…) biết rõ, ngay từ lần đầu tiên đọc Bùi Giáng, tôi không thích văn chương ông. (...) và tôi không chịu được dịch thuật của ông. Thơ ông làm theo những thể điệu cũ, vừa trong sáng nhưng cũng vừa cầu kỳ, giọng điệu vừa đùa cợt lại vừa trịnh trọng, và phảng phất một không khí cổ. Còn dịch thuật, phải nói ông phóng tác thì đúng hơn. Mà phóng tác như viết kiếm hiệp. (…) kiểu văn chương "phiêu bồng" của Bùi Giáng dường như ở quá xa mặt đất đối với tôi." Trang lứa đàn em Phan Nhiên Hạo bây giờ, chắc sẽ dành hàng giờ để sục xạo các mạng hơn là đọc những trang văn Bùi Giáng nửa đùa nửa thật, nửa thấp nửa cao. Nên tôi giật mình trước chi tiết Nguyễn Hữu Hồng Minh đưa ra: "Bùi Giáng rất hay nổi điên khi có một người nào truy bức ông đến cùng. Cho dù đó là thi ca hay học thuật. Tôi cho rằng ông tránh các cuộc va chạm nảy lửa và tàn khốc ấy với hai lý do: Một, cuộc đời ông quá đủ đầy như một minh chứng; và hai, ông không muốn tái lặp lại bất cứ một đặt đề, một định đề nào cho nghệ thuật". Phải chăng chính tiên sinh nhận ra, hơn ai hết, chất lỏng lẻo, bất nhất, tang bồng trong các áng văn thơ đó và ngài ngại bị chất vấn đến cùng? Hay vì ngài là cái nòi không muốn đặt đích cho công việc, nên không chịu trước tác "thẳng lối ngay hàng" để có các trang bài mà Phan Nhiên Hạo trông chờ? Nền văn nghệ, văn hóa miền Nam 1954-1975 với đặc thù của mình đã sinh ra được vài kỳ nhân. Xã hội Việt Nam trong hơn một thế kỷ qua, chưa ở đâu có được những Bùi Giáng, Trịnh Công Sơn, Phạm Công Thiện như vậy. Những "thiên thần" đó đều có... "ma quỷ" trong mình.

Nhìn Bùi Giáng "đi vào cõi thơ"

Đi Vào Cõi Thơ, có thể xem đây là tập phê bình (nửa bình luận nửa nhận định) văn chương đặc trưng phong cách Bùi Giáng. Không khó đọc, như nhiều trang văn xuôi khác của ông. Nhà xuất bản An Tiêm, Paris, 1998, tái bản (từ bản in lần đầu 1969, nhà Ca Dao, Sài Gòn, 1969); hai cuốn, mỗi cuốn trên dưới 160 trang, khổ thường, trình bày sang, trong sáng. Nhìn chung các bài đều ngắn, 2-3 trang, nhiều bài chỉ 5-6 câu, nửa trang. (Gọi là trang cho tiện, chứ các trang của hai cuốn sách này chứa rất ít chữ). Ở cuốn Hai (mang tên Thi Ca Tư Tưởng – Sổ Đoạn Trường) kích cỡ các bài khá đều; cuốn Một thì thất thường: những bài chỉ 3-4 câu (về Dylan Thomas, Walt Whitman); vài bài thiệt dài: về Huy Cận (21 trang), Hoài Khanh (13 trang), Quang Dũng (8 trang), Tuệ Sỹ (8 trang). Nếu Anton Tchekhov làm phê bình gia, chắc ông sẽ không cần phải mơ đến "những bài gọn bằng một bàn tay" nữa. Chúng có trong Đi Vào Cõi Thơ rồi!
Bùi Giáng đã phê, bình, bàn... về nhiều nhà thơ, nhà tư tưởng cổ kim Đông-Tây. Ở cuốn Hai, vài chủ điểm chung chung cũng được đáo qua (dịch, thi ca, triết lý, Thượng Đế). Chừng 90 tác giả khá tiêu biểu được chọn làm tên bài, và hầu như tên bài cũng chỉ là tên tác giả cần bàn tới. Những tác giả được viết thành bài nhiều nhất là Hồ Dzếnh (7 lần), Nguyễn Du (6), Xuân Diệu (3), Huy Cận (3), Đinh Hùng (3), Phạm Hầu (2), Hoài Thanh (2), Đỗ Long Vân (2), Hoài Khanh (2), Mai Vân Thu (2), Khổng Tử (2), Shakespreare (2), Martin Heidegger (2)... Một lần tác giả tự bình mình, trong bài Bùi Giáng (trang 98, cuốn Một).
Nhà An Tiêm đã có một thao tác thừa mà rất nhà nghề, khiến tập sách và tác giả thêm điểm: Lưu ý độc giả rằng tác giả, vì các hoàn cảnh éo le, không thể viết tiếp các tập 3, 4, v.v... như dự định "để cố tránh sự ngộ nhận, bởi vì còn nhiều nhà thơ tài ba mà Bùi Giáng chưa đề cập đến." Khỏi cần thanh minh. Mọi cách thức phê bình đều có chỗ mạnh yếu. Bản thân lối phê bình theo thị hiếu cá nhân đã là bất cập về tuyển chọn. Chả thế Hoàng Trung Thông từng viết về Hoài Thanh: "Đừng trách anh tại sao chỉ nói nhiều về người này mà ít nói về người kia." Cũng như các tác phẩm hay dở dở hay của Bùi Giáng, tập sách này nếu biên tập chỉn chu, chắc phải bỏ đến mươi bài.
Phương cách luận thơ của ông cũng theo lối bình giải văn học, với nội dung và hình thức độc nhất vô nhị. Và, vẫn như Hoài Thanh – Hoài Chân làm Thi Nhân Việt Nam, cách tuyển chọn, bình giải ở đây không qui luật, hoàn toàn "phê bình cảm thụ hồn nhiên theo thị hiếu cá nhân". Phong cách của Hoài Thanh thì sang cả, nhẹ nhõm mà tinh vi. Còn với Bùi Giáng "nhiều khi đọc lên thật bàng hoàng. Với nhận xét tinh tế, độc sáng về một khía cạnh nào đó của một tác giả thơ nào đó." (Tạp chí Thời Văn, Sài Gòn; trang bìa cuối cuốn Hai). Tôi còn nhớ, khi đọc lần đầu, các bài như những đoản kiếm khi đâm thẳng lúc lao xiên vào nỗi ham biết về thơ ca, vào cái tò mò về Bùi Giáng của tôi. Trong bài về Hoài Thanh (trang 70, cuốn Hai), Bùi Giáng đã viết về người thày cũ của ông, rằng phong cách phê bình Hoài Thanh tạo ra "không biết bao nhiêu con đường cho những thi sĩ và phê bình gia đi sau". Xin được nói thêm: Bùi Giáng là một. Người sau nên và có thể đi theo Hoài Thanh được; và người sau không nên mà cũng không thể đi theo Bùi Giáng được.
Bài đầu tiên của cuốn Một, về Tuệ Sỹ, là một áng phê bình không thể nào quên. Làm ta hiểu đúng và hiểu hay về Tuệ Sỹ, nhà sư-nhà thơ mà theo tôi có thơ hay nhất trong giới tu hành (tức tính cả Phạm Thiên Thư.) Các bài hay khác: Hoài Thanh, Hàn Mặc Tử, Nguyên Sa, Đỗ Long Vân, Huy Cận...
Bài Vui Nhất Và Buồn Nhất (trang 110, cuốn Hai) là tản văn ngắn, dung dị, châm đến một cốt tủy của thơ, ít người viết ra: làm sao nói được nỗi vui nhất bằng thơ! Xứng đáng đứng vào văn tuyển cho học sinh.
Bài Đỗ Long Vân (trang 66, cuốn Một) chỉ có ngần này câu chữ – "Đỗ Long Vân không làm thơ, nhưng lại là kẻ có tâm hồn thơ sâu đậm thâm thiết rộng rãi hơn bất cứ kẻ thi sĩ nào. Trường hợp ông cũng như trường hợp Trần Trọng Kim, Đào Duy Anh... mang tâm hồn thi sĩ giấn mình vào cuộc biên khảo ngậm ngùi" – mà sao lênh láng, ngậm ngùi. Ở sự đúng và sự thơ. Bài Đỗ Long Vân khác ở trang 87 cũng trúng lắm!
Bùi Giáng tài đúc những câu bảng hiệu cho nhiều tác giả: "Nguồn thơ Đinh Hùng trong Mê Hồn Ca là nguồn thơ lạ nhất trong thi ca Việt Nam." (trang 38, cuốn Hai); "Ngôn ngữ thơ Việt Nam thành tựu bởi Nguyễn Du. Văn xuôi Việt Nam đạt tới cõi thâm viễn với Hoài Thanh." (trang 70, cuốn Hai); "Thơ Huy Cận quả có như là cõi miền huyền bí nhất của tinh thể Đông Phương." (trang 98, cuốn Hai).
Người thơ được thành bài nhiều lần nhất là Hồ Dzếnh: 7 lần! (Nguyễn Du chính thức là 6 lần, nhưng thơ và con người của "cha nàng Kiều" thì đi tới đi lui trong hai cuốn sách.) Tôi hơi khó hiểu vì sự hợp "gu" giữa hai nhà thơ này. Có thể giải thích thế nào: Cùng là thần lục bát? Cùng tâm trạng tha hương bỏ xứ, cô đơn? Đây cũng xin là một câu hỏi tới các nhà Bùi Giáng học. Đọc 7 bài bình ấy, tôi thấy nó không sai, không trúng; thú vị thôi, chớ không thần phục. Tôi cũng mê thích thi sĩ Minh Hương này lắm, coi ông như một trong các đại tướng của quân chủng lục bát Việt Nam, nhưng cái mê thích của tôi khác với Bùi tiên sinh nhiều quá. Chắc tôi chưa hiểu hết Hồ Dzếnh rồi! Sẽ phải đọc lại các bài Giang Tây, Phút Linh Cầu từng khiến Bùi Giáng "bải hoải chân tay".
Và cũng chính từ hai bàn tay ấy có biết bao lời bình rất... chán:
– Sáo tai, nhàm mắt: "Nghĩ tới Nguyễn Trãi, không còn can đảm đâu viết nên một lời gì cả" (trang 64, cuốn Một);
– Đại ngôn, tếu táo: "Đọc ông Nguyễn Du mãi cũng chán. (...) Thơ Nguyễn Công Trứ là một con zéro. Thơ Cao Bá Quát là một con zéro rưỡi (...) Hàng vạn bài na ná giọng điệu giống nhau. Chỉ còn mấy bài của Ngân Giang nữ sĩ và Vân Đài nữ sĩ là có linh hồn" (trang 30, cuốn Hai); "Người Việt Nam có thể không đọc Nguyễn Du, nhưng không thể nào không đọc bài thơ kia (bài Rằm Tháng Giêng – ĐQ) của Hồ Dzếnh" (trang 36, cuốn Hai);
– Không thuyết phục: "Thơ Nguyễn Thị Hoàng trang nhã như thơ Bà Huyện Thanh Quan, mà lại cũng cay đắng như thơ Hồ Xuân Hương, nhiều lúc nghe thống thiết như thơ bà Đoàn Thị Điểm" (trang 124, cuốn Một).
Họ Bùi bình chọn không ít các nhà thơ chưa, đang thành danh, nhưng tôi thấy hiếm có bài nào thành công. Không phải vì tên tuổi các vị đó không rạng rỡ như các vị thành danh, mà chính là ở chất lượng bài viết. Chúng làm dở một tác phẩm quí hiếm như Đi Vào Cõi Thơ! Dễ có cảm giác ông có các bài ấy vì thù tạc, hoặc vì ẩu! Có những bài tệ tới độ không phải bình thơ mà là bàn tán loạn! Như các bài Mai Vân Thu, Phạm Quang Bình...
Võ Phiến cũng nhận xét: "Nói về một thi sĩ khác, ông bảo khỏi cần trích thơ, chỉ cần nên ra các tên bài cũng đủ. Và ông liệt kê một loạt tên bài tùm lum; chỉ có tên bài thôi. Có nhiều thi sĩ, ông "đi vào cõi thơ" của người ta một hồi mà không thấy ông chọn được bài nào, thậm chí một ý hay một câu hay, một chữ đẹp cũng không! Như thể bận tâm chứng minh là một bận tâm nhỏ mọn quá, ti tiểu quá, không đáng lí đến."
Võ Phiến đã tinh tường nhìn ra vài bất cập ở cách bình luận trong hai cuốn sách, khi tác giả động đến các thi sĩ cùng thời, các bạn thơ của ông: "Khi khác, Đi vào cõi thơ (1969) của các thi sĩ cùng thời với mình, Bùi Giáng càng tỏ ra tinh quái quá lắm. Chẳng hạn về trường hợp một thi sĩ nọ – đồng hương với ông – ông nói qua nói lại một hồi, rồi ông bảo trót đánh mất tập thơ của bạn nên không trích được bài nào. Sau này, có dịp cầm chính tập thơ nọ trong tay, tôi loanh quanh tìm mãi không thấy có bài nào trích được! Vậy Bùi Giáng có mất sách thực chăng? Và không tìm ra cuốn sách nào khác của bạn thực chãng? Lẽ nào ba muơi nãm trước ở Việt Nam thơ ấy khó tìm hơn ba muơi nãm sau ở Mĩ? Vả lại, không chỉ có trường hợp người bạn vừa kể. Chuyện như thế xảy ra đều đều". Hai tác giả được Võ Phiến nhắc đến mà Bùi Giáng "chạy làng" là: Tạ Ký (trang 109, cuốn Một) và Đặng Tấn Tới (trang 168, cuốn Hai).
Tôi không khẳng định có thật là Bùi Giáng không có sách của hai-ba người đó hay không. Cũng không cho việc cả Bùi Giáng lẫn Võ Phiến không chọn được bài thơ nào thì tập thơ đó phải dở. (Chúng ta đang nói về phương pháp bình chọn theo "gu" mà!) Nhưng nếu Võ Phiến có lý thì, xin thưa rằng bảo "tinh quái" là ông nói yêu đấy thôi. Hay vì ông đã trọng tuổi nên dư lòng tha thứ! Kẻ viết bài này thua ông 2-3 thế hệ nên cũng ráng bảo Bùi quân là "quái". Còn đám trẻ hơn, thế hệ "gọi con mèo là con mèo", sẽ la lên: "Cụ Bùi xạo quá tụi bây nè!" Nếu như Bùi quân có thủ sách trong tay nhưng không khoái trích dẫn thì quả đấy là một giọng... trí trá (xin lỗi tôi chưa tìm được từ khác nhẹ hơn!) Ai cũng biết trong nghề phê bình, tội trí trá được xem là tệ nhất! Nhưng mà thôi, tha lỗi cho tôi chót nặng lời. Là Bùi "siêu quậy" của thi ca Việt Nam, lời nhận định của ông cũng quậy, "cũng đi rồi đến". Chúng ta nên đọc ông với một tâm thế riêng trong tương quan của mình với ông.
Một điểm này thì vui vui. Điều chính của bài Quang Dũng (trang 88, cuốn Một) là bình bài thơ Kẻ Ở để chứng minh nhận định (cũng nên coi như một ''đại ngôn" của tác giả): "Thi ca hiện đại hay thi ca ngàn đời, thi ca Việt Nam hay thi ca thế giới – vâng – cũng chỉ riêng một Quang Dũng thôi". Đoạn bình Kẻ Ở và toàn bài Quang Dũng có thể xem là thành công. Nó chỉ "thất bại" ở chỗ, tác giả lời bình cũng bị số phận như đa số dư luận yêu thơ khác – đó là biết bao nhiêu năm đã bé cái lầm về tác giả bài thơ quen thuộc. Quang Dũng "người Sơn Tây" không phải là tác giả của nó đâu ạ! Từ những năm 1989-1992, báo chí trong nước, rồi ngoài nước, đã "trả cát bụi về cho cát bụi": bài thơ Kẻ Ở trước được biết của Quang Dũng chính là bài Dặm Về (hay Mai Chị Về) của Nguyễn Đình Tiên. Báo Cánh Én (Đức, số 15, 1992) đã có bài của V.X.L. tổng kết vụ này. Các nghi án văn học đều kèm theo tai nạn. Trời giáng ai nấy chịu. Đến "người trời" như Bùi Giáng cũng không thoát được. (Phụ lục 1)

Thục quốc danh tướng, Việt Nam lục bát thi sĩ và Bùi Giáng

Nếu Bùi Giáng (chỉ) là thơ, thì thơ Bùi Giáng (chỉ) là lục bát.
Tôi sẽ ví các danh tướng nhà Thục thời Tam Quốc với các thi sĩ lục bát tài danh Việt Nam! Một cách tương đối: Về ngôi thứ uy quyền, nếu coi Lưu Bị là Nguyễn Du, thì tiếp theo ai là ai? Quan Vũ, ấy là Nguyễn Bính; Trương Phi là Bùi Giáng. Vậy là xong nhà Lưu-Quan-Trương. Tiếp: Triệu Tử Long: Hồ Dzếnh. Rồi những Hoàng Trung, Ngụy Diên, v.v... là những Bàng Bá Lân, Cung Trầm Tưởng, Nguyễn Đức Sơn, Nguyễn Duy, Luân Hoán, Đồng Đức Bốn, v.v... Còn hạng xoàng xoàng Tôn Càn, My Chúc, Giản Ung... thì kể không kể xiết. "Lục bát là nơi thử thách bút lực của các thi sĩ" (Trần Đăng Khoa). Tôi đoán chắc không sai là ai đã làm thơ tiếng Việt thế nào cũng kinh qua một tá bài lục bát? Với rất nhiều người thơ, lục bát là mối tình đầu.
Bùi Giáng quí cưng Hồ Dzếnh lắm, quí hơn Nguyễn Bính bội phần. Trong hai cuốn Đi Vào Cõi Thơ nói trên, Dzếnh được bình những 7 lần (lại còn được yêu đến mức cải tên thành Hồ Xuân Dzếnh!); Bính được nhõn có 1 lần! Bất chấp, trong khi chưa hiểu hết Hồ Dzếnh, tôi vẫn coi Nguyễn Bính và Bùi Giáng là hai vị tả hữu quanh ông vua lục bát Việt – Nguyễn Du, Hồ Dzếnh ở sau, cách xa hai vị này. Và còn khoảng cách rất xa nữa mới tới các vị sau đó.
Rất nhiều câu thần ở lục bát hai ông thơ này. Thần thơ Nguyễn Bính là thần dân, thần đất. Ta ngẩn ngơ và ngẫm một hồi, không lâu. Ta hiểu, cảm được. Phần nào.
"Quê nhà xa lắc xa lơ đó
Ngoảnh lại tha hồ mây trắng bay".
(Hành Phương Nam)
Hay chính câu mà Bùi Giáng chọn khi bình Nguyễn Bính ở Đi Vào Cõi Thơ:
"Mẹ cha thì nhớ thương mình
Mình đi thương nhớ người tình xa xôi".
(Thư Gửi Thầy Mẹ)
Đọc Bùi Giáng ta gặp Nguyễn Du đều đều, ở những câu trang trọng, phức tạp:
"Biển dâu sực tỉnh giang hà
Còn sơ nguyên mộng sau tà áo xanh"
(Áo Xanh)
Và cũng gặp Nguyễn Bính thường xuyên, ở những câu chân chất như lời lách lẹ ra từ tim; như thế này:
"Hôm nay mưa gió đầy trời
Về sau sẽ có vài người quên nhau"
(Mê Cung)
Hay như thế này này, khi nhà thơ tự tả mình trong cái nhìn của cô hàng xóm:
"Vừa điên dại vừa thê lương
Vừa vui trời đất vừa buồn nắng mưa".
(Lẩm Cẩm)
Lục bát Bùi Giáng là thơ của trời, lục bát Nguyễn Bính từ đất. Tư tưởng là nền cho thơ Bùi Giáng. Ở Nguyễn Bình là tình cảm. Có thể vì học vấn của họ Bùi thâm hậu, còn của họ Nguyễn thì chân quê! Nhiều câu thần của Nguyễn Bính, đọc xong bạn có thể vỗ đùi: "Giá Bính không viết, ắt mình hay thằng X. sẽ viết!" Cái thần Bùi Giáng là thần trời. "Ông trời xanh ắt cũng phải bối rối lắc đầu…" huống hồ. Bạn chỉ có thể vò đầu:
"Quét xong sân lá chợt buồn
Bỗng dưng chợt thấy nghìn muôn lỗi lầm" .
(Ca Dao)
Thần! Thần đến thế là cùng!
Hỏi ngay giới phê bình hay các fan Bùi Giáng rằng bài thơ nào, 2-3 bài thơ nào là hay nhất. Chắc họ tắc tị! Bù vào họ sẽ đọc vanh vách một vài câu, thậm chí cả chục câu xuất thần. Không! Bùi Giáng đâu phải là nhà-thơ-của-những-câu-thơ-bạc-cắc. Trong tập Đi Vào Cõi Thơ, khi tự bình thơ mình, ông chọn ra hai bài đượm chất chuồn chấu nhất – tức Bùi Giáng nhất – đó là Giữa Phố và Bóng Dương Buồn Ngủ. Đã nhâm nhi đến cả tá lần hai bài này, tôi khó mà có ý gì khác với tác giả. Song, nếu là người tuyển chọn, tôi sẽ chọn hai-ba bài khác, của riêng mình. Với những độc giả đã chịu rồi, thơ Bùi Giáng tỏ ra rất hào phóng, "dân chủ". Không như với đại đa số nhà thơ tên tuổi khác, các bài hay của họ dễ thành của chung trong lòng người yêu thơ. Ai cũng có thể có một Bùi Giáng, một thơ Bùi Giáng của riêng mình. Trong khi chúng ta thường có chung một Nguyễn Du, một Nguyễn Bính, một Xuân Diệu, một Hàn Mặc Tử, một Thanh Tâm Tuyền, một Hoàng Cầm, một Tô Thùy Yên... Và ngay cả một Đinh Hùng, một Trần Dần...
Thơ Bùi Giáng có trong sách giáo khoa cho học sinh chưa? Tôi cũng không biết! Nếu chưa thì nên có. Chọn vài bài thơ hay nhất của Bùi Giáng vào hợp tuyển văn học thì khó. Nhưng không khó lắm khi chọn thơ của ông vào văn tuyển, sách giáo khoa. Không xa tay tôi đang là tập Mưa Nguồn (NXB Hội Nhà Văn, Hà Nội, 1993.) Thi phẩm đầu tay của ông. "Có lẽ Mưa Nguồn là tập thơ đều tay và giá trị nhất của Bùi Giáng" (Đặng Tiến). Tôi giở không chủ ý, nơi trang 108, được bài lục bát Xuân Bình Dương. Nó có thể làm bài thuộc lòng cho học trò trung học thời a còng. (Phụ lục 2)

Công việc biên tập, in sách của Bùi Giáng được làm ra sao?

Tại sao thơ Bùi Giáng lại hay dở dở hay? Đây không chỉ là câu hỏi quan trọng cho giới phê bình nghiên cứu văn học, mà còn cho các nhà Bùi Giáng học. Vấn đề biên tập dự phần ra sao? Tôi muốn hỏi to một câu: Những khi thể trạng ông không điên-tỉnh, là người bình thường liệu Bùi Giáng có tham gia chịu trách nhiệm trong việc in ấn, phổ biến tác phẩm của mình không? Thực ra, các bản thảo "nguyên đai nguyên kiện" của một tác giả nào đó chỉ có giá trị nhất định đối với những ai làm công tác nghiên cứu văn bản. Một tác giả chỉ được đánh giá công bình qua các tác phẩm ra mắt độc giả trong sự kiểm soát nào đó của anh ta về sự công bố.
Ngợp và ngạt giữa cái phi phàm lại thú vị, cái khó hiểu đến kinh dị mà dễ thương, cái lộn xộn mà vẫn đâu ra đấy trong trước tác của Bùi Giáng, công tác biên tập sách, bài vở của ông ở miền Nam trước 1975, ở Việt Nam và hải ngoại sau đó, dường như đã không qua cách thức bình thường. Con người ta vốn sợ bỏ rơm rác ra khỏi một kho vàng. Cứ y như là khi phải ra đi rác rơm mang theo vàng vậy! Là người không có đời sống tinh thần và vật chất ổn định, là người viết tự do tuyệt đối (về phong cách, nhu cầu in ấn, tính chuyên nghiệp), tác phẩm của Bùi Giáng dựa trên ý thức của một người phi học, vô nghề. Cho dù có đúng là Bùi Giáng "không che dấu cái dở của mình. (...) Chẳng những thế, ông lại còn cố ý phô bày nó ra, phô bày một cách chân tình, hồn nhiên, toàn diện", nhưng những người biên tập đã làm gì cho tròn trách nhiệm? Chính các điều dang dở và các điều dở trong bản thảo đã góp phần tạo phong cách hay dở dở hay ở văn chương Bùi Giáng. Và thách đố cho những ai bạo gan biên tập sách, bài vở của ông là ở đấy. In sách thì phải cho ra sách. Ô cửa này của văn minh nhân loại thiên tài nào cũng phải qua, nếu đã vào vòng định giá. Nhất là ở thời này, khi văn hóa truyền thông coi việc truyền khẩu, giai thoại và các sản phẩm của nó như một cái gì man rợ!
Tôi ngưng đoạn này trong sự đồng tình cùng ý với Phạm Thị Hoài: "Không sửa sang cho ông, như thường miệt mài gọt rũa hay tưởng đang gọt rũa mình công phu lắm, với cái cớ rằng chữ nghĩa của ông từ ngàn khơi đổ về, chẳng ai biên tập một đại dương. Không thẩm định, không đòi hỏi, không đặt niềm tin, không thất vọng, ta nhẹ ban cho ông hai chữ "thiên tài".”

Bùi Giáng và Những đứa trẻ mồ côi

Lời đề từ ở trên cho bài này là nguyên một bài thơ của Bertolt Brecht. Lời, ý và tứ rõ ràng, lại mang nhiều nghĩa, nghĩa nào cũng rõ ràng. Rất Đức tính. Thực tế, hiển hiện. Trữ tình, sâu ngút. Ta hãy đọc nó (bốn câu đầu) bằng nụ cười, rồi (một câu cuối, hai chữ sau cùng) bằng nước mắt. Sau, đọc lại cả bài bằng nước mắt hay nụ cười cũng được. Các lần đọc sau, nước mắt khác nước mắt lần đọc trước, nụ cười cũng khác. Để chiêm nghiệm luật nhân quả như một lẽ thường tình, một điều bất an. Từ khi đọc nó lần đầu, chừng 30 năm nay, tôi giữ bài thơ nhỏ nhắn trong mình như ôm trọn bông hồng đơn rực sắc với những cánh gai dài nhọn. Mỗi nghĩa của bài thơ ám ảnh tôi trong từng vụ việc cụ thể.
Độc giả người Việt Nam và người ngoại quốc của văn học, rồi lịch sử, văn hóa Việt Nam cận-hiện đại là những đứa trẻ mồ côi. Nhiều "đêm-ngày" đã qua, trong số họ, kẻ chỉ có Trần Đức Thảo, Hoàng Xuân Hãn, Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi; đứa là của Nhất Linh, Hồ Hữu Tường, Mai Thảo; dăm tên mau mắt hơn thì có thêm Đào Duy Anh, Trịnh Công Sơn, Trần Dần, Bùi Giáng...
Mong cho bài tạp văn này về Bùi Giáng không phải theo phận đứa trẻ mồ côi. *)

Canada, 2003 - 2009
Đỗ Quyên
Bùi Giáng - cuộc đời như giai thoại
Bùi Giáng điên. Cũng có điên. Nhưng ông sống vui. Cũng thật vui. Kể chuyện ông, người nghe có thể cười cợt hoặc thèm thuồng, tùy ý, nhưng chắc chắn một điều, người ta không dễ gì quên.
Pham Mi Ly - 
Những tư liệu trích từ tập sách “Bùi Giáng trong cõi người ta”, cuốn sách tập hợp các bài viết về “Đười ươi thi sĩ” của các nhà nghiên cứu, do dịch giả Đoàn Tử Huyến chủ biên, đã dựng lên một chân dung Bùi Giáng rõ ràng hơn so với những gì người ta đã biết về ông. 45 bài viết, cả chân dung và phê bình, ghi chép nhiều câu chuyện có thật về Bùi Giáng qua cảm nhận người viết, trong đó nhiều người đã tiếp xúc với ông. Đỗ Lai Thúy là cây bút miền Bắc hiếm hoi có bài viết được tập hợp trong sách, bên cạnh những cây bút miền Nam như Bùi Văn Nam Sơn, Bùi Công Thuấn, Nguyễn Hữu Hồng Minh, Thu Bồn, Thanh Tâm Tuyền…

Nhà nghiên cứu Bùi Văn Nam Sơn, họ hàng của Bùi Giáng, từng viết: “Viết đôi lời về Bùi Giáng không bằng đọc thơ Bùi Giáng. Đọc Bùi Giáng không bằng giao du với Bùi Giáng. Giao du với Bùi Giáng không bằng sống như Bùi Giáng. Mà sống như Bùi Giang thì thật vui mà thật khó vậy”. Đó là nhận định rất chính xác, đến nỗi về sau hầu như không ai nói về “Đười ươi thi sĩ” mà không trích dẫn câu nói này. Vậy nên, đọc bình về thơ Bùi Giáng thì cũng thích vừa vừa thôi, đọc chuyện kể Bùi Giáng hồi còn sống, còn rong chơi mới thật là thích.

Vậy sống như Bùi Giáng là thế nào? Khi nói về con người ông, nhiều người bảo ông điên. Điên thật. Ông từng vào nhà thương điên. Nhưng điên chỉ là hình thức thể hiện, sự phản chiếu ra ngoài của suy nghĩ trong ông về cuộc sống. Chính ông cũng đã phát biểu quan niệm về sự sống và cái chết, nhân bình một bài thơ của Huy Cận, bài “Chết”. Bùi Giáng viết: “Chúng ta dường như quên mất rằng mỗi người chỉ có một cuộc sống thật xinh, và cuộc sống đó rất có thể bị những thứ tai hại trong hồn ta làm cho méo mó đi… Tiếc sao! Tiếc sao! Một sự sống quá đơn sơ, chúng ta cứ đời đời quên bẵng”.

Cuộc sống, theo Bùi Giáng, “có thể đổi dạng theo lối tuyệt vô hy vọng, hoặc điên cuồng, hoặc rồ dại. Nhưng cuối cùng, phải nên dìu nó về thể thái thanh thản khiêm tòng”. Ông đã sống một cuộc đời có nhiều khoảnh khắc “thanh thản khiêm tòng”, ấn tượng vẫn lưu lại trong ký ức và những câu chuyện của người thân, bè bạn.
Bùi Giáng rất yêu Huy Cận. Khi Marilyn Monroe chết, ông cảm thán: “Phải chi bình sinh nàng có đọc thơ Huy Cận, ắt nàng chẳng phải nên giận phận gì mà vội ngang tàn tính mệnh như thế” [ 1]. Ông xin chép bài “Nhạc sầu” ra để tặng nàng:
Ai chết đó! Nhạc sầu chi lắm thế…
xong xuôi lại viết: “Nhưng cố nhiên, chép xong rồi thì nên xếp giấy lại, ra đường phố dạo một phen rong chơi… Chẳng nên đăm chiêu dằng dặc. Chẳng nên o bế cái chết”. Khóc than mỹ nhân cũng chỉ bấy nhiêu thôi. Sau cùng, vẫn là rong chơi. Bùi Giáng đến ngày tóc bạc hom hem vẫn ngày ngày lê la trên vỉa hè Sài Gòn. Cuộc sống với ông là thế. “Nên kiệt tận miên bạc bình sinh để sống cho đậm đà thơ mộng”, vì với ông, nếu không làm thế, thì cuộc sống cũng chẳng khác nào cái chết.
Thời ông đi học, hai bài thơ “Chết” và “Nhạc sầu” của Huy Cận đã gây “chấn động dị thường” trong tâm can. Ông bỏ học, chạy về quê chăn dê. Bao nhiêu thơ làm ra, âm thầm tặng hết cho chuồn chuồn châu chấu. “Làm thơ tặng chú bé con/ Làm thêm câu nữa tặng con chuồn chuồn”. Mấy năm chăn dê chính là khoảng thời gian đáng nhớ trong cuộc đời của thi sĩ, là lúc ông thực sự có “tâm sự u uất”, muốn xa lánh cuộc đời, theo lời người em trai Bùi Công Luân.
Bùi Giáng có vẻ ngoài kỳ lạ, gặp rồi là khó có thể quên. Nhà báo Nguyễn Vạn Hồng kể lại: “Ông ăn mặc lôi thôi lếch thếch, bầy hầy hết chỗ nói”. Nhà thơ Thanh Thảo tả: “Bùi tiên sinh quẩy cái gì đó trên vai, trông nửa như Bồ Đề Đạt Ma, nửa như… bác hành khất”. Bùi Giáng lại có thời gian đi chăn dê ở Quảng Nam từ khoảng năm 1948, tổng cộng khoảng 3 năm, nhưng ông tự bịa là 15 năm, để tương đương với thời gian lưu lạc của nàng Kiều.
Những thông tin trên có thể khiến người đọc hình dung sai về gia cảnh của Bùi Giáng, vì nghe có vẻ… nghèo. Nhưng thực tế là ngược lại. Ông sinh ra trong một gia đình giàu có ở Quảng Nam, được coi là “một trang công tử”. Năm 1945, Bùi Giáng lấy vợ lần đầu ở tuổi 19, vợ là bà Phạm Thị Ninh xinh đẹp có tiếng, cũng con nhà giàu (nhưng bà sớm qua đời vào năm 1948). Đến khi ông đi chăn dê, cũng là tự bỏ tiền ra mua đàn dê 100 con chứ không phải chăn thuê. Chăn chơi vì yêu dê, không phải để bán hay để thịt vì nhà giàu không cần tiền, theo lời kể của người em rể là Phạm Văn Hòa.
Trong bài viết "Bùi Giáng trong đời tôi", tác giả Phạm Văn Nga, một nhà giáo, kể lại kỷ niệm hồi trẻ gặp gỡ nhà thơ như sau: Năm 1972 tại Sài Gòn, tác giả thấy Bùi Giáng mang một tập sách đến “chào hàng” tại hiệu sách nhưng bị chủ cửa hàng chối đây đẩy. Thấy trong tay ông có hai cuốn “Cõi người ta” và “Hoàng tử bé” của Saint Exupéry còn mới, lại do chính Bùi Giáng dịch, tác giả rụt rè đề nghị mua cho ông. Bùi Giáng chỉ bán nửa giá, bán xong xuôi còn hỏi: “Ê, sao mày không để tiền bao gái, mua sách làm gì?”. Phạm Văn Nga trả lời: “Dạ, tại con thích đọc”.

Thích chí, thi sĩ rủ cậu học trò đi uống rượu, xong còn tặng anh thêm 4 cuốn sách khác của ông, đề tặng như sau: “Kính tặng Ngài Văn Nga”. Ông giải thích: “Tao viết hoa chữ Ngài cho mày bằng Thượng đế vì những thằng mê sách đều xứng đáng là Thượng đế”.

Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo từng kể một câu chuyện về Bùi Giáng khi đã già. Có lần ông ra đường chơi, đi qua một đám cưới, thấy cô dâu xinh đẹp quá, liền xông vào đuổi theo khiến cô dâu sợ quá chạy té khói, làm loạn cả đám cưới của nhà người ta. Con cháu hay tin, đến lôi ông về. Ông về, nằm được mấy ngày, lại xúi người nhà mở cửa “để tao đi chơi”.
Thơ Bùi Giáng còn gây nhiều tranh cãi về độ hay dở, có những người không tiếc lời ca ngợi, nhưng cũng có những người cho là không ra gì. Nhưng hơn hết, Bùi Giáng không chỉ là thơ. Con người ông với cách sống, cách chơi, cách yêu kỳ lạ luôn khiến người ta cảm thấy thích thú khi nhắc tới. Chỉ qua thơ ông mà biết ông là điều không thể, và cũng không nên. Vì sẽ thiếu. Khi đã biết về ông, ít ai chưa một lần muốn sống như ông. Vui nhưng mà cũng khó.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét