MỘT TÂM HỒN MÊNH MANG ẢO DIỆU
Thanh Thảo
Không chỉ làm thơ, dịch tiểu thuyết, viết
sách khảo luận triết học, Bùi Giáng còn viết rất nhiều tùy bút văn học, đặc biệt
là tùy bút về thơ. Đọc những tùy bút này, ta nhìn thấy tâm hồn ông mênh mang ảo
diệu, thăm thẳm như bầu trời. Ông cảm nhận được những điều tinh vi huyền bí nhất
của thi ca. Ông đúng là tri âm của các thi sĩ. Chúng tôi xin giới thiệu một bài
trong số đó, đây là bài Bùi Giáng viết về Tuệ Sỹ, trích trong tập Đi vào cõi
thơ.
Tuệ Sỹ là một vị sư. Ông viết văn quá
nghiêm túc, những sở tri của ông về Phật học quả thật quảng bác vô cùng. Thấy
ông vẻ người khắc khổ, không ai ngờ rằng linh hồn kia còn ẩn một nguồn thơ thâm
viễn u u... Một bữa ông đọc cho tôi nghe hai câu thơ chữ Hán của ông:
Thâm dạ phong phiêu nghiệp ảnh tùy
Hiện tiền vị liễu lạc hoa phi
Ông bảo làm sao tiếp cho hai câu để nên một bài tứ tuyệt. Tôi đề nghị với ông
nên nhờ ni cô Trí Hải tiếp giùm. Ông ngượng nghịu bảo tôi đừng nên rỡn đùa như
thế. Vậy tôi xin lai rai thử viết:
Thâm dạ phong phiêu nghiệp ảnh tùy
Hiện tiền vị liễu lạc hoa phi
Phiêu bồng tâm sự tân toan lệ
Trí Hải đa tàm trúc loạn ty
Và xin ông chả nên lấy thế làm bực mình.
Nhưng ai có ngờ đâu nhà sư kín đáo e dè kia, không hề bao giờ có vướng lụy, lại
còn mang một nguồn thơ Việt phi phàm ? Một bài thơ "Không đề" của ông
đủ khiến ta khiếp vía mất ăn mất ngủ:
Đôi mắt ướt tuổi vàng khung trời hội cũ
Áo màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang
Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ
Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn
Mới nghe bốn câu thôi, tôi đã cảm thấy lạnh buốt linh hồn, tê cóng cả cõi dạ.
Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở
Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan
Cười với nắng một ngày sao chóng thế
Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng
Đếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ
Bụi đường dài gót mỏi đi quanh
Giờ ngó lại bốn vách tường ủ rũ
Suối nguồn xa ngược nước xuôi ngàn
Tôi hoảng vía đề nghị: Đại sư nên gác bỏ viết sách đi. Và làm thơ tiếp nhiều
cho, nếu không thì nền thi ca Việt mất đi một thiên tài quá lớn.
Ông đáp: Để về hỏi lại ni cô Trí Hải xem có đúng như lời thế chăng.
Đôi mắt ướt tuổi vàng
Khung trời
Hội cũ
Xin xuống dòng thư thả như thế. Ắt nhìn thấy chất trang trọng dị thường của
hoài niệm. Hoài niệm gì ? - Khung trời hội cũ.
Một hội Đạp thanh ? Một hội nao nức ? - "Giờ nao nức của một thời trẻ
dại ?".
Đôi mắt ướt tuổi vàng khung trời hội cũ...
Mở lời ra, nguồn thơ trực nhập vào trung tâm cơn mộng chiêm niệm. Đầy đủ hết mọi
yếu tố bát ngát: một cung trời xán lạn bao la, một hội cũ xao xuyến, một tuổi
vàng long lanh... Một đôi mắt ướt ngậm ngùi của hiện tại.
Nhưng mạch thơ đi ngầm. Tiết nhịp âm thầm nhiếp dẫn. Thi sĩ không cần tới một
hình dung từ nào cả, vẫn nói được hết mọi điều "phải nói" với mọi người
"muốn nghe" với riêng mình "không thiết chi chuyện nói".
Người thi sĩ xuất chúng xuất thần thường có phong thái khác thường đó. Họ nói rất
ít mà nói rất nhiều. Họ nói rất nhiều mà chung quy hồ như chẳng thấy gì hết. Họ
nói cho họ, mà như nói hết cho mọi người. Nói cho mọi người mà cơ hồ chẳng bận
tâm gì tới chuyện thiên hạ nghe hay chẳng nghe. Nỗi vui, nỗi buồn của họ, dường
như chẳng giống lối vui buồn của chúng ta. Do đó chúng ta trách móc họ một cách
lệch lạc hết cả (par manque de justice interne).
Trong một cuộc vui, ta hỏi họ vài điều. Họ lơ đễnh thờ ơ, ta tưởng họ kiêu bạc.
Trong lúc mọi người đang gào khóc giữa đám tang, họ phiêu nhiên đi qua, trông
có vẻ như mỉm cười, niêm hoa vi tiếu. Ta tưởng họ tàn nhẫn thô bạo.
Vua Gia Long ngày xưa đã từng lấy làm quái dị về thái độ Nguyễn Du: "Trẫm
dùng người, không phân biệt kẻ Nam kẻ Bắc. Ai có tài thì trẫm trọng dụng (...
...). Cớ sao khanh lại u sầu ít nói suốt năm như thế ?".
Ông vua kia lấy làm lạ là phải lẽ lắm, hợp với lương tri thói thường thiên hạ lắm.
Ông không thể hiểu vì sao vị di thần kia cứ miên man như nằm trong cõi mộng thần
di, hồn dịch !
Vua đã ban cho chan hòa mưa móc, lộc trọng quyền cao đặc ân thâm hậu như thế, cớ
sao Liệp Hộ chưa vừa lòng, vẫn chưa cứ thả
mộng chạy lang thang về chân trời hướng khác.
Đáp: Ấy chính bởi đôi mắt nhìn đây mà thấy những đâu đâu.
Đôi mắt ướt tuổi vàng
Khung trời hội cũ
Đôi mắt ướt ? Đôi mắt của ai ? Vì sao ướt ? Vì lệ trào, hay là vì quá long lanh
?
Thi sĩ không nói rõ. Ấy là giữ một khoảng trống vắng lặng phóng nhiệm cho thơ.
Tha hồ chúng ta tự do nghĩ hai ba lối. Hoặc là đôi mắt thi nhân ướt trong hiện
tại vì nhớ nhung một trời hội cũ. Hoặc là đôi mắt giai nhân nào long lanh dịu mật
như nước suối chan hòa, soi bóng một khung trời hội cũ bất tuyệt nào, mà ngày
nay tại hạ đã đánh mất rồi chăng ?
"Áo màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang"
Áo nào màu xanh ? Màu xanh màu chàm của cô gái Mán gái Mường, gái núi nào xưa
kia băng rừng và thi nhân đã ngẫu nhiên một lần nhìn đắm đuối ?
Tôi nói không sai sự thật mấy đâu. Vì Tuệ Sỹ vốn xưa kia ở Lào. Cha mẹ ông kiều
cư trên đất Thượng Lào Trung Việt. Bà mẹ ông thỉnh thoảng cũng trở về Sài Gòn tới
chùa viếng ông đem quà cho ông một đôi dép riêng biệt, một tấm khăn quàng riêng
tây.
Đôi mắt ướt tuổi vàng
Khung trời hội cũ
Áo màu xanh
Không xanh mãi
Trên đồi hoang
Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ.
Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn
Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ ? Mình là thân Bồ tát, quanh năm kinh kệ trai
chay, thế sao bỗng nhiên một phút vội vã lại dám làm thân du thủ ? Dám gác bỏ kệ
kinh ? Dám mở cuộc thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn ?
Phải có nhìn thấy khuôn mặt khắc khổ
chân tu của Tuệ Sỹ, mới kinh hoàng vì lời nói thăm thẳm đơn sơ nọ. Lời nói như
ngân lên từ đáy sâu linh hồn tiền kiếp, từ một quê hương trên thượng du bao la
rừng núi gió sương canh chiều nguyệt rung rinh trong đêm lạnh.
Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở
Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan
Cười với nắng một ngày sao chóng thế
Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng
Mối tình rộng thả suốt biển non im lìm lạnh
lẽo. Một hạt muối vẫn chưa tan. Một nếp u ẩn của lòng mình bơ vơ không gột rửa.
Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở
Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan
Ta tưởng như nghe ra "cao cách điệu"
bi hùng của một Liệp Hộ, một Nerval, một chỗ trầm thanh nhất trong cung bậc
Nietzche.
Thi nhân đã mấy phen ngồi ngó trăng tàn
? Ngồi trên một đỉnh đá ? Bốn bề rừng thiêng giăng rộng ngút ngàn màu trăng
xanh tiếp giáp tới chân trời xa xuôi đại hải?
Đỉnh đá và hạt muối là hai chốn kết tụ
tinh thể của núi và biển. Đỉnh đá quy tụ về mọi hương màu trời mây rừng rú. Hạt
muối chứa chất cái lượng hải hàm của trùng dương. Đó là cái bất tận của tâm
tình sừng sững tại giữa tuế nguyệt phiêu du:
Cười với nắng một ngày sao chóng thế
Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng
Một tiếng "buồn chăng" lơ
lửng nửa như chất vấn, nửa như ngậm ngùi ta thán, dìu về cả một khúc tâm thanh
đoạn trường:
Sen tàn cúc lại nở hoa
Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân
Đếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ
Bụi đường dài gót mỏi đi quanh
Tiết nhịp lời thơ lại biến đổi:
Đếm tóc bạc
Tuổi đời
Chưa
Đủ
Bụi đường dài
Gót
Mỏi
Đi
Quanh
Tiết điệu rạc rời như gót mỏi đi quanh.
Một tuổi đời chưa đủ ? Một tuổi xuân chưa vừa ? Một tuổi vàng sớm chấm dứt ? Một
tuổi "đá" sớm từ giã mọi yêu thương ?
Giờ ngó lại bốn vách tường ủ rũ
Suối nguồn xa
Ngược nước
Xuôi ngàn
Bài thơ dừng lại. Dư âm bất tuyệt kéo
dài trong đêm lữ thư khép mình trong bốn bức tường với nhạt nhòa ủ rũ ngục tù.
Chỉ một bài thơ, Tuệ Sỹ đã trùm lấp hết
chân trời mới cũ Đường Thi Trung Hoa tới Siêu Thực Tây Phương.
Thanh Thảo
TRƯỜNG HỢP BÙI GIÁNG
(Nguyễn Hưng Quốc)
Khi viết về thơ ở miền Nam trước 1975
cũng như thơ trong nước sau 1975, tôi ít nhắc đến Bùi Giáng. Không phải vì tôi
đánh giá ông thấp. Ngược lại. Tôi đồng ý với Mai Thảo: Bùi Giáng là một tài thơ
trác tuyệt. " Có Ông, thi ca mới đích thực có biển có trời" (1).
Càng đọc Bùi Giáng tôi càng thấy ông lạ lùng. Con người ông lạ lùng: nói như
Thanh Tâm Tuyền, qua lời kể của Mai Thảo, Bùi Giáng là người " ngủ ra thơ,
thở ra thơ, đi ra thơ, đứng ra thơ. Chứ không phải nghĩ thơ, làm thơ" (2).
Thơ ông càng lạ lùng, lạ lùng đến nổi ai cũng ngại ngùng khi viết về ông. Kể
chuyện về ông: có, nhưng phê bình thơ ông: chưa. Có lần, Thanh-Tâm-Tuyền gọi
Bùi Giáng là một " thiên tài tự hủy ghê gớm nhất của thi ca Việt Nam
hiện đại" và là " một hồn thơ bị vây khốn" (3). Bị vây khốn
bởi cái gì? Theo tôi, Bùi Giáng bị vây khốn, trước hết, bởi những hoài nghi, những
dằn vặt. Thì một số khá đông các nhà thơ khác ở miền Nam thời kỳ 1954-1975 cũng
hoài nghi, cũng dằn vặt. Song, có điều, không ai sống đến tận cùng sự hoài
nghi, sự dằn vặt như là Bùi Giáng. Thơ Bùi Giáng là những phún thạch phun lên từ
hỏa diệm sơn của hồn ông. Nhưng khác các nhà thơ khác, Bùi Giáng lại ngụy trang
thảm kịch của mình bằng một giọng cợt nhã, bông đùa. Trong một bài viết về Hàn
Mặc Tử, sau khi ghi nhận thơ Hàn Mặc Tử là " một tiếng thét và một lời
than. Tiếng thét đầy máu, tiếng than tràn ngập hư vô. Lúc hãi hùng khiếp đảm,
lúc quạnh quẽ lạc phách xiêu hồn" , Bùi Giáng nhắc đến thơ của chính
ông như một sự so sánh:
" Thơ tôi làm...là một cách dìu ba
đào về chân trời khác. Ði vào giữa trung tâm bão giông một lúc thì lập thời xô
ngôn ngữ thoát ra, phá vòng vây áp bức. Tôi gạ gẫm với châu chấu chuồn chuồn,
đem phó thác thảm họa trần gian cho chuồn chuồn mang trên hai cánh mỏng bay đi.
Bay về Tử Trúc Lâm, bay về Sương Hy Lạp, ghé Calvaire viếng thăm một vong hồn
bát ngát, rồi quay trở về đồng ruộng làm mục tử chăn trâu. Làm mục tử chăn trâu
không xong bỏ trâu bò chạy lạc, phá phách mùa màng khoai sắn, thì tôi chạy về bẩm
báo với ni cô cho phép con chuồn chuồn của tôi cư lưu một phút giây trong linh
hồn bao dung phương trượng. Ni cô xua đuổi tôi thì tôi ra bờ sông nằm ngủ khóc
một mình thơ dại giữa chiêm bao. Trong chiêm bao, thơ về lãng đãng thì từ đó vần
bất tuyệt cũng lãng đãng chiêm bao" .(4)
Có dìu ba đào về chân trời nào khác thì
ba đào vẫn cứ là ba đào, động biển vẫn cứ là động biển. Bay đi đâu cánh chuồn
chuồn của Bùi Giáng cũng gặp giông bão. Giông bão dậy lên, trước hết, từ đôi
cánh của nó: ngôn ngữ. Ðã đành làm thơ, ai cũng chú trọng đến ngôn ngữ. Song
tôi có cảm tưởng ít có ai bị ám ảnh bởi vấn đề ngôn ngữ một cách nặng nề, triền
miên như Bùi Giáng. Chữ " ngôn ngữ" thường xuyên xuất hiện trong thơ
ông, đặc biệt trong hai tập thơ mới xuất bản ở hải ngoại sau 1975 (5), ở đó câu
Ðường qua ngôn ngữ tuyệt trù, Ðường qua ngôn ngữ điệp trùng và Ðường qua ngôn
ngữ cuối cùng được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong nhiều bài thơ khác nhau.
Hãy để ý đến nhóm từ " đường qua ngôn ngữ" : với Bùi Giáng dường như
công việc làm thơ chủ yếu là một cuộc hành trình vượt qua ngọn đèo cheo leo của
ngôn ngữ trước khi là bất cứ một cái gì khác. Ngọn đèo ấy không những cheo leo
mà còn mù mịt, thăm thẳm. Phần lớn các câu thơ kế tiếp mấy câu vừa dẫn đều là
bóng đêm (Mừng xuân viễn vọng đêm bù cho đêm; Mừng xuân viễn vọng đêm lừng lẫy
đêm; Mừng xuân viễn tuyệt đêm từng từng đêm...) Xuân, ừ thì xuân. Nhưng đêm vẫn
mịt mùng đêm. Ðêm vô tận. Ngôn ngữ không làm cho bóng đêm ấy tan biến. Trái lại.
Chấm ngòi bút sắt se vào mực
Viết ra câu thúc giục sương mù
(Mùa xuân chiêm bao)
Trong lúc hầu hết các nhà thơ khác, mặc
dù nhận chân được vị thế hẩm hiu của nhà thơ trong xã hội, vẫn tin tưởng vào
ngôn ngữ và vẫn tự hào về công việc sáng tạo của mình, nói như Thanh Tâm Tuyền,
" cuộc hành trình hoàn toàn cô độc" trên một " con đường chưa ai
tới" (6), Bùi Giáng, ngược lại, tuy vẫn làm thơ, hơn nữa, còn làm thơ cực
kỳ nhiều, nhiều hơn bất cứ một người nào khác, lại có vẻ rất coi thường cái việc
làm thơ ấy và chắc chắn là không mấy tin tưởng vào khả năng thể hiện của ngôn
ngữ:
Người điên ngôn ngữ điệp trùng
Dở chừng như mộng dở chừng như mê
Thưa em ngôn ngữ quặt què
Làm sao nói hết nghiệp nghề người
điên
(Người điên)
Trong quyển " Mùa thu trong
thi ca" , Bùi Giáng viết:
Một hôm Mai Thảo bảo rằng
Làm thơ bê bối sao bằng đi rong
phố phường mọc cỏ quanh năm
(Sa mạc phát tiết)
Có người đọc câu thơ thấy đâm ra bực
mình hỏi: " Phố phường đâu có cỏ nào mọc! Thằng thi sĩ ăn nói tầm phào,
sai sự thật!" Ấy thế là người ta cưỡng bức thi ca một cách không chính
đáng. Và trầm trọng hơn nữa, người ta tưởng chừng như tin rằng ngôn ngữ có thể
nói ra được sự thật. Tưởng chừng như người ta chẳng bao giờ suy gẫm về Kim
Cương Kinh. " Thế gian ngôn ngữ phi chân kinh" .(7)
Ngôn ngữ không những quặt què, không những
không nói ra được sự thật mà, hơn nữa, trong thời hiện đại, đặc biệt khi cuộc
chiến tranh lạnh giữa hai khối Tư bản - Cộng sản đang gay gắt, khi cuộc chiến
tranh giữa hai miền Nam và Bắc Việt Nam đang ác liệt, khi vấn đề thắng bại
không những được quyết định ngoài chiến trường mà còn trên các bàn hội nghị quốc
tế, ngôn ngữ còn có tác dụng ngược lại: nó che giấu sự thật và, thay vì đem lại
sự cảm thông giữa loài người, nó lại làm cho con người ngộ nhận lẫn nhau, thù
ghét lẫn nhau, say sưa chém giết lẫn nhau. Ðó là lý do tại sao Bùi Giáng lại:
Tôi gọi Mỹ Tho là Mỹ Thỏ
Mỹ Thọ muôn đời là lục tỉnh hôm
nay
Tôi gọi Sóc Trăng là Sóc Trắng
Gọi người sương phụ gái thơ ngây
(Lẫn lộn lung tung)
Bùi Giáng xáo trộn chữ nghĩa để nói lên
một sự thật: ngôn ngữ đang bị xáo trộn, đang bị tha hóa. Bùi Giáng gọi Mỹ Tho
là Mỹ Thỏ, Mỹ Thọ, người ta cho là hài hước hoặc điên khùng, nhưng chẳng phải
là trong cuộc sống, người ta đã không từng gọi một kẻ bán nước là yêu nước, một
kẻ giết người như ngoé là nhân đạo, một kẻ bắn súng vào anh em vào đồng bào vào
đồng loại vì một thiên đường không tưởng nào đó là cách mạng đó ư? Chẳng phải
là người ta đã không từng gọi nhà tù là trại học tập, độc tài là tập trung dân
chủ, sự ngu đần là đỉnh cao trí tuệ, khố xanh khố đỏ là quốc gia, thái độ khom
lưng trước ngoại bang là biểu hiện của tinh thần dân tộc đó ư? Thử thế chữ Mỹ
Tho bằng bất cứ chữ nào trong từ điển chính trị Việt Nam hiện đại, người ta sẽ
thấy ngay cái điều mà Ionesco từng nói: " một nền văn minh của ngôn ngữ là
một nền văn minh quẩn trí, hỗn độn" (8). Ngôn ngữ mất linh hồn. Ngôn ngữ
xác xơ, rách mướp, tơi tả. Nhiều người thuộc loại nhạy cảm nhất trong thời đại
chúng ta đã thất vọng não nề. Sự thất vọng ấy ở Tây phương, dẫn đến sự im lặng
của một số người cầm bút, sự ra đời của loại kịch không lời; ở Bùi Giáng, tạo
ra những vần thơ đại loại thế nầy:
...Một hai hai một di hài
Dài hi hữu mộng an bài chẩm ma
Chả xin? Chả hỏi? Vịt gà?
Và thân thể máu me và thịt
xương...
...Ma đên ỳ nẽ ô mà
Xơ tin ô đố đâu là đến đây
Xền nô đô thí xi đầy
Xè rê tê nến ngọn lầy lội cơn
A tin a tỉ oan hồn
Vong lưu lỳ lẩy cung đờn cợt trêu
Người ơi ô ướt dấu bèo
ồ thôi thế vậy thu vèo sang thu
Lừng bay thân thế pha mù
Sương mây tuyết dậy thân bù cho
thân
(Ðạm Tiên)
Gắn liền với sự hoài nghi ngôn ngữ là sự
hoài nghi lý trí. Trong lúc hầu hết các nhà thơ khác, mặc dầu hoài nghi lý trí,
luôn luôn khắc khoải tìm kiếm sự thật, với niềm tin dù mơ hồ và mong manh, là sự
thật ấy có đâu đó, sẽ gặp được một ngày. Bùi Giáng, ngược lại, tuy dịch và viết
khá nhiều tác phẩm về triết học hiện đại Tây phương, lại hoàn toàn phủ nhận đầu
óc duy lý của Tây phương, hoàn toàn mất niềm tin với mọi cái gọi là chân lý. Cuộc
đời, với Bùi Giáng, là chuổi dài những nghi vấn và phẩn nộ:
Ði vào giữa cuộc thị phi
Nửa tam bành tới nửa nghi vấn về
(Y ư mộng, du ư mê)
Làm thơ, với Bùi Giáng, là một hành động
phản kháng, phản loạn. Như Từ Hải trong truyện Kiều của Nguyễn Du: Sao bằng
riêng một biên thùy
Cõi điên vũ trụ tùy nghi tung
hoành
Xiết bao vô ngại ngọn ngành
Chọc trời khuấy nước tan tành thịt
xương
Ấy như thể, ấy như dường
Ði vô tận ý đi đường chơn không
Ði mây gió đi phiêu bồng
Ngàn trăng ngậm bóng sương đồng ra
đi
Ði về thể lệ lâm ly
Ði đi suốt cõi lời nghi vấn lời.
(Sao bằng)
Nghi vấn. Lúc nào cũng nghi vấn. Nghi vấn
cả lời nói của mình. Bài thơ Tặng Mã Giám Sinh là một bài thơ hay:
Hỏi tên? Rằng biển dâu xanh
Hỏi quê? Rằng mộng ban đầu đã xa
Gọi tên? rằng một hai ba
Ðếm là diệu tưởng đo là nghi tâm.
Tôi đoán là Bùi Giáng rất tâm đắc bài
thơ nầy. Nó được in lần đầu trong " Mùa thu trong thi ca" với
tựa là " Mã Giám Sinh" , sau in lại
trong " Thơ Bùi Gíáng" xuất bản tại Canada năm 1990 với
sự thay đổi nhỏ: thêm chữ " tặng" ở tựa đề. Có hay
không có chữ " tặng" , thật ra cũng chả có gì quan trọng.
Cũng như mọi cái tựa trong thơ Bùi Giáng chả có gì là quan trọng. Lười, ông thường
nhặt bất cứ từ hay nhóm từ nào trong bài dùng để làm nhan đề. Bài thơ trên được
đặt tựa là Mã Giám Sinh hay Tặng Mã Giám Sinh có lẽ để ghi
lại xuất xứ một nguồn cảm hứng: nó xuất phát từ mấy câu thơ trong Truyện
Kiều có liên quan đến Mã Giám Sinh:
Hỏi tên, rằng: Mã Giám Sinh
Hỏi quê, rằng: huyện Lâm Thanh, cũng gần.
Trong bài Chiều nguyên xuân in trong tập
Mưa Nguồn, xuất bản từ năm 1963, Bùi Giáng đã bị ám ảnh bởi vấn đề quê
hương:
Hỏi rằng: người ở quê đâu
Thưa rằng: tôi ở rất lâu quê nhà
Từ " ở rất lâu quê
nhà" đến " mộng ban đầu đã xa" , tư tưởng của
Bùi Giáng đã vượt biên, lấn sang một tầm khác. Với một sức oằn khác. Dẫu sao, ở
đây điều quan trọng nhất là câu cuối cùng: " đếm là diệu tưởng đo là
nghi tâm" . Mọi sự phân biệt đều bị xóa nhòa. Tôi cho đây là đặc điểm
nổi bật nhất trong phong cách thơ Bùi Giáng: Thơ Bùi Giáng chính là sự xóa nhòa
của mọi đường biên quen thuộc vốn được mọi người chấp nhận như là một quy ước,
một luật lệ trong văn học từ xưa đến nay.
Thứ nhất là xóa nhòa những đường biên về
giọng điệu. Những ai từng viết lách ít nhiều cũng đều hiểu cái khó nhất đối với
người cầm bút là pha trộn giọng điệu, nghĩa là, chẳng hạn, vừa nghiêm túc lại vừa
cười cợt, vừa uyên bác lại vừa bình dân, vừa suy tư lại vừa thích thảng. Bùi
Giáng vượt qua tất cả những khó khăn ấy một cách nhẹ nhàng. Ví dụ dưới đây, tôi
chọn một cách tình cờ:
Hai cô bán phở dịu dàng
Ðừng nên nói bậy hai nàng buồn
ta"
-Trẫm từ lịch kiếp phôi pha
Tái sinh bất chợt mà ra phụ lòng
Tình thương ẩn mặt từ trong
Nội tâm vô tận mà long đong vì
Phong tao phấn đại tương nghi
Tùy thời thể dựng mà tuy nhiên là.
(Tặng quán phở Huyền Trân)
Ai cũng thấy rõ hai câu đầu và sáu câu
sau có giọng điệu khác hẳn nhau. Vậy mà, riêng tôi, thú thật, tôi không hiểu tại
sao Bùi Giáng có thể chuyển từ hai câu đầu xuống sáu câu dưới một cách dễ dàng
tự nhiên như vậy. Mà đây cũng lại là một đặc điểm rất phổ biến trong thơ Bùi
Giáng. Nói một cách tóm tắt, thơ ông có hai loại từ vựng: một loại tạm gọi là
bác học và một loại tạm gọi là bình dân. Bác học thì như thục nữ, thuyền quyên,
cảo thơm, thượng thừa, miên trường, đoạn trường, băng tuyết, thập thành
v.v...nghĩa là những từ Hán Việt lâu lắm không còn được sử dụng nữa. Còn bình
dân thì như đại ca, Huê ky., Liên Xồn, lai rai, nhậu nhẹt, máu me, số dzách, dấn
bước, dấn liều v..v...nghĩa là những khẩu ngữ còn lấm lem bụi bặm ngoài đường
ngoài phố. Cả hai loại đều dễ khiến giới làm thơ chùn tay. Dùng loại trên thì dễ
có nguy cơ trở thành sáo, cổ. Dùng loại dưới thì dễ có nguy cơ trở thành nhả nhớt,
rẻ tiền. Bùi Giáng hoàn toàn thoát khỏi hai nguy cơ ấy. Hơn nữa, ông còn hòa trộn
cả hai loại ngôn ngữ ấy lại với nhau một cách tài tình. Ðọc, người ta không hề
có chút cảm giác lấn cấn nào. Như một phép mầu.
Gắn liền với sự xóa nhòa trên là một sự
xóa nhòa khác: xóa nhòa ranh giới giữa truyền thống và hiện đại. Không phải Bùi
Giáng kết hợp truyền thống và hiện đại, như cái điều chúng ta có thể nói về một
số nhà thơ khác. Nói đến sự kết hợp giữa truyền thống và hiện đại tức là thừa
nhận chúng ta có thể ít nhiều khu biệt đâu là truyền thống và đâu là hiện đại. Ở
Bùi Giáng, mọi nỗ lực khu biệt ấy đều trở thành vô vọng. Ở Bùi Giáng, tính chất
truyền thống và tính chất hiện đại tan hòa vào với nhau. Là một. Thể thơ ông
dùng: cũ; hình tượng ông dựng: cũ; ngôn ngữ ông viết: cũ, thế nhưng, rất lạ,
toàn bộ bài thơ của ông thì lại mới, mới như chưa từng có ai viết được như thế.
Mới đến độ tôi có cảm tưởng phần lớn những từ, những chữ nào đã được Bùi Giáng
sử dụng một lần đều trở thành của riêng của Bùi Giáng, một thứ tài sản của Bùi
Giáng, trên đó có dấu ấn của Bùi Giáng; sau đó, ai dùng lại những từ ấy, chúng
ta cứ ngờ ngợ như họ ăn cắp của Bùi Giáng. Ðọc thơ của bất cứ người nào, hễ gặp
chữ " giũ áo" , " rớt hột" , " đười ươi" , "
chuồn chuồn" ," châu chấu" ...chúng ta hay tri hô lên: Bùi
Giáng! Ngay cả một số từ quen thuộc hơn, như " thập thành" , "
máu me" , " lai rai" ...chúng ta cũng lại tri hô lên: Bùi Giáng!
Trong lịch sử thi ca Việt Nam hiếm có trường hợp nào lạ lùng đến như vậy. Phần
lớn, tính chất độc đáo chỉ ở cấp độ bài hoặc cấp độ câu. Ở Bùi Giáng, tính chất
độc đáo thể hiện ngay ở đơn vị từ. Với sự xuất hiện của Bùi Giáng, số phận các
nhà thơ đâm ra lao đao hẳn. Khi chọn chữ không khỏi có cảm giác e dè vì sợ dẫm
vào dấu chân của Bùi Giáng.
Thứ ba, là sự xóa nhòa ranh giới giữa
cái gọi là thơ và cái gọi là phi thơ. Ngổn ngang trong thơ Bùi Giáng những chi
tiết ngỡ như không bao giờ thành thơ được, ngỡ như mãi mãi thuộc thế giới của
văn xuôi, của tiểu thuyết, của đời thường. Nhớ người yêu, có lẽ ai cũng nhớ như
Bùi Giáng nhưng không có ai viết được như Bùi Giáng:
Bây giờ em đứng nơi đâu
Cỏ trong mình mẩy em sầu ra sao
(Gửi thôn nữ Vĩnh Trinh)
Bùi Giáng có tài hóa giải những tình thế
oái oăm: cái đáng lẽ sàm sỡ, dưới ngòi bút ông, tự nhiên thành thơ mộng, thiết
tha, tội nghiệp. Bùi Giáng cũng có tài làm cho những cái lắt nhắt trở thành
mênh mang:
Sáng nay bao tử mơ mòng
Cà phê bên nọ, cháo lòng bên kia
(Sáng nay)
Tất cả những chi tiết ấy đều tầm thường
đến độ nhảm nhí. Ði vào thơ Bùi Giáng, tự dưng chúng lại có một âm vang gì rất
lạ, rất xa, tưởng như không còn là chuyện " cà phê" hay " cháo
lòng" nữa.
Một nỗi phân vân giữa cuộc đời, chẳng hạn.
Một niềm xót xa trong cảnh khốn cùng, chẳng hạn. Bùi Giáng còn có tài làm cho
những cái linh thiêng trở thành bình thường. Những Thượng Ðế, Phật, Thánh Hiền...đi
vào thơ ông, mất một chút hào quang, song bù lại, dường như đẹp hơn. Bùi Giáng
làm cho cái đáng kính biến thành cái đáng yêu. Hình tượng ni cô trong thơ ông
là một ví dụ. Bùi Giáng cũng lại có tài làm cho cái thô và tục trở thành những
cái thơ mộng, xôn xao. Cuối cùng, thứ tư, tôi tạm gọi là sự xóa nhòa giữa cái
lý và cái phi lý; ít có ai để ý trong thơ Bùi Giáng có đặc điểm nầy: ông rất
thích dùng những từ có tính chất lý luận như " mặc dù" , "
càng...càng" , " vẫn là" , " và" , " vì" .
" rằng" , " bởi chưng" , " chỉn e" , " té
ra" , và đặc biệt, nhiều nhất là từ " tuy nhiên" ... Chắc chắn
là không có nhà thơ nào dùng các từ nầy nhiều bằng ông. Thế nhưng, cách Bùi
Giáng sử dụng các liên từ nầy rất lạ lùng, không giống bất cứ người nào trước ông
hoặc sau ông. Xin hãy đọc lại bài Tặng quán phở Huyền Trân dẫn ở trên, và hãy
chú ý đến ba câu cuối cùng: chữ " vì" và chữ " là" đứng hết
sức lửng lơ. Chúng không nối kết cái gì cả. Chúng cũng không giải thích cái gì
cả. Chúng hoàn toàn trái ngược mọi luật lệ ngữ pháp. Chúng thường xuất hiện ở
những vị trí thật bất ngờ: ở cuối câu, thường là câu cuối bài:
-Em về - nhà cửa nhỏ nhoi
Buồn rầu khôn xiết em soi gương
và...
(Em đi)
-Nối đuôi khởi sự từ đầu
Ví dù kết thúc trước sau vẫn là...
(Vẫn là là)
-Bá phương phảng phất rồi xa
Mùi hương xa vắng càng xa xôi
càng...
(Băng tâm)
-Mai sau dù có đi về
Xin nhìn gió rụng ngành tre thưa rằng...
(Em về)
Một điều vừa thú vị vừa khó hiểu là: người
đọc thơ Bùi Giáng lại ít chú ý, không bị giật mình vì những cách dùng từ, đặt
câu ngược ngạo như vậy. Mà, ở những trường hợp nầy, Bùi Giáng đều cố tình cả. Một
mặt, tần số xuất hiện của những kiểu câu như thế ê hề; mặt khác, nhiều lúc Bùi
Giáng đem những liên từ lý luận ra đùa nghịch:
-Nếu và nhưng vẫn ắt rằng
Tuy nhiên thế nọ thường hằng thế
kia
Và nhưng tuy dẫu là chia
Lìa cha biệt mẹ bốc tia sinh tồn
(Tuy nhiên)
-Tuy nhiên đất quạnh sơn hà
Còn tuy nhiên mãi họa là nhiên tuy
(Ich dụng hung sự)
-Mần răng ra rứa ví dù
Mần ri thế nọ tịt mù thế kia
(Mỗi ngày)
Một lần, Bùi Giáng giải
thích: " Dù sao, tôi nói dù sao, bởi vì thiên hạ vốn ưa thích dù
sao. Cho có mạch lạc. Chứ thật tình tôi chẳng rõ sao gọi là mạch lạc liên tục
ngụ trong tính tình của ngôn ngữ dù sao dao sù" (9)
Cách phân tích như trên khá nguy hiểm:
nó dễ làm cho người ta có cảm tưởng thơ Bùi Giáng là một cái gì tĩnh tại và cố
định. Thật ra, không phải. Theo dõi thơ Bùi Giáng chúng ta sẽ nhận ra ông thay
đổi không ít. Tập Mưa Nguồn xuất bản năm 1962 rất trong sáng; từ tập Ngàn thu rớt
hột (1963) về sau, thơ ông tối tăm hẳn; sau năm 1975, ở hai tập thơ xuất bản tại
hải ngoại, thơ ông trong sáng trở lại, nhưng so với Mưa Nguồn, đằm hơn, lắng
hơn và chín hơn. Mưa Nguồn là niềm nhớ thương đồng ruộng không nguôi:
-Viết thơ lạc dấu sai dòng
Viết trong tức tưởi sợ đồng lúa
mong
-Viết thơ là trở lại bên
Con người thôn nữ răng đen hai
hàng
(Ca dao)
Sau này, ông vẫn bâng khuâng nhớ đồng
quê. Chỉ bâng khuâng thôi. Nghĩa là rất man mác. Có một câu thơ có lẽ ông
thích, cứ lặp đi lặp lại rải rác ở nhiều bài thơ khác nhau:
Trông về đồng ruộng đôi khi
Thị thành tâm sự hoài nghi trăng
tà
(Gấu buồn)
Nhưng tâm sự chính của ông là nỗi tuyệt
vọng về khả năng giao cảm giữa người và người, niềm cay đắng trước một xã hội
ngày một đảo điên. Ông hoàn toàn cô độc:
quay về một cõi riêng thôi
liệu trong tấc cỏ kiếm trời ba
xuân
(Ðời rộng đương chìm)
Ông làm thơ cho hư không:
Bây giờ xin ngó cụm cây
Chắp hàng viết nốt áng mây về trời
(Bây giờ)
Ông độc thoại:
Ngàn năm độc đối riêng hàng
Tờ xanh ứa lệ đẫm trang xuân đầu
(Khởi từ)
Có khi ông im lặng:
Từ đây đổi vịt thay gà
Chán chường đến thế là ta ngậm lời
(Nhà ma đi đời)
Sau 1975, cảm giác cay đắng và tuyệt vọng
ấy, không hiểu tại sao dường như nhẹ nhàng đi nhiều. Ðời sống ông cơ cực hơn,
những cơn điên đến với ông thường xuyên hơn (10), song thơ của ông lại có vẻ
thanh thản hơn. Ông bớt những thắc mắc siêu hình để quan tâm hơn đến khía cạnh
cảm xúc, từ đó, nhấn mạnh đến yếu tố tâm hồn, coi đó là nguồn gốc của
thơ:
Chợt mùa thơ vội đổi giòng
Cỗi nguồn cũng bởi tự lòng mà ra
(Từ bấy tới nay)
Với quan niệm như vậy, thơ không còn là
trò đùa nghịch chữ nghĩa nữa mà là một sự bộc bạch tâm sự:
Lời tỉnh táo, lời mê man
Ðiệu thê thiết rống điệu bàng hoàng
ca
(Y ư mộng du ư mê)
Do đó, ông khao khát được thông cảm:
Xổ bầu tâm sự điêu linh
Ai người chia xẻ với mình với ta
(Một giờ)
Bài Bao giờ in trong tập Thơ Bùi Giáng
do Thế Kỷ 21 xuất bản là một bài thơ hay:
Bằng bút chì đen
Tôi chép bài thơ
Trên tường vôi trắng
Bằng bút chì trắng
Tôi chép bài thơ
Trên lá lục hồng
Bằng cục than hồng
Tôi đốt bài thơ
Từng phút từng giờ
Tôi cười tôi khóc bâng quơ
Người nghe cười khóc có ngờ chi
không
Thơ, với Bùi Giáng, trước hết là một sự
hiện hữu cụ thể với những màu sắc cụ thể nhất định: đó là một văn bản với những
từ, ngữ, giấy, mực cụ thể. Văn bản ấy có đời sống riêng của nó: có sinh có tử.
Nhưng đằng sau, ẩn náu phía trong cái hình thức cụ thể ấy lại là một tâm tình,
là tiếng cười, là tiếng khóc. Tâm tình của người làm thơ òa vỡ bất chấp những
giới hạn tự thân của ngôn ngữ:
Ngữ ngôn khép kín mặc dầu
Hùng tâm tim máu óc đầu mở ra
(Bé con ơi)
Bùi Giáng băn khoăn:
Tôi cười tôi khóc bâng quơ
Người nghe cười khóc có ngờ chi không
?
Bùi Giáng lại năn nỉ:
Tặng nhau từ ngữ lạc lầm
Cũng xin hồng lệ hãy đầm đìa tuôn
(Y ư mộng du ư mê)
Trong bài Thuở chưa điên in trong tập
Thơ Bùi Giáng do Việt Thường xuất bản tại Canada năm 1990, Bùi Giáng tự so sánh
thơ mình ngày trước với thơ mình bây giờ:
Ấy là thơ thuở chưa điên
Ở trong dấu ngoặc quàng xiên reo cười
Bây giờ xoang điệu đười ươi
Ðiệu hoa lầu các ngậm ngùi dấn
thân
Sự khác nhau không phải ở chỗ: có lúc
ông " quàng xiên reo cười" , có lúc ông lại " ngậm ngùi dấn
thân" . Ở Bùi Giáng, cái cười và cái khóc đôi khi rất giống nhau. Theo
tôi, chỗ khác nhau căn bản là: trước đây, Bùi Giáng loay hoay mãi trong "
dấu ngoặc" của ý thức, của cái tôi; sau nầy, ông tung hê hết, ông hòa nhập
vào cái chung của cuộc đời:
Ta quên như thể mình ta quên mình
(Tặng hai cháu Quỳnh và Na)
Ông trở thành dễ thương và tội nghiệp vô
cùng:
Trái tim mỗi mới mỗi ngày
Mỗi giờ phút động mây trời rung
rinh
Ðường đi mất hút thình lình
Những khuôn mặt lạ những hình ảnh
quen
Tạm nhờ men rượu nguôi quên
Niềm vui nỗi nhớ chênh vênh lạ
lùng
(Ðường quanh ngõ quẹo)
Ở khía cạnh nầy, có thể nói Bùi Giáng
xóa nhòa ranh giới giữa cái tôi và cái ta, giữa cái riêng và cái chung: Hoặc rằng
người cũng là tôi
Hay là tôi cũng là tôi như người
Ấy rằng tinh thể đười ươi
Lời rằng quyết tuyệt và tươi vui
và
Ấy rằng một cũng là ba
Là hai mai một mốt là hôm nay. Xóa nhòa.
Xóa nhòa ranh giới giữa các giọng điệu, giữa truyền thống và hiện đại, giữa thơ
và phi thơ, giữa cái lý và cái phi lý, giữa cái tôi và cái ta, cái riêng và cái
chung, xóa nhòa mọi sự phân biệt, biện biệt; theo tôi, đó là những đặc điểm nổi
bật nhất trong thơ Bùi Giáng. Bằng những sự xóa nhòa ấy, Bùi Giáng xóa nhòa
luôn cả ranh giới giữa cái gọi là văn hóa cao cấp và văn hóa bình dân. Ðồng thời,
Bùi Giáng cũng xóa nhòa luôn cả tính chất nghiêm nghị, nghiêm túc với những khẩu
hiệu ồn ào như " vị nhân sinh" , " vị nghệ thuật" vốn kéo
dài rất lâu trong văn học Việt Nam. Khác với các nhà thơ khác, lúc nào cũng
nhăn mặt nhíu mày, lao vào thơ như lao vào một trận địa, kỳ khu và khắc khổ,
lúc nào cũng khắc khoải sáng tạo ra cái mới, mà chưa chắc đã mới và chưa chắc
đã hay. Bùi Giáng, ngược lại, làm thơ cứ như đùa như giỡn, như không phải đang
làm thơ, vậy mà tự nhiên thơ lại trở thành bát ngát, lấp lánh và lộng sắc lộng
hương. Mai Thảo kể: " ba chữ " vui thôi mà" là câu trả lời mơ hồ
nghịch ngợm duy nhất của Bùi Giáng trước mọi tìm hiểu của (về?) lực thơ và số
lượng thơ không thể tưởng tượng được ở nơi ông" , rồi bình tiếp: " thơ
Bùi Giáng vui thật. Một vĩ đại vui" (11). Theo Leslie Fiedler, sự xóa
nhòa văn hóa giữa văn hóa bình dân và văn hóa cao cấp, và cùng với nó, việc đoạn
tuyệt với chủ nghĩa đặc tuyển (elitism) và tính chất nghiêm cẩn (seriousness)
là những đặc điểm chính yếu của chủ nghĩa hậu hiện đại (postmodernism) (12). Ở
khía cạnh nầy, Bùi Giáng rất gần các nhà thơ hậu hiện đại.
Bùi Giáng còn gần gũi các nhà thơ hậu hiện
đại ở một khía cạnh khác nữa: một số khá nhiều các bài thơ của ông là loại thơ
không thể giảng. Susan Sontag cho một trong những đặc trưng lớn của chủ nghĩa hậu
hiện đại là tính chất phản diễn dịch (anti-interpretation), là sự nhấn mạnh vào
hình thức và sự trình diễn (performance) hơn là nội dung và ý nghĩa (13). Chúng
ta biết theo quan niệm của Ferdinand de Saussure, ngôn ngữ chỉ là một hệ thống
ký hiệu, ở đó, mỗi đơn vị ký hiệu đều có hai mặt: cái biểu đạt (signifier) và
cái được biểu đạt (signified). Cái biểu đạt là âm hoặc chữ viết. Cái được biểu
đạt là ý niệm do âm hoặc chữ viết ấy gợi lên trong đầu chúng ta. Ví dụ, nghe âm
" chó" (cái biểu đạt), chúng ta nghĩ ngay đến giống vật thường được
nuôi trong nhà (cái được biểu đạt) (14). Từ đó, người ta đi đến chỗ coi bài thơ
cũng là cái biểu đạt. Ðọc thơ là để tìm kiếm cái được biểu đạt, tức ý nghĩa, điều
ẩn giấu phía sau bài thơ. Với Bùi Giáng, cũng như với các nhà thơ hậu hiện đại,
ngược lại, bài thơ là cái được biểu đạt chứ không phải là cái biểu đạt. Nói
cách khác, bài thơ là bài thơ. Không có ý nghĩa nào ẩn sau bài thơ để chúng ta
đào xới, tìm kiếm. Nó giống như một bức tượng đá. Bề mặt: đá; trong ruột: cũng
là đá. Do đó, nếu hỏi ý nghĩa bài thơ Ðạm Tiên tôi dẫn ở trên là gì ư? Chịu! ý
nghĩa của nó là chính sự hiện hữu của nó, là bài thơ có nhan đề Ðạm Tiên, vậy
thôi! Chúng ta không thể phân tích. Chúng ta chỉ cần nghiệm (experience). Ðọc lần
thứ nhất: chúng ta không hiểu gì cả. Ðọc lần thứ hai: chúng ta vẫn không hiểu
gì cả. Nhưng càng đọc, chúng ta càng nghe rõ, càng thấm, càng cảm cái nhạc điệu
lầm rầm, lầm rầm của bài thơ. Nghe như thần chú. Như tiếng tụng kinh. Như lời cầu
hồn. Chúng ta sống trong một không khí huyền bí, ma quái, không có gì rõ nét.
Thì Ðạm Tiên là một bóng ma mà! Ở nhiều bài thơ khác, điều chúng ta nghiệm được
thường là sự bất lực của ngôn ngữ; chúng ta không hiểu vì chính nhà thơ cũng
không thể diễn tả được những gì ông chỉ cảm nhận một cách mơ màng hoặc bằng trực
giác hoặc bằng tiềm thức.
Chúng ta có thể gọi Bùi Giáng là nhà thơ
hậu hiện đại được chăng? Khái niệm hậu hiện đại, mặc dầu xuất hiện từ thập niên
30 và 40 với Frederico de Oniz, Dudley Fitts và Arnold Toynbee, được sử dụng
khá nhiều tại Mỹ vào thập niên 50 và 60, trở thành thời thượng tại Âu Mỹ từ giữa
thập niên 80 đến nay (15), vẫn còn khá xa lạ với giới cầm bút Việt Nam. Ðiều đó
dễ gợi cho chúng ta ấn tượng chủ nghĩa hậu hiện đại là cái gì rất mới, chỉ gần
đây thôi, gắn liền với máy vi tinh, chẳng hạn. Tuy nhiên, trên thực tế, khác hẳn.
Danh sách các nhà thơ hậu hiện đại được Jerome Mazzaro phê bình trong quyển
Postmodern American Poetry bao gồm W.H.Auden (1907-73), Randall Jarrell
(1914-65), Theodore Roethke (1908-63) v..v..(16). Với Margaret E. Gray, ngay cả
Marcel Proust (1871-1922) cũng là một nhà văn hậu hiện đại (17). Chúng ta có thể
gọi Bùi Giáng là nhà thơ hậu hiện đại hay hậu " iện" đại (người vượt
ra ngoài chủ nghĩa " iện" đại tại Việt Nam) hay " ậu" hiện
đại (người ít nhiều - chứ chưa hoàn toàn - nhích ra khỏi chủ nghĩa hiện đại
theo cách hiểu truyền thống tại Tây phương) được chăng? Dù sao, vấn đề xác định
danh xưng ở đây, tôi nghĩ, cũng không phải là điều quan trọng. Quan trọng hơn,
chúng ta cần ghi nhận đóng góp lớn lao của Bùi Giáng: ông đã tiến một bước khá
xa trên con đường hòa giải giữa thơ và hiện thực cũng như giữa nhà thơ và người
đọc.
Nguyễn Hưng Quốc (Trích " Thơ,
v.v...và v.v.." )
Chú thích:
(1) Mai Thảo (1994), " thay lời bạt:
Một vài kỷ niệm với Bùi Giáng" , in trong tập Thơ Bùi Giáng, nxb Thế kỷ
21, California, 1994. tr. 146.
(2) Như trên, tr. 139.
(3) Thanh Tâm Tuyền (1994) " Bùi
Giáng, một hồn thơ bị vây khốn" , Tạp chí Thơ (California) số 1, Mùa thu
1994, tr, 73-75.
(4) Bùi Giáng (1969), Thi ca tư tưởng,
Ca Dao, Saigon. tr, 102-3.
(5) Thơ Bùi Giáng, Việt Thường xuất bản
tại Montreal, 1990 và Thơ Bùi Giáng, Thế Kỷ 21 xuất bản tại CA, 1994. (6) Trong
bài " Bao giờ" và " Bài thơ của tháng giêng" in trong tập
Liên, đêm mặt trời tìm thấy, nxb Sáng Tạo, Saigon, 1964.
(7) Bùi Giáng (1970) Mùa thu trong thi
ca, Sống Mới in lại tại hải ngoại, không ghi năm, tr. 223-4.
(8) Dẫn theo Steiner,G. (1967) Language and Silence, Faber & Faber, London,
tr. 72.
(9) Bùi Giáng (1970) Mùa thu trong thi ca, sđd. tr. 17.
(10) Xem Phạm Xuân Ðài, " Kẻ cuồng sĩ trong vườn cây" lời tựa tập Thơ
Bùi Giáng, Thế Kỷ 21, 1994, tr. 15-26.
(11) Mai Thảo (1994), bài đã dẫn, tr. 141.
(12) Fiedler, L. (1975) " Cross the Border - Close the Gap:
Postmodernism" in trong tập American Literature since 1900 do Cunliffe chủ
biên, Sphere Books, London, 1975, tr. 344-366.
(13) Sontag, S. (1966), Against Interpretation and Other Essays, Delta, New
York.
(14) Tác phẩm chính của Saussure, Cours
de linguistique générale, in tại Paris năm 1916, sau đó, được dịch ra nhiều thứ
tiếng và tái bản rất nhiều lần; một thời gian dài, ít nhất cho đến đầu thập
niên 70, được xem như một tác phẩm kinh điển trong ngành ngôn ngữ học trên khắp
thế giới. Về Saussure, có thể xem quyển sách giới thiệu rất hàm súc của
Jonathan Culler, Saussure, Fontana/Collins, 1976.
(15) Về lịch sử thuật ngữ " chủ
nghĩa hậu hiện đại" , có thể xem: Bertens.H.(1986), " The Postmodern
Weltanschauung and Its Relation with Modernism: An Introductory Survey" in
trong Approaching Postmodernism do Fokkema, D & Bertens, H. biên tập, John
Bengamins xuất bản tại Amsterdam, 1986, tr. 9-51; Best, S & Kellner, D.
(1991), Postmodern Theory, Macmillan, Hampshire, tr. 1-33. Về chủ nghĩa hậu hiện
đại trong lãnh vực văn học, có thể xem: Hassan, (1982), The Dismenberment of
Orpheus: toward a Postmodern Literature, Oxford University Press, NY.; Hassan,
I. (1987), The Postmodern Turn: Essays in Postmodern Theory and Culture,
Columbus; Spanos, W. (biên tập) (1979),Martin Heidegger and the Questions of
Literature: toward a Postmodern Literary Hermeneutics, Indiana University
Press, Bloongton; Connor, S. (1989), Postmodernist Culture: an Introduction to
Theories of the Contemporary, Basil Blackwell, Oxford, đặc biệt chương 4,
" Postmodernism and Literature" , tr. 103-131; McHale, B. (1986),
" The Semantic and Syntatic Organisation of Postmodernist Texts" in
trong tập Approaching Postmodernism, sđd, tr. 81-98; và Jameson, F. (1988),
" Postmodernism and Consumer Society" in trong Postmodernism and its
Discontents: Theories & Practices, Kaplan E.A. biên tập, Verso, London, tr.
13-29.
(16) Mazzaro, J. (1980), Postmodern
American Poetry, University of Illinois Press, Urbana.
(17) Gray, M. E. (1992), Postmodern
Proust, University of Pennsylvania Press, Philadelphia.
CHÂN DUNG BÙI GIÁNG
(La Toan Vinh)
Có người nhìn Bùi-Giáng với một tấm lòng
đầy thán phục qua tinh thần một nhà thơ, có người nhìn ông như một biến cố, một
hiện tượng hay không khác hơn như một kẻ điên dại…
Tôi lại khác hẳn, vì Bùi-Giáng đã như một
tầm vóc của tự nhiên, của một dấu vết đi ngoài bao giới hạn, định chế mà con
người đã áp đặt nên . Bởi thế cho nên tôi có những nhân sinh quan về chiều sâu,
chiều rộng của ông trong lòng con người Sài-Gòn, trong lòng cuộc đời với đầy vẩy
những bất an, cùng những vọng tưởng mà nhân loại đã cưu mang . Bùi-Giáng như một
hình ảnh để giải thoát tất cả bao trói buộc, một con người khi tỉnh, khi mê,
khi mộng tưởng, khi hóa bướm, khi làm người…
Có thể nói Bùi-Giáng đã đi vào con người
Sài Gòn với từng ngày một, những chuỗi ngày đó đã trải dài, khiến cho chúng ta
biết về ông còn nhiều hơn tất cả những hình ảnh khác.
Tôi không quen biết Bùi Giáng, thế
nhưng, chúng tôi đã gặp ông rất thường xuyên trên các đường phố Sài-Gòn . Hình ảnh
đó như một cái gì thân quen, không thể thiếu vắng, nhất là những ngày còn ở Cao
đẳng Mỹ-Thuật Sài-Gòn, không hiểu tại sao ? Duyên cớ nào mà Bùi-Giáng xuất hiện
rất thường xuyên ở trước ngôi trường của chúng tôi, những quảng đời dài miệt
mài cùng sơn với cọ …
Một buổi sáng vào năm 72, tình cờ tôi gặp
một người ăn mặc dị dạng, mom mem đến bên cạnh một gánh hàng bán xôi . Đột xuất
ông giật gói xôi trên tay của một khách hàng vừa mới mua . Hành động này làm bà
khách hàng tỏ ra bực bội, không ngừng chưởi xối xả vào mặt ông . Về gã kia , chỉ
cười hì hà và nhai một cách ngấu nghiến, luôn những mảnh lá gói xôi . Đồng thời
ông tự nhiên nhảy múa như có vẻ khoái trá lắm…
Câu chuyện này làm bao người hiếu kỳ
chăm chú nhìn với một con mắt thật khó hiểu . Thế nhưng, sau đó có người bộ
hành hoàn trả lại cho khổ chủ mua xôi . Ông ấy nói ”bà xem tôi lớn tuổi như vầy,
nhưng ông ấy lại là thầy của chúng tôi, thôi bà đừng phiền hà gì cả”, câu chuyện
đã giải quyết một cách êm thắm…
Hôm ấy, khi vào lớp học, trong giờ phối
cảnh của giáo sư Huyền Tôn Nữ Quỳnh Như, tôi thuật lại chuyện này, bà giáo tôi
cười bảo:
-Đó là thi sỹ Bùi-Giáng.
Một thời gian sau đó, tôi lại tìm thấy
ông với một ”Mode” mớị Bùi Giáng lúc đó chẳng ngại cái nóng bức của Sài-Gòn,
ông mặc chiếc áo dài màu đen, bên ngoài lại thêm chiếc áo bà-ba khác, rồi lại vận
thêm cái veston tây phương bên ngoài rõ là Đông Tây Kim Cổ . Lúc ấy ông đang
lui cui ôm con gà nòi thật chiến, mom mem đến bên một quầy hàng chiên bánh tiêu
. Bất thình lình, ông xông tới, đổ trọn cái chảo dầu, tiện đó dùng bàn tay vét
lọ đen để bôi lên mặt mình… Tiếp đến, ông cũng không quên thoa lên cổ, lên đầu
chú “gà độ”và nói thầm điều gì khó hiểu…. Tuy vậy, những lần thiệt hại trên, đều
có người nể phục chi tiền để bồi thường, riêng phần ông, chỉ hì hà cùng nhảy
múa một cách tự nhiên…
Cũng từ lần gặp gỡ bên những hiện tượng
đó, hình ảnh của ông đã ăn sâu vào ký ức tôị Đôi lúc tôi tự nghĩ, nếu như ông
có điên dại, thời cái” điên “này cũng không phải như bao người điên khác. Chúng
tôi đã gặp ông rất nhiều lần, khi ở Lăng-Ông Bà Chiểu…khi thời các sạp báo ở đường
Lê-lợi… Rồi những ngày đi qua, con người Bùi Giáng đã ăn sâu vào xã hội
Sài-Gòn, nó như hình bóng thân quen . Thậm chí còn nhiều hơn những tấm bích
chương, những khuôn mặt chính trị mà tôi đã thấy nhan nhản trên vách tường ở
các đường phố này:
Ban ngày mặc quần Đỏ áo xanh
Ban đêm mặc quần xanh áo đỏ…
Đến những ngày sau 1975, Bùi Giáng vẫn cứ
làm con người Bùi-Giáng, con người nhân chứng cho cảnh đời, cho bao bể dâu biến
đổi và nếu như cuộc đời ví như một vở kịch, thời người thắng cuộc lại là những
người đóng trọn vai tuồng một cách xuất sắc…
Có lần Huy-Câ.n về nói chuyện ở Cao Đẳng
Mỹ Thuật, Bùi-Giáng lại xuất hiện, đi tới đi lui ở trước cổng trường và chưởi đổng
”Mẹ mày Huy Cận…Mẹ mày Huy Cận”. Lúc bấy giờ một sinh viên đứng gác cổng trường
vào báo cho ban giám hiệu cùng Huy Cận, nhưng tất cả đều im lặng…
Có lần vào năm 77, tôi gặp lại tiên sinh
với dáng dấp tiều tụy, hốc hác như người từ xa mới về, cũng với chiếc áo gấm
đen, lai vảng trước cổng trường, . Lúc đó, Bùi-Giáng, quẩy trên vai một bó củi
chồi, đầu kia thì đầy nồi niêu soong chảo . Hình ảnh này làm tôi liên tưởng đến
các vị tiều phu thời xa xưa hay những người từ vùng “kinh tế mới” trở lại đô
thành. Bao hình ảnh chợt thoáng qua như một đoạn phim ngắn, một bối cảnh, quãng
đời mà Sài-Gòn đổi khác. Đời trở nên chật vật, trật tự xáo trộn, kinh tế khó
khăn…
Tối hôm đó,khi đi ngang qua Lăng Ông,
tôi bắt gặp Bùi Giáng tỏa mình ở giữa “Ngã ba Đường”. Chợt một người xích lô hỏi:
-Bác có muốn về nhà không?
Ông liền trả lời:
-Về thì về.
Một mạch ông nhảy lên xe và biến mất . Một
con người thật đặt biệt trong ý tưởng của tôi, nó như những câu hỏi, những câu
trả lời một cách tự nhiên, cùng những tất nhiên phải đến.
Sau thời gian đi vẽ ở Phan Thiết, Phan
Rí Cửa, Cà Mau, Cần Thơ . Trở lại Sài-Gòn, bọn tôi kéo ra quán cà phê vỉa hè, ở
cạnh ngôi mộ Nguyễn văn Học. Buổi sáng hôm ấy, tôi lại gặp Bùi-Giáng. Ông lúc
này hiện thân như người bán thuốc lá, vẫn ăn mặc kỳ dị. Cái kỳ dị đó vẫn không
làm chúng tôi thắc mắc mà nó trở thành bao hình ảnh quen thuộc…
Đến cạnh bàn chúng tôi, ông mời:
-Mua thuốc không mấy anh?
Chúng tôi ngước nhìn ông và im lặng . Thấy
vậy ông bèn mở một bao thuốc lá hiệu Hàng Không . Loại thuốc này chỉ bán ở phi
trường cho những khách ngoại quốc. Ông đưa ra một điếu và nói:
-Hút đi! Cứ tự nhiên đi
Chúng tôi bốn người chia nhau điếu thuốc
. Sau đó ông hỏi:
-Sao ? Thấy saỏ
Tôi gật gù thích thú . Ông xoè tay ra
nói:
-Môt đồng một điếu
Một anh bạn gửi tiền trả cho ông và hỏi:
-Thuốc ngoại phải không bác?
Ông trả lời:
-Liên Xô,,,Liên Xiếc…Liên Xô Liên xiếc
Kế đó ông ngồi xuống và hỏi:
-Mấy anh là sinh viên mỹ thuật?
Tôi trả lời: " đúng như vậy bác
à…"
Tôi hỏi: Bác người miền trung phải
không? Ông đáp lại:
-Qua ..ả..ng Nôm
Sau đó it lâu, tôi ra hải ngoại, không
còn gặp lại hình ảnh đó, một hình ảnh gắn chặt trong khoảng thời niên thiếu của
chúng tôi . Cuộc sống và người vẫn thay đổi, những đột biến cùng con người
Bùi-Giáng luôn làm những tín hiệu của thời thế . Tôi chợt nhớ lại vài câu lục
bát hay của ông mà tôi đã đọc thật lâu, như bài Phùng Khánh Mẫu Thân:
Mẹ về trong cõi người ta,
Một hôm mẹ gọi con ra bảo rằng:
Trần gian vui sướng lắm chăng ?
Hay là đau khổ hỡi thằng chiêm
bao…?
Tui kêu ông Bùi Giáng bằng anh và ông ấy
kêu tui bằng em, đó là khi ông ấy tỉnh. Khi ông ấy không ... tỉnh mấy, thì ông ấy
có thể kêu tui bằng đủ thứ chữ ông ấy có được trong đầu, nhưng thường thì các
chữ ni hổng tìm thấy trong ... tự điển !
Ông Bùi Giáng là một nhà thơ lớn. Ai
cũng nói vậy và tui yên trí phải là vậy. Thơ văn thì tui hổng rành lắm. Tui nói
thế hổng phải vì khiêm tốn đâu, đức tính ni tui vẫn bị chê là thiếu hụt trầm trọng.
Đọc thơ ông tui thấy nó ... vầy vậy. À, cái chuyện vầy vậy thì cũng có ngay
trong cả Kiều, mà Kiều thì đã được xưng tụng là thiên tuyệt cổ lưu truyền. Hồi
còn đi học, tui được nghe hỏi rằng : Trong mấy ngàn câu Kiều đó, có được bao
nhiều câu hay ? Tui ấm ớ và bí lù. Rồi cái người hỏi mới dạy tui rằng : Những
câu hay đó đã được trích dẫn cho hậu thế học hỏi và nghiền ngẫm liên tu bất tận
thế nên người ta tạm quên đi những câu dở , cũng có đấy và còn rất nhiều nữa là
khác. Má ơi, tui chỉ lập lại thôi nghe, cái người dạy tui ấm ớ đã cỡi hạc về trời
mất rồi, nếu hàng phố có thắc mắc thì ngó bộ sẽ là chuyện ... huề vốn đó
!
Xin trở lại với thơ văn ông Bùi. Tui được
ông dúi cho rất nhiều thơ và sách. Xui xẻo cái là lúc đó tui trẻ người non dại,
đọc mà thường hổng hiểu gì ! Ba mươi năm sau đọc câu Đếm là diệu tưởng đo là
nghi tâm trong chữ ký của cô 123 thì thú thật tui cũng vẫn chưa hiểu mấy nên
cũng hổng rõ nó có giá trị văn chương không ngoài cái giá trị triết học – Cô
123, xin cô tha lỗi, nếu được thì cô giảng cho tui hiểu với ha cô, xin cám ơn
cô - Thế nhưng đọc câu Lá rơi có dội ở trong sương mù hay đọc Biển dâu sực tỉnh
giang hà, còn sơ nguyên mộng sau tà áo xanh trong chữ ký của Tà Áo Xanh thì thiệt
tim tui nó đập hụt ba bốn nhịp lận ! Tui biết còn nhiều người khác cũng ký tên
bằng thơ BG hay lắm, nhưng thiệt là lúc này nhớ chưa ra !
Ông Bùi nhỏ con và gầy guộc. Ông cao cỡ
5 feet là cùng. Tui nói thế vì tui đứng ngang tầm với ông, thế nhưng leo lên
bàn cân thì tui hơn ông tới cả chục pounds lận. Bao nhiêu răng cỏ của ông nó rủ
nhau đi nghỉ hè dài hạn hết cả rồi, dòm ông trệu trạo ăn uống thiệt thương hết
sức. Mà ông ăn thì hổng nhiều, ông đi nhiều hơn, thế nên người ông lúc nào cũng
thanh cảnh là vậy. Có lần tui dỡn với ông, hẹn sẽ bầu rượu nắm nem theo ông cho
có bạn, và ông tưởng thiệt đã đứng chờ tui trước cửa suốt ... 48 tiếng liền. Chừng
hay ra tui biết là mình đã ... quá trớn ! Chuyện tui quá trớn là chuyện dài
nhân dân tự vận, xin hàng phố nhớ cho như thế mà châm chước dùm !
Ông Bùi lăng xăng, nhưng lăng xăng theo
kiểu hiền lành. Vụ giỏi giang uyên bác của ông thì có thiệt đó. Ông tự học tiếng
Đức để đọc sách triết học rồi bình giảng ngon lành – triết thì tui hổng rành thế
nên hổng nhớ là ai – ông còn cặm cụi định làm quyển tự điển Đức-Việt nữa, nhưng
sự việc hổng thành vì thiếu tài trợ của Viện văn hóa Goethe, lý do hổng rõ !
Ông goá vợ sớm và rồi cũng chẳng tục huyền – người dưng khác họ của tui nói : Đừng
tục huyền, ngu chi mà tục huyền ha anh ! – Đường sự nghiệp công danh của ông
thì thiệt tui cũng hổng rành lắm. Tui hứa với cô 123 sẽ lục và mang thơ của ông
vào Phố, nhưng ... ngó bộ không xong. Phần lớn những tài liệu tui có đã được
ông Người-dưng chuyển về cho gia đình ông Bùi mới gần đây lúc họ định gom lại tất
cả các trước tác của ông để làm sách. Còn lại một vài bài thơ thì sau khi đọc
tui thấy không nên mang nó lên đây vì vài lý do riêng.
Có một dạo tui gặp ông Bùi rất thường,
do lương tâm bổn phận vậy mà. Chuyện chi ông kể tui cũng ậm ừ cho qua vì nó thiếu
đầu thiếu đuôi không rành rẽ. Riêng có chuyện ni thì tui hiểu nên rồi cứ nhớ
mãi . Xin kể lại cùng hàng phố như một kỷ niệm với thi nhân :
Một sáng ông Bùi thinh không biểu tui cởi
giày cởi dép ra cho ông ... dòm cẳng. Thì có sao. Xong rồi ông biểu tui kéo ống
quần cho ông dòm ...bắp vế. Thì cũng có sao. Ông chê tui chân chi mà nhỏ xíu
như đàn bà tàu (!) ông hỏi : Bộ nị có máu ba tàu trong người ha ? Rồi ông biểu
tui kéo quần cao lên nữa để ông dòm ... bắp đùi. Tui hỏi dòm làm chi, ông nói
xem tướng chân thì phải xem cho đủ (!) À ông Bùi đang xem tướng. Thì cũng vẫn
chưa sao. Xui cái là hồi đó còn đang mode bận quần ống chật, mà cái bắp vế tui
nó lại thuộc hạng người cày có ruộng thế nên cố gắng cách mấy quần kéo cũng hổng
lên. Ông Bùi nói : vậy thôi cởi quần ra đi, em có bận xì líp mà ha ? Tới đây
thì tui thấy có sao nên không dám, tui hẹn ông bữa khác mặc mini-jupe cho ông
tha hồ coi đùi. Rồi ông lại lan man chuyện nọ xọ chuyện kia không ngớt, rồi
cách chi đó hổng rõ ông nhảy sang bàn đề về lời nói. Ông nói thế này : Lòng người
như đại dương, sâu thì thăm thẳm mà rộng thì mênh mông. Nói lời đau lòng như
ném chiếc kim vào chốn không cùng ấy, có muốn lấy lại thì cũng chả biết đâu mà
tìm ! Tui nghe mà lặng người. Nói nào ngay kể từ lúc biết ông, tui chưa bao giờ
thấy ông nói câu chi nghe cho ... được. Thế nên bụng cũng có ý ... coi thường.
Bấy giờ mới hay đằng sau những cơn địa chấn là cả một khu vườn tư tưởng mênh
mông huyền hoặc. Tiếc rằng giao tình giữa tui và ông có ngắn ngủi, tui ra ngoại
quốc lúc ông trở bệnh nặng, từ biệt nhau mà ngó bộ ông chẳng hiểu tui nói gì
!
Mới gần đây lúc nghe người nhà báo tin
ông qua đời tui buồn vui lẫn lộn. Vui vì ông đã ‘trở về’, buồn vì ông không còn
nữa. Tài hoa thường mệnh bạc, nhưng xài câu này cho ông ngó bộ trật lất. Tài
hoa thì có đấy, nhưng mệnh bạc thì không. Ông sống tới trên 70. Thất thập cổ
lai hy, còn muốn chi nữa. Mà hơn nửa phần đời sau ông ... thây kệ mẹ đời, ông
vui như tết. Thoạt đầu tui thấy điều đáng phàn nàn duy nhất là ông chết có một
mình, sau ngẫm nghĩ lại thấy không phải thế. Biết đâu khi ấy dám ông có nàng
thơ bên cạnh vuốt mắt và nhỏ lệ ân tình. À, cái tình của ông với nàng thơ nó là
mối tình đầu và nó lớn lắm lận, thế nên chắc chắn nàng đã ở bên ông. Dù sao
nghĩa tử cũng là nghĩa tận !
MỘT CHÚT VEEFBUIF GIÁNG
Tường Linh Nói Rõ Về Nơi Bùi Giáng Chăn
Dê
Đầu năm 2007, trong thời gian nằm bệnh
viện, tôi nhận được tin buồn muộn màng về anh bạn, cùng làng, cùng lứa tuổi với
tôi, đã từ trần tại huyện Tân Hồng, tỉnh Đồng Tháp. Đó là anh Văn Phú Nhẫn. Viết
văn, làm thơ, anh ký bút danh Bạch Linh. .......
Trước năm 1945, làng Trung Phước của
chúng tôi ở phía Tây huyện Quế Sơn tỉnh Quảng Nam có sáu phái (đơn vị như ấp,
thôn) là phái Thượng, phái Hạ, phái Thị, phái Trung, phái Trà Viên và phái Giáp
Nam. Nhà anh Văn Phú Nhẫn ở phái GiápNam, phái bên trái quan lộ theo hướng chợ
Trung Phước vào đèo Le, giáp ranh với xã Quế Lộc ngày nay *.
Anh Văn Phú Nhẫn chỉ có hai anh
em, người em trai của anh là Văn Ngọc Hưng. Hai anh em mồ côi cha rất sớm. Thân
mẫu của hai anh, được người làng gọi là bà giáo Nhẫn theo lối lấy tên con trai
đầu để gọi một cách kính trọng, thuộc thành phần trung nông, lo thờ chồng, nuôi
hai con ăn học nên người.
Trong nhiều điều tôi nhớ về người
bạn quê xưa vừa qua đời nói trên nổi đậm lên thời gian thi sĩ Bùi Giáng chăn dê
tại quê chúng tôi. Nơi Bùi thi sĩ ngày ngày thả dê là rặng đồi cây lúp xúp, một
chi sơn giữa dãy núi Chúa và núi Hòn Tàu. Rặng đồi này ở ngay phía sau nhà hai
anh Phú Nhẫn và Ngọc Hưng.
Thời gian này là trọn năm 1951 và
mấy tháng đầu năm 1952. Thi sĩ Bùi Giáng chỉ chăn dê trong vòng một năm rưỡi
ấy mà thôi.
Như nhiều người trong chúng ta có
biết, nơi sinh của Bùi Giáng là làng Vĩnh Trinh thuộc huyện Duy Xuyên tỉnh Quảng
Nam, nhưng thân phụ của thi sĩ là cụ Cửu Tý có nhà cửa, vườn cây và nà trồng
dâu bắp bên sông tại Trung Phước huyện Quế Sơn. Bùi thi sĩ thành hôn hồi đầu
năm Ất Dậu 1945 rồi đôi vợ chồng trẻ lên Trung Phước ở với gia đình.
Trung Phước và mấy làng lân cận
như Đại Bình, Trung Lộc, Phước Bình… đời nào cũng có nhiều người làm thơ. Họ kết
thân với nhiều nhà thơ gần xa và các nhà thơ này thường lui tới giao thiệp với
nhau. Thời Bùi Giáng đến ở tại Trung Phước thì tại địa phương này có các nhà
thơ đã thành danh như Huỳnh Lý, Hoàng Châu Ký, Huỳnh Hưng, Nguyễn Thụy Khái, Tạ
Ký… Bạn thơ của họ từ các nơi xa thường đến đây ở chơi năm bảy hôm. Người viết
bài này còn nhớ trong số đó còn có các nhà thơ nổi tiếng như Trinh Đường, Khôi
Anh (Phạm Văn Kỳ), Hồ Thấu, Nguyễn Đình, Hồ Hiếu Dân… Bùi Giáng đến với quê
hương thứ hai này có thể vì hai lý do: lập nghiệp với gia đình và kết bạn thơ.
Sau Tết Ất Dậu ấy, khi đã rời làng
Vĩnh Trinh lên Trung Phước, chị “Sáu Giáng” quản lý nà dâu, bán dâu rừng nứa
cho các hộ nuôi tằm. Mẹ tôi thường bảo tôi đến mua dâu của chị vì chị tính giá
“nới” hơn các chủ nà khác, chưa sẵn tiền trả ngay thì chờ xong lứa tằm sẽ thanh
toán cũng được.
Tôi và một số bạn yêu thơ trong
làng rất quý mến thi sĩ Bùi Giáng. Chúng tôi gọi thi sĩ bằng cái tên thân mật
là anh “Sáu Giáng”.
Suốt mấy năm ở cùng làng, ngày
ngày gần gũi nhau, tôi không hề thấy anh biểu lộ chút gì gọi là “điên” cả. Anh
rất hiền, ít nói, hay cười, y phục luôn gọn gàng, sạch đẹp. Anh cũng chẳng mấy
khi nói về thơ, tranh luận về lĩnh vực thi ca lại càng không. Chỉ khi nào chúng
tôi đến nhà anh thì anh mới đưa cho xem bản thảo những bài thơ hoàn chỉnh của mình.
Anh chỉ làm thơ tại nhà chứ không bao giờ ghi ghi chép chép trước mặt người
khác tại bất cứ đâu.
Sau ngày toàn quốc kháng chiến chống
Pháp 19/12/1946, mấy nơi giáp ranh với Trung Quốc chỉ cách một dãy núi và đường
truông Thạch Bàn như Thu Bồn, Kiểm Lâm, phía tả ngạn là Phú Thuận, Giao Thủy… đều
bị Pháp tạm chiếm, đóng đồn. Vùng Trung Phước đổ lên mãi tận đầu nguồn sông Thu
Bồn, chạy vào phía Nam của tỉnh gồm huyện Quế Sơn, Thăng Bình, Tam Kỳ, Tiên Phước,
Trà Mi là vùng tự do rộng lớn của ta tiếp giáp với các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định,
Phú Yên, suốt chín năm chống Pháp là vùng bất khả xâm phạm. Địa phương tôi ở là
khu Hoàng Văn Thụ có một công binh xưởng lớn chế tạo vũ khí, có nhiều cơ quan,
kho tàn của ta. Đấy cũng là địa bàn thường có các đơn vị chính quy cấp tiểu
đoàn trú đóng và xuất kích đánh địch tại vùng xuôi.
Không tiến công, lấn chiếm, đóng đồn
được, Pháp dồn sức vào việc dùng máy bay thả bom, bắn phá ác liệt vùng tự do của
ta. Xã tôi, nhất là khu vực chợ Trung Phước, phải chịu vô số lần máy bay giặc
trút bom, bắn phá, có cả bom napalm (xăng đặc). Xóm cụ Cửu Tý (thân phụ anh Bùi
Giáng) nhà cửa khang trang, vườn xanh tốt nhất địa phương, lại gần chợ, nên thường
bị máy bay giặc oanh kích nhiều hơn các nơi khác.
Thi sĩ Bùi Giáng có cái “tật” chết
người là không bao giờ chịu vào hầm trú ẩn để tránh bom đạn của máy bay giặc.
Khi nghe tiếng kẻng báo động vang lên từ gò Đồn, mọi người vội chạy ra khỏi nhà
và xuống hầm, chỉ riêng anh Sáu Giáng cứ đứng nơi góc sân để… coi. Anh theo dõi
hoạt động của máy bay giặc và tùy từng lúc mà la lớn cho mọi người trong hầm
nghe:
- Nó thả bom. Hai quả… bốn quả…
- Nó chúi… bắn.
- Xóm chợ có nhà cháy! (…)
Cụ Cửu Tý và mọi người cự nự anh về
chuyện không nấp hầm thì thi sĩ của chúng ta lại cười và giải thích một cách rất…
Bùi Giáng: “nó thả bom, nó bắn chắc chi đã trúng, lỡ trúng chắc chi đã chết?”.
Thấy nguy hiểm quá nên sau cái Tết
năm Tân Mão 1951, cụ Cửu Tý mua bầy dê năm con vừa lớn vừa nhỏ cho “Bán Giùi” của
cụ làm công việc chăn dê. Cụ thuê người vào thôn Giáp Nam làm cái chuồng dê thô
sơ bên mé đồi sau nhà bà giáo Nhẫn như đã nói ở trên. Sáng thật sớm, Bùi thi sĩ
mang theo cơm gói bằng mo cau và ống tre đựng nước chè, vào đấy mở cửa chuồng
lùa bầy dê lên đồi cho chúng ăn lá cây. Chủ dê ngồi hay nằm trên cỏ dưới bóng
mát của một lùm sim già. Anh nhìn trời, ngắm núi, ngâm nga thơ của các nhà thơ
nổi tiếng. Tôi chưa bao giờ nghe anh ngâm hay đọc thơ của anh, lại càng không
bao giờ nói về thân thế mình với bất cứ ai. Điều này anh giữ cho đến cuối đời:
Hỏi tên, rằng biển xanh dâu
Hỏi quê, rằng mộng ban đầu đã qua
Và Bùi Giáng đã trả lời chung những
ai muốn hiểu sâu về con người, đời riêng, tâm sự của mình như nhiều người đã thấy
nơi bìa sau cuốn Tư Tưởng Hiện Đại của anh viết được tái bản tại Sài Gòn năm
1972:
“Thi sĩ sinh ra như mọi người giữa
cỏ cây ly kỳ và chết đi giữa cỏ cây ly kỳ gay cấn”…
Hồi ấy, cụ Cửu Tý giao việc nuôi
dê cho anh Sáu Giáng mục đích là để anh tránh xa vùng oanh kích hàng ngày của
máy bay Pháp chứ không phải vì kinh tế.
Thời gian này, các vùng hậu phương
thực hiện chủ trương “tăng gia sản xuất, tự cấp tự túc”. Thấy anh Bùi Giáng
chăn dê, tưởng đây là một kiểu làm ăn có lợi nên có người cũng tạo bầy dê thả
rong trên cùng dãy đồi này. Năm ấy tôi đã thoát ly. Một lần về phép, tôi đến
thăm và ở chơi trọn ngày với anh Sáu Giáng. Hai anh Văn Phú Nhẫn và Văn Ngọc
Hưng cũng có mặt. Gần trưa, “ông chủ dê” lấy gói cơm mo cau cắt ra từng miếng
ngon lành mời chúng tôi ăn. Cơm gói chấm muối mè, lại ngồi dưới bóng lùm sim
râm mát, bốn anh em chuyện trò quá đỗi hưng phấn, gói cơm hết veo mà bụng mỗi
người vẫn còn… ấm ức. Nhưng không sao, bà giáo Nhẫn đã đoán trước cớ sự
này nên tăng cường kịp thời cho chúng tôi một rổ cơm nóng lót lá chuối với một
trã cá đồng kho lá gừng ngon tuyệt!
Khi uống nước chè tươi, anh Giáng
nói với chúng tôi rằng anh ngại dê của anh lộn với dê người khác. Chúng tôi đề
nghị anh hãy tròng vào cổ mỗi con dê một cái vòng tre nhuộm màu khác nhau. Ba đứa
chúng tôi tìm tre, pha phẩm màu thực hiện ngay. Do đó sau này mới có giai thoại
mỗi “em dê” của thi sĩ Bùi Giáng mang một chiếc “kiểng” có màu trắng, đen,
xanh, vàng, đỏ. Điều này, sau khi Bùi Giáng từ trần thấy có người viết gần đúng
sự thật. Kỳ dư, về sự chăn dê, địa điểm và số năm chăn dê của thi sĩ Bùi Giáng
đã có nhiều người viết nhưng đều không đúng. Chẳng hạn có người nói Bùi Giáng
chăn dê vì bất mãn cuộc đời, anh chăn dê tại Vĩnh Trinh nhiều năm gần giống như
ông Tô Vũ đời Hán Vũ Đế bên Tàu…
Chính xác, thi sĩ Bùi Giáng không
hề chăn dê tại quê nhà Vĩnh Trinh và anh chỉ chăn dê trong vòng một năm rưỡi
như đã nói ở trên. Đầu năm 1948, phu nhân của anh từ trần. Sau đám tang,
anh bỏ nhà đi đến các địa phương phía Nam của tỉnh Quảng Nam, vào Quảng Ngãi,
Bình Định, vào tận Phú Yên. Đến năm 1950, anh trở về nhà. Nghe có kỳ thi Tú tài
đặc biệt của Liên khu 5 tổ chức tại Bồng Sơn tỉnh Bình Định, anh đi thi và đỗ
Tú tài toàn phần. Về nhà, anh chuẩn bị mọi thứ rồi theo đoàn người băng rừng lội
suối ra Liên khu IV để học đại học tại Hà Tĩnh. Đây là trường đại học của ta
trong thời kháng chiến chống Pháp. Nhưng ngay hôm khai giảng, vì không vừa ý điều
gì đó, Bùi Giáng bỏ học và lại băng rừng lội suối về lại Quảng Nam. Chuyến đi
ra rồi đi trở vào toàn luồn đường rừng, tránh các đồn bót của Pháp… mất trọn 3
tháng. Nội cái chuyện ra đi vào hết sức gian nan, nguy hiểm này cũng đã nói lên
một phần tính-cách-Bùi-Giáng.
Khoảng tháng 5 năm 1952, Bùi Giáng
đã từ giã Trung Phước, ra Đà Nẵng rồi ra Huế một thời gian ngắn, sau đó vào Sài
Gòn tự học, làm thơ, biên khảo, trước tác, dịch thuật một khối lượng tác phẩm đồ
sộ đủ loại cho đến tận ngày cuối đời. Thi sĩ Bùi Giáng từ trần lúc 14 giờ 15
phút ngày thứ Tư, 7-10-1998, nhằm ngày 17 tháng 8 năm Mậu Dần tại Bệnh viện Chợ
Rẫy Sàigòn, thọ 73 tuổi (17-2-1926 – 1-7-1998).
Nơi thi sĩ Bùi Giáng chăn dê thuở
trước, bây giờ mé đồi đã thành đất thổ cư, nhiều nhà mọc lên, toàn cảnh đã khác
xưa. Bà giáo Nhẫn khả kính, thi sĩ Bùi Giáng, anh Văn Phú Nhẫn và bao người
quen thân nhau thời ấy đã không còn nữa. Anh Văn Ngọc Hưng, một trong những người
thuộc lứa đàn em rất gần, rất kính mến thi sĩ Bùi Giáng nay là Đại đức Thích
Thiện Huệ, trụ trì chùa Tâm Thành, xã Phú Cường, huyện Tam Nông, tỉnh Đồng
Tháp…
Đêm trực tang thi sĩ Bùi Giáng tại
chùa Vĩnh Nghiêm các bạn văn nghệ sĩ đã nói với nhau: cuộc đời và sự nghiệp văn
thơ của Bùi thi sĩ là “bất khả tư nghị”.
Vâng, tôi cũng nghĩ như vậy. Tuy
nhiên, riêng về việc chăn dê của cố thi sĩ thì tôi xin phép được viết để trả lại
đúng sự thật cho một mẩu giai thoại về một con người, một thi sĩ có khá nhiều
giai thoại.
Tường Linh
Uyên Thúy Lâm: Nhân Đọc Bài Viết Về “Bùi
Giáng – Người Thơ Rong Chơi Cuối Chân Trời”
ĐÔI DÒNG LAN MAN TẢN MẠN
Nhân Đọc Bài Viết Của VH Tạo Ân: “ Bùi
Giáng – Người Thơ Rong Chơi Cuối Chân Trời”
“… Hiểu về Bùi Giáng đã khó, viết về Ông
thật khó vô cùng, nhất là Cõi Thơ riêng Ông.” (Nhà văn Cung Tích Biền).
Phải có một cảm hứng sâu đậm, và cũng
“miệt mài” lắm, Tạo Ân mới chọn viết về Bùi Giáng! Đúng không?
Vậy mà VH Tạo Ân đã viết, và còn cho
chúng ta đọc một bài viết rất đẹp và thật công phu nữa kia.
Anh đã mở đầu bài viết về Nhà Thơ Bùi
Giáng bằng hai câu đầu của bài Chào Nguyên Xuân:
“Xin chào nhau giữa con đường
Mùa xuân phía trước miên trường phía
sau…”
Và Tạo Ân đã xoay một… vòng luân vũ khá
điệu nghệ, tỉ mỉ, chu đáo với hai câu lục bát này. Hai câu mà, nhắc đến danh
Bùi Giáng, thường ai cũng liên nghĩ đến.
Tạo Ân viết rằng Anh đã “bổ câu thơ ra
làm đôi, chẻ ra làm tư…” để tìm nghĩa hai chữ “miên trường”, hai chữ thật sự
không chỉ riêng Anh, còn nhiều độc giả (cả tôi) thấy hay quá, mà không biết… tại
sao nó hay! Rồi Tạo Ân chiết tự ra để tiếp cận cho được cái ngữ nghĩa bí ẩn của
tác giả còn để đâu đó đằng sau.
Tôi cũng chưa quên sự xúc động của mình,
ngày xưa ở tuổi đôi mươi, khi lần đầu tôi đọc Bùi Giáng, đọc Chào Nguyên Xuân
và bâng khuâng rất lâu trước các câu thơ này, đặc biệt với hai chữ “miên trường”.
Như vừa chạm phải sợi tơ vàng! Tiếng tơ
ngân rung xao động lòng người. Thơ có sức âm vang trong tâm tư người đọc ngay lần
đầu tiên. Dù chỉ là cảm nhận và rung động, chứ chưa thể nào là “thấu hiểu”…
Bùi Giáng sử dụng ngôn ngữ ra ngoài quy
ước. Bùi Giáng ngộ thức ngôn ngữ, Ông đã tặng cho đời biết bao nhiêu châu ngọc.
Bùi Giáng chất ngất một trời chữ nghĩa, trùng trùng một biển văn chương… Bùi Giáng
“lậm” Kiều. Bùi Giáng rong chơi như trong một hành trình vô định. Và cũng tư bề
khó hiểu!
Rồi Tạo Ân nghĩ là khi Anh gần như đã giải
mã được hai câu thơ bí ẩn sau nhiều chục năm, cũng là lúc Anh đồng thời khám
phá ra rằng hai chữ “miên trường” đã vơi đi ít nhiều mầu nhiệm!
Tôi nghĩ hơi khác một chút, là không vơi
đâu, người viết Tạo Ân ơi! Tôi lại thấy, dù qua bao soi rọi, kiếm tìm, những
câu thơ đó, từ ngữ đó vẫn tuyệt hay. Khi đọc trở lại, câu thơ BG vẫn như sẽ còn
giữ được mãi nét… nhiệm mầu tiên thiên mà thơ đã có, đã cuốn hút người đọc như
từ thuở ban đầu.
Ai khen cứ khen. Ai chê cứ chê. Nhiều
người đã viết về Ông. Và còn nữa những người sẽ viết tiếp, như chuỗi mong muốn
khám phá bất tận. Mà nay thì Bùi Giáng đã:
“Thưa rằng: ly biệt mai sau
Là trùng ngộ giữa hương màu Nguyên
Xuân.”
Còn Hoàng Nguyên Nhuận thì viết: “Thơ
Anh là một chén thuốc đắng dịu dàng chỉ dành cho những người liều ham thắc mắc
vấn nạn…”
Hôm nay, có phải Tạo Ân đã viết với sự
rung cảm thực sự của người thưởng thức, kiếm tìm? Và cũng phần nào chăng Anh đã
“bị” chén-thuốc-đắng-dịu-dàng ấy cuốn hút bấy nay?
Hay vào một chiều nào đó Anh thấy như đã
hòa nhập được tâm tình mình với cuộc rong chơi đằng đẵng của Bùi Giáng. Lúc mà
phong sương đã trải, được thua ít nhiều đã từng, có phải người ta dễ đi gần đến
ý niệm xem việc đời không có gì là quá quan trọng nữa. Sao lại phải theo một
khuôn mẫu nhất định. Sao phải hành xử cho vừa lòng mọi người, cho phù hợp với
các giá trị mà chung quanh chấp nhận từ lâu? Lề thói thì đã cũ kỹ sáo mòn. Mà
cuộc thế đổi thay từng giờ, từng phút.
Sao không là: Đến, được tự nhiên lừng lững
sống, hát ca khi cần, nói viết những gì mình thích, mình cảm nhận được. Nghĩ
sao thì làm vậy. Theo cái cách riêng của mình. Đến ngã ba đường để sau đó sẽ là
định mệnh nổi trôi, là tiếp tục cuộc hành trình vô định.
Rồi khi đến ngõ cuối, đoạn cuối thì Đi.
Ra đi. Như muôn đời nay mỗi người sau cuộc rong chơi ai rồi cũng sống gửi, thác
về…
Người Thơ rong chơi cuối chân trời như vậy,
gần như tung hê mọi thứ, bất chấp, không màng. Trông cái vẻ ngoài không giống
ai, bất cần đời tưởng như khi điên khi tỉnh ấy, biết đâu nhà thơ Bùi Giáng lại
đã đạt được “tỉnh thức” sớm sủa hơn người!….
VH Tạo Ân có lẽ đã đọc Bùi Gíáng từ lâu,
đã nghe tâm tư ngân rung và cảm xúc đặc biệt với thi ca, cách sống, hành trình,
tài năng của Ông nên Anh mới chọn BG làm đề tài.
… Nhưng tôi vẫn mong được một lần nghe
Anh xác định. Rằng sắc mầu âm thanh nào, lời thơ ý tưởng nào, hay cung cách thể
hiện ra sao ở Bùi Giáng đã cho Anh niềm cảm xúc miên man sâu lắng nhất. Những
điều gì trong thơ văn Ông gợi được nơi tâm tư Anh sự ngân rung đồng điệu, chan
chứa hòa thanh. Để Anh sớm muộn rồi cũng sẽ phải chọn viết về Người Thơ Rong
Chơi cuối trời quên lãng này …
Hỏi người viết Tạo Ân mà cũng là hỏi lại
niềm xao động của chính tâm tư mình, trước một Người Thơ tài hoa thâm trầm bí ẩn.
Người mà thơ Ông kỳ diệu như tới cái sâu thẳm nhất của ngôn ngữ.
Một khối trầm hương chữ nghĩa! Và sự uyên bác thì thật là đến tận cùng.
Lý luận và cảm nhận Thơ Văn, Hành Trình Bùi Giáng là riêng tư của Anh. Nhưng
bài viết như đã giúp tôi tìm lại được niềm rung động thanh khiết, dịu dàng như
đã có, lần đó năm nào trong thư viện. Chiều chiều sau giờ học ở giảng đường,
tôi mải miết tìm đọc thơ BG, (cũng như vẫn tìm đọc “tùm lum tá lả” thơ văn khác
nữa …). Đọc triền miên, dù chưa chắc mình đã hiểu thấu được phần nào, câu chữ
Ông đang dùng, ý tình Ông muốn tỏ.
Một thoáng, bài viết của Anh như đưa tôi
quay về khung trời cũ, Thư Viện Sài Gòn xưa những chiều lá đổ. Nhiều buổi không
vào ngồi trong phòng đọc sách rộng, tôi hay mang theo cặp sách sau buổi học, một
mình ra ngồi ở lối cầu thang vòng cung có trải thảm. Thảm cũ đã phai màu trải
theo cầu thang và hành lang vắng vẻ. Học bài xong, tôi lại ngồi đọc thơ Bùi
Giáng. Trong ánh nắng chiều nhạt dần buổi cuối ngày, nhìn xuống đường, mỗi cơn
gió thổi qua cuốn theo nhiều lá rụng rơi. Tôi còn như nhớ cả âm thanh rì rầm của
tiếng xe di chuyển dưới đường phố vọng vang từng ngày.
Có những chiều, tôi nghĩ đến các bạn thời
còn ở trung học. Còn nơi giảng đường đại học, cứ mấy tuần trôi qua lại vắng mặt
một vài nam sinh viên. Ít lâu sau hỏi lại bạn bè có liên hệ, mới hay các anh đã
vào quân trường, đã lên đường nhập ngũ. Và giờ đây vai ba lô tay súng, các anh
đang dãi dầu nơi chiến trường xa. Trận chiến ngày càng sục sôi máu lửa! Các anh
đang dâng trọn tuổi trẻ cho đất nước, và nhờ vào sự hy sinh đó chúng tôi mới
còn được tạm yên ổn mà học tập ở nơi này.
Lúc đó Việt Nam đang ngập tràn chinh chiến.
Không ai biết được ngày mai những gì sẽ đến cho mình và cho cả quê hương…
†††
Mới thoáng đó mà đã mấy mươi năm qua rồi.
Xin cảm ơn VH Tạo Ân về bài viết Bùi
Giáng – Người Thơ Rong Chơi Cuối Chân Trời. Bài Anh viết như đã đưa tôi về gặp
lại nơi chốn ấy, ngày đó lâu rồi. Bài viết rất đẹp, thật công phu mà quý độc giả
đã thưởng thức vài tuần trước đây tại mục Văn Hữu trên Trang Người Việt Boston
này ./.
UYÊN THÚY LÂM
Boston Mùa Xuân
VỀ BÙI GIÁNG
Nhiều buổi chiều Sài Gòn, tôi chẳng còn
có thể nhớ đích xác vào những năm nào, đâu như năm 1962, đâu như năm 1965 (nếu
sai, nhờ hai anh Cung Tiến, Phạm Công Thiện nhớ lại dùm cho), tôi thường được mời
tới những họp mặt ăn nhậu trên căn lầu ngăn nắp, thoáng mát của thầy Thanh Tuệ ở
đường Lý Thái Tổ. Mỗi họp mặt vớiù Thanh Tuệ, hồi đi là giám đốc của nhà xuất bản
An Tiêm và còn là nhà sư trẻ tươi tắn chưa cởi áo hồi tục, thường vì một cuốn
sách. Một cuốn sách mới, vừa in xong chưa ráo mực. Và trước khi gởi sách vào nắng
mưa đời, họp mặt An Tiêm với thân hữu là một tiệc rượu lạc thành cho sách.
Những họp mặt vì sách và do sách đó thường
có tôi, Thanh Tâm Tuyền, Phạm Công Thiện, đôi khi Nguyễn Ðình Toàn, Dương Nghiễm
Mậu, Doãn Quốc Sĩ, và đương nhiên nhân vật chủ chốt là tác giả sách là Bùi
Giáng. Tôi chỉ kể tới Bùi Giáng, bởi suốt thời kỳ đó, có thể nói, thầy Thanh Tuệ
vì một tấm lòng liên tài đặc biệt, chỉ mê thích thơ văn Bùi Giáng, chỉ in Bùi
Giáng, dành trọn phương tiện cho ưu tiên xuất bản trưóc mọi tác giả khác. Và
giai đoạn có thể đặt tên là giai đoạn Bùi Giáng này, An Tiêm đã in đêm in ngày,
in mệt nghỉ, vì những năm tháng đó chính là những năm tháng đánh dấu cho thời kỳ
sáng tác kỳ diệu sung mãn nhất của Bùi Giáng, cõi văn cõi thơ Bùi Giáng bấy giờ
ào ạt vỡ bờ, bát ngát trường giang, mênh mông châu thổ, Bùi Giáng bấy giờ mỗi
tuần viết cả ngàn trang khiến chúng tôi bàng hoàng khiếp đảm, ngôn ngữ và tư
duy của Bùi Giáng bấy giờ hiển lộng tới không bền không bờ, vô cùng vô tận, và
tài năng ông cũng vậy.
Bùi gíang chất ngất một trời chữ nghĩa,
Bùi Giáng trùng trùng một biển văn chương. Vậy mà mỗi lần gặp thi sĩ hồi đó, cảm
tưởng bao giờ cũng giữ được là đã gặp một Bùi Giáng rất nhàn rỗi, rất rong
chơi. Bước chân vào nhà Thanh Tuệ chúng tôi đã thấy Bùi Giáng ngồi trước đó,
tươi cười, ung dung, trong cái phong
thái của một người nhàn nhã nhất thế giới, chẳng có một dấu vết nào của một người
viết đang gió táp mưa rơi trên ngàn ngàn trang sách. Có như Bùi Giáng trước sau
vẫn đang chập chờn với đời như một cánh bướm, lững thững với đời như một áng
mây. Có như Bùi Giáng, cái áo vải cũ, râu tóc để mặc, điếu thuốc trên tay, chén
trà trước mặt, vẫn chỉ ngồi chơi thảnh thơi ngày ngày với An Tiêm như thế. Sau
này, sống với Bùi Giáng nhiều hơn, tôi cũng chỉ thấy Bùi Giáng như hồi đầu thấy
ở An Tiêm. Trong một phiêu hốt, một ung dung chưa từng thấy. Có như, trọn một đời
cái đầu của thi sĩ không một chút nào dành cho suy nghĩ, bàn tay thi sĩ không một
phút nào dành cho cây bút. Có như trang giấy trắng, mặt bàn viết là những vật
thể xa lạ chẳng bao giờø ông biết tới. Vắn tắc là Bùi Giáng chẳng làm gì hết,
chẳng ai một lần nhìn
thấy Bùi Giáng đang làm gì hết. Mà hoàn toàn phiêu bông, hoàn toàn rong chơi.
Vậy mà cái sức viết hồi đó đến như Bùi
Giáng là tột đỉnh, là không tiền khoáng hậu. Vậy mà cái lực viết đến như Bùi
Giáng và thấy Bùi Giáng là ngàn người không một, là phi phàm, là vô địch rồi.
Một lần, tôi đem cái điều khó hiểu này
ra hỏi một người cũng làm thơ thật nhiều, cũng làm thơ rất đều tay là Thanh Tâm
Tuyền. Tác giả Liên Ðêm Mặt Trời Tìm Thấy lắc đầu cười: “Chịu không giải thích
được. Chỉ biết Bùi Giáng khác. Với tôi. Với hết thẩy. Là cái chỉ có một. Với
tôi là từng bài thơ. Nói đến từng bài thơ Bùi Giáng, bài thơ này bài thơ kia của
Bùi Giáng lại là chuyện tức cười lắm lắm. Bùi Giáng là cái hiện tượng dị thường
của một suối thơ ăm ắp không ngừng. Ðọc thơ Bùi Giáng cũng phải đọc như thế. Ðứng
trên đơn vị từng bài. Bùi Giáng đặït tựa cho từng bài là ngắt thơ ra, ngắt chơi
ra vậy thôi. Nói đến mấy ngàn bài thơ Bùi Giáng là đúng. Mà nói thơ Bùi Giáng
chỉ có một bài, vô tận vô cùng là đúng hơn. Ngủ ra thơ, thở ra thơ, đi ra thơ,
đứng ra thơ. Chứ không phải nghĩ ra thơ, làm thơ. Ta cứ tạm hiểu cái trạng thái
thơ kỳ lạ khác thường ở Bùi Giáng là như vậy.”
Sự ngược nghịch giữa cái rong chơi một đời
của Bùi Giáng với cái lực thơ, cái số thơ, cái lượng thơ khủng khiếp làm ra,
tôi đem hỏi thêm nhà xuất bản hằng ngày sống cùng Bùi Giáng, rồi đến chính thi
sĩ, cũng không được sáng tỏ gì hơn ngoài suy diễn có tính chất phỏng đoán của
Thanh Tâm Tuyền. Thầy Thanh Tuệ cũng chỉ lắc đầu cười. “Tôi cũng lấy làm kỳ”,
Thanh Tuệ nói. “Anh lang thang suốt ngày, chẳng thấy lúc nào ngồi viết hết. La
cà hết nơi này đến nơi khác, uống rượu say ngất rồi về lầu lăn ra sàn ngủ, nhiều
ngày bỏ cả bữa ăn. Ðêm cũng không thức, chỗ nằm tối thẳm. Tôi in không kịp, nói
ảnh tạm ngừng thì ảnh ngừng. Nói có máy, có giấy, nói buổi sáng buổi chiều ảnh
đã tới ném bịch xuống cả năm, bảy trăm trang. Cứ thế đem sắp chữ thôi, đâu có
thì giờ đọc. Ðiều kỳ lạ là không riêng một thể loại mà thể loại trước tác nào
anh cũng có ngay sách, dễ dàng và nhanh mau vô tả. Từ thơ đến văn. Từ một cuốn
tiểu luận về Camus đến một cuốn tiểu luận về Nguyễn Du. Từ dịch thuật tiểu thuyết
đến phê bình triết học. Tất cả như đùa như chơi vậy.”
Nhà An Tiêm suốt mấy mùa sách, hầu như
không thở được nữa trước cái viết tràn bờ của Bùi Giáng, điều này ai cũng biết.
Rồi tôi rủ Bùi Giáng tới quán. Ðãi ông uống
rượu. Vặn hỏi chính thi sĩ. Ðể cũng chỉ được Bùi Giáng cười cười thích thú trước
tìm hiểu có vẻ ngớ ngẩn của tôi. Ông không chịu giải thích, chừng như ông không
có gì giải thích, sự thành hình tác phẩm nơi Bùi Giáng cuối cùng vẫn là một bí ẩn
hoàn toàn trong cái vùn vụt, cái bất tuyệt thao thao, cái chớp mắt đã là của
nó. Cười cười, ông đốt điếu thuốc, cầm lấy ly rượu: “Vui thôi mà”.Ừ vui, ba chữ
“vui thôi mà” là câu trả lời mơ hồ nghịch ngợm duy nhất của Bùi Giáng trước mọi
tìm hiểu của lực thơ và số lượng thơ không thể tưởng tượng được ở nơi ông, cõi
thơ vô bờ của ông trăm phương nghìn ngã mênh mông và chính ông là hiện tượng
thân của mênh mông nghìn ngã trăm phưong ấy.
Bùi Giáng nói vui thôi mà. Quả vậy, thơ
ông vui cực kỳ. Con châu chấu, con chuồn chuồn. Cơn chuồn chuồn, con châu chấu.
Rừng Marylyn. Biển Brigitte Bardot. Ngành Novak. Ðóa John Keats. Ngành Mật niệm.
Ðóa U Linh. Hồng Lĩnh Hạc Lâm. Quỳnh Lai Thị Xứ. Thơ đốt pháo bông, ngôn ngữ
triệu triệu, như chữ thần diệu:
Người nằm ngủ thấy gì
Thấy rất nhiều nắng lạ
Giấc ngủ đầy nắng, đầy nắng lạ. Bùi
Giáng nói vui thôi mà. Thơ ông vui thật. Từ cánh tay áo rộng, thơ bay. Từ trí
tuệ gió lộng, thơ phất. Nghìn thu cổ lục. Ngày Hy Nga. Ðêm bé chị. Mọi trên
ngàn. Sóng Hồng Hoang. Thềm dục vọng. Thơ ghé thăm đá, thăm bàn ghế, thăm bún
bò, thăm lá.
Ghé thăm trái mận ban đầu
Bình minh bắt gặp nguyên màu ban mai
Tiếng thơ sáng rỡ, chói lọi, kỳ ảo, cánh
rừng ngôn ngữ ấy suối reo, chim hót, hoa nở, cây ào ào sóng vỗ, sóng từng từng
xanh cây, beo gấu rởn nghịch, con chuồn chuồn hóa thân, con châu chấu suy tưởng,
những môi nhỏ hằng ngày, gì cũng là thơ, thảy đều biến dạng. Thơ Bùi Giáng vui
thật. Một vĩ đại vui. Hãy đọc thơ ấy, như cùng ông đi vào một trận vui lồng lộng.
Ðừng cần tìm hiểu. Ðừng cần giải thích. Hãy đọc lại Mưa Nguồn, Bài Ca Quần Ðảo:
Xin chào nhau giữa con đường
Mùa Xuân phía trước, miên trường phía
sau
Sẽ thấy cái vẫy tay chào lấp lánh của
thi sĩ. Cái sự “vui thôi mà” trước sau ông chỉ nói vậy, ba chữ này tôi ao ước
được thấy khắc vào mộ chí ông khi ông mất đi, ông và giữa con đường vui, không
dưới không trên, không đầu không cuối gì hết. Giữa và mùa xuân phía trước, miên
trường phía sau.
Thơ là người. Ngoài đời Bùi Giáng cũng
thật vui. Thời kỳ Thanh Tuệ chấm dứt, nhà xuất bản An Tiêm tạm ngừng hoạt động,
Bùi Giáng gặp lại Thanh Nam, viên Linh, Vũ Khắc Khoan và tôi ở toà soạn tuần
báo Nghệ Thuật và những kỷ niệm chúng tôi có với thi sĩ thời gian này vẫn là những
kỷ niệm vui. Lúc này, thần thái ông ấy không còn được rạng rỡ như mấy năm về
trước. Cuộc phiêu bồng qua đời sống của ông kỳ dị và tận cùng hơn. Mái tóc ông
đổi màu. Mấy chiếc răng cửa bị gãy, nụ cười trẻ thơ vừa móm mém. Cặp ma-sát sâu
hóm xa khuất dần với mọi hình hài thực tế. Những con đường trên đó ông đi, cái
túi vải thơ nào, những ngã tư ông ngừng lại, tách thoát với nhân thế, tất cả ở
Bùi Giáng phơi hiện dần dần một hủy hoại khô khốc, ấy là tôi chỉ biết nhìn thấy
ông một cách “hình hài” như vậy, nhưng “vui thôi mà” thì vẫn là rất vui. Ông
vào tòa soạ, ngồi xuống ghế, nhìn mọi người, cười trẻ thơ, thường nói khát quá
và xin một chai bia uống. Ông uống từng ngụm nhỏ, nói thích chai bia lớn vì uống
được nhiều hơn, châm thuốc hút, những ngón tay vụng về lóng ngóng. Uống cạn
chai bia, cái túi vải đeo lên và bỏ đi. Ðó là cái đến cái đi êm ả của Bùi
Giáng. Nhiều lần không thế. Ông ra tắm ở cái máy nước trước tòa soạn, thản
nhiên trước người qua kẻ lại, quần áo lướt thướt đi qua đường, một đám con nít
tròn mắt đi theo. Một lần khác,
chúng tôi đi ra ngoài một lát trở về, thấy ông nằm ngủ ngon lành trên hai cái
bàn viết kê liền lại. Giấc ngủ dài, quên đời, quên hết, mặc hết, phải đánh thức
dậy. Những lần đó, ông ngồi im lặng, bất động, thầm thì “vui thôi mà” rồi lặng
lẽ bỏ đi, cái bóng dáng gãy đổ, gầy guộc trong chiều xuống.
Chính là trong cái tình trạng suy nhược
đã trầm trọng quá chừng và tiều tụy quà thể này của Bùi Giáng mà chúng tôi bắt
đầu cảm thấy quan tâm thực sự đến thi sĩ. Ðến sức khỏe ông, ngày mỗi cạn kiệt.
Ðến cách sống ông ngày mỗi tiều tụy. Ðến tâm thức ông, ngày càng bất định. Cuộc
vui của ông Bùi Giáng tuyệt vời nhưng chẳng thể phiêu bồng mãi mãi. Phải làm một
cái gì về ông. Ðể ghi nhận lại. Về thế nào là cái tiếng thơ trác tuyệt của Bùi
Giáng, cõi ngôn ngữõ đạt tới hoang đường kỳ ảo của Bùi Giáng. Trong khi còn gần
ông. Trước khi ông chẳng gần, chẳng chịu sống cùng ai nữa.
Số biệt về thiên tài thi ca Bùi Giáng phải
chờ đến hơn một năm sau, tờ Nghệ Thuật đình bản, tôi sang trông coi tờ Văn
chung với Nguyễn Xuân Hoàng thực hiện được. Cũng nhờ số Văn này mà tôi mới nhìn
thấy và hiểu được sự không hiểu của tôi nói ở trên là sự ngược nghịch giữa Bùi
Giáng tháng ngày rong chơi với Bùi Giáng mộ tuần lễ cả ngàn câu thơ, cả ngàn
trang sách. Số Văn ấy, phần nhận định nhờ Thanh Tâm Tuyền, Ninh Chữ, Tuệ Sỹ, Trần
Tuấn Kiệt… viết. Bài phỏng phấn Nguyễn Xuân Hoàng thực hiện. Phần giới thiệu những
bài thơ mới nhất là tôi. Chưa biết kiếm tìm Bùi Giáng ở đâu, thi sĩ bất ngờ ghé
thăm tòa soạn. Ông ấy chỉ còn là da bọc xương trong quần áo thùng thình, mái
tóc dài đạo sĩ, cái túi vải còn thêm cây gậy. Kéo ông ra trước báo quán chụp
chung tấm hình làm kỷ niệm rồi tôi hỏi xin ông những bài thơ mới nhất. Ông gật.
Tưởng lấy ở túi vải ra. Hoặc nói về lấy, hoặc nói hôm sau. Tất cả đều không
đúng. Ông hỏi mượn một cây bút, xin một xấp giấy, một chai bia lớn nữa, đoạn ngồi
xuống, và trước sự kinh ngạc cực điểm của chúng tôi, bắt đầu tại chỗ làm thơ.
Ông không chép lại thơ đã làm. Ông làm thơ tại chỗ. Lần đầu tiên tôi thấy Bùi
Giáng viết, thoăn thoắt, vùn vụt, nhanh không thể tả. Như thơ không thể từ đầu,
từ tim chảy xuống, lâu quá, mà ngay từ ngọn bút từ đầu ngón thôi. Làm thơ ứng
khẩu, làm thơ tại chỗ, nhiều người cũng làm được. Nhưng là thơ thù tạc, và chỉ
năm bảy câu một bài thôi. Bùi Giáng khác. Chai bia còn sủi bọt, ông ngồi viết
không ngừng, tự dạng nắm nót chỉnh đốn, chỉ một thôi đã xong hơn hai mươi bài
thơ, chúng tôi cầm lên coi, thấy bài thơ nào cũng khác lạ, cũng thật hay, cũng
đích thực là từng hạt ngọc của cái thơ thượng thừa Bùi Giáng. Lần đó, tô đã hiểu
tại sao Bùi Giáng cừ cánh bướm rong chơi, cứ phiêu bồng lãng du mà vẫn có ngay
nghìn câu một buổi. Ðúng là ngủ ra thơ, thở ra thơ, uống la-de, hút thuốc lá ra
thơ. Mà thơ không ai sánh bằng, thơ không ai đuổi kịp. Ông uống cạn chai la-de,
lập lại ba tiếng bất hủ “vui thôi mà” rồi đứng lên từ biệt.
Mấy tháng cuối cùng trước biến cố 1975,
tôi không thấy Bùi Giáng trong đời sống tôi nữa. Chỉ tỉnh thoảng nghe thấy ông
vẫn lang thang đây đó, một quán này, một bãi hoang kia, ngủ bất cứ ở đâu, dưới
trời sao, ở một gầm cầu, dưới một mái hiên. Có lúc thấy nói ông đeo một xâu chuỗi
toàn dày dép và quần áo phụ nữ quanh cổ như một vòng gai quái dị, đám con nít
reo hò chỉ trỏ người điên, người điên. Có khi nghe thấy, ông ẩn lánh ở ngôi
chùa vùng ngoại vi thành phố, ăn chay niệm Phật cả ngày không nói.
Ở trình trạng này, anh em chúng tôi, những bạn bè một thời
thân thiết với Bùi Giáng, từng đã chén thù chén tạc với Bùi Giáng bao lần trên
căn gác đường Lý Thái Tổ của nhà xuất bản An Tiêm, nhận sách tặng của Bùi
Giáng, ở với ông và trời thơ trác tuyệt của ông, chúng tôi biết chúng tôi chẳng
làm gì cho Bùi Giáng được nữa. Chẳng phải bỏ ông. Ông cũng không bỏ. Chỉ là ông
đã đi khỏi, đi xa, vào một trời đất khác.
Hai câu thơ hay tuyệt hay vào tập cho tập
Mưa Nguồn:
Xin chào nhau giữa con đường
Mùa xuân phía trước, miên trường phía
sau
Ðã mang một ý nghĩa khác. Lời chào như một
xa cách vĩnh viễn. Một bỏ đi. Một vĩnh viễn. Cái kho tàng chữ nghĩa phong phú
vô tận ở đó Bùi Giáng vừa tạo dựng nên cái thế giới ảo huyền của mình vừa phá hủy
tan tành cái thế giới ấy, kho tàng ấy thi sĩ không thèm sử dụng nữa, và chúng
tôi chẳng còn con đường nào tới được với ông.
(…..)
Bùi Giáng đã đem lại cho cuộc đời biết
bao nhiêu châu ngọc. Bằng tài thơ trác tuyệt. Bằng cõi ngôn ngữ ảo diệu, không
tiền khoáng hậu. Có ông, thi ca mới đích thực có biển có trời. Từ ấy, thi ca mới
không cùng không tận. Ðọc lại Mưa Nguồn, đọc lại Ngàn Thu Rớt Hột, Bài Ca Quần
Ðảo, tôi còn muốn bật cười với thơ Bùi Giáng. Vui thôi mà. Ðúng vậy, vui thôi,
có khác gì đâu. Mất Bùi Giáng , thơ ta lại trở về với cái hữu hạn đời đời của
thơ. Nhiều người bảo ông chỉ là một thằng điên. Tôi chỉ muốn nghĩ thầm cho tôi
là nếu có thêm được ít người điên như Bùi Giáng, thơ ca ta văn học ta còn được
lạ lùng được kỳ ảo biết bao nhiêu.
MAI THẢO
Bùi Giáng trong chiếc kính vạn hoa
Bài phát biểu của Bùi Văn Nam Sơn
trong buổi tọa đàm về Bùi Giáng tại
trung tâm L’espace, Hà Nội, 20.12.2011.
Nhân dịp ra mắt một tuyển tập thơ Bùi
Giáng, chúng tôi rất vui mừng và vinh hạnh được tham dự buổi tọa đàm hôm nay.
Vào cuối năm 2008, kỷ niệm mười năm ngày mất của cố thi sĩ (17.12.2006 -
07.10.1998), Trung tâm Văn hóa Ngôn Ngữ Đông Tây đã tổ chức sưu tầm, biên soạn
tập sách dày dặn: Bùi Giáng trong cõi người ta, tập hợp bài viết của hơn
30 tác giả trong Nam ngoài Bắc, trong nước và nước ngoài. Đó là một tập giai phẩm
có chất lượng học thuật rất cao về Bùi Giáng quy tụ những tiếng nói từ nhiều
chân trời khác nhau, đến với người đọc cả nước. Nhưng hôm nay, có lẽ là lần đầu
tiên, một buổi tọa đàm về Bùi Giáng được tổ chức trang trọng tại thủ đô Hà Nội,
trong không gian L’Espace thật thân quen này. Xin chân thành cám ơn Công ty Văn
hóa và Truyền thông Nhã Nam và trung tâm L’Espace đã có nhã ý mời và tạo điều
kiện cho chúng tôi được ra Hà Nội dự buổi tọa đàm này. Xin rất cám ơn nhà văn
Phạm Xuân Nguyên, người hướng dẫn tọa đàm và các diễn giả chính là nhà thơ Nguyễn
Trọng Tạo và dịch giả Nguyễn Nhật Anh đã ưu ái cho tôi được phép phát biểu đầu
tiên để có dịp thay mặt gia đình và thân nhân cố thi sĩ cảm tạ sáng kiến của ban
tổ chức và bày tỏ sự xúc động của mình trước tình cảm nồng hậu của quý vị khách
quý có mặt hôm nay dành cho cố thi sĩ.
Được phát biểu đầu tiên là sự ưu ái, đồng
thời cũng là một khó khăn đặc biệt cho tôi khi phải mở đầu cuộc tọa đàm về một
tác giả thật thú vị nhưng cũng rất độc đáo, đa diện và sâu thẳm như Bùi Giáng.
Không phải là người sáng tác lẫn một người chuyên phê bình hay nghiên cứu văn học,
tôi chỉ xin phép nêu vài cảm nghĩ với tư cách một độc giả bình thường đối với
tác giả mình yêu thích.
Trước mắt tôi, Bùi Giáng xuất hiện như
trong một chiếc kính vạn hoa. Với tôi, hình ảnh ấy là một sự nhìn nhận, một
vinh hạnh và một niềm an ủi lớn lao đối với bất kỳ tác giả nào không đơn điệu
và nhất phiến. Người đọc nhiều thế hệ - từ những người bạn văn sống đồng thời,
những người có cơ duyên hạnh ngộ và kết giao, những bà con lao động lam lũ vốn
quen thuộc với một Bùi Giáng “phóng túng hình hài, ngang tàng tính mệnh” giữa
phố thị Sài Gòn suốt mấy mươi năm, cho đến những nhà nghiên cứu và các bạn đọc
trẻ tuổi ngày càng tinh tường, uyên bác hiện nay - đều tha hồ đến với ông tùy
theo sở thích, cảm nhận và “căn cơ” riêng của mỗi người. Bùi Giáng quả là một
trường hợp đặc thù và lý thú cho một môn mỹ học tiếp nhận đang thịnh
hành hiện nay!
Chỉ cần điểm qua một cách ngẫu nhiên
nhan đề của một số trong rất nhiều bài viết về Bùi Giáng, ta hình dung phần nào
về chiếc kính vạn hoa ấy: “Bùi Giáng dị biệt”; “Bùi Giáng, một hồn thơ bị vây
khổn”; “Bùi Giáng, một tâm hồn mênh mông ảo diệu”; “Bùi Giáng, một năng lực phi
thường của kẻ suốt đời rong chơi”; “Người lữ khách cuồng điên và khôn cùng kỷ
niệm”; “Viết vào Bùi Giáng mong manh”; “Những sát-na của Bùi Giáng”; “Yêu đời
hơn từ thơ Bùi Giáng”; “Bùi Giáng, một bài thơ lạc vận”; “Bùi Giáng, giang san
một gánh dị thường”, “Bùi Giáng, nhà thơ cuối cùng của thế kỷ 20”; “Cuộc hòa giải
vô tận: trường hợp thơ Bùi Giáng”; “Bùi Giáng, tận cùng chủ nghĩa hư vô”; “Bùi
Giáng; tiếng ca chung cục”; “Bùi Giáng, ai người chia sẻ?”; “Bùi Giáng, từ phá
thể đến hội nhập”; và mới đây nhất, “Bùi Giáng, nhà thơ của các nhà thơ” v.v..
và v.v..
Không phải các tác giả đều đồng ý với
nhau trong cách hiểu, cách đánh giá về Bùi Giáng, nhất là về thơ của ông, mặc
dù cùng chia sẻ chung một niềm cảm thông, trân trọng. Có người đan xen kỷ niệm
riêng với những xúc cảm vô bờ trước những câu “thần cú”, những ý tình bát ngát
của họ Bùi. Có người khảo sát thơ ông trong mối tương quan mật thiết với hồn
thơ dân tộc, với các truyền thống tư tưởng Đông Tây. Có không ít tác giả thử
nghiệm hệ khái niệm tinh vi của bộ môn phê bình văn học đương đại nhằm “thông
diễn” thơ Bùi Giáng dưới nhiều bầu khí và ánh sáng khác nhau. Bùi Giáng chủ yếu
là một nhà thơ lãng mạn cổ điển phá cách và hý lộng? Bùi Giáng là một nhà thơ
tân kỳ, “là kẻ làm thơ trước hết với chữ”, bằng cảm thức và bút pháp hậu-hiện đại,
cho dù một cách mặc nhiên? Đọc thơ ông bằng cách tiếp cận “hủy tạo và phá thể”?
“Thơ tư tưởng phải hiểu bằng tư tưởng, không phải bằng câu chữ”? Vậy, Bùi Giáng
có “cách tân” thơ không, và nếu có, ở phương diện nào? Giá trị đích thưc của
thơ Bùi Giáng ở đâu? Ông là bậc thầy của những câu thơ hay?, của những bài
thơ hay?, hay của một hồn thơ bất tuyệt, một nguồn thơ vô tận hiếm
có, mà mọi bài, mọi câu chỉ là sự ngắt mạch theo quy ước giả tạo, từ đó cắt
nghĩa được những chỗ trùng lặp như một ám ảnh khôn nguôi? Kỳ cùng, Bùi Giáng
có làm thơ không, nếu hiểu làm thơ theo nghĩa “thêu thùa”,
“bịa đặt” của từ “art” (nghệ thuật”) cổ truyền? Hay Bùi Giáng, nói thậm
xưng, là một hiện thân của Nàng Thơ, ăn, ngủ, thở, sống với thơ và
trong thơ?
Về bản thân tác giả, Bùi Giáng là một
“hồn thơ bị vây khổn”, hoặc “thánh thiện và tự do tuyệt đối”? Là một “hành giả
chỉ đạt tới tiểu ngộ mà không đạt tới đại ngộ của thực tướng vô tướng, thực
tánh vô tánh”, hoặc là người “đã cuồng điên để sáng suốt” như một lựa chọn hiện
sinh của một kẻ đạt đạo, “thỏng tay vào chợ” để thực hành “Bồ tát hạnh”? Thật
không dễ trả lời và cũng thật không phải ngẫu nhiên khi Bùi Giáng là cả một kho
giai thoại, thậm chí, huyền thoại. Soạn giả Huyền Li đã khéo chọn nhan đề: “Bùi
Giáng, 99 giai thoại” (1999) cho bộ sưu tập của mình, khi con số 99 ngụ ý
sự vô lượng, vô hạn, bất tận. Thông thường, trong văn chương, giai thoại là món
quà thú vị cho người đọc, nhưng không có ý nghĩa gì nhiều lắm trong việc đọc
tác phẩm, nhất là khi khắp nơi đang vang lên hồi chuông báo tử về “cái chết của
tác giả”! Bùi Giáng có lẽ là một trong những ngoại lệ trong cách tiếp cận “thuần
văn bản” chăng? Dù thật dù giả, dù trung thực hay thêm thắt, giai thoại là một
phần không tách rời với văn nghiệp Bùi Giáng. Không chỉ để hiểu thêm chút ít
tình tiết trong nhiều câu thơ đẹp và bí hiểm của ông (“Trời đêm tinh tú chạy
vòng, Ruổi rong về bích ngạn hồng vàng chiêu” để nhớ ngày trẻ chạy “sô”
theo tiếng hát ma mị của những “ngôi sao” Thanh Thúy, Bích Chiêu, và còn nhiều
nữa: “Trang mờ em vẫn là em thu đầu”, “Về trong vân thạch em ngồi vén xiêm”,
“Sông ơi em bỏ sa mù, đi thiêm thiếp cõi quân thù gọi nhau”, hay “Ngày mai cá
sóng phiêu bồng, ngàn trăng ngậm bóng sương đồng ra đi”...) mà còn giúp “giải
mã” phong độ “thần thông du hý” với nhiều mật ngôn, ẩn ngữ tràn lan trong một
cuộc đời không biết và không hề phân biệt giữa thực và mộng, giữa sống và thơ.
Do đó, ít nhất trong trường hợp Bùi Giáng, tôi e rằng nếu tách những giai thoại,
hay đúng hơn, tách con người và cuộc đời của tác giả ra khỏi văn nghiệp, thì
thơ văn Bùi Giáng sẽ mất đi sự bảo chứng. Thử hỏi những câu chuyện thiền, những
bài thơ thiền sẽ còn lại gì, nếu bị tước mất đi kinh nghiệm tâm linh thực chứng
của chúng?
Có tác giả mạnh dạn đi tìm cái tưởng như
bất khả: bản chất của văn chương: “Bản chất của văn chương Bùi Giáng là sự tổng
hòa những nghịch lý. Trong cái đùa rỡn có sự đau xót, trong bỡn cợt có nỗi ngậm
ngùi, trong sự nghịch ngợm hồn nhiên trẻ thơ có sự uyên bác, trong điên loạn cuồng
si là cõi mộng bát ngát đẫm tình... Cái nét riêng ấy không ai có được, không ai
bắt chước được và không thể có người thứ hai” (Trần Đình Thu). Và có lẽ vì thế
chăng, tuy không đồng ý hẳn với nhau, hầu như tác giả nào khi viết về Bùi Giáng
cũng vô hình trung cảm nhận sâu sắc cái “không ai có được” ấy để chọn riêng cho
mình một cách viết, một nhan đề thật đắc ý, thật “gan ruột”, như thể viết cho
chính mình, về chính mình, nhờ đó, mở hết độ tinh nhạy của tai mắt, làm bùng vỡ
nội tâm. Bùi Giáng, một cách âm thầm, trao tặng cho những ai đến với ông chiếc
kính vạn hoa. Viết về Bùi Giáng, ai cũng thấy mình như vui hơn, đẹp hơn, sâu
hơn, “vô ngần trong bóng nguyệt”, hay, nói như Paul Éluard: “thi sĩ không chỉ
mang lại hồn thơ cho chính mình, mà còn trao cảm hứng cho người khác”. Thiết tưởng,
đó cũng là một đóng góp hải hà của Bùi Giáng.
Gần đây, thật vui mừng khi thấy việc đọc
Bùi Giáng đã được nâng lên một cấp độ đáng kể về chất lượng lý thuyết. Theo thứ
tự thời gian, tôi muốn nhắc đến một số lượng không nhỏ các luận văn Cử nhân và
Thạc sĩ văn học. “Thơ Bùi Giáng dưới lăng kính phê bình cổ mẫu”, luận văn thạc
sĩ của Trần Nữ Phượng Nhi tại Khoa Văn Đai học KHXH&NV TP HCM (2011, do PGS
TS Nguyễn Thị Thanh Xuân hướng dẫn) là một trong số đó (và tiếc rằng đây là luận
văn duy nhất tôi may mắn được đọc). Bằng cách tiếp cận của phân tâm học miền
sâu ở cấp độ vô thức tập thể, tác giả Phượng Nhi đã tìm cách phát hiện
các cổ mẫu tự nhiên như Đất, Nước, Vườn và các cổ mẫu xã hội như
tình yêu siêu năng (cổ mẫu Linh Âm/anima) và đường về bản thể (cổ mẫu Tự
ngã/Self) để khai quật những mạch ngầm trong thơ Bùi Giáng, một khảo hướng đầy
hứa hẹn. Gần đây nhất, là chuyên luận công phu còn ở dạng bản thảo của PGS TS Đỗ
Lai Thúy, nhà nghiên cứu và phê bình văn học thẩm quyền: “Bùi Giáng, nhà thơ của
các nhà thơ”. Từ ngôn ngữ-ký hiệu đến ngôn ngữ-sự vật, rồi từ chơi chữ đến
trò chơi ngôn ngữ, tác giả đã dõi theo hành trình ngôn ngữ thi ca Bùi Giáng để
đi đến nhận định: “Nếu trước đây Nguyễn Du mở ra thời kỳ trung đại cổ điển
trong văn học Việt nam, nâng nó lên ngang tầm khu vực Đông Á, còn Tản Đà vào những
thập niên đầu của thế kỷ XX đã mở đầu cho thời hiện đại, đưa văn học Việt nam
vào quỹ đạo thế giới, tuy có sự lệch thời gian, thì Bùi Giáng ở những năm cuối
của cùng thế kỷ ấy đã đi đầu trong việc mở ra một thời đại mới cho văn học Việt
Nam, văn học hậu hiện đại. Có điều lần này, ít nhất với trường hợp Bùi Giáng, sự
phát triển của văn học Việt Nam so với thế giới không còn là sự phát triển tương
ứng nữa mà là đồng thời, tức nhịp bước cùng thế giới. Bởi thế, theo
cái cách mà Heidegger gọi Hölderlin, tôi cũng muốn vinh danh Bùi Giáng, cũng
như Nguyễn Du và Tản Đà trước đây, những thi nhân làm thay đổi hệ hình tư duy
nghệ thuật của thời đại các ông, không phải là “nhà thơ giữa các nhà
thơ, mà là nhà thơ của các nhà thơ”.
Nhân nhắc đến quan hệ giữa Heidegger và
Hölderlin, giữa triết gia và thi sĩ, xin mạn phép lưu ý thêm rằng: thật bất
công và đáng tiếc nếu ta bỏ quên một Bùi Giáng văn xuôi! 1000 trang của Lời
Cố Quận và Lễ Hội Tháng Ba, Bùi Giáng đã dành để dịch công trình đồ sộ
của Heidegger giảng giải thơ Hölderlin, thi sĩ Đức mà hình ảnh dường như song
sinh với Bùi Giáng. Ý thức minh nhiên về thi ca và triết học của Bùi Giáng thể
hiện đậm đặc nhất trong dịch phẩm này. Thời gian chỉ cho phép tôi trích dẫn một
đôi lời của Heidegger qua ngòi bút dịch của họ Bùi: “Giữa tiếng ồn ào, những
bài thơ giống như một chiếc chuông treo ở ngoài trời và chỉ cần một chút tuyết
rơi nhẹ nhẹ chạm vào, đủ khiến chiếc chuông lạc đi âm điệu (...). Vì thế, thể
theo ân tình của tiếng thơ mà lời giảng thơ phải gắng làm sao để tự khiến mình
thành thừa thải (...). Từ đó, bài thơ đứng lên trong cốt cách, thể lệ của riêng
nó, lập thời mang lại ánh sáng cho những bài thơ khác”. Bùi Giáng cũng đặc biệt
nhấn mạnh đến tiêu ngữ (Leitwort) hay đúng hơn, Lời nhiếp dẫn thứ
ba trong năm tiêu ngữ của Heidegger về “một nhà thơ của những nhà
thơ: “Từ khi chúng ta là một hội thoại... (Seit ein Gespräch wir
sind...)” là một trong những lời sâu thẳm nhất của Hölderlin. Bản chất của
ngôn ngữ không ở nơi từ vựng và ngữ pháp mà ở trong đối thoại. Ngôn ngữ sống
trong đối thoại. Đối thoại là thể cách để con người hiện hữu là người. Và, theo
Hölderlin, chỉ có thể đối thoại, nhất là “hội thoại-suy tư”, khi chúng ta biết
nghe nhau. Nói chỉ trở thành đối thoại, khi nó có thể được nghe. Nếu không, chỉ
là những tràng âm thanh vô nghĩa.
Vì thế, mở đầu Lời tựa tiếng
Pháp cho tập Dialogue (1966) của một số trí thức miền Nam gửi cho các
trí thức Tây phương, Bùi Giáng viết: “Một cuộc đối thoại bao giờ cũng phơi mở,
dễ trở thành một cuộc độc thoại. Mà một cuộc độc thoại lại có thể tràn trề sức
sản sinh, nếu là cuộc độc thoại trong-mờ, qua đó xuyên một “ánh đêm”. Bản chất
của độc thoại là ở chỗ Hiện Tồn tự phân thân: hai vũ trụ soi mình trong một thế
giới; một thế giới chia thành hai được ngăn cách bởi một hố thẳm. Và bản chất của
hố thẳm là ở chỗ nó có thể vượt qua bằng một cuộc nhảy. Và bản chất của cuộc nhảy
lại là sự chấp nhận rủi ro. Nói khác đi, chấp nhận rủi ro là bản chất của chính
cuộc sống vậy. Sống, tức là đánh liều. Mà đằng nào đã “một liều ba bảy cũng liều”,
thì cớ sao không chọn cuộc liều trong-mờ?” (le risque diaphane).
“Trong-mờ” (“diaphane”) là bầu khí dịu
dàng, “lung linh sương bóng”, cần thiết cho đối thoại, nhất là một cuộc đối thoại
mạo hiểm.
Bùi Giáng cũng có khi gọi đối thoại
là hội đàm:
Còn nguyên phố thị hội đàm
Với trăng châu thổ muôn vàn đã xa
Đạp Thanh hội cũ hào hoa
Giấc vàng buổi Tảo Mộ đà cáo chung...
Yêu thơ Bùi Giáng, xin hãy giữ nguyên Hội
Đạp Thanh nao nức và Giấc Vàng long lanh!
Tôi đã từng “mê” Bùi Giáng khi
còn là một “mầm non văn nghệ”. Lý do vì ông là đồng hương, lại chịu
chơi hết mực - trong thơ văn lẫn đời sống.
|Tôi nhớ đã “biết” nhà thơ Bùi Giáng khi còn học lớp đệ thất, đệ lục. Một người bạn học thời tiểu học là anh Bùi Văn Phát (bà con trong họ của Bùi Giáng) rủ tôi tới thăm ông. Tôi mừng rơn vì được gặp “thần tượng” của mình. Tôi nhớ như in những củ khoai lang luộc ông mời bọn tôi ăn và những câu chuyện “tầm phào” về thuật “nói lái” của Quảng Nam mà ông truyền cho bọn tôi. Lúc ra về ông đề tặng tôi hai tập thơ mới in của ông là “Lá hoa cồn” và “Ngàn thu rớt hột”... Bẵng đi hàng chục năm, năm 1992, lúc đó tôi làm ở Báo Công an thành phố Hồ Chí Minh. Tình cờ một buổi sáng nghe có tiếng la lối om sòm ở dưới sân tòa soạn. Lúc đó tôi ngồi ở phòng anh Huỳnh Bá Thành (họa sĩ Ớt). Anh Ba Ớt bảo tôi xuống xem có chuyện gì. Tôi thấy một ông già râu tóc bờm xờm, áo quần dán đầy giấy xanh, đỏ, đôi dép đeo trước cổ đang múa may, la lối... Đến gần tôi nhận ra Bùi Giáng. Mấy em bảo vệ nói ông già điên ở đâu vô quậy tùm lum, mời ổng ra ổng còn trợn mắt quát “đứa nào dám đuổi Trẫm?”. Tôi hỏi ông muốn gặp ai? Ông nói đi ngang thấy Báo CA nên ghé chơi (ông đã quên mất thằng học trò như tôi từ thuở nào!). Tôi báo anh Ba Ớt, anh rất vui nói tôi mời ông vào chơi. Anh Ba hỏi ông đủ điều về công việc, ăn ở đâu... ông cười “toe” trả lời: biết “đại ca” (ai mới gặp thi sĩ đều gọi là “đại ca” cả) đã lâu nhưng nghĩ tình “Quảng Nam” nên trẫm ghé thăm chơi. Ông quay sang tôi hỏi tên. Tôi thưa. Gần trưa chúng tôi mời thi sĩ ở lại dùng cơm. Ông vội đứng dậy: “Không được, các đại ca bận nhiều việc... Thôi cho ta về...”. Thi sĩ Bùi Giáng làm thơ tại Tòa soạn Báo CATPHCM năm 1993
Tôi đưa nhà thơ xuống cổng liền thấy
ông ngoắc một chiếc xích lô đâu sẵn và bảo tôi “đại ca trả giùm tiền xích lô
đi”. Tôi hỏi anh bao nhiêu. 18.000 đồng. Tôi gởi tiền cho anh. Bùi Giáng nhìn
tôi cười: phải 20.000đ mới đủ. Tôi ngạc nhiên không hiểu. Thi sĩ bèn “khai
tâm” cho tôi khi trả lời: “Hắn còn phải chở ta về nữa chứ!”. À ra thế! Mấy
mươi năm gặp lại cố nhân, tôi được thi sĩ “giác ngộ” về cái đầu “u mê” của
mình. Sau chuyến viếng thăm đột xuất của thi sĩ, anh em trong cơ quan thường
hỏi tôi về ông. Tôi liền “trưng” ra bản lý lịch thuộc loại “hàng độc” của
ông: “Hỏi rằng người ở quê đâu; Thưa rằng người ở rất lâu quê nhà” và “Hỏi
tên? Rằng biển xanh dâu; Hỏi quê? Rằng mộng ban đầu rất xa; Gọi tên là một,
hai, ba; Đếm là diệu tưởng, đo là ghi tâm”.
Và ông là một “thi tổ” của trường phái yêu ngút trời mây với hàng trăm mỹ nhân kim, cổ, đông, tây từ Thúy Kiều đến các em Mọi nhỏ, tới Marilyn Monroe, Brigitte Bardo, Kim Cương Kỳ nữ... “Xin yêu mãi yêu và yêu nhau mãi. Trần gian ôi! Cánh bướm cánh chuồn chuồn; Con kiến bé cùng hoa hoang cỏ dại; Con vi trùng cùng sâu bọ cũng yêu luôn...”, “Em ở đâu rồi trẫm nhớ em; Trẫm buồn chẳng biết viết gì thêm; (Em có nhớ trẫm chăng em nhỉ; Trẫm viết dòng nào cũng rối ren)”. Để rồi “Trăm năm trong cõi sinh tồn; Cá bờ mương nhảy sô hồn xuống hang; Biết bao là gái lộn đàng; Nhớ nhung như nhớ lang thang mây chiều”. Kể từ đó, vài tuần thi sĩ lại đến thăm tòa soạn một lần. Lúc thì xích lô, người bạn hay anh Hoài (cháu nhà thơ) chở đến. Những lần sau này cả tòa soạn đều vui, phấn khởi khi nhìn thấy ông vì tôi đã “giới thiệu” một ít thơ ca chịu chơi cho các bạn ở cơ quan về ông. Tôi nhớ một lần anh Ba Ớt hứng chí bảo tôi lấy xe cùng Vũ Đức Sao Biển đưa thi sĩ đi nhậu. Lúc ấy là 5 giờ chiều. Hỏi ông muốn đến đâu. Ông bảo đến 81 TQT. Lúc này quán thật đông vui, khách phần đông là các nghệ sĩ nên ai cũng biết thi sĩ cả. Đang ngồi uống bia anh Thành bảo tôi mời chủ quán đến bàn và đề nghị với họ là sau này thi sĩ có đến nhậu thì vui lòng ghi lại để cuối tuần tôi sẽ đến thanh toán. Tôi đến vài lần hỏi thăm để thanh toán tiền thì biết rất ít khi thấy ông Bùi Giáng ghé lại đây. Có lẽ tại đây thiếu “nước mắt quê hương” chăng? Tiệc tan, anh Thành bàn với tôi là đưa thi sĩ đến chơi nhà ông bộ trưởng nội vụ. Hỏi ý ông. Ông nói “Trẫm đi với”! Chúng tôi cho xe đến đường Phạm Ngọc Thạch. Ông bộ trưởng bận đi họp ngoài HN. Chỉ còn có ông bác sĩ Mười L. tiếp chúng tôi. Hôm ấy chúng tôi được uống một thứ rượu thuốc rất ngon do ông bác sĩ mang ra chiêu đãi thi sĩ. Khi chúng tôi còn trên đường, hỏi thi sĩ về đâu? Ông bảo Xóm Gà! Và ông đòi bỏ ông giữa đường... Rồi nhiều lần khác, thỉnh thoảng ông ghé chơi. Anh Thành hỏi tôi ông sống ra sao? Tôi nói ông không ở đâu nhất định, có khi ngủ ngay ở công viên, hè phố... Anh Ba Ớt giao tôi phải lo tìm thuê một căn nhà nhỏ, tìm thuê một người giúp việc hơi lớn tuổi để lo giặt giũ, cơm nước cho thi sĩ. Tôi tìm ông và nói ý của anh Thành. Ông giãy nảy lên phản đối: “Ta là người giang hồ, thích sống ngoài đường, ngủ đâu cũng được, vả lại trẫm có máu công an trong người nên khoái đi các ngã 4, 7... để điều khiển giao thông thôi. Trẫm cám ơn các đại ca”. Và sau đó, lúc chạy xe ngoài đường tôi hay thấy thi sĩ với bộ đồ “hành hiệp” đang miệng huýt còi, tay chỉ lung tung tại một ngã 4, 5 nào đó trong thành phố. Ông hiện thân là một “Tế Điên hòa thượng” thời đại! Một lần khác, Trần Tử Văn - lúc đó là Phó tổng biên tập Báo Công An Nhân Dân (CAND) phụ trách phía Nam - đặt bài báo xuân cho Báo CAND (một bài báo Tết) của thi sĩ. Ông bảo tôi hai ngày nữa “khanh” đến lấy về đưa cho thằng Tử (ông hay gọi TTV như vậy). Thằng nớ chịu chơi lắm. Tôi nhớ như in, sáng 24-1-1997, Trần Tử Văn nhờ tôi mang nhuận bút bài thơ đến cho ông. Ông mở xem rồi “phán”: “Tau nói rồi, thằng Tử chịu chơi thiệt. Bài thơ có 10 câu mà hắn trả nửa triệu! Sướng thiệt!”. Thỉnh thoảng ông lại đến thăm thằng Tử rồi trở về trên những cuốc xích lô do... thằng Tử trả tiền. Ông rất khoái Trần Tử Văn vì tính cách “giang hồ mã thượng” của một người cầm bút có tài, có tâm. Thời gian trôi đi. Tin trung niên thi sĩ qua đời là một cú sốc không chỉ cho những “đệ tử” trung kiên của ông mà cả cho bạn bè, anh em - nhất là trong làng văn nghệ nước nhà. Ông ra đi để lại một gia tài khá đồ sộ từ thơ văn, dịch thuật đến khảo cứu... Ông là một “kỳ nhân” trong văn học nước nhà. “Kỳ nhân” trong lối sống, tư duy, đến ngôn ngữ... đầy tính triết lý mà chịu chơi vô kể. Ông đã gởi lại trần gian tình yêu vô bờ dành cho con người qua cái - nhìn - Bùi - Giáng: “Bờ trùng ngộ một phen này phen nữa; Tờ cảo thơm như lệ ứa pha hồng; Hồn hoa cỏ phượng thành Hy Lạp úa, Nghe một lần vĩnh viễn gặp hư không”. Ông luôn nuối tiếc trần gian với tấm chân tình mật ngọt: “Nhưng em hỡi trần gian ôi ta biết; Sẽ rời xa vĩnh viễn với người thôi” và “Ngày sẽ hết và tôi không ở lại; Tôi sẽ đi và chưa biết sẽ đi đâu; Tôi sẽ tiếc thương trần gian mãi mãi; Vì nơi đây tôi sống đủ vui sầu”. Bài viết này thay một nén nhang, thay những thân hữu Báo Công an thành phố kính gửi đến hương hồn trung niên thi sĩ được mãi phiêu bồng chốn bồng lai tiên cảnh nhưng vẫn luôn nhớ đến chốn trần - gian - sung - sướng: “Mở hai hàng cỏ long đong; Úp môi vào thút thít trong một vùng”. |
||
HOÀNG YÊN DY
|
Bùi Giáng - Đại lão Cái Bang
Bước vào năm Bính Tý (1996), Bùi Giáng vừa
tròn tuổi thất thập. Với cuộc sống lang bạt kỳ hồ, túi vải, chân đất, lang
thang giữa chợ đời, gầm cầu, hè phố, dầm sương dãi nắng, bữa đói bữa no gần 4
thập niên, qua bao thăng trầm bệnh tật, vẫn còn sáng tác ở tuổi cổ lai hy, đó
là một hiện tượng.
Trong sinh hoạt Văn học, Nghệ thuật Việt
Nam, Bùi Giáng để lại cho đời biết bao giai thoại, đó là một hiện tượng. Ngôn
ngữ thi ca của Bùi Giáng là một hiện tượng. Hiện tượng Bùi Giáng.
Bùi Giáng, nhà giáo, dịch giả, nhà văn,
nhà phê bình văn học, triết học nhưng đó chỉ là quán bên đường, người bạn tri kỷ
tri bỉ: thi ca.
NGƯỢC DÒNG THỜI GIAN
Bùi Giáng sinh ngày 17.12.1926 tại Vĩnh
Trinh, Quảng Nam. Lúc nhỏ theo học Trung, Tiểu học ở Hội An, Quảng Nam rồi sau
đó tiếp tục học Trung học ở Thuận Hóa, Huế. Năm 1945 đậu bằng Thành chung
(Trung học), ông ở trong vùng kháng chiến thuộc Liên Khu V (Nam Ngãi bình Phú),
năm 1950 ông đỗ Tú Tài II Văn chương. Ông ra Liên Khu IV (Thanh Nghệ Bình Trị
Thiên) theo học Ðại học nhưng khi nghe Viện trưởng Ðại học đọc diễn văn, ông bỏ
ý định theo học và theo đường núi Trường Sơn trở lại cố hương.
Theo lời người bào đệ, ông Bùi Vịnh,
trong ngày Hội Thi Văn & Tư Tưởng Bùi Giáng ngày 21.10.95 tại Majestic,
Huntington Beach, CA, Bùi Giáng "Có vợ vào lúc còn rất trẻ, sau năm 1945.
Nhưng vì đi tản cư ở vào những nơi rừng thiêng nước độc, người vợ trẻ đã qua đời
sau cơn bạo bệnh". Ông chung tình chung nghĩa với "mộng ban đầu",
suốt nửa thế kỷ ôm vọng tưởng, điên loạn bởi "hồn nguyên tiêu" bao
nhiêu hình ảnh mang dáng dấp của người tình muôn thuở vào cõi thiên thu, ngôn
ngữ Bùi Giáng trở thành kỳ bí.
Theo lời người em là Bùi Vịnh: "Vào
tháng Năm 1957, ông quyết định bỏ vùng Việt Minh trốn qua vùng Quốc gia. Và tại
Huế, ông thi lại bằng Tú Tài tương đương, rồi vào Sài Gòn, ghi danh vào Ðại học
Văn Khoa. Cả lần nầy nữa, sau khi nhìn danh sách các giáo sư giảng dạy, ông đã
quyết định chấm dứt việc học ở trường của mình tại đây . Ông bắt đầu viết khảo
luận, sáng tác và đi dạy học ở các trường Trung học tư thục ..." .
Ông tinh tường về Anh, Ðức, Pháp &
Hán văn, không biết ông theo học tiếng Ðức & tiếng Anh lúc nào nhưng khi
nghiên cứu triết học Ðức, thơ văn Anh Mỹ, ông dịch và viết rất tài tình. Ông có
trí nhớ kỳ lạ và "trí quên" rất độc đáo. Quên của ông cũng là hiện tượng
và có lúc không biết gì cả, cùng với cử chỉ, hành động kỳ quái, người điên thời
đại.
GS Vũ Ký, thầy dạy của ông, trong bài
"Nhớ Về Ba Người Em Lỗi Lạc" trong Giai phẩm Quảng Ðà 94 "Từ năm
1943 ấy, Bùi Giáng thôi học ở Hội An, rồi lui về cố hương làm Tô Vũ mục dương ở
Trung Phước, miền rừng núi xứ Quảng. Theo nhiều người cho biết, Giáng nghêu
ngao làm thơ, ca hát, điên khùng suốt năm tháng. Lúc tôi gặp lại ở Sài gòn thì
Bùi Giáng đã nghỉ dạy học tư để cầm cọ bôi mực loay hoay vẽ tranh trong căn nhà
lụp xụp ỏ ngõ hẻm Trương Minh Giảng và Giáng cũng vừa mới in xong mấy cuốn sách
giáo khoa".
"Với Tất Cả Bùi Giáng" của Trần
Phong Giao, Bùi Giáng "Lập gia đình năm 18 tuổi, nhưng không được hưởng hạnh
phúc bao lâu vì chiến tranh và nạn lụt đã cướp mất vợ và hai đứa con thơ của
ông".
Ðó là mốc thời gian tuổi niên thiếu của
ông được đề cập qua ba người có liên quan với ông nhưng đã khác nhau. Theo sự
ghi lại của "người thầy cũ và cũng là người anh" thiếu chính xác dấu ấn
quan trọng trong giai đoạn 9 năm "kháng chiến" đã ảnh hưởng sâu đậm
trong cuộc đời Bùi Giáng. Ông tham gia "kháng chiến", theo Việt Minh
nhưng khi đụng chạm thực tế, ông ngán ngẫm, gặp bất hạnh trong tình yêu, tâm hồn
điên loạn...
Sau 3 năm "chia cắt" đất nước,
phân ranh Quốc/Cộng, ông mới chọn lựa quyết định ranh giới giữa 2 miền. Bài thơ
"Nỗi lòng Tô Vũ" của ông đã ghi "Kỷ niệm một đoạn đường mười năm
chăn dê ở núi đồi Trung Việt".
Không bao giờ muốn và để ai đề cập
"tiểu sử", theo ông "Thi sĩ sinh ra như mọi người giữa cỏ cây ly
kỳ, và chết đi giữa cỏ cây ly kỳ, gay cấn". Tuy nhiên, công việc của nhà
nghiên cứu Văn học cần phải tìm hiểu chính xác, nhìn lại Văn học Việt Nam, ông
là khuôn mặt đặc biệt. Hy vọng, một ngày nào đó, có được "tiểu sử" của
ông từ tuổi thơ đến thời điểm "tam thập nhi lập".
Trước năm 1975, nhiều cây bút viết về tư
tưởng, thơ văn Bùi Giáng nhưng không đề cập về "tiểu sử" nên có nhiều
nghi vấn cùng với giai thoại quanh ông. Tháng 5.1973, Mai Thảo và Nguyễn Xuân
Hoàng của tờ Văn thực hiện "Số báo đặc biệt về thiên tài thi ca Bùi
Giáng", 10 câu hỏi của Nguyễn Xuân Hoàng về Bùi Giáng có tính cách khác lại
và cả hai cùng hỏi và nói "Chuyện rong chơi". Nhận định thơ văn của
ông với Thanh Tâm Tuyền, Nam Chữ, Trần Tuấn Kiệt, Tuệ Sĩ.
Có nhiều tác phẩm đã đề cập đến ông, điển
hình như Cao Thế Dung: Văn Học Hiện Ðại, Thi Ca & Thi Nhân, Du Tử Lê: Năm sắc
Diện, Năm Ðịnh Mệnh, Tạ Tỵ: Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay, Trần Tuấn Kiệt:
Thi Ca Việt Nam Hiện Ðại...
Gần 2 thập niên, tác phẩm của ông với số
lượng đáng kể:
Sách Giáo khoa, Luận đề (1957 - 1959) :
- Bà Huyện Thanh Quan, - Lục Vân Tiên, Chinh Phụ Ngâm & Quan Âm Thị Kính, -
Truyện Kiều & Truyện Phan Trần, - Cung Oán Ngâm khúc, - Nguyễn Công Trứ, -
Tản Ðà Nguyễn Khắc Hiếu, - Phan Bội Châu, - Chu Mạnh Trinh, - Tôn Thọ Tường
& Phan văn trị.
Sách dịch: - Cõi Người Ta của
Saint-Exxupéry, _ Trăng Tỳ Hải của Albert Camus, André Gide, Martin Heidegger,
- Khung Cửa Hẹp của A. Gide, - Hoa Ngõ Hạnh của Shakespeare, - Bạo Chúa
Caligula của Albert Camus, - Ngộ Nhận của A. Camus, - Con Người Phản Kháng của
A. Camus , - Mùa Hè Sa Mạc của A. Camus , - Kẻ Vô Luân của A. Gide, Orphélia
Hamlet của Shakespeare , - Hòa Âm Ðiền Dã của A. Gide, - Hoàng Tử Bé của
Saint-Exupery , - Mùi Hương Xuân sắc của Gerald de Narval, - Sương Bình Nguyên
của các tác giả Âu Mỹ , - Kim Kiếm Ðiêu Linh của Ngọa Long Sinh...
Sáng tác:
-Thơ: Mưa Nguồn, - Lá Hoa Cồn, - Ngàn
Thu Rớt Hột, - Màu Hoa Trên Ngàn, - Bài Ca Quần Ðảo, - Sa Mạc Trường Ca...
-Biên khảo, Tạp văn, Tùy bút: - Tư Tưởng
Hiện Ðại, 3 quyển, - Martin Heidegger & Tư Tưởng Hiện Ðại, 2 quyển - Sao Là
Không Có Triết Học Heidegger?, - Ði Vào Cõi Thơ, - Thi Ca Tư Tưởng, - Sa Mạc
Phát Tiết, - Sương Bình Nguyên, - Trăng Châu Thổ, - Mùa Xuân Trong Thi Ca, -
Mùa Thu trong Thi Ca, - Thúy Vân, Tam Hợp Ðạo Cô, - Biển Ðông Xe Cát, - Ngày
Tháng Ngao Du, - Ðường Ði Trong Rừng, - Lời Cố Quận, - Lễ Hội Tháng Ba, - Con
Ðường Ngã Ba...
Tại hải ngoại, có 3 tuyển tập về thơ Bùi
Giáng sáng tác vào sau năm 1975:
- Thơ Bùi Giáng, năm 1990, nhóm Việt Thường
ở Canada thực hiện, gần 200 bài thơ.
- Thơ Bùi Giáng, Thế kỷ 1994, Phạm Xuân
Ðài thực hiện, gồm 106 bài thơ.
- Thơ Bùi Giáng, California 1995, Bùi Vịnh
& thân hữu thực hiện, gồm 81 bài thơ, tranh bìa "Thiếu nữ" do Bùi
Giáng vẽ.
Sau khi Bùi Giáng qua đời , có rất nhiều
tác phẩm của ông được ấn hành tại hải ngoại
Suốt 4 thập niên, Bùi Giáng đã cống hiến
cho đời, cho nền Văn học Nghệ thuật Việt Nam thật nhiều tác phẩm gồm đủ mọi thể
loại. Một con người không có nơi nương tựa ổn định, thể chất gầy gò, bệnh tật,
tâm tính lúc bình thường khi điên loạn mà tạo dựng "kho tàng quý báu"
cho Văn học Việt Nam, điều rất lạ, không thể hiểu được.
NGÔN NGỮ & CUỘC SỐNG
Gần gủi, tiếp xúc với Bùi Giáng, mỗi lần,
có thể nói giai thoại về ông, thương mến, cảm quý con người tài hoa nhưng sống
đầy khổ hạnh.
Viết về Bùi Giáng, với Mai Thảo: "
Bùi Giáng chất ngất một trời chữ nghĩa, Bùi Giáng trùng trùng một biển văn
chương... Sự hình thành một tác phẩm nơi Bùi Giáng cuối cùng vẫn còn là một bí ẩn
hoàn toàn trong cái vùn nụt, cái bất tuyệt thao thao, cái chớp mắt đã là của
nó... Bùi Giáng đã đem lại cuộc đời biết bao nhiêu châu ngọc. Bằng tài thơ trác
tuyệt. Bằng ngôn ngữ ảo diệu, không tiền khoáng hậu. Có ông, thi ca mới đích thực
có biển có trời. Từ ấy, thi ca mới không cùng không tận". Thế mà, chân
dung & đời sống của nhà thơ "Mái tóc ông đỗi màu. Mấy chiếc răng của bị
gẫy, nụ cười vừa trẻ thơ vừa móm mém. Cặp mắt sâu hoắm xa khuất dần với mọi
hình hài thực tế... Ông ấy chỉ còn da bọc xương trong quần áo thùng thình, mái
tóc dài đạo sĩ, cái túi vải còn thêm cây gậy... Có lúc thấy nói ông đeo một xâu
chuổi toàn giày dép và quần áo phụ nữ quanh cổ như một vòng gai quái dị, đám
con nít reo hò chỉ chỏ người điên, người điên. Có khi nghe thấy, ông ẩn lánh ở
ngôi chùa vùng ngoại ô thành phố, ăn chay niệm Phật cả ngày không nói".
"Bùi Giáng cũng tạo được một cái lạ mà theo tôi là một cái ngang...
"Trần gian lắm kẻ không cơm áo
Mà con thờ thẩn cứ nhìn trăng."
Bùi Giáng có cái giọng bạt đó và cái giọng
bạt đã ảnh hưởng vào âm vận của thơ Giáng" (Uyên Thao - Thơ Việt Hiện Ðại).
Sau năm 1975, thảm họa chung của đất nước,
Bùi Giáng cũng bị nhốt 3 tháng ở trại giam Gia Ðịnh. Ông bất chấp tất cả. Ông gọi
mầy tao khi bị hỏi cung, thản nhiên với thức ăn "cặn bả" của con người
mà không bị nhiễm trùng. Thế rồi, tháng ngày sau đó, theo Phạm Xuân Ðài
"Cuộc sống của anh tại Sài gòn hiện nay là của một cuồng sĩ, khi thì thu
mình trong túp lều của anh tạ một khu vườn bên Gia Ðịnh, khi thì lang thang vô
định trong cơn điên...Ði lang thang hàng chục cây số bất kể nắng mưa, múa may
la hét suốt mấy ngày liền, kẻ lực sĩ chưa chắc đã làm được". Thế nhưng
"Bùi Giáng như một ngọn lửa cháy liên tục mấy mươi năm nay trong thế giới
thơ ca - của anh và của chúng ta. Ngọn lửa có khi thu lại thành một đám nhỏ, có
khi bùng lên dữ dội, có khi bị gió bão lắt lay, nhưng vẫn là nguyên một ngọn lửa
ấy từ đầu cho đến bây giờ".
Vũ Ký viết nhiều giai thoại về Bùi
Giáng, một Bùi Giáng thông minh, tài hoa, điên khùng, lang bạt... một Bùi Giáng
với tình yêu ảo tưởng trong thơ văn và một Bùi Giáng lãng mạn với bóng hồng ở
tuổi 60. Không hiểu vì cơn gió nào, bỗng nhiên có hai cô, một cô là Ð.N.L.H (
giáo viên cấp ba, người Huế ) và một cô là H.H.T.V, cháu của nhà văn Cung Giũ
Nguyên xách đồ đạc đến nhà Thùy ở luôn 2 tháng. Thùy là bạn học, đồng hương với
Bùi Giáng, thường gặp gỡ nhau. Thế rồi cô L.H "lại rất mến trọng Giáng,
thường la cà với Giáng tại nhiều quán cà phê, nhiều lúc tình tứ khiến mọi khách
trong quán rất ngạc nhiên". Ðó cũng là một hiện tượng, thử tưởng tượng
hình ảnh Ðại lão Cái bang ăn mặc rách rưới kỳ dị lại song bước cùng bóng hồng
tuổi còn đôi mươi, tâm tình với nhau.
Ngày nay, ở trong nước đã có vài bài viết
về ông với hình ảnh con người điên loạn sống bên lề cuộc đời nhưng thi văn của
ông vẫn giữ thế đứng trong nền văn học. Văn chương, Nghệ thuật của ông như một
cõi trời bao la, khác xa với tư tưởng của người cầm bút theo giáo điều chủ
trương "hiện thực xã hội"!
Dẫn chứng vài cây bút tượng trưng viết về
ông ở trên cho thấy con người của ông nửa tỉnh nửa động, đời sống của ông bất định,
nay đây mai đó, ngôn ngữ của ông có lúc thật huyễn hoặc, kỳ bí, lúc thật bình dị,
nhẹ nhàng, lúc thanh lúc tục. Quan niệm sáng tác của ông "chơi mà
thôi", chẳng có gì bận tâm, chẳng có gì để bàn. Cuộc đời của ông ở giữa trần
thế chỉ là Ngày Tháng Ngao Du, rong chơi, ung dung tự tại.
Trước kia, Thượng Tọa Thích Minh Châu
dành cho ông căn phòng ở Ðại học Vạn Hạnh, ông chỉ để sách vở rồi rong chơi đầu
đường xó chợ, gặp đâu ngũ đó bất kể nắng mưa, đêm ngày. Sau nầy, thân nhân lo
cho ông túp lều trong vườn ở Gia Ðịnh, căn phòng nhỏ trên lầu ở đường Trần
Quang Diệu Sài gòn, ông để đó, rong chơi dưới gầm cầu Công lý, vĩa hè.
Với ông, tư tưởng triết học Ðức của M.
Heidegger, Nietzsche, thi ca của Holderlin, Walt Witman, Emily Dickinson...Văn
chương Pháp của A. Gide, St Exupery, A. Camus, văn chương Anh của Shakespeara.
Ông chọn lựa và chuyển ngữ rất tài tình. Cuộc đời của ông điên, tỉnh, ông đã đề
cập trong tác phẩm, tình yêu huyễn hoặc thấy bàng bạc trong thơ văn. Tư tưởng
triết học, tư tưởng cao siêu của con người, theo ông, đều có đề cập trong Kiều
của Nguyễn Du.
Sức sáng tạo của ông rất kỳ diệu. Như một
tay võ công tuyệt luân khi xuất chiêu liên tục bất tận. Trong một đêm, ông viết
cả trăm trang cho một tác phẩm. Gặp ông, hỏi thơ để đăng, ông sáng tác ngay tại
chỗ, viết như đã nhập tâm từ trước.
Ông có năng khiếu về ngoại ngữ và cách học
của ông, chọn tác phẩm để học, đọc, tra cứu. Biết hết chữ nghĩa của tác phẩm là
biết được ngôn ngữ nước đó. Vì vậy, khi tìm hiểu M. Heidegger, ông học tiếng Ðức
mới hiểu được tư tưởng. Văn chương Pháp, Anh, ông chuyển dịch từ nguyên tác.
Ông dịch Kim Kiếm Ðiêu Linh để học thêm chữ Hán. Chuyển ngữ lại từ tác phẩm
"chuyển ngữ" thì không còn thoát được cái ý của nó. Chẳng hạn Ngàn
Thu Rớt Hột nghe rất văn chương bóng bẩy, đó là "hình ảnh cứt" dê bao
năm ông gần gủi với nó trên núi rừng. Làm sao chuyển ngữ thoát được cái âm điệu,
hình ảnh bóng bẩy đó được.
Có lần Huy Tưởng gặp và hỏi chơi với ông
chuyện chăn dê có thi phẩm "rớt hột", nghe nói ông có chăn bò ở quê
đúng không? -đúng! đúng? đúng với cái đầu của họ. Rồi cười thoải mái, xem như hỏi
chơi, nghĩ chơi, đáp chơi rồi thôi.
Nguồn thơ của ông dạt dào, bất tận, ông
viết nhiều về hình ảnh ở quê hương, ở núi rừng Trung Việt. Ðiều bắt gặp trong
thơ của ông với chữ Kim ở đầu. "Người tình trong thơ" Kim Novak, Kim
Cương. Ngài ra với vài hình bóng Kim thấp thoáng:
"Ôi phương cảo Ôi Kim Liên
Cảo thơm Kim Thúy diện tiền Kim Hoa!
Ôi Kim Ngọc Ôi Kim Nga
Chắc gì mai hậu mà ra phụ lòng".
(Ra Hoa)
"Tuy nhiên hồn mộng chan hòa
Ðầu tiên Kim Thúy Kim Hoa thập thành
Cuối cùng thừa thượng Kim Thanh
Ði về vô tận tập thành Kim Liên
Kim Nga Kim Ngọc diện tiền
Ðầu sương cuối tuyết thần tiên bấy chầy".
(Cuối Ngày Em Ði)
Ông lang thang suốt 4 thập niên, thời
gian quá dài cho một đời người, xem cuộc sống nhẹ như tơ hồng, xem cuộc đời ảo
thật, thật hư, thế nhưng đôi lúc tìm trong thơ ông mới cảm nhận được nỗi thống
khổ thiết tha cho mối tình đầu đời đã hoài công tìm lại:
"Chắp tay tôi lạy ông trời
Tìm người yêu giúp giùm tôi một lần"
(Tìm Em)
"Em nhớ hay không hồn hòa dại cỏ
Những ngậm ngùi đầu núi canh khuya
Vàng cao gót nai đầu truông hãi sợ
Gió cây rung trút lá mộng tan lìa"
(Nỗi Lòng Tô Vũ )
Hình ảnh người vợ, người tình ban đầu,
yêu thương say đắm, đã vĩnh viễn ra đi để lại cho ông "điên" với
tình, với thủy chung hình bóng cũ:
"Em chết bên bờ lúa
Ðể lại trên đường mòn...
...Ðêm cuồng mưa khóc điên
Trăng cuồng khuya trốn gió...
...Anh đi về đô hội
Ngó phố thị mơ màng
Anh vùi thân trong tội lỗi
Chợt đêm nào gió bờ nọ bay sang"
Bất hạnh trong tình trường, ông rong ruỗi
trong nỗi bất hạnh đó qua ngôn ngữ bằng thơ, văn, bằng rái tim rướm máu, bằng
tài hoa lỗi lạc của Bùi Giáng và có lẽ duy nhất với cái tên Bùi Giáng.
"Văn Thơ cùng Tư tưởng của Bùi
Giáng đi vào lịch sử văn học đất nước, đánh dấu một giai đoạn của văn chương Việt
Nam", phải hiểu con người Bùi Giáng mới cảm nhận được ý thơ, văn và tư tưởng
của ông, ông sáng tạo lúc tĩnh, ngao du lúc động để mãi mãi đi tìm hình ảnh xa
thẳm, mịt mù! Hồn thơ luôn luôn chất chứa trong Bùi Giáng, bất luận ngày đêm, gặp
đối tượng khơi động, dòng thơ tuôn trào. Tâm hồn Bùi Giáng chu du, mộng mị khắp
bốn phương trời để "thơ và giai nhân" kết tinh thành "thiên cổ lụy"
ngất ngây, nồng nàn, say đắm hòa cùng điên dại trong ngôn ngữ thi ca.
Một hình bóng, suốt cả cuộc đời trôi nỗi
với hệ lụy khổ đau, một nhân tài không bao giờ có được mùa xuân nhưng với tâm hồn
thanh thoát.
Vương Trùng Dương
--------------------------------------------------------------------------------
Tôi cười tôi khóc bâng quơ
Người nghe cười khóc có ngờ chi
không?
1926-1998
Bùi Giáng, tuổi Bính Dần, sinh năm 1926
tại Thanh Châu, Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Con thứ của ông bà Bùi Thuyên và Huỳnh
Thị Kiều. Năm Mậu Dần ông được tròn 6 giáp, 72 tuổi. Ông được văn giới, không
phân biệt không gian thời gian, yêu mến trọng vọng. Những tác phẩm đầu của ông
là sách giáo khoa in năm 1957, như Một vài Nhận xét về Bà Huyện Thanh Quan, Lục
Vân Tiên, Chinh Phụ Ngâm ... Nhưng tiếng tăm ông nổi bật từ tập thơ "Lá
Hoa Cồn" (1963). Ông là một nguời tự học và học rất trễ, tuy nhiên khả
năng tinh thông nhiều ngôn ngữ của ông, kể cả những ngôn ngữ khó như chữ Hán và
tiếng Đức, làm kinh ngạc mọi người trong văn giới.
Những cuốn sách đầu của ông là sách giáo
khoa in năm 1957, Bùi Giáng đã là một tên tuổi quá quen thuộc với đông đảo bạn
đọc. Ông thường tự nhận là "trung niên thi sĩ" cùng hàng loạt biệt
danh trào lộng : thi sĩ Đười ươi, Brigitte Giáng, Giáng Moroe, Bùi Bán Dùi, Bùi
Bàn Dúi, Bùi Tồn Lưu, Bùi Tồn Lê, Bùi Bê Bối, Bùi Văn Chiêu Lỳ...
Ông được xem như một "ngôi
sao" trên vòm trời văn hóa văn nghệ miền Nam trước đây, được không ít độc
giả xưng tụng là "thiên tài", là "bậc thượng trí", là
"đáng tiêu biểu hơn cả về thi ca bây giờ và có lẽ... vạn đại" và tôn
ông làm "thần tượng". Gần đây, một số tác phẩm, dịch phẩm của Bùi
Giáng được tái bản rộng rãi.Ông đã dịch nhiều sách Pháp, Anh, Hán văn như
Hamlet của Shakespeare, Hoàng tử bé của Saint'Exupéry, Ngộ nhận của Albert
Camus, Khung cửa hẹp,và Hòa âm điền dã của André Gide, Kim kiếm điêu linh của
Ngọa Long Sinh...
Ông đã biên soạn các tiểu luận triết học
và văn học như Tư tưởng hiện đại,Thi ca tư tưởng, Lễ hội tháng ba, Con đường
ngã ba, Con đường phản kháng, Đi vào cõi thợ.. Đặc biêt, gây nhiều tranh luận
sôi nổi nhất là những tập thơ của ông, từ Mưa nguồn, Lá hoa cồn... đến Trăng
châu thổ, Sương bình nguyên, Bài ca quần đảo, Rong rêu...Ai đã từng tiếp xúc
Bùi Giáng trong trang sách lẫn ngoài cuộc đời, hầu như chưa thể bình luận gì về
ông. Biết bình với luận thế nào khi kẻ khen thì tâng hết lời mà người chê thì lại
đả tới số. Riêng vấn đề họ Bùi có điên chăng cũng đã làm tốn hao bao giấy mực.
Người bảo ông điên. Người cho rằng ông giả vờ điên. Người lại quả quyết Bùi
Giáng không điên. Sự thật ra sao, nếu nhìn từ góc độ khoa học ?
Về tài dịch, thì cuốn "Terre des
hommes" đã được ông dịch và đặt tên là "Cõi Người Ta" thì quả thật
không còn gì thần tình hơn.
Tin tức trích từ báo SaigonUSA,
9/10/98
SAIGÒN ' Thi sĩ Bùi Giáng đã qua đời lúc
2 giờ chiều ngày Thứ Tư 7 Tháng Mười (tức 11 giờ đêm ngày 6'10'1998 tại
California) trong lúc đang điều trị tại Bệnh viện Chợ Rẫỵ Ông Bùi Giáng, 73 tuổi,
là một thi sĩ có tiếng thơ độc đáo, cũng là tác giả nhiều tác phẩm văn suôi về
triết học, văn học, và ngay khi còn sống đã trở thành một huyền thoại trong
làng văn nghệ Việt Nam vì nếp sống ngang tàng, không màng danh lợi của ông, dưới
bất cứ chế độ nàọ
Thi hài thi sĩ Bùi Giáng sẽ được nhập
quan vào sáng ngày 8 Tháng Mười và quàn tại Nhà Tang lễ chùa Vĩnh Nghiêm, Sài
Gòn. Gia đình thi sĩ tại Sài Gòn cho biết sẽ an táng ông tại Nghĩa Trang Gò
Dưa, Thủ Đức. Bào đệ của ông là ông Bùi Văn Vịnh sẽ tổ chức lễ phát tang, và
các văn nghệ sĩ và độc giả yêu thơ sẽ làm lễ tư ởng niệm ông tại vùng Tiểu Sài
Gòn, miền Nam California.
Người Việt đã loan tin khi thi sĩ Bùi
Giáng được đưa vào bệnh viện ngày 23 Tháng Chín vì bị té, đứt mạch máu nãọ Theo
tin của ông Bùi Văn Nam Sơn, một người bà con ở Đức về thăm thì thi sĩ Bùi
Giáng té ngã khi đứng lên thắp đèn, sau khi ông đã uống nhiều rượụ Ông đã được
đưa vào Bệnh viện Chợ Rẫy, đươ .c mổ đêm 25 Tháng Chín, nhưng quá yếu nên rất
ít hy vọng phục hồi.
Giới văn nghệ sĩ ở Sài Gòn rất xúc động
khi nghe tin Bùi Giáng vào bệnh viện, kéo nhau đến thăm ông. Tin ông vào bệnh
viện được báo chí khắp nơi loan báo, ở trong nước cũng như ở hải ngoại.
Thi sĩ Bùi Giáng sinh năm 1925 tại Quảng
Nam, thủa nhỏ đã học ở Quảng Nam và 4 năm ở Huế. Khi trưởng thành ông sống ở
Sài Gòn, nổi tiếng với hành trạng và văn chương phóng túng, ngang tàng. Những tập
thơ nổi tiếng của ông là Mưa Nguồn, Lá hoa cồn, Mùa thu bi ca, Ngày Tháng ngao
du, v.v. Ông viết các sách triết học như Tư tưởng hiện đại, Thế nào là siêu thực,
Heidegger và Husserl, Hình ảnh Jean Paul Sarte, Martin Heidegger và tư tưởng hiện
đại, Khô ?ng Tử, Lão tử, Gandhi, v.v. Ông cũng dịch các tác phẩm của Albert
Camus (L'homme révolté), André Gide, St'Exupéry, René Char, v.v. Về văn học Việt
Nam, ông đã viết các khảo luận về truyện Kiều, Bà huyện Thanh Quan, Tản Đà,
v.v.
Nhưng khi nghe tin thi sĩ Bùi giáng qua
đời, các độc giả trước hết sẽ nhớ đến các vần thơ trác tuyệt, mênh mông lãng
đãng như các lời nhắn nhủ của ông sau đây:
Em về mấy thế kỷ sau
Nhìn trăng có thấy nguyên mầu ấy
không
Ta đi còn gửi đôi dòng
Lá rơi có dội ở trong sương mù
Và người V.Nam ở nước ngoài chia sẻ nỗi
ngậm ngùi khi đọc Bùi Giáng:
Hỏi rằng: người ở quê đâu?
Thưa rằng: tôi ở rất lâu Quê nhà.
Lễ động quan Bùi Giáng được cử hành vào
lúc 7 giờ sáng chủ nhật 11.10.1998, có đông đủ thân nhân và Bùi Tộc Vĩnh Trinh,
tiễn đưa Bùi Giáng từ Chùa Vĩnh Nghiêm về chôn cất tại Thủ Đức. Họ Bùi nguyên gốc
ở Nghệ An, sau dời đến Quảng Nam lập nghiệp kể từ đời Hậu Lê, qui tụ bao quanh
các làng Vĩnh Trinh, Lệ Trạch, Cù Bàn, An Lâm, Cổ Tháp và Thành Châụ Tổ đình của
họ Bùi đặt tại Thủ Đức. Trước ngày động quan Bùi Giáng, Hội Nhà Văn muốn biểu lộ
sự kính trọng đối với một ngòi bút lớn đã qua đời, bằng cách đề nghị đuợc an
táng Bùi Giáng tại Nghĩa Trang Thành Phố nhưng người em trai của Bùi Giáng là
Bùi Văn Luân không chấp thuận. Sau đó Hội Nhà Văn đề nghị hiến tặng hai mảnh đất
hợp với hai mảnh đất của Bùi Tộc Vĩnh Trinh cho được rộng rãị Tối thứ Bảy, số
người mến mộ thi văn Bùi Giáng, đa số là các học sinh, sinh viên, giới trẻ, đô
? tới nhà quàn Vĩnh Nghiêm tiễn biệt một thiên tài đã vĩnh viễn ra đi kéo dài tới
2 giờ khuya khiến không còn một chỗ trống để chứa ngườị Sổ tang ghi tên nhiều
nguời, dày tới hàng trăm trang. Đám tang có tới hàng ngàn người tham dự, được
đánh giá là một trong những đám tang có đông người dự kể tư ` sau năm 1975...
Trước khi hạ huyệt, nữ nghệ sĩ Kim Cương - một người từng được Bùi Giáng lúc
sinh thời nói tới nhiều bên cạnh những nhân vật có thật của đương thời như
Phùng Khánh, Marylin Monroe, Brigitte Bardot, Kim Novak, John Keats... - được mời
đọc điếu văn. Tiếp tới nhà văn Sơn Nam, Huy Tuởng tiếp tục ngỏ đôi lời trước mộ
người quá cố
Trích từ Văn Bút Ngày nay ( USA )
Ly Tao 1
Giờ ngẫu nhĩ như hồng bay em ạ
Và yêu thương như lá ở bên hoa
Và luyến ái như tơ vàng bốn ngả
Bủa vi vu như thoáng mộng la đà .
Em đã lại với đời về nắng ấm
Thắm không gian thương nhớ bóng hình
em
Anh đã đợi chờ em từ lâu lắm
Ngày đi không để lại lạnh trăng rằm.
Anh mơ ước với ngàn xuân mở rộng
Quên não nùng sa mạc của yêu
thương
Chân cứ bước theo nhịp hồn cử động
Em là em anh đợi khắp nẻo đường.
Em có nụ cười buồn buồn môi mọng
Em có làn mi khép lá cây rung
Em có đôi mắt như sầu xanh soi
bóng
Hồ gương ơi! sao sóng lục vô chừng!
Con mắt ấy có gieo buồn rớt lệ
Trê n nẻo đường lạnh lẽo lối lang
thang
Môi thắm ấy mấy lần thao thức kể
Với đèn khuya vò võ mộng khôn hàn.
Trời đất nhớ lần đầu ... năm trước
...
Đó một lần đôi mắt đã nhìn lên
Và trời hiểu ngày sau đôi mắt ngước
Một lần kia sẽ còn dịp đáp đền.
Em ở lại với đời ta em nhé
Em đừng đi. Cho ta nắm tay em
Ta muốn nói bằng thơ bay nhẹ nhẹ
Vào trong mơ em mộng giấc êm đềm .
Ta sẽ đặt mười ngón tay lên mắt
Để nhìn em qua khe hở du dương
Vòng theo máu hai vòng tay khép chặt
Ồ thưa em ta thấy mộng không thường.
Ly Tao II
Bàn chân bước nghe một lần sóng dậy
Sắc khuynh thành một thuở động binh
đao
Người lên ngựa ngoảnh đầu về có thấy
Bờ xa bay tuyết bạch phủ sương
đào.
Vì mong đợi ngày về xuân hối hả
Ở bên mành thỏ lặn bóng ngàn dâu
Sầu lục thúy sầu thu sen thủy tạ
Mộng hoa đầu trong nước ngập theo
nhau
Vì con mắt một lần kia đã ngó
Giữa nhân gian bủa dựng một màu trời
Đài vũ trụ hồn chiêm bao rạng tỏ
Một nụ cười thế giới sẽ chia đôi
Giòng nước bạc giòng sông trôi theo
dõi
Cuối chân trời hình bóng một chân
mây
Đời xiêu đổ nguồn xưa anh trở lại
Giữa hư vô em giữ nhé chừng này.
Ly Tao III
Em đi về như mây núi đầu xuân
Gió bay qua nước chảy suối vô cùng
Mừng như thể hôm qua về đồng nội
Buồn bã cũ đã bẽ bàng bước vội
Để bây giờ còn một mối riêng tây
Lời nhân gian không tiếng để phơi
bày
Thu trăng mộng như trang mờ cổ lục
Mưa vội vã như bình minh thúc giục
Vào nhớ nhung như vào giữa hội hoa
Lá xanh xao như cành nhánh gật gù
Và thánh thót đến cây già cổ thụ
Anh lại thấy một trời xưa đã cũ
Đã đi về cùng với gót chân em
Đã đi qua cùng với cánh tay mềm
Anh mở miệng không nói lời nào cả
Vì bất chợt thấy môi cười em ạ
Vì vui mừng xa lạ bỗng quen nhau
Vì vu vơ vui sướng ngó pha màu
Cây im cỏ nước cợt cồn đùa cát
Và vạn vật rủ rê nhau bát ngát
Dàn mênh mông vây bủa gió xa bay
Anh đến bên em ghé sát mi mày .
Nỗi Lòng Tô Vũ
(Kỷ niệm một đoạn đời 15 năm chăn dê ở
núi đồi
Trung Việt Nam Ngãi Bình Phú )
Đồi tăm tắp chạy về ôm chân núi
San sát đồi phủ phục quấn núi xanh
Chiều xuống rồi tơ lòng rộn ràng rối
Trời núi đồi ngây ngất nhảy dê
nhanh
*
Thôi từ nay tha hồ em mặc sức
Nhảy múa tung sườn núi vút giòng
khe
Thôi từ nay tha hồ em mặc sức
Vang vang lên đồi núi giọng be be
*
Những bận nào Trà Linh qua Đá Dừng Hòn Dựng
Dùi Chiêng về Phường Rạnh ngược Khe
Rinh
Bao lần anh cùng chúng em lận đận
Bôn ba qua rú rậm luống rùng mình
*
Những bận nào Quế Sơn Rù Rì con suối ngược
Nước trôi nguồn nước lũ xuống phăng
phăng
Những bận nào mịt mùng mưa gió ướt
Đẫm thân mình co rúm lạnh như băng
*
Em nhớ hay không? hồn hoa dại cỏ
Những ngậm ngùi đầu núi canh khuya
Vàng cao gót nai đầu truông hãi sợ
Gió cây rung trút lá mộng tan lìa
*
Nhưng từ nay Giáp Nam anh đóng trại
Cố định rồi - em khỏi ngại ngày
đêm
Dưới nắng mưa tha phương du mục
mãi
Cay đắng từng, bùi ngọt mặn mà
thêm
*
Chiều hôm nay bên chó vàng chễm chện
Anh lặng nghe em bé hé bên sườn đồi
Khoanh mấy vòng tay anh thoăn thoắt bện
Vòng cho em từng chiếc sắp xong rồi
*
Chiều đã xuống em đà no nê chắc
Huýt tù và! em xúm xít lại anh đeo
cho
Mỗi chúng em mỗi vòng mây mỗi sắc
Lại mau đây! to nhỏ cổ anh so
*
Này em Đen chiếc vòng vàng tươi lắm
Này em Vàng chiếc trắng há mờ đâu
Này em Trắng chiếc hồng càng lóng
lánh
Này em Hoa Cà (1) hỡi! chiếc nâu
*
Ngẩng đầu lên! dê ơi anh thong thả
Đeo vòng vào em nghển cổ cong xinh
Ngẩng đầu lên! đây lòng anh vàng
đá
Gửi gắm vào vòng mây nhuộm tơ
duyên
*
Ngẩng đầu lên nhìn anh mờ mắt lệ
Từ lần đầu vòng ngọc tuổi hai mươi
Trao người em trăm năm lời ước thệ
Đây lần đầu cảm động nhất mà thôi (2)
*
Vòng em xong, vòng anh dành riêng chiếc
Dành riêng mình - Dê hỡi hiểu vì sao
?
Vì lòng anh luống âm thầm tha thiết
Gán đời mình trọn kiếp với Dê Sao
*
Nhìn anh đây các em Vàng Đen Trắng
Tía Hoa Cà lổ đổ thấu lòng chưa ?
Từ từ đưa chiếc vòng lên thủng thẳng
Anh từ từ đưa xuống cổ đong đưa
*
Và giờ đây một lời thề đã thốt
Nghìn thu sau đồi núi chứng cho ta
Cao lời ca bê hê em cùng thốt
Hòa cùng lời anh nghẹn nỗi thiết
tha
*
Và giờ đây hoàng hôn mờ trĩu nặng
Bốn bề tràn lan bóng mịt mùng sa
Xếp hàng ngay nhanh lên hàng ngũ thẳng
Rập ràng về bế hế rập ràng ca
---
(1) Dê Hoa Cà có lông lổ đổ tía hồng xem
như hoa cà vậỵ Đẹp vô cùng. Nhất là những buổi chiều, sắc
lông óng ả dưới nắng vàng - xa xa hình
bóng dê rực rỡ nổi bật trên triền núi xanh lợ Dê Hoa Cà còn gọi là Dê Sao (vì
lông lổ đổ sáng như sao).
(2) Ý nói cái lần đầu, thuở hai mươi tuổi,
trao cái
vòng ngọc cho vị hôn thê mà không cảm động
bằng lần đầu đeo vòng cho dê vậỵ
Bùi Giáng ... Những ngày ngắm gió
Ta đi còn giữ đôi giòng
Lá rơi có dội ở trong sương mù
B.G.
Như thế Nàng Kiều hay Nàng Thơ đã mang
Trung Niên Thy Sỹ ra đi tít cõi sa mù, đi khuất. Tôi đã lặng người khi nghe tin
ông mất vì bị té và bể mạch máu trong đầụ Không biết là ông té thật hay ông chỉ
vung một tuyệt chiêu cuối cùng cho hai vùng não bộ trái và phải hòa nhập thành
một cõi uyên nguyên mà cánh chuồn chuồn của ông đã không ngừng nghỉ kiếm tìm
trong mấy chục năm qua ?
Có thể lắm bởi vì cái sự vụ hai miền hai
cõi đã không từng gây ra lắm cảnh đoạn trường cho chúng ta đó hay saọ Hẳn là
ông đã tìm thấy được mùa xuân phía trước, cái cõi nguyên xuân của Mưa Nguồn ,
Xin chào nhau giữa con đường .
Mùa xuân phía trước miên trường phía sau
? Ngày ông mất, anh Thi Vũ tặng tôi tập thơ " Đêm Ngắm Trăng " của
Bùi Giáng mới xuất bản ở Việt Nam gần đâỵ Thật là một món quà quý giá vì xa nước
đột ngột năm 75, tôi không giữ được một tập thơ nào của ông ngoại trừ vài ấn bản
mới xuất hiện sau này ở hải ngoạị
Một trong những trang đầu của Đêm Ngắm
Trăng có ba chữ Ngày Ngắm Gió được đặt trong dấu ngoặc, đứng đơn độc một mình.
Có thể ít người chú ý tới nhưng tôi đã dừng lại thật lâu để đọc mãi ba chữ ấy
và bất giác đối với tôi nó mang một ý nghĩa thật mênh mông phiêu hốt như cuộc đời
của Bùi Giáng.
Ông đã đứng ngắm những trận gió hỗn mang
từ Cổ Hy đến Tây Phương Tuyệt Mù Hư Vô Chủ Nghĩa, trở lại chốn huyền môn tâm
pháp Đông Phương, một đôi lần lận đận trước Con Đường Ngả Ba (1), những cơn tẩu
hỏa nhập ma làm ông thất điên bát đảo trước Ngả Ba của Bát Nhã Ba La Mật.
Hãy nghe ông định nghĩa thế nào là Ngả
Ba : " Ấy là một loại Ngả Ba riêng biệt. Một loại ngả ba theo dõi mãi con
đường trong mỗi bước chân đi , trong từng mỗi mỗi niệm, mỗi mỗi sát na thù thắng.
Trên con đường tư tưởng, không ai một lần vượt qua Ngả Ba là coi như vĩnh viễn
từ nay không còn Ngả Ba nào chon von eo óc khiến bàng hoàng. Phải luôn luôn thể
hội một điều : Ngả Ba còn hằng tại ở mãi dưới bước chân đi hàng hai theo thể lệ
chữ 'Bát' cho máu me đánh mãi nhịp chữ 'Không'..." Nhưng không sao, trước
những câu hỏi siêu hình hiểm hóc của Đường Vô Núi, Lối Ra Rừng ông tiếp tục hô
lớn "không phải, không phải" hoặc "không biết, không biết, và
không biết..." sống trọn vẹn vai trò Lão Ngoan Đồng của cõi tư tưởng bởi
chưng
Ngày mai cá sóng phiêu bồng
Ngàn trăng ngậm bóng sương đồng ra đi
(Đêm Ngắm Trăng)
Không biết, không biết hay chỉ là sự bất
lực của chữ nghĩa - "Ở trong còn lắm điều hay/ Nỗi đêm khép mở nỗi ngày
riêng chung" (Nguyễn Du). Và thản nhiên ngắm gió trước những ngả ba sinh tử
kiệt cùng của tư tưởng trong suốt cuộc đời của ông, thái độ rất chịu chơi của kẻ
có nội công thâm hậu khác hẳn với những lối làm dáng của các triết gia đùa giởn
với chữ nghĩa đương thờị
Nói đến những cơn điên tam đảo tứ ,
trong những bài viết về Bùi Giáng, một số không nhỏ thường đặt câu hỏi là ông
có điên hay không và những giải thích dài dòng chung quanh chuyện điên. Có lẽ
chúng ta không nên mất thì giờ cho những câu hỏi như vậy, câu hỏi không cần phải
đặt ra bởi vì " Người ta vốn điên, điên một cách thiết yếu đến nỗi không
điên cũng là điên theo một lối khác - Les hommes sont si necessairement fous,
que ce serait être fou par un autre tour de folie, de n'être pas foụ
(Pascal)".
Bùi Giáng đã dùng câu này để mở đầu cho
lời tựa của bản dịch Mùi Hương Xuân Sắc (Sylvie Souvernirs Du Valois) của
Gérard De Nerval. Như vậy câu hỏi nên đặt
ra là liệu chúng ta có phải điên hay không điên một cách thiết yếu để thấy cái
nghĩa lý của những câu thơ:
Người điên ngôn ngữ điệp trùng
Dở chừng như mộng dở chừng như mê
Thưa em ngôn ngữ quặt què
Làm sao nói được nghiệp nghề người điên
(Thơ Bùi Giáng, Thế Kỷ 1994)
Lời tỉnh táo, lời mê man
Điệu tha thiết rống điệu bàng hoàng ca
......................................
Tặng nhau từ ngữ lạc lầm
Cũng xin hồng lệ hãy đầm đìa tuôn
(Y Ư Mộng Du Ư Mê, sđd)
Hiển nhiên vấn đề không còn phải là điên
nhưng chính cái hạn hữu của ngôn ngữ đã làm con người ngộ nhận nhaụ Không gì
đáng buồn hơn khi chợt thấy rằng chúng ta không hơn không kém chỉ là những người
mù sờ voi, mọi lối nhìn chỉ là phiến diện của lăng kính đờị Người ta đã nhân
danh những giá trị, những danh xưng để Việt Nam trở thành một bãi chiến trường
trong mấy chục năm quạ Thế hệ của tôi là những thanh niên lớn lên ở thời sáu
mươi, chúng tôi chóng già với khói thuốc ở những quán cà phê và những khắc khoải
hiện sinh. Ý Thức Mới , Im Lặng Hố Thẳm của Phạm Công Thiện như những làn gió mới
để chúng tôi quên đi cái chủ nghĩa hiện sinh buồn nôn của thời thượng lúc bấy
giờ. Nhưng chiến tranh sát nách, chúng tôi đã không còn có nhiều thì giờ nữạ Đa
số chúng tôi từ giả hố thẳm của tư tưởng và lao đầu vào cuộc chiến trước mặt, một
hố thẳm thực sự, kết tủy của những bế tắt của triết học Tây phương trước những
Ngả Bạ Tôi nhớ Phạm Công Thiện với lời gởi thật trang trọng đến Nguyễn Du trong
đầu trang sách của Im Lặng Hố Thẳm như một "người cha tóc trắng của thi ca
và tư tưởng Việt Nam, ngồi im lặng trên mây núi Hồng, già với gió thụ.."
nhưng hình như ông không dành nhiều trang sách ở phía trong cho Nguyễn Du vì một
lý do này hay một lý do khác cho đến gần ba mươi năm saụ Trái lại, Bùi Giáng
trong mọi vần thơ đã làm sống lại người cha tóc trắng đó, đã mang sinh khí mới
cho dòng lục bát nói riêng và thi ca Việt nói chung.
"Thơ Nguyễn Du thị hiện một cách đoạn
trường như thế, thì sự cố nào xảy ra cho thằng tài tử ? Ấy là sự cố Mưa Nguồn,
Lá Hoa Cồn... Mọi bài thơ tôi viết ra, đều là vịnh thơ Nguyễn Du tại chỗ gay cấn
âm thầm nhất. Dịch thơ từ đó biến ra làm Vịnh Kiều, trong từng cơn cưỡng bức.
Cưỡng bức thơ Nguyễn Du cũng là tự mình cưỡng bức mình."
(Thi Ca Tư Tưởng, An Tiêm, tr. 63)
Tại sao ông lại cưỡng bức mình quá đổi
như thế ?
"Thơ là cái gì không thể bàn tới,
không thể dịch, diễn gì được. Người ta có thể diễn tả một trận mưa rào bằng lời
thợ Thì có lẽ muốn diễn tả một bài thơ, người ta chỉ có thể phát động một trận
mưa rào, hoặc một cơn gió thụ Mà muốn thực hiện sự đó, thì ngoài việc làm thơ
ra, con người không còn phép gì khác. Thế có nghĩa là : muốn bàn tới thơ, diễn
dịch thơ, người ta chỉ có thể làm một bài thơ khác."
(Thi Ca Tư Tưởng, An Tiêm, tr. 14)
Và ông đã làm rất nhiều bài thơ khác, những
thiên khảo luận như là một lối gõ cửa, đưa người đọc bước vào những ngưỡng cửa
khác nhau của Thi Ca và Tư Tưởng, từ Tây sang Đông, Heidegger, Hoelderlin,
Nietzsche, Khổng, Lão, Trang, Nguyễn Du... Những lối dẫn nhập có vẻ đùa giởn
nhưng rất gạn lọc và nghiêm túc vì ông cho rằng "...kẻ nào tự xét mình từ
trong tinh thể mà ra chả có chi là phiêu bồng tí chút thì chả nên cưỡng cầu tự
ép uổng ghé vào thi ca thâm xứ làm chị.." (Đi Vào Cõi Thơ).
Lời nhắn nhủ cần được gởi đến cho những
nhà phê bình văn học theo lối từ chương sách vở. Đã có một vài nhà phê bình ở hải
ngoại mất rất nhiều thì giờ phân tích ông với lối chả có chi là phiêu bồng tí
chút đó. Quả thật họ không nên cưỡng cầu tự ép uổng vào thi ca thâm xứ của ông
làm gì.
Tôi yêu Bùi Giáng nhất ở chỗ ông cũng là
một thi sĩ ngợi ca tình yêu lãng mạn. Ai trong chúng ta lại không một lần lận đận,
một lần lỡ dở trong tình trường nhất là khi sự đổ vỡ ấy lại là lần đầu tiên
trong đờỉ
Có lẽ sự trắc trở của thuở ban đầu đó đã
khiến ông yêu Thúy Kiều nhiều hơn vì đồng cảnh ngộ ?
Những nàng kiều nữ gặp giông bão trong
tình trường hoặc là những quyến rũ mê hoặc của thuỡ thanh xuân trở thành những
nhân vật hoặc đề tài ưng ý đối với ông. Alissa của Khung Cửa Hẹp chết trong cô
đơn, Môi cười ở cuối sân ga/ Phố nào cố quận xưa là tiễn nhau/ Lệ vàng xanh mắt
mai sau/ Chùm bông tuyệt mỏng pha màu vĩnh lỵ Adrienne của Mùi Hương Xuân Sắc
chết trong tu viện, Trang hồng kim hải ra hoa/ Trổ bông mùa phượng tên là
Adrienne/ Anh về đuối mộng cuồng điên/ Mùa thu quốc sắc ưu phiền ngập trang. Cô
Gái Lạ Thiên Thu Thánh Nữ Thấp Thoáng Adrienne đã có những liên hệ gì đến Mẫu
Thân Phùng Khánh Trí Hải Ni Cổ (Không biết, không biết và không biết. Chắc ông
sẽ trả lời như vậy nếu được hỏi). Từ Mưa Nguồn đến Chớp Biển, Bùi Giáng luôn
luôn nhắc đến đâu đó một mối tình đầu dang dở nhưng cảm động hơn cả là trong tập
thơ cuối cùng Đêm Ngắm Trăng, ở tuổi hơn bảy mươi hình bóng người tình đầu
tiên, Nàng Tiên Một Lần, rõ ràng hơn và xuất hiện trong nhiều bài thợ Một điểm
cần ghi nhận là có nhiều câu từ những tập thơ trước như Mưa Nguồn chẳng hạn đã
được lập lại trong những tập in sau nàỵ
Mai sau còn dự Hội nào
Ngó nhau từ kỷ niệm đầu bão giông
(Đêm Ngắm Trăng, Mưa Nguồn)
Tình thứ nhất ? mộng mưa nguồn
Từ nay vĩnh viễn con đường chẻ đôi
(Đêm Ngắm Trăng)
Bỏ người yêu bỏ bóng ma
Bỏ hình hài của tiên nga trên trời
Bây giờ riêng đối diện tôi
Còn hai con mắt khóc người một con
(Mưa Nguồn)
Ngày mai vĩnh biệt cõi đời
Trùng lai có lẽ cuối trời biệt ly
(Đêm Ngắm Trăng)
....................................................
"Có Một Ngày Như Thế... anh đị.."
lời nhạc của Trịnh Công Sơn như một nhắc nhở cho chúng ta cái mỏng manh của kiếp
ngườị Đến và đi, phiêu bồng như một áng mây nhưng đã từ lâu trong cõi Mưa Nguồn
ta đã thấy một người Thi Sĩ Của Trần Gian đã yêu chốn này rất mực...
Ngày sẽ hết tôi sẽ không ở lại
Tôi sẽ đi và chưa biết đi đâu
Tôi sẽ tiếc thương trần gian mãi
mãi
Vì nơi đây tôi sống đủ vui sầu
(Mưa Nguồn)
Những Giai Thoại Về Bùi Giáng
Những giai thoại về Bùi Giáng nơi đây ,
đã không còn mang tính giai cấp chế độ hoặc một hình thức chính trị nào , mà
chính là chúng ta ... những người yêu thích tâm hồn ngỗ ngáo của ông .
Lục Bát
Sau khi chiếm miền Nam, các cán bộ văn
hóa từ Bắc vào rồi lần lượt nắm giữ các chức vụ của đảng và nhà nước giao phó,
đô `ng thời để "làm việc" với các đối tượng văn hóa miền nam. Một
trong những người được giao công tác để chỉnh huấn giới văn nghệ Quảng Ðà là một
cán bộ tập kết xuất thân từ địa phương. Cán bộ đó có bút hiệu là Thu Bồn, lấy
tên của giòng sông lớn nhất tỉnh.
Trước sự miễn cưỡng và chống đối lộ hoặc
ngầm của giới văn nghệ sĩ địa phương, trong một buổi sinh hoạt tư tưởng văn
hóa, cán bộ thơ Thu Bồn muốn thúc đẩy các văn nghệ sĩ miền Nam tham gia tích cực
vào sinh hoạt mới của nhà nước, đã ép mời nhà thơ Bùi Giáng lên diễn đàn để trổ
tài làm thơ lục bát "như hơi thở" của ông mà người ta vẫn đồn. Bùi
Giáng khiêm nhượng từ chối nhưng vẫn bị nài ép. Cuối cùng, không thể chô 'i từ,
Bùi Giáng lên bục, và chỉ vào nữ sĩ Thu Ba, lúc ấy đang ngồi cạnh nhà thơ Thu Bồn,
mà ứng khẩu rằng:
"Thu Ba ngồi cạnh Thu Bồn Thu Bồn
thích quá, sờ ? tay Thu Bạ"
Rồi tức thì ngồi xuống trước sự ngẩn ngơ
của diễn giả Thu Bồn, nữ sĩ Thu Ba, và cử tọạ
Mọi người nhao nhao: Thơ lục bát gì lạ
thế? Vần điệu niêm luâ .t trật lất! Không chuẩn, phải làm lại!
Thế là Bùi Giáng lại bị lôi lên. Ông làm
mặt nghiêm đọc tiếp:
"Thu Ba ngồi cạnh Thu Bồn Thu Bồn
thích quá, sờ ? vai Thu Bạ"
Cả hội trường lại cười ầm lên, rồi náo
loạn. Người ta kháo nhau, thơ văn miền Nam quả là tệ hại! Chả thế mà phải cải tạo
cho nghiêm chỉnh lên.
Bùi Giáng bị ép phải làm lại cho nghiêm
chỉnh luật thơ lục bát trước khi ngồi xuống.
Cuối cùng ông mới nói đôi lời phân trần
về yêu cầu của ngư ời nghe, đại ý là nếu mọi người nhất định bắt ông phải làm
thơ cho đúng với niêm luật, thì ông phải sửa như thế nầy:
"Thu Ba ngồi cạnh Thu Bồn Thu Bồn
thích quá, sờ ? mồm Thu Ba"
Rồi ông đủng đĩnh bước ra cửa trước những
con mắt ngơ ngác của Thu Bồn. Còn Thu Ba thì thẹn đỏ mặt. Mọi người được một trận
cười nghiêng ngửạ
Sữa Mẹ
Một chuyện khác, được dân Sài Gòn chuyền
nhau với nụ cười ý nhị. Có nhiều nguời quả quyết chuyện dưới đây có thật một
trăn phần. Có người khác nghi ngờ đây là một chuyện ngụ ngôn ẩn ý do lòng người
dân muốn tìm mọi cách khéo léo bày tỏ thái độ chống lại nhà nước CSVN và quan
thầỵ
Chuyện kể rằng, một lần, Bùi Giáng lang
thang ngoài đường phố Sài Gòn. Chợt mọi người tụ lại nói năng chỉ chõ om xòm.
Công an hình cảnh được triệu đến. Một cảnh náo nhiệt xảy rạ Mỗi người nói một
chuyện, kẻ nói một dàng, không ai rõ chuyện gì. Mãi hồi sau cảnh sát mới hiểu
sơ nội vụ và câu lưu đương sự họ Bùi vì bị tố cáo là dã "xâm phạm tiết hạnh"
của một nữ du khách người Ngạ Cán bộ hình cảnh lấy cung nghi can:
'Anh kia, có phải anh đã bóp vú bà Liên
Xô kia không?
Bùi Giáng thản nhiên đáp:
'Dạ có.
'Quả thật tội anh rành rành, mà anh
không biết xấu hổ. Tại sao anh lại dám làm một chuyện tồi bại ngay giữa ban
ngày ban nhật như thế?
Cán bộ xem xét bà Liên Xô "nạn
nhân" với bộ ngực đồ sộ, rô`i nhìn lại thân hình ủ rũ héo úa của thủ phạm.
Không giữ được tò mò, hỏi nghi can:
' Thân thể ốm yếu như anh thì làm gì được,
mà cứ đòi mò mâ ~m bà tả vĩ đại thế kiả
Bùi Giáng lúc lắc cái đầu bù xù tóc rối:
'Tui đâu dám ham hố gì bả.
Tui chỉ muốn coi thử cái "vú Liên
Xô" nó vĩ đại cỡ nào để xem nó có nuôi nổi dân tộc mình không !
--------------------------------------------------------------------------------
Tôi có "hân hạnh" thấy BG 2-3
lần trong đời . 1 lần vào trước 1975, lúc đó tôi khoảng 9-10 tuổi, theo ông anh
vào Viện Đại Học Vạn Hạnh Saigon mà BG là 1 giảng viên . Lên phòng ông thấy ông
đang đánh cờ với 1 ông bạn trên 1 cái giường . Còn gói xôi ông đang ăn thì nằm
bên 1 cái giường khác trong phòng . Thỉnh thoảng giữa 2 nước cờ ông chạy về giường
múc miếng xôi ăn . Tôi chỉ thấy mắc cười sao ông không để gói xôi ngay bên cạnh
dể vừa ăn vừa dánh cờ . Nhưng dĩ nhiên là không dám hó hé gì, chỉ xớ rớ bên ông
anh rồi đi về .
Vài năm sau 1975, trước khi vượt biên
tôi gặp ông trong 1 quán càphê . Khi đó ông đã không còn bình thường . Ông ngồi
lẩm nhẩm :" Mẹ kiếp ! thà đi lăn lóc như tao còn hơn ngồi coi cái con Kim
Cương sạo sự hằng đêm " . Không biết ông có ý nói gì . Hay là ông mỉa mai
KC (người mà ông rất si mê) được nhà nước cưng, lúc đó đóng kịch đều đều . Rồi
ông múa may 1 chút rồi lại đi đâu mất . Gặp ông 1 lần nữa cũng trong cái trạng
thái cuồng sĩ như vậy, dơ dáy, rách rưới, điên hay bất cần đời hay tuyệt vọng với
thế nhân, thách đố / đầu hàng với hiện hữu tôi cũng chẳng biết . . Hồi đó tôi
đã biết là mời ông vào nhà, cho tiền hay quần áo, thức ăn là điều vớ vẫn với
ông mà thôi .
Thật sự sau này tôi đọc lại và đọc thêm
1 số sách của ông, tôi mới thưởng thức nhiều hơn vì tuổi đã lớn khôn . Đọc 1 đọan
văn dịch có phần sáng tác của ông tôi mê mẩn thích thú rồi lại thẫn thờ suy
nghĩ . Không hiểu vì sao 1 tấm lòng yêu tha nhân thắm thiết như thế, 1 nhân
cách tài hoa lãng mạn như vậy, 1 lối phân tích tỉnh táo có phần trào phúng như
vậy mà cuối cùng lại dẫn đến sự tuyệt vọng trong tư tưởng đến độ phát điên (hay
bất cần đời đến cực điểm - cũng không khác gì điên) . Sao ông không nghe Trịnh
Công Sơn ... Tôi ơi đừng tuyệt vọng ... (Hình như ông đâu thèm nghe TCS . Hình
như ông chê TCS . Tôi có nghe nói nhưng mà tôi không tin lắm . Bởi vì nếu vậy
thì BG chưa hẳn là thoát tục - Ờ, mà có thể BG không thoát tục, có thể ông tục
lụy đến cực đoan thì sao ??? )
Tôi để ý thấy ngoài thơ Kiều, BG rất
thích thơ Hồ Dzếnh . Câu nào ông gắn vào dịch phẩm của ông cũng đúng chóc
.
Sau khi được cứu trên sa mạc bởi 1 người
du mục Trung đông, St Exupery viết trong "Cõi Người Ta" : "Anh
hiện ra với chúng tôi trong phong độ lai láng cao vời, và bao dung nhân hậu,
như một đấng chí tôn có quyền lực ban cho nước uống . Tất cả bạn hữu của tôi, tất
cả kẻ thù của tôi, cùng bước tới bên tôi trong hình hài của anh, và tôi không
còn 1 kẻ thù nào ở thế gian nữa cả . " BG kết bằng Hồ Dzếnh : " Ý
thiêng choán hết linh hồn . Còn đâu gió nhớ cung buồn mà ca " .
Và đây " Chiều buồn như mối sầu
chung .
Lòng im nghe thoảng tơ trùng chốn xa
" . (H Dzếnh)
Khi BG mở đầu cho 1 đoạn tâm sự về Con
Người .
Không hoàn toàn sống trong tâm trạng của
tác giả, không có cái tài hoa của sự hiểu biết thấu suốt Pháp ngữ thì BG không
thể gắn những câu thơ xuất thần như thế trong bản dịch .
Và vẫn làm tôi luôn tự hỏi vì sao ông chọn
làm người điên . Vì sao ông chối bỏ cái thế giới này mà đã có lần ông (cùng với
tác giả) đã yêu thương rất mực . Không lẽ cái điên của BG chỉ hoàn toàn là bệnh
lý ?
--------------------------------------------------------------------------------
BÙI GIÁNG VÀ NỖI LÒNG TÔ VŨ
PHẠM XUÂN ĐÀI
Tôi đọc bài thơ Nỗi Lòng Tô Vũ của Bùi
Giáng lần đầu tiên vào thập niên 50, trên tờ Phổ Thông do ông Vũ Quốc Thúc chủ
trương, xuất bản tại Hà Nội trước cuộc di cư năm 1954. Tuổi học sinh, đọc là
tôi mê bài ấy ngay, nỗi mê gần giống như khi đọc Les Étoiles của Alphonse
Daudet, có lẽ với nhiều cảm động hơn. Một bên là chàng chăn dê giữa rừng núi với
tình yêu bầy dê của mình, một bên là chàng chăn cừu với mối tình chớm nở với cô
con gái ông chủ. Tuổi thanh thiếu niên dễ "bắt" những rung động ấy lắm.
Và tôi không ngờ "mối tình" của tôi với Nỗi Lòng Tô Vũ của Bùi Giáng
lại dai dẳng đến thế, sau này tôi đã đọc nhiều thơ, văn của anh, đã quen biết
anh, nhưng hình ảnh chàng chăn dê trên núi trong một buổi chiều "ước thệ"
với những vòng đeo cổ dê và cổ chính mình vẫn ở mãi trong lòng tôi như một vùng
trong sáng thuộc vào tuổi trẻ. Tuổi trẻ của tác giả, và sau đấy, của tôị
Một bài thơ cảm động mô tả việc chăn dê ở
vùng đồi núi Quảng Nam và tình yêu bầy dê của tác giả, với các hình ảnh vô cùng
nên thợ Nhưng câu đề từ ở đầu bài: Kỷ niệm một đoạn đời 15 năm chăn dê ở núi đồi
Trung Việt - Nam Ngãi Bình Phú gây thắc mắc cho nhiều người, trong đó có tôị
Trong những dịp gặp Bùi Giáng trước năm 1975 và gần đây, đầu thập niên 90, tôi
đều quên nhờ anh giải thích những điều rõ ràng là nói quá lên: về thời gian,
không làm gì có chuyện Bùi Giáng đi chăn dê trong 15 năm, về không gian thì cả
vùng núi đồi Nam Ngãi Bình Phú là quá lớn đối với địa bàn chăn dê thật của nhà
thi sĩ. Bây giờ tôi đành tìm cách giải thích câu ấy một mình vậỵ
Công việc chăn dê của Bùi Giáng chỉ có
vào một thời gian ngắn tại núi đồi huyện Quế Sơn tỉnh Quảng Nam, trong khoảng từ
1945 đến 1952 là năm anh "nhảy đồn" để về thành phố. Câu đề từ trên về
thời gian và không gian đều được nới dài và rộng ra, để nhằm gợi một cái gì đấy
nhiều hơn là để tường trình một giai đoạn của đời tác giả. "Mười lăm
năm" có lẽ được mượn từ đoạn đời trôi nổi của nàng Kiều, một khoảng thời
gian trở thành chuẩn mực để chỉ nỗi trắc trở lênh đênh; trong giới văn học,
"mười lăm năm lưu lạc" gần như thành một thành ngữ. Và miền núi đồi bốn
tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên gợi nên cái không gian Liên khu
Năm trong thời kháng chiến chống Pháp mà Bùi Giáng đã đi lại nhiều lần. Thời
gian ấy, không gian ấy sẽ hỗ trợ cho không khí và nỗi lòng của chàng Tô Vũ mới,
và làm cho mối tình của chàng với bầy dê thấm đượm một màu sắc riêng. Mười lăm
năm nói lên một nỗi truân chuyên, mượn số năm lưu lạc của nàng Kiều để chỉ một
thời gian ngắn hơn nhiều của đời mình, Bùi Giáng có lẽ đã có tiên cảm về nỗi bất
trắc lớn lao của dân tộc trong vòng vây không thoát được của chủ nghĩa cộng sản.
Và núi rừng Nam Ngãi Bình Phú là một không gian đặc biệt của thời ấy, lúc phá hết
phố phường biệt ly đời gấm hoa, đời sống cả một vùng giai đoạn đầu kháng chiến
nhuốm đầy vẻ tươi sáng hào hùng dù rất kham khổ thô sơ, nhưng từ đầu thập niên
50 bắt đầu xuất hiện các vệt đen của đấu tranh giai cấp và việc ép buộc đổ vào
một khuôn tất cả mọi sinh hoạt tinh thần, tư tưởng -- cái khuôn mác xít.
Nỗi lòng Tô Vũ là nỗi lòng của kẻ lưu đàỵ
Tô Vũ là một nhân vật bên Tàu thời Hán Vũ Đế, khi đi sứ sang Hung Nô đã bị nước
này giữ lại, bắt đi chăn dê trong 19 năm, gọi là Tô Vũ Mục Dương. Bùi Giáng học
ở kinh đô Huế, năm 1945 ở vào tuổi 19, đầu óc đang trong cơn khao khát rộng mở
đến bao chân trời kiến thức, thì vì thời cuộc phải ngưng học đột ngột, về sống
với xóm làng rừng núi quê nhà. Nhưng điều quan trọng là khi cuộc kháng chiến
bùng nổ, vùng Nam Ngãi Bình Phú thành biệt lập với thế giới bên ngoàị Một đời sống
hoàn toàn tự cấp tự túc, kể cả và nhất là về học thuật, văn hóa, tư tưởng. Thời
ấy nền giáo dục của cả Khu Năm chỉ đến hết bậc trung học, muốn học đại học phải
ra đến Khu Bốn mới có. Năm 1950 Bùi Giáng thử thời vận một lần với việc học vấn,
lên đường đi dọc theo dãy Trường Sơn ra đến Hà Tĩnh để theo học đại học tại đấỵ
Nhưng ngay trong buổi khai giảng, sau khi nghe diễn văn của ông Viện trưởng thì
Bùi Giáng quyết định bỏ về không học nữạ Bài diễn văn ấy có lẽ đã bắt đầu có dấu
hiệu của sự nô dịch dân tộc bằng hệ ý thức mác xít. Bùi Giáng thất vọng. Các dự
cảm đang biến thành sự thật. Sau đó ông chỉ còn một con đường là tự biến mình
thành Tô Vũ. Đó là sự tự lưu đày trên quê hương, với ý thức rất rõ rằng tư tưởng
của mình, đời sống trí tuệ của mình đang bắt đầu bị vây khổn. Cuộc đời chăn dê
và hình ảnh bầy dê chỉ là lối thoát mặt nổi của riêng một người, trong một thời
mà bao nhiêu dáng vẻ phong phú bay bổng của tinh thần đang dần dần phải đưa hết
vào trong một cái rọ.
Rõ ràng "đoạn đời 15 năm" và
"núi đồi Trung Việt Nam Ngãi Bình Phú" là lối nói thậm xưng để thành
một loại mật ngôn, nhằm chuyển tải một tâm sự. Ngay cả việc chăn dê cũng chỉ là
một cái cớ. Thời gian, không gian, công việc ấy chỉ là các khái niệm tượng
trưng, nhờ đó gợi lên những tình ý mông lung hơn về một thời điểm, một nơi chốn
và một tình trạng. Nội dung bài thơ chỉ thuần túy nói về việc chăn dê và cái
tình của tác giả đối với bầy dê, với hình ảnh, ý tứ và ngôn từ đẹp, nên thơ, độc
đáọ Duy chỉ tựa đề bài thơ và nhất là câu đề từ hơi lạ, khiến người đọc suy nghĩ,
và tìm cách đưa ra một giải thích. Nhưng đó là một mấu chốt không thể không giải
của bài thơ Nỗi Lòng Tô Vũ.
----------------------------------------------------------------------------------
ANH GIÁNG
BÙI VĂN NAM SƠN
Anh Giáng là sao Văn Khúc "hạ
giáng" vào cửa họ Bùi ta chăng? Là một Thi Quỷ hay Thi Tiên có một không
hai trong nền văn Dân tộc? Là một bậc La Hán tự phát nguyện trở thành xác thịt
để khóc cười an ủi chúng sinh? Khen hay chê, thích hay không, Anh vẫn thuộc vào
loại thiên tài không định nghĩa được (génie indéfinissable) làm bằng một thứ
nguyên liệu rất hiếm, là một giống chim lạ rất dễ tuyệt chủng mà Trời Đất --
không nỡ làm đứt mạch văn, làm cạn nòi tình -- lâu lâu lại cho phục sinh một lần.
Thứ nguyên liệu ấy rất nhẹ đồng cân nên ít bám bụi, lung linh sương bóng ( hốt
hề hoảng hề ), khó nắm bắt mà lại cũng rất kềnh càng "quá cỡ thợ mộc,"
nếu ta không chịu khó gắng sức lên một tí thì không đo lường được:
Hỏi tên, rằng biển xanh dâu
Hỏi quê, rằng mộng ban đầu đã xa;
Gọi tên, rằng một hai ba...
Đếm là diệu tưởng, đo là nghi tâm!
(Trích từ bài "Vài nét về Bùi
Giáng")
BÊN LINH CỬU THI SĨ BÙI GIÁNG
Hai ngày 8 và 9 tháng Mười 1998, đông đảo
văn nghệ sĩ, các nhà hoạt động văn hóa, bạn hữu và những người mến mộ đã đến viếng
linh cữu thi sĩ Bùi Giáng quàn tại Nhà tang lễ chùa Vĩnh Nghiêm ở Sài
Gòn.
Liễn thờ thi sĩ do Bùi tộc Vĩnh Trinh và
gia đình soạn, ghi: LÔ HỎA THUẦN THANH (Lửa lò xanh biếc), với câu:
Tái tửu thân du Hoan Hỷ địa
Thao bút thi thành Phương Ngoại
thiên
(Quảy rượu thân chơi miền Hoan Hỷ
Múa bút thành thơ chốn Ngoại
Thiên)
Bên linh cữu treo hai câu của các môn đệ
khóc:
Mưa gió ngàn thu rớt hột về thăm dăm gái
núi
Lá hoa mấy độ bãi cồn vương vấn trận mưa
nguồn
Nhà thơ Tường Linh, người đồng hương, đã
viết vào sổ tang:
Bùi huynh! Trung Phước đợi anh về
Đồi cũ mong người thuở giữ dê
Đến thời tụng kinh trưa ngày 9/10, người
ta thấy có mặt nghệ sĩ Kim Cương, người mà trung niên thi sĩ Bùi Giáng chép tặng
bài Sầu ca sĩ trong cuốn Đường đi trong rừng, và thường xuyên nhắc lại với hai
tiếng "mẫu thân." Bên thềm chùa, gợi hỏi:
* Thưa, trong những "ngày tháng
ngao du" thi sĩ Bùi Giáng có gặp chị năm nàỏ
Kim Cương: Trong một đám cưới của người
bạn cách đây hơn 40 năm.
* Từ đó đến nay, qua gặp gỡ, chị có thể
vui lòng cho biết vài cảm nhận về dịch giả Cõi Người Tả
Kim Cương: Tôi may mắn được thi sĩ Bùi
Giáng nhắc đến trong thơ và ngoài đường lang thang. Một khuya đã lâu lắm rồi,
chừng hơn 25 năm trước, anh đập cửa nhà tôi và hét: "Mẫu thân, mở cửa!"
Tôi hỏi anh Giáng ở đâu về mà bơ phờ vậỵ Anh bảo ở nhà thương Biên Hòa, khi
không có một Bồ Tát hiện tới bảo anh phải về Sài Gòn gấp để nhờ "mẫu
thân" Kim Cương bảo lãnh mới "an toàn hiện sinh sinh hiện." Tôi
nói không dám nhận mấy tiếng "mẫu thân." Về sau anh quát: "Đồ
phàm phu tục tử như ái khanh một triệu năm sau chưa hiểu thấu tình yêu của trẫm!"
Tôi chỉ cười và kính anh là tài hoa muôn một.
Ngày khác, anh Giáng đến mặc bộ đồ nhiều
màu, vai deo lủng lẳng mấy lon sữa bò rỗng. Con tôi thấy vậy thiệt thà nói:
"Trông bác Giáng cứ như một chiếc xe hoa dzậỵ" Tôi bảo không phải dzậy:
"Bác Giáng là nhân tài đất nước, không lấy bề ngoài mà nói lung tung được."
Cách đây bốn, năm tháng tôi có mua mấy bộ đồ đem đến nhà anh ở Gò Vấp. Rất cảm
động, trong các đồ liệm theo anh có bộ đồ của tôi...
Thử phác họa đôi nét về cõi thơ Bùi Giáng
Một ngôi văn tinh kỳ, lạ lùng, quái đản
vừa rụng trên bầu trời văn học. Chỉ cần nói như vậy thì có lẽ bất cứ ai cũng biết
ngay là thi sĩ Bùi Giáng vừa qua đời.
Trong vòng nửa thế kỷ vừa qua, chưa có một
nhà thơ nào tạo được một bóng dáng lồng lộng trên vòm trời thơ như Bùi Giáng.
Ông làm thơ, viết văn, bình luận về văn học, triết học, chuyển dịch nhiều tác
phẩm văn chương của thế giới sang Việt ngữ. Tất cả đều theo một thể điệu riêng
biệt của ông. Văn nghiệp của Bùi Giáng vô cùng đồ sộ. Nội chuyện làm một bảng
thư mục Bùi Giáng cũng đòi hỏi chúng ta mất nhiều thì giờ và công phu lắm, chứ
chưa nói đến vấn đề gì khác.
Bùi Giáng có một sức đọc và viết vô cùng
kinh khủng. Viết liên tu bất tận, ngưng viết thì đọc, ngưng đọc thì viết. Đọc
sách Tây, sách Tàu, Đức ngữ, Anh ngữ, Pháp ngữ. Cái lạ lùng vô cùng quí báu mà
Bùi Giáng mang lại cho chúng ta chính là sự uyên bác, tài hoa, thâm trầm, bí ẩn
của ông, tất cả đều nhào biến một cách vô cùng tự nhiên rồi hiện ra trong một vẻ
giản dị tài tình của một tâm hồn và ngôn ngữ Việt. Trước bế tắc tư tưởng của
phương Tây cùng sự tràn lan của chủ nghĩa hư vô, ông đã trở về với ngọn nguồn
phương đông nhất thể, trở lại với cái hài hoà của đạo tự nhiên, đạo vũ trụ, mộc
mạc, sơ nguyên, ẩn mật nơi tư tưởng Trang, Lão, Thiền, để nối kết những phân ly
nứt rạn càng lúc càng vô cùng trầm trọng. Ông gom hết mọi chuyện lại rồi đưa đẩy
tuôn trào thành một chuyển động tư tưởng bát ngát, một dòng thơ yêu kiều, thâm
thuý.
Tư tưởng và chất thơ cổ kim đông tây
tuôn chảy qua tâm hồn Bùi Giáng, biểu hiện thành một dòng thơ độc đáo và tuyệt
vời nhất mực. Tinh thể thi ca di động qua một vài đỉnh núi chon von cô độc như
Nguyễn Du, Holderlin Heidegger, Nietzche, càng bát ngát hơn khi chuyển động qua
hồn thơ mênh mông của Bùi Giáng. Mỗi chữ, mỗi lời, từng câu từng tiếng đều là
thơ. Lời nói thiệt với tinh thể của ngôn ngữ là thơ, mà lời nói dỡn chơi duới
chiếc áo dùng dằng của ngôn ngữ cũng là thơ. Đi, đứng, nằm, ngồi, cười khóc,
vui đùa đều là thơ. Lúc không điên là thơ, mà lúc điên vẫn cứ là thơ. Đi cho tới
cùng cái sâu thẳm nhất của ngôn ngữ, tới đỉnh cao chót vót của nó, sống với nó
trong từng mỗi giây phút, trong từng mỗi sát na, xưa nay có lẽ mới chỉ mới có
Bùi Giáng là một.
Từ Nguyễn Du đến Bùi Giáng, đường bay của
thơ thực là kỳ diệu, mênh mông, vô lượng. Ông là chiếc bóng của Nguyễn Du, hay
chính ông đã đẩy Nguyễn Du đến tận cùng thể tính của thi ca, làm lồng lộng, chất
ngất một hồn thơ nước Việt.
Sống với thơ, giỡn chơi với ngôn ngữ để
tạo nên thơ. Chữ nghĩa của Bùi Giáng lúc nào cũng có một điều gì đó rất dị thường.
Ông chỉ cần sắp đặt những đề tựa từ mục lục một tập thơ của một tác giả khác
thì đã mang lại cho chúng ta một bài thơ tuyệt đẹp. Nhưng sắp đặt và xô đẩy chữ
nghĩa phải là theo cách của ông, chớ không thể của người nào khác được. Hay ông
ngắt câu, ngắt đoạn từ một bài thơ lục bát của một người làm thơ khác, biến đổi
hình thức thành một bài thơ tự do, tức thời bài thơ ấy sẽ trở nên vô cùng kỳ dị
và đẹp đẽ lạ lùng. Rất nhiều người làm thơ đã biến đổi thể thơ lục bát 6/8
thành 3/3/2/6, 4/2/6/2, hay 2/4/8, hay 6/4/4, hay còn biến đổi nhiều hơn nữa
thành 1/2/3/2/2/2/2 thì có lẽ là đều bắt nguồn từ cách giỡn chơi của Bùi
Giáng.
Cuộc đời Bùi Giáng và thơ của ông, ngay
từ bước khởi đầu dường như đã có nhiều điều bất thường :
Lỡ từ lạc bước chân ra
Chết từ sơ ngộ màu hoa cuối cùng
Gần đây, thân nhân Bùi Giáng xuất bản tập
thơ "Chớp Biển", kỷ niệm Bùi Giáng vừa đúng 70 tuổi, giúp cho chúng
ta nhiều dữ kiện để hiểu biết ông hơn. Hiểu một tác giả qua cuộc đời và hoàn cảnh
sống của tác giả ấy như phương pháp phê bình của Saint Beuve vẫn còn là một
trong những cách thẩm thấu với văn chương rất thông tình đạt lý. Bà Bùi Giáng
qua đời cách đây hơn nửa thế kỷ, cảnh ly tan đó đã xô đẩy Bùi Giáng đến những đổ
vỡ cùng cực. Bóng dáng người nữ ám ảnh ông suốt đời, để rồi từ đó ông sẽ nghiệm
ra được một cách vô cùng sâu thẳm về tính nữ, về nguyên lý mẹ. Nói như Nguyễn
Xuân Hoàng, ai cũng cần một bà mẹ. Bà mẹ đó cũng thể hiện ra trong một bóng
dáng khác là người chị, cô em gái nhỏ hay chính là đứa con gái của mình. Tất cả
cái thiêng liêng và tục luỵ của mẫu người nữ đã biến hiện chập chùng qua hình ảnh
người vợ, để rồi chuyển động nhiều hơn mà trở thành bà mẹ uyên nguyên của đất
trời.
Nhiều lúc ông kể lể nghiêm trang, đạo mạo,
có lúc lại đùa giỡn, cười cợt với hình bóng các mẫu thân, tuy vẫn có pha đôi
chút ngậm ngùi :
Mẹ về trong cõi người ta
Một hôm mẹ gọi con ra bảo rằng
Trần gian vui sướng lắm chăng ?
Hay là đau khổ hỡi thằng chiêm bao.
Giữa những vần thơ điên của ông, đôi lúc
chúng ta sẽ tìm thấy những câu thơ vô cùng kỳ diệu nói về bà mẹ thiêng liêng ấy,
tất cả đều như rạo rực, sinh sôi, triển nở.
Một hôm nào em mở cửa đầu khe
Và bữa đó đến bây giờ cỏ rạ
Thi nhau mọc mặt trời lên lả tả
Bông lúa chín trong rừng kêu tiếng
lá
Chóc chim xanh đòi đẻ trứng bây giờ.
Nhắc đến các hình ảnh mẫu thân của Bùi
Giáng, tôi cũng muốn nhân đây chép thêm mấy câu thơ rất đẹp của ông về cô em
gái nhỏ, mà đọc lên hẳn rằng chúng ta dễ liên tưởng ít nhiều đến người vợ cũ
năm xưa đã chia lìa với ông quá sớm, khi họ vừa mới cùng nhau bước chân vào đời.
Dĩ nhiên, cô em gái nhỏ ấy cũng có thể là một trong những người nữ Bùi Giáng tiếp
tục gặp về sau :
Em là em anh đợi khắp nẻo đường
Em có nụ cười buồn buồn mây mọng
Em có làn mi khép lá cây rung
Em có đôi mắt như sầu xanh soi
bóng
Hồ gương ơi ! sao sóng lục vô chừng
!
(. . . )
Em ở lại với đời ta em nhé
Em đừng đi cho ta nắm tay em
Ta muốn nói bằng thơ bay nhẹ nhẹ
Vào trong mơ em mộng giấc êm đềm
Ta sẽ đặt mười ngón tay lên mắt
Để nhìn em qua khe hở du dương
Vòng theo máu hai vòng tay khép chặt
ồ thưa em ta thấy mộng không thường .
Cái tang bà Bùi Giáng đóng đinh suốt đời
ông. Rồi cùng lúc, ông gặp nhiều điều bất ưng ý giữa một thời đại mà bạo lực là
phương tiện hàng đầu của con người.
Thời kháng chiến, ông đi chăn bò giữa những
đồi sim ở một vùng rừng núi nào đó giữa miền Trung đất nước, để tự thấy mình là
một thứ Tô Vũ của thời đại. Ông kết những vòng hoa dại đeo vào cổ bò, cổ dê, và
đùa giỡn suốt ngày với đàn thú hiền từ. Cho mình là Tô Vũ, có lẽ đó cũng là một
cách Bùi Giáng nói cho chúng ta biết ông là người bị lưu đày ngay chính nơi quê
nhà của mình chứ không cần biệt xứ nơi đâu. Sau này, thỉnh thoảng ông cũng nhẹ
nhàng vẽ lại cho chúng ta thấy đôi chút cảnh quan rùng rợn, tang thương của những
ngày ấy :
Hãi hùng bi kịch đồi tranh
Trùng quan vó ngựa tế nhanh trong
mù
Thây người ở nát phía sau
Nghìn thu khép mắt khổ đau khôn hàn .
Rồi hòa bình được lập lại, nhưng Bùi
Giáng không còn thể nào trở lại sống cuộc đời bình thường như chúng ta nữa. Những
chấn động dữ dội của thời tuổi trẻ đã góp phần dồn đẩy ông tới bờ vực chon von.
Định mệnh đã chọn ông là một thiên tài điên của của dân tộc, đẩy ông bước chân
theo Nguyễn Du, để ông kết bạn với Gérard de Nerval, Saint Exupéry, Khuất
Nguyên, Tô Đông Pha, Apollinaire, André Gide, Camus, René Char, để đôi khi
nghiêm trang đàm đạo với Khổng Tử, Heraclite, Parménide để sống cuộc đời quỉ khốc
thần sầu của một cuồng sĩ ngoài chợ, và tuyệt vời nhất vẫn là viết để lại cho đất
nước những dòng thơ kỳ diệu độc nhất vô nhị.
Cuộc đời Bùi Giáng và thơ Bùi Giáng chỉ
còn chập chùng lên nhau giữa những giấc chiêm bao, phù du, mộng mị. Ông sống ở
đời lúc tỉnh lúc điên : lúc tỉnh đã là chiêm bao nhưng lúc điên thì càng là
chiêm bao quá cỡ. Trước năm 75, thỉnh thoảng ông mới lên cơn điên nhưng sau năm
75 cơn điên kéo dài lâu quá. Bà Irina, một phụ nữ Nga có nhiều liên hệ thân thiết
với Việt Nam, khi gặp Bùi Giáng đã lặng lẽ tuôn chảy những dòng lệ nóng hổi cho
một thiên tài mà bà nhìn thấy như hình bóng một Diogène thời đại, cầm cây đuốc
đi giữa ban ngày để tìm chân lý. Chân lý đã bị khuất lấp cả hai mươi thế kỷ rồi,
chứ phải đâu chỉ là những ngày trước mắt. Vậy nên, nơi chiếc bàn viết lữ thứ,
khi cầm bút viết lại để sống đời của một nhà văn lưu vong, Mai Thảo nhắc đến
Bùi Giáng, phác thảo đôi nét về Bùi Giáng rất hay, sống động và tài tình, nhưng
tôi cho là Mai Thảo rất nhầm lẫn khi qui tội điên của Bùi Giáng cho những
nguyên nhân thời đại :
Và ở Sài Gòn vẫn còn Bùi Giáng
Tối tối về chùa đêm làm thơ
Ngày ca múa khóc cười giữa chợ
Kẻ sĩ điên thế kỷ mù rồi .
(Mai Thảo, Viết văn trở lại)
Hãy thử đọc lại vài câu thơ sau của Bùi
Giáng tự nói về mình. Ông gần như luôn sống giữa một lớp sương mù dày đặc của
những giấc mộng chồng chất. Ông sống như một ông đạo, như một trích tiên, như
ma quỉ hay như một đứa trẻ hồn nhiên, ngây thơ đến cùng cực :
Đi về với gió phù du
Mở trang mộng mị cho mù sa bay .
Quê nhà chỉ còn là giấc mộng đã qua,
thân thế cũng chỉ là một nỗi đời hư huyễn :
Hỏi tên, rằng biển xanh dâu
Hỏi quê, rằng mộng ban đầu đã xa
Gọi tên, rằng một hai ba
Đếm là diệu tưởng, đo là nghi tâm !
Ông đã tự hỏi và rồi tự đáp về tên tuổi
và quê hương thực của mình :
Hỏi tên ? - Cổ lục phong trần
Hỏi quê ? - Mộng tưởng tiền trình bơ vơ
Ông luôn lập đi lập lại ý tưởng ấy khi
có dịp :
Hỗn mang về giữa hiên nhà
Bây giờ cố quận tên là chiêm bao
Cái thế giới chiêm bao mộng mị ấy, có
lúc ông chợp bắt được thành những câu thơ rất đẹp :
Ta đã gọi chiêm bao về mộng mị
Chắp ân tình cho nghĩa rộng tinh
sương
Về tuế nguyệt bước ngao du tận mỵ
Người có nghe tang hải réo vô thường
?
Sống và mơ mộng giữa thế giới đó, ông
vác cần câu đi câu con cá hư vô ngoài biển đông :
Tôi làm Nam Hải Điếu đồ
Ngồi câu con cá hư vô giữa trời
Ông yêu mến, quí trọng từng đốm nhỏ li
ti của trời đất và sự sống, từng cây cỏ dại, từng cánh bướm, cánh chuồn chuồn
:
Xin yêu mãi và yêu nhau mãi mãi
Trần gian ôi ! Cánh bướm cánh chuồn chuồn
Con kiến bé cùng hoa hoang cỏ dại
Con vi trùng cùng sâu bọ cũng yêu luôn.
Khi tỉnh táo mà viết được Tôi nói điệu
điên rồ / ấy là vui vậy thì quả là ông đã thoát ra khỏi mọi phiền trược của cuộc
đời, chẳng còn câu chấp gì cả, ông sống hoan hỉ như một đứa trẻ với một nguồn
thơ tinh khôi, hồn nhiên, đầy hoan lạc.
Đọc thơ Bùi Giáng để cảm cái tình và cái
ý của nó, để sống cái thâm diệu của tư tưởng đã hé mở và như luôn hứa hẹn một
cõi mênh mông bát ngát dị thường sau đó. Đọc thơ ông cũng là để thưởng thức chữ
dùng cực kỳ tài tình của ông. Có những chữ rất thông tục, tầm thường, nhiều khi
chúng ta không muốn sử dụng vì không được nhã, nghe hơi nặng tai. Vậy mà khi những
chữ ấy rớt vào tay họ Bùi, không cần tỉa gọt trau chuốt gì cả, chỉ xô đẩy tự
nhiên như hít vào thở ra, thì nó sẽ trở thành thơ. Hãy đọc thử bốn câu thơ sau,
chúng ta sẽ thấy ngay cái tài hoa lạ lùng của Bùi Giáng khi biến đổi một chữ tầm
thường thành chữ của thơ như thế nào. Ông phả vào chữ cái tài hoa ẩn mật của hồn
thơ để mang lại cho nó một sức mạnh vô cùng kỳ bí :
Người con gái lội qua khe
Bàn chân với nước lạnh đè lên nhau
Nỗi niềm tưởng lại xưa sau
Bàn chân với nước cùng nhau lại đè .
Chữ khe, rồi lại chữ đè thực là đắc địa.
Dùng chữ đến như vậy thì không còn là viết văn, làm thơ nữa, mà là thợ trời của
chữ. Ngay khi ông lên cơn điên, nhưng chưa điên quá độ, mà mới chỉ trôi nổi giữa
những cơn điên nhẹ, ông cũng mang lại cho chúng ta những câu vần vè quàng xiên
rất vui vẻ. Nhớ lại những ngày đi chăn bò chăn dê giữa núi rừng, thời trai trẻ
rồi liên kết với việc làm thơ và một số hình ảnh khác, tức thời những hình ảnh
và các con chữ sẽ xô đẩy nhau. Ông viết mấy dòng sau, như một bức tranh của trẻ
con vẽ, không đầu không đũa, không luật tắc, thấy và thích gì thì cứ quẹt bừa,
cứ bôi bác bừa những vệt màu đường nét, vậy mà sẽ mang lại cho người xem nhiều
điều lý thú :
Làm thơ như thể chăn trâu
Chăn bò, chăn ngựa ngõ hầu chăn dê
Chăn hùm thiêng mệt chán chê,
Chăn beo, chăn gấu, nghiệp nghề chăn
voi.
Đi vào cõi thơ Bùi Giáng, bên những cơn
điên dài của ông, giữa những cơn chiêm bao mộng mị, đôi lúc thấy ông điên vậy
mà nhìn kỹ lại thì ông chẳng điên chút nào. Vậy nên, có nhiều người cho là Bùi
Giáng không điên, như Viên Linh cho rằng ông chỉ chọn một thái độ sống như vậy
mà thôi. Trước thế giới Bùi Giáng, chúng ta như đứng nơi một ngã ba đường, hay
giữa những lối mòn trong rừng thẳm mà cần phải chọn một hướng đi, mỗi người phải
tự định hướng cho riêng mình.
Riêng tôi, lúc nào tôi cũng thấy Bùi
Giáng là một thiên tài điên. Điên nhưng rất hiền hoà, rất thơ mộng, điên như
thánh. Giữa những cơn điên kéo dài lâu quá, ông như không còn phân biệt cái thực
và hư. Có một bữa, ông đòi tôi chở về một căn nhà nào đó bên miệt Phú Nhuận để
ông cho vịt ăn, vì nhiều ngày quá rồi ông chưa trở về chắc là vịt đói lắm. Trên
căn gác tôi đưa ông về, ông rào một chuồng vịt khoảng mấy thước vuông ông ném gạo
cho vịt ăn, nói nói cười cười rất hoan hỉ, nhưng đàn vịt ấy chỉ toàn là một bầy
vịt bông nhựa. Trước năm 75, tôi gặp ông rất thường vì mỗi buổi chiều rảnh rỗi
tôi thường ghé Đại học Vạn Hạnh viếng thăm thầy Tuệ sĩ rồi cũng tạt qua thăm
ông. Lúc nào cũng thấy ông làm việc, nằm ở một góc nhà, chung quanh đầy sách vở,
đọc đọc chép chép không ngừng nghỉ. Ngoài những cơn cuồng, Bùi Giáng rất lặng lẽ,
ghét chuyện thị phi, tranh chấp ô trọc. Tôi còn nhớ khoảng năm 1971, tuần báo
Tìm Hiểu của cô Phan Lâm Hương (con gái út cụ Phan Huy Quát) có thực hiện một
cuộc nói chuyện với Bùi Giáng rất hay và nghiêm trang, có thể giúp cho người đọc
chia sẻ được nhiều điều với Bùi Giáng. Nhưng sau đó thì có vấn đề, vì bài báo ấy
mà một thi sĩ khác, cũng là loại cô phong đỉnh của vòm thơ Việt Nam hiện đại,
gây hấn với Bùi Giáng quá cỡ. Bùi Giáng sau đó rất sợ mấy nhà báo. Ông than phiền
hoài, cho rằng mấy ông làm báo đã kéo Bùi Giáng vào việc thị phi ở đời, từ đó
ông không còn muốn gặp mấy người ký giả, viết báo thường thích gây chuyện chộn
rộn ở đời.
Bùi Giáng tránh né chuyện thị phi, và
ông rất ghét bạo lực, bạo động, bạo quyền. Hơn 25 năm trước, tôi thấy ông nuôi
một đàn chó nhỏ, đi đâu cũng dẫn theo làm chúng sủa vang các hẻm đường, có lúc
ông cho hết vào bao bố và vác trên vai làm chúng cũng muốn ngất ngư, ngộp thở,
chỉ còn kêu hục hục trong bao. Có lần ông để quên đàn chó ở nhà bà Bé Ký cả tuần
lễ làm Bé Ký phải nuôi ăn và chăm sóc rất mệt, hở tay ra là chúng sủa vang nhà
không ai chịu nổi. Đàn chó này, mỗi con đều có tên, và tôi rất kinh hoàng thấy
ông gọi con chó xấu xí, nhếch nhác nhất trong đám bông tên nhân vật số một của
lịch sử hiện đại. Và sau năm 75, chẳng lạ gì khi mà cứ những chỗ đông người, chợ
búa xô bồ, cuồng sĩ họ Bùi thường đứng diễn thuyết, hùng hồn kể tội cụ Hồ Chí
Minh và dàn cầm quyền chóp đỉnh hiện nay.
Tôi cũng còn nhớ, có lần nói chuyện với
ông, tôi mới chỉ lỡ lời nhắc đến các nhà nho cách mạng đất Quảng, hai cụ Phan
Tây Hồ, Huỳnh Thúc Kháng, thì ông tức giận rồi lên cơn điên ngay, chộp lấy cổ
áo tôi, gần như muốn xô tôi xuống từ lầu ba trường Vạn Hạnh.
Qua mấy chuyện nhỏ này, tôi cảm thấy rằng,
Bùi Giáng chỉ muốn sống với mọi người trong một thế giới hài hoà, an lạc. Đua
tranh rồi bạo động chỉ là mầm mống của phân ly, mất quân bình và rối loạn. Ông
yêu thích cuộc sống lặng lẽ tự nhiên, như một đôi lần tôi thấy ông len lén chào
mấy người đệ tử của ông Đạo Dừa với một vẻ hỉ hoan bất tận bộc lộ ra trên khuôn
mặt. Ông chào rất kính cẩn mấy ông đạo này, những người đã tự phát nguyện tịnh
khẩu vài ba năm, có người quyết tịnh khẩu cho đến khi nào hoà bình được lập lại
mới sẽ mở miệng, cất tiếng với đời.
Bên trên là vài giai thoại về Bùi Giáng
bởi vì đề cập dến Bùi Giáng mà không nhắc qua các giai thoại dính dáng đến ông
thì quả là thiếu sót. Mới đây, trên Việt Báo Kinh Tế số ra ngày 17 tháng 10 năm
1998, ông La Toàn Vinh, cựu sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định nhắc lại vài
hình ảnh Bùi Giáng mà ông bắt gặp ở Sài Gòn trước đây, đọc rất vui. Đọc đến chỗ
khi Xuân Diệu diễn thuyết trong khuôn viên Trường Mỹ Thuật, ông đi tới đi lui
ngoài cổng trường và chửi đổng : " Mẹ mày Xuân Diệu... Mẹ mày Xuân Diệu...
", tôi phải cười phì và nhớ ngay đến dáng đi, điệu nói, tiếng cười của
ông.
Có thể không cần đọc Bùi Giáng, mà chỉ cần
nghe những giai thoại về ông thì cũng đủ để sống được chất thơ và đời thơ của
Bùi Giáng. Những giai thoại như thế, nếu cất công đi ghi chép lại nơi bạn hữu,
thân nhân của Bùi Giáng và trên khắp đường phố Sài Gòn thì có lẽ chúng ta sẽ có
cả một quyển sách dày như tự điển, góp phần phong phú đời sống văn học đất nước
trước mắt và cho cả mai sau.
Chúng ta vừa đi qua một vài nơi giữa khu
vườn bát ngát mênh mông của cõi thơ Bùi Giáng. Khi viết bài này, tôi rất tiếc
là không có trong tay tài liệu gì về Bùi Giáng, chỉ đành nhặt nhạnh mấy câu thơ
nơi các bài báo gần đây, tuy nhiên cũng hi vọng là đã vẽ phác được đôi nét về
ông, làm sống lại đôi chút hình ảnh một thiên tài của dân tộc.
Bùi Giáng là thiên tài nhưng là một nhà
thơ điên, vì vậy ông viết quàng xiên nhiều quá. Nhưng cũng chẳng hề gì, mấy
ngàn trang sách của ông chỉ cần lọc lại thành một tập thơ nhỏ, rồi với tập thơ ấy
chỉ cần tinh lọc thêm một lần nữa để chỉ còn lại chừng mươi bài, thì với mươi
bài thơ ấy ông cũng đã là một nhà thơ lớn bậc nhất của thời hiện đại, một vì
sao lấp lánh rạng rỡ hoài trên vòm trời thơ của dân tộc Việt.
Huỳnh Hữu Uỷ
( Viết xong ở gác nhỏ đường Hồ TâyThành
phố Vườn, ngày 19.10.1998 )
oOo
Tái bút : Bài viết trên đây đã gửi đi để
kịp chuẩn bị sắp chữ và lên khuôn thì tình cờ tôi vừa tìm lại được tờ Tạp chí
Thơ số ra mắt vào mùa Xuân 1994 có in một bài viết rất hay của Thanh Tâm Tuyền
về Bùi Giáng cùng với hai bài thơ của Bùi Giáng. Tôi chẳng thể nào không viết
thêm mấy dòng tái bút này, dù biết có làm phiền hà toà soạn trong việc sắp xếp
lại trang báo trước khi đưa đi in, để trích lại ở đây một đoạn văn của Bùi
Giáng mà Thanh Tâm Tuyền đã trích dẫn cùng một bài thơ của Bùi Giáng mà Tạp chí
Thơ đã chọn để in lại.
Đây là bài thơ Bao giờ của Bùi Giáng
:
Bằng bút chì đen
tôi chép bài thơ
trên tường vôi trắng
Bằng bút chì trắng
tôi chép bài thơ
trên lá lục hồng
Bằng cục than hồng
tôi đốt bài thơ
từng giờ từng phút
Tôi cười tôi khóc bâng quơ
Người nghe người khóc có ngờ chi
không.
Quả là một bài thơ tuyệt đẹp với những
hình ảnh tự động xô đẩy đuổi bắt nhau. Những hình ảnh chuyển động trên một đường
biên của hữu thức và vô thức. ảnh tượng và sắc màu rất cụ thể mà rõ ràng là vô
thực và đầy mộng mị. Tất cả là để dẫn đến một dấu hỏi về cuộc đời và ý nghĩa
nhân sinh, đầy khúc mắc mà nhẹ nhàng, tế nhị, và vô cùng bao dung. Có thể nói
đó là một bài thơ siêu thực hiện đại mà vẫn chứa chất một cái hồn cổ kính thơ mộng.
Và đây là mấy ý kiến về thơ của Bùi
Giáng mà Thanh Tâm Tuyền đã dẫn :
"Thơ là một cái gì không thể bàn tới,
không thể dịch, diễn thì được. Người ta có thể diễn tả một trận mưa rào bằng lời
thơ. Thì có lẽ muốn diễn tả một bài thơ, người ta chỉ có thể phát động một trận
mưa rào, hoặc một cơn gió thu. Mà muốn thực hiện sự đó, thì ngoài việc làm thơ
ra, con người không còn phép gì khác. Thế có nghĩa là muốn bàn tới thơ, diễn dịch
thơ, người ta chỉ có thể làm một bài thơ khác.
Người xưa am hiểu sự đó, nên họ chỉ vịnh
thơ, chứ không điên rồ mà bàn luận về thơ. Người đời nay trái lại, họ buộc phải
luận thơ có mạch lạc luận lý, không được "bốc đồng", vịnh lăng nhăng.
Cái chỗ ngu si đó là điều bất khả tư nghị vậy.
Thơ tôi làm chỉ là một cách dìu ba đào về
chân trời khác. Đi vào giữa trung tâm bão dông một lúc thì lập thời xô ngôn ngữ
thoát ra, phá vòng vây áp bức. Tôi gạ gẫm với châu chấu, chuồn chuồn, đem phó
thác thảm hoạ trần gian cho chuồn chuồn mang trên cánh bay đi. Bay về Tử Trúc
Lâm, bay về Sương Hy Lạp, ghé Calvaire viếng một vong hồn bát ngát, rồi quay về
đồng ruộng làm mục tử chăn trâu.... Trong chiêm bao thơ về lãng đãng thì từ đó
vần bất tuyệt cũng lãng đãng chiêm bao."
Có lẽ chưa từng có ai bàn về thơ với giọng
điệu dị thường như vậy. Ông đã mở ra một cõi mênh mông, thăm thẳm cho thơ, và mời
gọi người ta bước vào. Và tôi hết sức đồng ý cũng như thích thú với mấy lời của
Thanh Tâm Tuyền :
"Đừng có nghĩ, hãy buông mặc theo
ông, như ông đã từng buông mặc trong trận đồ kẻ trước. Ông luôn luôn nhắc nhở
nơi ông là những bóng vang ai khác. và ta hãy là bóng vang của ông".
Xin cảm ơn thi sĩ Thanh Tâm Tuyền, chỉ với
bài viết Bùi Giáng, một hồn thơ bị vây khốn rất ngắn của ông, đã soi sáng cho tôi
nhiều điều về cái sâu thẳm không cùng của nhà thơ Bùi Giáng. Vậy thì, hãy
bước vào cõi thơ Bùi Giáng bằng cách trút bỏ tất cả hệ luỵ, vứt bỏ cả những
phân tích, phê bình, lý luận để mà hít thở và mơ mộng cùng ông, để phiêu bồng
cùng ông qua những chân trời không cùng
Huỳnh Hữu Uỷ .
Bùi Giáng - Những giai thoại tiêu biểu
|
Cung Tích Biền
|
Vừa qua, Trung tâm Văn hóa Đông Tây
ra mắt cuốn sách Bùi Giáng- trong cõi người ta, còn có cuốn Bùi Giáng 99 giai
thoại. Đây là bài viết trong tập giới thiệu sách. Thấy thú vị, xin post
lên cho bạn đọc tham khảo. Cũng để hiểu thêm về một thi nhân, một con
người. VCN
Ðã có rất nhiều giai thoại, huyền thoại
về ông; vô số được thế gian tô bồi sau này, khó minh xác thực hư. Xin lai rai
vài chuyện tiêu biểu.
Chuyện thứ nhất. Xưa kia ở Quảng
Nam, quê chúng tôi, người ta kể rằng khi còn trẻ Bùi Giáng đã có vợ. Vợ sớm qua
đời. Hôm tẩm liệm, ông nhờ người hàng xóm làm thịt 21 con gà. Ông thành
tâm bỏ thịt con gà còn sống vào quan tài tẩm liệm người vợ thân yêu. Họ hàng thấy
quái. Bèn can ngăn. Ông bảo: “Vợ tôi ưa ăn thịt gà, nay có thể lên thiên đường
hoặc xuống địa phủ chi đó, thịt gà đâu ăn”. Câu chuyện trên là hoàn toàn khó
tin. Bịa đặt, phao tin đồn nhảm, gia đình người ta kiện cho. Nhưng cái tuyệt hảo
ở đây là người đời rất đỗi yêu ông, giai thoại trên như phóng họa phần nào những
quái ảnh kỳ tâm nơi một Bùi Giáng lắm điều xem ra bất khả tư nghị.
Bà đi thể điệu bước ra/ Tay khăn tay áo
là hoa thêu thùa/ Bà về cỏ rậm dậu thưa/ Đêm tàn cấm nguyệt chiều trưa lâm tuyền.
Chuyện thứ hai. Vào đầu thập niên sáu
mươi có lúc ông đi dạy Việt văn ở trường trung học tỉnh lỵ. Một hôm giảng Truyện
Kiều, đến chỗ nàng Kiều phải hồng trần lưu lạc, thầy Giáng khóc òa. Khóc vỡ
tan. Nhảy phóc qua cửa sổ lớp học, băng bộ ra bến xe, về Sài Gòn. Học trò nam nữ
ngồi chờ mãi, tưởng thầy đi đâu đó sẽ trở lại. Trên bàn sách vở, bao thuốc lá
hãy còn. Hóa ra thầy “bay” luôn, bỏ lớp bỏ trường, bỏ cả tỉnh lỵ nhiều năm sau.
Hỏi hà cớ. Thầy ngậm ngùi nói mần răng trở lại nơi Em Kiều đã một lần hy sinh
cho cái trò chơi nhân gian kỳ ảo chỗ liên tồn.
Nguyễn Du xưa kia đã một lần than thở “Ðịa
địa xứ xứ giai Mịch La” (Trên mặt đất này đâu đâu cũng là dòng Mịch La) . Bùi
Giáng hôm nay cũng có thể.
Sau này, đọc Mùa Thu Thi Ca, đoạn nói về
Ðoạn trường tân thanh, ta thấy ông viết:
“Nguyễn Du không kinh hoàng nhảy lui.
Cũng không bị tẩu hỏa nhập ma rú lên một tiếng như Zarathustra also sprach. Ông
đạm nhiên làm Nam Hải Ðiếu Ðồ. Kẻ câu cái gì tại Nam Hải?
Ðáp cho câu hỏi ấy, ta mượn một câu thơ
Phùng Khánh:
Con làm Nam Hải Ðiếu Ðồ
Ngồi câu con Cá Hư Vô Tâm Hồn.
Tựu trung mỗi phen sờ mó vào Kiều nhi, vừa
chạm tới những tuyệt diệu từ lãng đãng phù động kia, chớm gặp Xuân đã ngộ phải
Thu, vừa ướm hỏi ra Thu đã vấp phải Ðông Phong Thanh Hạ, vừa tân thanh ngâm bãi
đã trường đoạn thê nhiên, chợt mới hội thương tình đã hốt bách cảm sinh, mới vừa
mơ màng nhìn Hồng Lĩnh vân phong đã giật mình nghe ra Tiền Ðường triều tiêu,
chưa kịp qui ẩn kinh, đã bàng hoàng với phiến oan thanh. Bỏ ra Nam Hải buông
câu chỉ bắt được Hư Vô Con Cá...”
Chuyện thứ ba. 1975. Thời của thu vàng một
loáng hóa rừng phong hoang hồng, xao xác đến muôn trùng số mệnh con người hoa cỏ.
Tôi có dịp lai rai sống với Bùi Trung Niên Thi Sĩ. Thưở ấy đói kinh. Người người
tăng gia, nhà nhà sản xuất. Cuốc đào cả lề đường hè phố, vườn biệt thự, trồng
luống khoai hàng sắn. Cày xới nát bộ não vì cái ăn, cái Ði - Ở. Tâm linh màu
chì. Một hôm chúng tôi đang đi long nhong gần nhà thờ Ba Chuông kiếm vài chung
quốc lủi, Bùi Giáng bỗng nói: nè cha, ta về nhà chút đã. Tôi hỏi về mần chi.
Ông bảo cho heo gà ăn chớ không tụi nó chết. Hóa ra thi sĩ cũng tăng gia sản xuất.
Về nhà - trong hẻm, gần cửa xe lửa số 6 - đã thấy ngay trước hàng hiên có mấy
con... heo đất, mấy con vịt nhựa - loại được khoét một đường rãnh trên lưng, để
bỏ tiền tiết kiệm. Chúng được đặt trong rọ, hoặc úp bằng những cái rổ đàng
hoàng, như heo gà thật. Bên con heo đất hãy còn mấy cọng rau tươi, nơi gà vịt
nhựa có dăm hạt gạo vung vãi. Một người bà con nói nhỏ với tôi: “Phải chăm sóc
cẩn thận, ảnh về thấy heo gà không có thức ăn ảnh khóc”.
Trên đây, ba giai thoại tiêu biểu về mỗi
Bùi Giáng.
Giai đoạn đầu, thuở liệm vợ bằng thịt gà
sống đã phôi pha hoang đường, định mệnh chỉ ra ông sẽ là một hiện tượng kỳ vĩ,
khác người. Một cái Ðiên đang hăm he cái Tỉnh. Một Muôn Ðiệu Tài Hoa sẽ vùi
chôn người Bùi Giáng thường tình. Cuộc điêu linh sẽ gạn lọc, phiên dịch, phơi
bày ông ra giữa trận đồ hoang vu nồng cháy của Phố Thị Ðìu Hiu, của Mù Sa Cố Quận.
Sông ơi em bỏ sa mù/ Đi thiêm thiếp cõi quân thù gọi nhau/... Một đời lận đận
đo rồi đếm/ Mỏi gối người đi đứng lại ngồi.
Giai thoại thứ hai nhằm vào thời ông rời
quê nhà - xứ Trung Việt nơi ông đã từng chăn dê; đã lùa bò vào đồi sim trái
chín - để vào Sài Gòn; là khởi nguyên nơi ông mùa tinh hoa tụ hội: Thi tập Mưa
Nguồn chào đời. Xin chào nhau giữa con đường/ Mùa xuân phía trước miên trường
phía sau. Sau đó là những tuyệt phẩm: Lá Hoa Cồn, Ngàn Thu Rớt Hột, Mùa Thu Thi
Ca, Ðường Ði Trong Rừng, Sương Tỳ Hải, Sa Mạc Phát Tiết, Sa Mạc Trường Ca,
Trăng Châu Thổ, Lễ Hội Tháng Ba, Sương Bình Nguyên, Biển Ðông Xe Cát, Lời Cố Quận,
Ngày Tháng Ngao Du v.v... Ông dịch vô số tác giả từ Đông chí Tây, cổ kim; dịch
rất tài hoa thông suốt, như Hoàng Tử Bé, Ngộ Nhận, Khung Cửa Hẹp, Kim Kiếm Ðiêu
Linh, Hòa Âm Ðiền Dã v.v...
Sức điên, sức rong chơi, sức đọc, sức
làm việc của Bùi Giáng là vô cùng tận. Ông là tượng trưng cho sự nhạy cảm, sự
thông minh thoáng đạt, và sự bất định, bay bổng. Ðây là tai họa tự chính ông -
tự đọa đày trực diện. Lúc này ông đã là một hấp lực kỳ vĩ với người đọc. Ðọc
ông là si mê mơ màng, là lơ đãng tìm ra thuốc chữa cho một cần thiết thoát ly,
đối kháng, chối từ, tái thẩm định. Là dìu dặt vào hương vị đắng cay mật ngọt thời
hoang hóa hòn đạn làm nổ trái bom, điêu linh giữa tồn sinh phân hủy, giữa gươm
đao đang thừa mà hụt hao nhân ái. Là chiến đấu thoát vượt cuộc khổn vây công bằng
tự do; một xô bồ rừng rú tư tưởng; một trần gian xanh đen đến tiêu hao, phân ly
chính mình. Bờ Lúa của Bùi Giáng.
Em chết bên bờ lúa
Ðể lại trên đường mòn
Một dấu chân bước của
Một bàn chân bé con
Anh qua miền cao nguyên
Nhìn mây trời bữa nọ
Ðêm cuồng mưa khóc điên
Trăng cuồng khuya cuốn gió
Mười năm sau xuống ruộng
Ðếm lại lúa bờ liền
Máu trong mình mòn rỗng
Xương trong mình rã riêng
Anh đi về đô hội
Ngó phố thị mơ màng
Anh vùi thân trong tội lỗi
Chợt đêm nào gió bờ nọ bay sang.
Giai thoại thứ ba là hiển thị cuộc hí lộng
đã dắt díu thi sĩ chơi với đồ nhựa vô tri. Ký gởi sự sống trên những “con-vật-không-có-sống-không-có-chết”,
là lúc ông xấn tới tột đỉnh đất trời đổ lộn nguyên khê. Ông tỉnh táo trong một
trạng thái đặt biệt của người điên. Ông sắp xếp cái Ðiên theo cách người tỉnh.
Cái điên phần nào giúp ông siêu thoát. Nhưng cũng đặc biệt đọa đày cho ông là
chính ông ý thức về cái điên của mình: Xuống sông xuống biển hãi hùng/ Mà không
thể giết được linh hồn mình/ Trải bao nhiêu trận bất bình/ Cuồng điên tôi tự giết
mình tôi chơi. Là tự hiểu: Tôi từ khởi sự cuồng điên/ Tôi từ uống rượu triền
miên tháng ngày/ Hét la tháng rộng năm dài/ Tình yêu tiêu diệt từ ngoài tử
sinh.
Khoảng đầu thập niên 70 có lần người ta
đưa ông vào nhà thương Biên Hòa chữa cái bệnh đứng ngã ba nhìn ra ngã bảy. Từ
nhà thương điên trở ra, bữa gặp nhau thấy ông rất tỉnh, bèn hỏi một câu thường
tình: “Nhà thương điên Biên Hòa trị cái tẩu hỏa hay hỉ!”. Ông trả lời tỉnh
queo: “Chữa trị quái gì đâu. Chẳng là ở ngoài mình thấy mình điên số một, khi
vô nhà thương điên mới hiểu ra mình là đồ bỏ, điên nhí, điên tiểu thủ công nghiệp;
trong nhà thương điên nhiều cha điên thượng thừa, điên vĩ đại hơn mình nhiều.
Do vậy mà mình tự động thôi điên”.
Có thể Bùi Giáng chẳng điên. Thiên địa
nó tẩu hỏa nhập ma; chính thái cực lưỡng nghi nó lôi ông vào trận địa gây cấn
tà huy. Hãy đọc một đoạn nhỏ trong Mùa Thu Thi Ca, sau khi nhà thơ đứt phèo phổi
được tin Marilyn Monroe đang lộng-lẫy-một-tòa lại tự động chuyển-sang-từ-trần
bên trời Tây:
"Mọi Nhỏ - Tại sao chị tự tử
Monroe - Tại vì chị là người da trắng.
Huống hồ nữa là...
Mọi Nhỏ - Là sao huống nữa?
Monroe - Huống nữa là màu da trắng của
chị còn trắng hơn tất cả màu da của mọi người da trắng khác.
Mọi Nhỏ - Thế nghĩa là màu da trắng của
chị đã đạt quai nhai cảnh giới của lô hỏa thuần thanh thánh thần thiên tiên
liên tồn tố bạch?
Monroe - Nhiên
Mọi Nhỏ - Sao gọi là liên tồn tố bạch?
Monroe - Tố bạch là tách bộ.
Mọi Nhỏ - Còn liên tồn? Cũng đồng nghĩa
với tồn liên chăng?
Monroe - Nhiên”.
Sau, chết rồi mà em Monroe lại gặp tình
cờ em Mọi Nhỏ. Mọi Nhỏ lúc này đã dấn mình một cách nhiệt huyết vào trung tâm
điểm lửa đạn chiến tranh Việt Nam. Monroe ngậm ngùi hỏi:
"Monroe - Chị tự tử đã đành. Sao em
cũng tự tử? Em ở trong rừng mát mẻ, em tự tử làm gì cho phí mất màu da bồ quân
bánh mật của em như thế?
Mọi Nhỏ - Em đâu có tự tử. Chính là thật
ra cái hòn đạn nó tự tử em.
Monroe - Hòn đạn nào như thế?
Mọi Nhỏ - Hòn đạn hoặc trái bom gì đấy.
Nó nổ một trận tam bành. Nó tự tử mất em, đồng thời với cái truông đèo thơ mộng
chiều hôm qua.
Monroe - Sao em không dời đi nơi
nào ẩn trú, lại ở yên một chỗ mà chờ đợi đạn bom mà làm gì như thế?
Mọi Nhỏ - Dời đi nơi khác thì đồng
thời phải dời cái truông đèo đi nơi khác. Em sức mấy mà làm cho xuể sự đó. Kể
ra lúc bấy giờ em cũng định lặn xuống ở dưới đáy nước cái khe kia thì thật là bảo
đảm nhưng không kịp. Cái bom nổ còn chớp nhoáng hơn cái ý định nảy ra trong đầu
óc em.”
Ðâu phải con người không chuẩn bị kịp
cho một trái bom nổ chớp nhoáng. Trong kiếp người chúng ta có những cái vô cùng
không kịp. Ðã vô cùng từ bỏ vườn cũ truông đèo không mang theo, trong hun hút
máu xương. Ðã một phương trời gom nhặt phút sống, mà vắng mất nắm đất bên đàng
chỗ cổng làng khe nước rẫy nương. Bây giờ ta hỏi lại thu/ Khu vườn lá ngọc sao
thu phiêu bồng. Nơi hải giác thiên nhai anh hay tôi, Em Mọi hay Ðêm Nguyệt Cầm
Ca - Ly, đã thức giấc nỗi lòng Nhật mộ hương quan hà xứ thị( Lúc trời chiều đứng
ngắm cảnh tự hỏi đâu là quê nhà – Hoàng Hạc Lâu, Thôi Hiệu) Và đâu phải anh tự
do hân hạnh được quyền có hay không cái tẩu hỏa nhập ma. Trái bom nó - tự - tử
- em kia mà.
Khi 'Trẫm' Bùi Giáng tặng thơ cho các 'Đại
ca'
TP - Cân nhắc mãi,
rồi tôi thấy không thể không viết về con người có nhiều giai thoại này. Bởi cơ
duyên, nhiều câu chuyện về ông tôi được tận mắt chứng kiến, bất ngờ thấy được.
Đặc biệt là chuyện ông tặng thơ cho người đời.
Tôi xin gọi ông theo nhiều danh xưng mà
người đời đặt cho Bùi Giáng: Bùi tiên sinh, Trung niên thi sĩ, Đười ươi thi sĩ.
Còn Bùi Giáng thì ngấm ngầm cà rỡn tự cho mình là Đại Vương nên chỉ yêu những
người đẹp nhất trên trần gian, và ông thường tự xưng là Trẫm.
Nhắc đến thi sĩ Bùi Giáng người ta thường
hay nhớ đến một gã trung niên sặc sỡ màu sắc xanh xanh vàng vàng đỏ đỏ với đôi
mắt sáng quắc sau một đôi kính cận dày cộp.
Khắp Sài Gòn Chợ Lớn người ta thường thấy
thi sĩ thoắt ẩn thoắt hiện như một kiếm khách có thân thủ phi phàm với lối phục
trang quái dị vá chằng vá đụp nhìn như đệ tử của cái bang trong truyện kiếm hiệp
Kim Dung.
Nhưng nếu ai có một chút thẩm mỹ nhứt định
sẽ phải thán phục cho cách chọn màu sắc của thi sĩ vì nhìn kỹ sẽ thấy đây là một
mảng màu hội họa sạch sẽ cực đẹp.
Đây đúng là một kiểu thời trang của Bùi
Giáng từ cái kính cho đến đôi giày rách, cái nón và cái bị, tạo thành một bức
tranh kì lạ. Giống như một đạo sĩ của thời Xuân thu Chiến quốc, cái màu sắc ấy
cũng thay đổi từng ngày khi người ta chợt bắt gặp Bùi đại ca đang múa may quay
cuồng ở chợ Tân Định và chỉ một loáng sau đã thấy thi sĩ đang ngao du ở tận chợ
Bà Chiểu.
Ông đi như mây lang thang như gió, hết
quận nầy đến quận khác, hết quán nầy đến quán kia. Cung cách ăn uống của Bùi
Giáng thì phải nói là đặc biệt, chỉ Bùi Giáng mới có.
Xích lô là phương tiện phổ quát nhất mà
Bùi đại ca thường hay dùng để di chuyển khắp Sài Gòn Chợ Lớn, ngoài việc đi bộ.
Ông có cả một đội xích lô thân quen.
Nhiều anh em
văn nghệ yêu thích ông nên cũng thường hay xin ông cho thơ, việc này không hề
khó, thi sĩ luôn sẵn lòng dâng hiến cho những ai yêu thi ca. Nhưng ông luôn đề
tặng theo ý mình.
|
Nghe mấy anh xích lô này kể, mỗi lần chở
Trung niên thi sĩ là vui nhất trên đời vì ông luôn luôn cho ăn nhậu no say.
Không biết tiền ở đâu ông luôn cho anh em rất hậu, mỗi lần chở “bệ hạ” là có thể
sống được ba bốn ngày.
Nói “bệ hạ” vì Bùi Giáng có một lối xưng
hô rất ư là phiêu bồng cà rỡn hảo hán Lương Sơn Bạc: “Cho Trẫm về Chợ Lớn đi Đại
ca”. Chỉ cần nghe như vậy, đại ca xích lô đã sướng rân lên cười toe và cung
kính hạ càng: “Dạ xin mời Bệ hạ an tọa, Đại ca xin hầu ngài”. Với nụ cười an
nhiên vi tiếu, Bùi đại vương nhảy tót lên xe một cách điệu nghệ, hai thầy trò bắt
đầu cuộc “Sài Gòn Chợ Lớn rong chơi/ Đi lên đi xuống đã đời du côn”.
Đói thì ăn khát thì uống mệt quá thì nghỉ,
gốc cây hè đường công viên ghế đá bất cứ chỗ nào thích là dừng. Nhưng có điều lạ
là “Trẫm” vẫn ngự trên xích lô bất cứ nơi đâu, Đại ca thì tùy thích nhưng làm
ơn đừng cho chiếc xích lô chổng gọng ngã nhào khi Trẫm đang ngự là được rồi.
Trẫm thích lim dim trong cái náo nhiệt ầm
ì giữa Sài Gòn hoa lệ. Nếu có mỏi qúa vì phải ngồi lâu, Trẫm sẽ đột nhiên phóng
cái ào xuống đường chơi một vài điệu luân vũ của đười ươi rớt hột trước những
đôi mắt thảng thốt của con người... Xong rồi, “phóc” lên yên đi thôi Đại ca, hỏi
rằng Trẫm sẽ đi đâu/ Thưa rằng Trẫm sẽ đi lâu chưa về.
Đi đâu bây giờ, Đại ca gióng tiếng hỏi...
Trẫm trả lời: “Đại ca chở Trẫm về quận 3 đi, vào cái quán bia ấy biết không”. Tất
nhiên là phải biết rồi làm sao không. Xe trực chỉ quán 81 (đường Trần Quốc Thảo
– trước đây tôi đã có bài viết về những kỷ niệm văn nhân thi sĩ tại quán này –
TG).
Từ xa, anh em đã thấy xe của Trung Niên
Đười Ươi Thi sĩ xuất hiện cập vào hàng hiên của quán. Vẫn trên xe, thi sĩ quát
vào: “Cho hây [hai] chai Soài goòn”.
Bia được đưa ra kèm theo một đĩa đậu phụ.
Hai thầy trò ngồi ngay trên xe nhậu khề khà. Ông Bùi nhậu không nhiều, chỉ mới
hai ve là mặt đỏ gay mắt sáng rực lên như hai ngọn đèn pha.
Đại ca xích lô muốn uống bao nhiêu thì uống,
nhưng nhớ không được say kềnh ra vì còn phải đưa Trẫm về nữa. Bao nhiêu Trẫm
thanh toán hết lại còn boa lưng tưng đầu mày cuối mắt cho mấy em phục vụ.Và
cũng nhanh như lúc đến hai thầy trò lại ra đi sau một màn nhảy múa ngay trên
sân của quán nhậu.
Chuyện đi xe xích lô của Trung niên thi
sĩ cũng nhiều cái kỳ quái. Như lần ông đi đường vào giờ cao điểm, làm sao để có
thể vượt qua cái đám đông lô nhô lúc nhúc kia đang kẹt cứng sau buổi chiều tan
tầm đây?
Chuyện nhỏ đối với Trung niên thi sĩ,
không biết từ đâu Anh Dzoáng bỗng có một cái tu huýt thổi lên rầm trời cùng với
một chiêu lăng ba vi bộ bay ra giữa ngã tư bắt đầu một cuộc nhảy nhót hoành
tráng tả xung hữu đột như phim.
Bùi thi sĩ biến thành một cảnh sát giao
thông có một không hai trên cái trần gian lộn xộn hỗn mang này. Lạ thay, dòng
xe cộ đang dừng như bị một cái đập ngăn bỗng dưng như được tháo chốt lăn bánh
trôi từ từ theo những động tác điều khiển điệu đàng như một nhạc trưởng của
Trung niên thi sĩ.
Chưa vội chấm hết cho cuộc trình diễn,
thi sĩ tiếp tục múa may theo nhịp điệu tiếng còi thêm một hồi nữa cho đến khi
xe cộ lưu thông theo ý muốn rồi tự dưng ông biến mất. Lát sau, người ta đã thấy
hai thầy trò thong dong ngao du ca hát cùng bạn bè ở Bà la chân Tân Định kia rồi.
Như đã viết, Bùi Giáng có một lối ngồi
ăn uống và cả làm thơ hết sức đặc biệt, nghĩa là chỉ ngồi trên xe xích lô thôi
không bao giờ ngồi trên ghế của bất cứ quán nào.
Ngay cả cách xưng hô “Trẫm và Đại ca”
cũng là một cách tếu táo thâm trầm nhưng vô cùng cà rỡn của Bùi Giáng. Nhiều
anh em văn nghệ yêu thích ông nên cũng thường hay xin ông cho thơ, việc này
không hề khó, thi sĩ luôn sẵn lòng dâng hiến cho những ai yêu thi ca. Nhưng ông
luôn đề tặng theo ý mình.
Vậy nên mới có chuyện một anh chàng làm
thơ nọ được Bùi thi sĩ tặng thơ có lời đề tặng như sau: “Bài thơ này Trẫm tặng
cho Đại ca QYZ, kí tên Trẫm, Bùi Giáng”.
Sướng quá, anh này bèn đem khoe với mọi
người và toáng lên rằng: “Được Bùi Giáng nể lắm nên mới gọi là Đại ca”.
Nhưng khi nghe một đàn anh phân tích,
anh này mới tá hỏa vì hiểu ra Trung niên thi sĩ đang cà rỡn la cà chữ nghĩa với
mình, nhưng có hề chi chỉ vui vui vì cái kiểu cà rỡn ta bà của thi sĩ.
Không chỉ một mình anh này mà nhiều người
khi được Bùi Giáng tặng thơ cũng đều có chung một lời đề tặng như thế không sai
một chút nào.
Có một giai thoại do Bùi Chí Vinh kể rằng,
anh cũng được Bùi Giáng nâng một cái... chổi truyền lại cho Bùi Chí Vinh như
truyền vương trượng sau khi nghe Vinh đọc thơ.
Hư thực không biết nhưng có người bảo rằng
Vinh bị Bùi Giáng cà rỡn mà thôi chứ làm gì có chuyện truyền “ngôi báu thi ca”.
Vì nói cho cùng thì Bùi Giáng vẫn là Bùi Giáng, không ai có thể là truyền nhân
được.
Vì sống điêu linh thơ mộng được như Bùi
thi sĩ đã là chuyện vô cùng khó rồi. Còn làm thơ lại càng khó hơn vì cái lối
tung hứng chữ nghĩa độc nhất vô nhị đến vô ngôn vô cùng của thi sĩ họ Bùi, lại
có vô chừng ngữ nghĩa rập rờn âm thanh trong thơ của ông.
Anh Dzoáng phóng bút làm thơ trên…
phong bì
Hỏi rằng tiền bạc của Trung niên thi
sĩ ở đâu mà ra? Câu trả lời ở giữa lộ trình ngao du: Bỗng nhiên Đại ca xích
lô nghe: dừng lại đây đi Đại ca. Điểm dừng là một biệt thự kín cổng cao tường,
từ bên trong nghe tiếng chó dữ hực lên.
Đại ca mới nghe đã muốn tháo chạy,
nhưng Trẫm thì điềm nhiên, bảo Đại ca cho xe chạy sát vào cánh cổng nơi có
nút bấm, tiếng chuông vang lên rền rĩ kèm theo tiếng của chủ nhân lao xao ra
mở cửa.
“Ai đó...” - một giọng điệu kéo dài
hách dịch. Hắng giọng: “Trẫm đây Đại ca...”. Cửa mở toang và giọng người reo
vui: “Trời đất ơi, anh Dzoáng ngọn gió nào đưa anh tới đây”.
Vẫn kẻ đứng người ngồi, Trẫm tỉnh
queo: “Thì đi rong chơi, mi có buồn không nếu tao vay mi ít tiền”. Chủ nhân
không một chút buồn phiền trái lại còn vui mừng ra mặt vì được cụng phụng cho
thi sĩ: “Dạ được được mà anh Dzoáng chờ em một chút!”.
Nói xong, chủ nhân quay thật nhanh vào
nhà, và cũng thật nhanh đã quay trở lại, dường như sợ nếu chậm anh Dzoáng sẽ
đi mất tiêu, trên tay là một phong bì màu xanh kính cẩn dâng lên.
Thi Sĩ nhét vào lưng quần xong rồi
nhàng nhẹ: “Ta viết cho mi một bài thơ hí?”. Nói xong không đợi trả lời anh
Dzoáng phóng bút làm ngay một bài thơ ngay trên chính cái phong bì đó. “Đây
ta tặng”. Chủ nhân chưa kịp cám ơn thì thi sĩ đã vỗ càng xe “Đi thôi Đại ca
ơi...”.
|
Nguyễn Tấn Cứ
BÙI GIÁNG 99 GIAI THOẠI
Giai thoại, có thể hiểu đơn giản, là những
câu chuyện hay, hấp dẫn truyền tụng “dân gian”, dựa trên những cứ liệu thật
nhưng có thêm thắt, hư cấu, phóng đại, khuếch tán…Nhìn vào những giai thoại,
người ta có thể dựng lên được một bức chân dung sống động về đối tượng nó đề cập
đến, bức chân dung ấy thường gắn liền với những cảm xúc chủ quan, những thương
ghét riêng tây.
Với Bùi Giáng, cuộc đời
ông đã là một giai thoại lớn bao trùm lên những giai thoại nhỏ về tình yêu, thơ
ca, cách hành xử độc đáo. Ông là một thi sĩ kỳ dị, một hiện tượng lạ trong văn
chương Việt Nam thế kỷ XX, nên quanh cõi “ngàn thu rớt hột” của ông, mọc lên biết
bao lời bàn tán, những câu chuyện truyền tụng nửa thực nửa hư…
Bùi Giáng qua 99 giai
thoại là một cuốn sách cóp nhặt từ nhiều nguồn sách báo những chuyện kể về
Bùi Giáng để “kể hầu bạn đọc”, nói như ngôn ngữ Bùi Giáng, “Vui ấy mà !”
Có những giai thoại về
ông từ những ngày “ 15 năm chăn dê” cho đến khi giã lìa cõi thế, gắn với những
câu chuyện tình, những lần làm thơ, hoạ thơ “tặng chuồn
chuồn, châu chấu”, những lúc lang thang phiêu bồng, những cuộc rượu ngất say, tỉnh
ra lại thấy mình quá cô đơn giữa chốn nhân gian… Đó còn là câu chuyện về một
trái tim đa cảm, thương người thương đời và một trí tuệ siêu việt, viết nghiên
cứu văn học, dịch sách triết học và “làm thơ như thể chăn trâu”….
Ông đến và sống giữa
đời với một tâm hồn anh nhi, một tài năng “ vô sư tự ngộ” (chữ dùng của Huỳnh
Ngọc Chiến). Những giai thoại về ông đi đôi với lượng tác phẩm đồ sộ trên nhiều
lĩnh vực mà ông đã để lại cho đời. Đến giờ, quanh ông vẫn còn tồn tại những câu
hỏi : Ông có điên thật không? Ông sáng tác vào thời gian nào giữa chuỗi tháng
ngày “đã đời du côn” ?…
Lúc sinh thời, có lần
Bùi Giáng gọi giai thoại là “giẻ rách”. Đấy là thứ ông khoác lên người trong những
cuộc rong chơi, là thứ ông tỉ mẩn ngồi vá trong những ngày tịnh khẩu. Thứ ấy, là
lớp vỏ ngoài của một trái tim và khối óc đáng quý, đáng trọng. Để rồi có lúc, mỗi
giai thoại quanh ông thật sự là một trang Du Hý trong tâm hồn người đọc, như lời
thơ của ông từng gửi gắm “ Đi về với gió Phù Du/ Mở trang Du Hý cho mù sa bay…”
(*) Nhân đọc Bùi Giáng qua 99 giai
thoại, NXB Lao Động & Trung tâm văn hoá ngôn ngữ Đông Tây, 2008
Lê Minh Kha
Bùi Giáng - một hiện tượng kỳ lạ
Nhân dịp kỷ niệm 10 năm Bùi Giáng (1998
– 2008) rời “cõi người ta”, nhà văn Đoàn Tử Huyến, Chủ tịch Hội đồng Khoa học
Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, đã tổ chức biên soạn và gửi tới độc giả
cùng giới nghiên cứu hai cuốn sách về Bùi Giáng: Bùi Giáng trong cõi người ta
và Bùi Giáng qua 99 giai thoại
Phóng viên: Thưa nhà văn Đoàn Tử Huyến,
từ đâu mà trung tâm cho phát hành hai cuốn sách về Bùi Giáng?
- Nhà văn Đoàn Tử Huyến: Vào Sài
Gòn, biết bạn đọc miền Nam yêu thích Bùi Giáng, một lần gặp nói chuyện với anh
Nguyễn Thanh Hoài – người cháu và là bạn vong niên của Bùi Giáng vào cuối đời -
tôi nảy ra ý định làm sách về nhà thơ độc đáo này. Tôi cho rằng Bùi Giáng là hiện
tượng, một hiện tượng kỳ lạ, kỳ dị, lớn lao, nhưng phức tạp, chưa – mà rất cần
- được nghiên cứu thấu đáo, sâu sắc. Sau cuộc trò chuyện đó và được sự giúp đỡ
của anh Hoài cùng một số bạn bè khác, chúng tôi đã bắt tay vào làm cuốn sách
này.
Tuy nhiên, nói cho cùng, việc tổ chức
làm hai tập sách này về Bùi Giáng và những cuốn tương tự là nằm trong định hướng
xuất bản chung của Trung tâm Đông Tây. Chúng tôi nhận thấy, do hoàn cảnh lịch sử
cũng như những điều kiện xã hội của nước ta, hiện nay chúng ta đang rất thiếu
các nguồn tư liệu – có hệ thống và đáng tin cậy - để làm cơ sở cho công việc
nghiên cứu cơ bản và dài hơi (tôi nói về các ngành khoa học xã hội và nhân văn
như văn học, lịch sử, nghệ thuật, v.v...). Chẳng hạn, nói về Bùi Giáng, nhiều
người có biết, có nghe đâu đó, mang máng về ông là một nhà thơ điên, với cuộc sống
kỳ dị, những câu thơ kỳ lạ; nhưng tìm kiếm tư liệu, xác thực và đầy đủ về ông,
có được một nhận định sâu và đúng về thơ ca và tư tưởng của ông - thì không dễ.
Do đó, chúng tôi chủ trương tổ chức xuất bản những cuốn sách mang tính tư liệu,
hồ sơ, về các tác giả, các hiện tượng văn học, để làm cơ sở cho những công việc
nghiên cứu tiếp theo. Làm sao hiểu, nghiên cứu Bùi Giáng nếu không có tư liệu về
Bùi Giáng?
Chúng tôi thực hiện hai cuốn sách về Bùi
Giáng là nhằm cung cấp một khối tư liệu về Bùi Giáng để người ta hiểu thêm về
ông, để có một cách nhìn tương đối toàn diện về ông. Tất nhiên, khám phá về Bùi
Giáng rất vô cùng, đây cũng chỉ là một bước đầu.
. Nhà thơ Bùi Giáng được bạn đọc miền
Nam yêu thích. Khi làm sách ở miền Bắc, ông có thấy đó là một bất lợi?
- Bất lợi về chuyện gì? Tôi không nghĩ đến
vấn đề này. Đúng là Bùi Giáng quen thuộc với bạn đọc phía Nam, nhiều người yêu
thích Bùi Giáng và cũng nhiều người viết về Bùi Giáng. Còn ở miền Bắc, ở ngay
Hà Nội, bạn đọc còn biết ít về ông. Như thế theo tôi là không bình thường trong
điều kiện ngày nay. Không công bằng. Như tôi đã nói trong Lời nói đầu của sách
Bùi Giáng trong cõi người ta, chẳng lẽ thơ Bùi Giáng chưa vượt khỏi khu vực, địa
phương, vẫn mới nằm trong mối quan tâm dân gian, báo chí? Vì vậy, việc tổ chức
xuất bản những cuốn sách này là một cách khắc phục điều bất lợi trong việc hiểu
Bùi Giáng nói riêng và văn học Việt Nam nói chung.
Còn nói về bất lợi trong việc phát hành,
thì không có vấn đề. Đất nước thống nhất, hai miền Nam – Bắc là một thị trường,
chỉ cần sách hay, được độc giả yêu thích, thì ở đâu họ cũng sẽ mua đọc.
. Trong quá trình tổ chức bản thảo, ông
đã gặp những khó khăn gì?
- Khó khăn lớn nhất là rất thiếu tài liệu.
Ở Hà Nội, sách báo về Bùi Giáng không nhiều – ngoài mấy cuốn sách in di cảo,
tác phẩm của Bùi Giáng mới xuất bản gần đây (tuyệt đại đa số do các nhà xuất bản
phía Nam phát hành), gần như không tìm được những bài viết (chứ chưa nói công
trình) nghiên cứu về Bùi Giáng. Thêm vào đó, ở miền Bắc hầu như không có những
người trực tiếp quen biết, thân gần với Bùi Giáng lúc ông còn sống, cho nên rất
khó tìm kiếm những thông tin và tư liệu lưu trữ cá nhân về ông. May mà thời nay
còn có Internet, nhờ đó mà chúng tôi tìm kiếm được một số khá lớn tài liệu và
nhất là thông tin về các tác giả có bài viết về Bùi Giáng để chúng tôi tìm cách
liên hệ nhờ giúp đỡ. Khó khăn thứ hai là thời gian. Do bị “khống chế” về thời
gian – chúng tôi muốn sách ra kịp kỷ niệm 10 năm ngày mất Bùi Giáng – nên việc
biên soạn sách phải tiến hành khá gấp gáp và kết quả là những công trình mới, mặc
dù đã đặt một số nhà nghiên cứu viết, vẫn chưa có mặt trong tập sách này.
. Hai cuốn sách: Bùi Giáng trong cõi người
ta và Bùi Giáng qua 99 giai thoại có điểm gì đặc biệt so với những cuốn sách về
Bùi Giáng đã từng xuất bản trước đó?
- Bùi Giáng trong cõi người ta là cuốn
sách, ngoài 82 bài thơ chọn lọc của Bùi Giáng, đã tập hợp tương đối đầy đủ những
bài viết tiêu biểu về Bùi Giáng từ trước đến nay, có thể nói, là việc tìm hiểu
hiện tượng Bùi Giáng từ góc độ học thuật. Còn Bùi Giáng qua 99 giai thoại tập hợp
những câu chuyện mang tính hư cấu dân gian nhiều hơn, đưa ra một chân dung Bùi
Giáng từ một góc độ khác - cảm nhận đã được dân gian hóa. Như vậy, cả hai cuốn
sách đều cố gắng dựng lại một chân dung Bùi Giáng nhưng từ các góc nhìn khác
nhau. Và khác với “những cuốn sách khác đã từng xuất bản” là đầy đủ và dày dặn
hơn.
(Dịch thuật)Những độc giả yêu thích và
thần tượng Bùi Giáng (vốn khá đông) sẽ có thêm dịp “truy nguyên ngọn nguồn”
cùng thi sĩ này khi tác phẩm Đười ươi chân kinh (NXB Hội Nhà văn và Nhã Nam,
536 trang) vừa ấn hành nhân ngày sinh của ông (17/12). Đây là tuyển tập khá
công phu mà những người thực hiện muốn đạt đến “chân kinh” của một thi sĩ có sức
viết như “cuồng phong, sóng dựng”.Để đánh dấu sự kiện này, Nhã Nam đã phối hợp
cùng L’Espace (Hà Nội) tổ chức đêm thơ Bùi Giáng và giới thiệu tinh tuyển vào
lúc 18h ngày 20/12, với sự tham gia của học giả Bùi Văn Nam Sơn, nhà thơ Nguyễn
Trọng Tạo, dịch giả Nguyễn Nhật Anh, nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên và
nghệ sĩ ngâm thơ Ngọc Lan. Cũng tại hội trường L’Espace, đã có triển lãm giới
thiệu khoảng 70 quyển sách của Bùi Giáng xuất bản trước 1975 và một số tranh ảnh,
thủ bút độc đáo, thuộc sưu tập của Yên Ba và Nguyễn Nhật Anh, kéo dài trong 5
ngày.
Huyền thoại…
Đương thời, Bùi Giáng (1926-1998) có rất
nhiều bút danh, như Trung Niên Thi Sĩ, Bùi Bàn Dúi, Bùi Văn Bốn, Vân Mồng… và
Đười Ươi Thi Sĩ. Có lẽ vì “tinh thần đười ươi” mà tuyển tập có tên Đười ươi
chân kinh đã tập trung tuyển những tác phẩm xuất bản thời Bùi Giáng còn sống.
Bùi Giáng (17/12/1926 tại Quảng Nam –
7/10/1998 tại TP.HCM). Ảnh: TL
Nhiều người hẳn còn nhớ cuốn Bùi Giáng –
Qua 99 giai thoại (NXB Lao động, 1999) do Huyền Li sưu tập, đủ thấy xung quanh
thi sĩ này có rất nhiều giai thoại. Có nhiều ý kiến cho rằng giai thoại về Bùi
Giáng, nếu so với các thi sĩ khác và nếu tính về số lượng, chắc nhiều nhất thế
kỷ 20 (!?); nhiều giai thoại đã trở thành huyền thoại.
Nhà thơ Vũ Ngọc Giao có một quãng dài đi
chơi với Bùi Giáng nói đại ý rằng, các giai thoại được sinh ra vì hai lý do
chính: muốn chứng tỏ mình thân với đười ươi thi sĩ nên tự “sáng tạo” ra một câu
chuyện riêng; có giai thoại riêng rồi thì không cần đọc thơ họ Bùi nữa, vì thơ
ông rất nhiều và không hề dễ đọc chút nào.
Đương thời, Bùi Giáng thích “ngao du
ngày tháng”, có thể nói chuyện triết lý, văn thơ suốt ngày đêm, nhưng rất ghét kể
giai thoại. Xét trên bình diện văn bản, điều này được ông thể hiện khá rõ khi
viết về Lý Bạch, đại thi hào gắn liền với nhiều giai thoại. Bùi Giáng viết:
“Người Trung Hoa đã điên rồ thêu dệt những giai thoại ngớ ngẩn tưởng là làm
vinh dự cho ông, nhưng thực ra đã bôi nhọ ông một cách cổ kim chưa từng có. Tại
hạ đã nhiều phen muốn nêu sự vụ kia ra, nhưng vừa nghĩ tới đã cảm thấy buồn nôn
gớm guốc khôn tả”.
Thơ là chân kinh…
Dịch giả Nguyễn Nhật Anh (đại diện Nhã
Nam) nói rằng tham vọng duy nhất của tuyển tập này là giúp độc giả bận rộn ngày
nay có một cái nhìn bao quát, xuyên suốt về tất cả khía cạnh văn chương của thi
sĩ vô tiền kháng hậu này.
Trong lời giới thiệu, Thiên Hải Đoạn Trường
Nhân viết: “… Chúng tôi chủ trương chỉ chọn lọc những gì “đọc được” (readable)
trở lên của “đười ươi thi sĩ”, và bằng nguyên tắc này, gạt bỏ ra ngoài hết thảy
những gì mà chúng tôi cho là tạp nham, không cơ bản, những “sấm ngữ” tối
nghĩa…”.
Tuyển tập Đười ươi chân kinh có vẻ như
chia sẻ được quan điểm của nhà nghiên cứu Huỳnh Hữu Ủy: “Bùi Giáng là người
tài, nhưng là một nhà thơ điên, vì vậy ông viết quàng xiên nhiều quá. Nhưng
cũng chẳng hề gì, mấy ngàn trang sách của ông chỉ cần lọc lại thành một tập thơ
nhỏ, rồi với tập thơ ấy chỉ cần tinh lọc thêm một lần nữa để chỉ còn lại chừng
mươi bài, thì với mươi bài thơ ấy ông cũng đã là một nhà thơ lớn bậc nhất của
thời hiện đại, một vì sao lấp lánh rạng rỡ mãi hoài trên vòm trời thơ của dân tộc
Việt”.
Ngoài hình ảnh, các trích lục và phụ lục
được tuyển lựa có tiêu chí, quyển sách còn dành ra một chương cho “những câu
thơ lẻ xuất thần, đặc biệt là lục bát” và một “tự điển” về những từ ngữ có tần
số xuất hiện nhiều, tiêu biểu trong thơ Bùi Giáng. Nhìn chung, đây là tinh tuyển
khá thành công trong việc phác thảo diện mạo một tác giả quan trọng của văn học
Việt Nam thế kỷ 20.
Văn Bảy (TTVH)
BÙI GIÁNG: TẬN CÙNG CHỮ NGHĨA HƯ VÔ
Tôi đã viết một số bài về Bùi Giáng. Vẫn
chưa ngớt băn khoăn về ông.
Bùi Giáng để lại một sự nghiệp khá đồ sộ,
với hơn 50 đầu sách khác nhau, vừa thơ vừa văn xuôi. Văn xuôi của ông bao gồm
ba thể loại chính: dịch thuật, biên khảo về triết học và bình luận về văn học.
Gây sôi động trong dư luận và được nhiều người nhắc nhở nhiều nhất - cả khen lẫn
chê - là hai thể loại đầu, nhưng tôi thích Bùi Giáng ở thể loại sau hơn. Trong
thể loại sau đó, tôi đặc biệt thích những bài viết về thơ của Bùi Giáng, phần lớn
tập trung trong hai tập Đi vào cõi thơ và Thi ca tư tưởng, cũng
như rải rác trong nhiều cuốn sách khác, từ Mùa thu trong thi ca đến Ngày
tháng ngao du, v.v... Có thể nói, ở miền Nam, từ năm 1954 đến 1975, Bùi Giáng
là người viết về thơ nhiều nhất và có một số bài có thể nói là hay.
Hay, không phải ở những sự đánh giá về từng
nhà thơ hay từng bài thơ cụ thể. Ở phương diện này, Bùi Giáng khá lạc hậu và dễ
dãi: ông vẫn chưa thoát được mỹ học của Thơ Mới, thời 1932-45, chủ yếu qua cách
nhìn của Hoài Thanh, vốn đậm màu sắc lãng mạn chủ nghĩa, trong cách cảm thụ và
phân tích, do đó, những nhà thơ hoặc những bài thơ được ông khen ngợi một cách
nồng nhiệt thường không thực sự hay, hoặc nếu hay, thì cũng là những cái hay
cũ, của một thời đã xa. Đáng chú ý hơn, trong những bài viết về thơ của Bùi
Giáng, là những nhận xét về thơ nói chung hoặc về từng chữ và từng câu thơ cụ
thể, nhưng từ đó, thỉnh thoảng ông làm sáng lên một số điều thuộc về bản chất của
thơ. Chính ở khía cạnh này, Bùi Giáng tỏ ra là một cây bút nhạy bén, có những ý
kiến thú vị và bất ngờ.
Dù sao, Bùi Giáng chủ yếu cũng vẫn là một
nhà thơ.
Với tư cách là nhà thơ, Bùi Giáng là một
hiện tượng lạ lùng, nếu không nói là lạ lùng nhất trong lịch sử văn học Việt
Nam hiện đại. Con người, cuộc đời và sự nghiệp của ông chứa đựng những nghịch
lý không dễ gì có thể giải thích được. Ngay cái cách làm thơ cực kỳ dễ dàng của
ông cũng là một bí nhiệm, làm nhiều người, nhất là giới cầm bút, không ngớt
bàng hoàng. Với cách sáng tác ào ạt và trong điều kiện hiếm khi đủ tỉnh táo để
nhuận sắc thơ mình, Bùi Giáng ít khi, rất ít khi, có được những bài thơ thực sự
hoàn chỉnh. Thơ ông thường hay ở câu chứ không phải ở bài. Và có một hiện tượng
thú vị là những câu thơ được xem là hay của Bùi Giáng thường được lặp lại khá
nhiều lần, ở những bài thơ khác nhau, có khi cách nhau đến cả hàng chục năm. Điều
đó chứng tỏ Bùi Giáng không những tâm đắc mà còn sống thường trực với những câu
thơ ấy. Điều đó cũng có nghĩa là ông rất tự giác về những câu thơ hay của mình,
đồng thời cũng chính là mặt mạnh của mình. Ông làm cả hàng ngàn bài thơ, thật
ra, là để ngắm nghía từ nhiều góc độ khác nhau sự huyền diệu của một số câu thơ
hay.
Thơ Bùi Giáng hay ở câu, ở một số câu.
Nhưng ngay cả ở những câu không hay, thậm chí, ở những câu hoàn toàn nhảm nhí,
Bùi Giáng vẫn đóng được dấu ấn của mình. Bùi Giáng là một trong vài nhà thơ hiếm
hoi tạo được một phong cách riêng ở đơn vị rất nhỏ trong thơ: từ. Có một cú
pháp thơ của Xuân Diệu, của Thanh Tâm Tuyền. Và có một từ vựng thơ của Bùi
Giáng (cũng như của Trần Dần). Cái gọi là từ vựng thơ riêng ấy không phải là những
từ do Bùi Giáng sáng chế ra mà là, chủ yếu là những từ được Bùi Giáng sử dụng.
Chúng là những từ ngữ thông thường, có khi đã cũ mèm trong thơ văn cổ (như: thập
thành, tháp tùng, ban sơ, phong nhuỵ, phiêu bồng, v.v...) hay có khi còn lấm
lem bụi bặm của đường phố (lai rai, cà chớn, số dzách, tùm lum, nhe răng, chân
đi chữ bát, v.v...), nhưng có điều oái oăm là, khi đi vào thơ Bùi Giáng, dường
như chúng trở thành vật sở hữu của Bùi Giáng, để, sau đó, nếu có ai sử dụng những
từ ngữ ấy, người ta cứ ngờ như là họ... ăn cắp của Bùi Giáng.
Nhưng thơ Bùi Giáng không phải chỉ đặc sắc
ở cấp độ chữ hay cấp độ câu. Ỡ Bùi Giáng còn có một cái gì khác hơn thế nữa:
thơ ông còn có một khí quyển riêng. Chính cái khí quyển ấy làm cho, một là, từng
chữ của Bùi Giáng đều mang hơi hướm của ông; hai là, hoá giải những khác biệt
trong phong cách của mỗi chữ khiến cho những chữ Hán Việt cổ kính nằm cạnh những
tiếng lóng rất mới mà không hề thấy chỏi nhau; và ba là, làm cho mọi câu thơ,
dù hay hay dở, dù nghiêm trang hay nhả nhớt, đều mang phong cách của ông, không
lẫn với ai được.
Nói đến phong cách Bùi Giáng, trên báo
chí, từ trước đến nay, thỉnh thoảng có người xem đó là một phong cách tắc tị
hay quậy phá, bỡn cợt, rất thiếu nghiêm túc. Hình như không phải. Theo tôi, ít
có nhà thơ nào say mê và trân trọng ngôn ngữ như Bùi Giáng. Ông có đùa nghịch với
chữ nghĩa thì cũng chỉ là một cách để trắc nghiệm quyền năng của ngôn ngữ: từ
chữ này, ông liên tưởng đến chữ khác; rồi từ chữ khác đó, ông lại liên tưởng đến
những chữ khác khác nữa. Chữ nghĩa cứ gọi nhau. Thành trùng trùng điệp điệp chữ.
Động một chữ mà bao nhiêu chữ khác cùng vang động. Tương tự kinh nghiệm được
Bùi Giáng mô tả trong cuốn Mùa thu trong thi ca (1969, tr. 236):
“Ta ngồi dưới gốc cây sim, lắng tai nghe
bò đương gặm cỏ, thong dong đưa tay vói một cành, hái một trái ăn chơi. Và bỗng
dưng? Bỗng dưng nảy ra một sự tình kỳ lạ: bàn tay ta vừa chạm tới một trái sim
riêng lẽ, thì suốt dãy rừng, toàn thể ngàn sim lục bỗng chấn động lừng vang. Đó
là một bí quyết lạ lùng.”
Và bí quyết lạ lùng ấy thể hiện trong
nhiều bài thơ của Bùi Giáng. Phần lớn những bài thơ có vẻ lảm nhảm hay tối tăm
của Bùi Giáng là những bài thơ trong đó ông đuổi bắt miên man những khả năng kết
hợp mới của một chữ hay lắng nghe những tiếng nói huyền bí của ngữ âm. Bài “Ngẫu
hứng” sau đây có thể được xem như một ví dụ thuộc loại tiêu biểu nhất cho phong
cách thơ ông:
Một hôm gầu guốc gầm ghì
Hai hôm gần gũi cũng vì ba hôm
Bôm ha? đạn hả? bao gồm
Bồm gao gạo đỏ bỏ gồm gạo đen
("Ngẫu hứng")
Đoạn thơ chỉ là một chuỗi liên hệ vô tận
trong ngôn ngữ. Chữ "gầu guốc" làm Bùi Giáng liên tưởng đến chữ
"gầm ghì" và "gần gũi": tất cả đều bắt đầu bằng phụ âm [g].
Chữ "một hôm" làm ông liên tưởng đến "hai hôm" rồi "ba
hôm"; chữ "ba hôm" làm ông liên tưởng đến cách nói lái "bôm
ha"; trong "bôm ha", từ tố "bôm" khiến ông liên tưởng
đến "đạn"; từ âm tố "gao", ông liên tưởng đến "gạo";
từ "gạo đỏ", ông liên tưởng đến một điều không hề có: "gạo
đen", v.v... Thành ra, chữ "một hôm" mở đầu đoạn thơ trên không
phải chỉ là ý niệm về một đơn vị thời gian mà còn bao hàm ý niệm về sự tranh chấp
("gầu guốc gầm ghì"), về súng đạn (và từ đó, chết chóc), là cơm gạo
(và phía sau của nó, sự cùng cực, khốn quẫn), cuối cùng, là may rủi trong sự
thành, bại và cả trong sự sống, chết. Xin mở một dấu ngoặc: bài thơ này được
Bùi Giáng sáng tác trong giai đoạn chiến tranh Việt Nam đang hồi khốc liệt. Thời
ấy, với rất nhiều người, thời gian được đo lường bằng khả năng chịu đựng những
đe doạ từ chiến tranh và từ sinh kế, tuỳ thuộc vào những sự đỏ đen của số mệnh.
Tuy nhiên, nếu ngôn ngữ chỉ là một chuỗi
những liên hệ bất tận như vậy thì, như các nhà hậu cấu trúc luận sau này đã chỉ
rõ, ngôn ngữ không còn khả năng quy chiếu về hiện thực và do đó, cũng không còn
khả năng phát hiện chân lý được nữa. Bùi Giáng hoàn toàn hiểu điều đó. Trong
bài "Phố phường cỏ mọc" in trong tập Mùa thu trong thi
ca, ông mỉa mai: "người ta tưởng chừng như tin rằng ngôn ngữ có thể
nói ra được sự thật." Ai tưởng thì cứ tưởng, riêng ông, ông rất bi quan:
Tôi gọi Mỹ Tho là Mỹ Thỏ
Mỹ Thọ muôn đời là Lục Tỉnh hôm nay
Tôi gọi Sóc Trăng là Sóc Trắng
Gọi người sương phụ gái thơ ngây.
("Lẫn lộn lung tung")
Nên lưu ý là những cách đổi tên gọi như
vậy xuất hiện không phải một lần trong thơ Bùi Giáng. Trong bài "Trường
giang lục tỉnh", ông lại viết:
Tôi gọi Cần Thơ là Cần Thở
Cần Thở muôn đời là Gió Việt đêm nay
...
Tôi gọi Bình Dương là Bình Dưỡng
Dượng dì ơi thương nhớ cháu nhiều
không...
Hoài nghi khả năng "tái hiện hiện
thực" của ngôn ngữ, có khi Bùi Giáng bỏ cuộc chơi trong lãnh vực ngữ nghĩa
để đuổi bắt một trò chơi ở lãnh vực ngữ âm, với nhịp điệu trầm bổng của các
thanh, các âm. Đó là những lúc Bùi Giáng làm những câu thơ toàn bằng chữ Hán hoặc
những câu thơ hoàn toàn vô nghĩa, trong đó, chỉ có những tiếng động lanh canh
lách cách của các âm, các vần, các thanh điệu va chạm vào nhau mà thôi.
Có thể nói Bùi Giáng làm thơ như một người
chơi cờ không nhắm tới mục đích chiếu tướng mà nhắm tới việc khám phá khả năng
biến chuyển vô tận của các nước cờ. Bùi Giáng là người làm thơ thuộc loại hồn
nhiên nhất trong thơ Việt Nam. Ông là kẻ làm thơ, trước hết, với chữ.
Nhưng khi các từ ngữ chỉ, hay chủ yếu chỉ,
liên hệ với các từ ngữ khác thì quan hệ giữa các từ ngữ ấy và hiện thực được
chúng ám chỉ trở thành hàm hồ và xa xôi hẳn như cái điều các nhà hậu cấu trúc
luận đã từng phân tích. Bùi Giáng, từ rất sớm, đã nhận ra điều đó. Bùi Giáng đã
cảm nhận sâu sắc hơn ai hết sự bất lực của ngôn ngữ. Không phải là sự bất lực của
người sử dụng ngôn ngữ mà là sự bất lực của chính ngôn ngữ. Thơ Bùi Giáng có
khi là thơ về sự bất lực của ngôn ngữ. Do đó, một mặt, người ta có thể nói Bùi
Giáng là nhà thơ hồn nhiên, nhưng mặt khác, người ta cũng có thể nói Bùi Giáng
là một nhà thơ bi quan nhất trong lịch sử văn học Việt Nam, người đi đến tận
cùng sự tuyệt vọng đối với cái gọi là chức năng phản ánh hay tái hiện hiện thực
và từ đó, chức năng truyền thông và giao cảm của ngôn ngữ.
Với các nhà thơ khác, ngôn ngữ là một thứ
chất liệu. Với Bùi Giáng, ngôn ngữ không phải chỉ là một chất liệu mà còn là một
đề tài, một cảm hứng. Bùi Giáng làm thơ không phải bằng ngôn ngữ, với ngôn ngữ
mà còn về ngôn ngữ. Cái bi kịch của Bùi Giáng là ở chỗ: là người cầm bút, ông
chỉ có một thứ vũ khí duy nhất phải sử dụng, đó là ngôn ngữ, một thứ vũ khí ông
rất yêu, nhưng đồng thời, tự thâm tâm, khác hẳn các nhà thơ khác, ông không ngớt
hoang mang hoài nghi về hiệu năng của nó.
Trong văn học Việt Nam, hình như chưa có
ai đi đến tận cùng chủ nghĩa hư vô như Bùi Giáng. Ở khía cạnh này, có thể nói
Bùi Giáng là nhà thơ tiêu biểu nhất của thời kỳ chiến tranh lạnh, lúc mọi niềm
tin đều bị sụp đổ.
Nguyễn Hưng Quốc
Hiện tượng Bùi Giáng
|
Sinh thời, Bùi
Giáng bảo: "Hãy để cho tôi yên, tôi dại. Ðừng ai nói đến tôi. Và nhất
là đừng có ai bàn đến thơ tôi ." (1) Có lẽ vì tôn trọng nhà thơ,
cho nên ít ai bàn đến thơ ông (2). Ca tụng Bùi Giáng thì nhiều, nhưng phê
bình Bùi Giáng thì ít.
Như thơ, Bùi
Giáng sống tiêu dao suốt cõi mù sa bên rừng, cả đời lục bát. Tại sao lục
bát? Lục bát bởi vì, đối với Bùi Giáng: "Lục bát Việt Nam là cõi
thi ca hoằng viễn nhất, kỳ ảo nhất của năm châu bốn biển, ba bẩy sông hồ." (3)
Ðó là lộng ngôn Bùi Giáng.
Về bản thân
mình, Bùi Giáng tự họa: "Nhe răng cười trong bóng tối... Không bao
giờ bắt chuồn chuồn mà cứ bảo rằng mình luôn luôn bắt chuồn chuồn... Không
thiết chi đọc sách mà vẫn cặm cụi đọc sách hoài... Chán chường thi ca mà cứ
làm thơ hoài... Chuốc sầu vạn đại thì bảo rằng mua vui cũng được một vài trống
canh." (4) Ðó là mâu thuẫn Bùi Giáng.
Hỏi về tiểu sử,
Bùi Giáng trả lời:
Hỏi tên? Rằng biển xanh
dâu
Hỏi quê? Rằng mộng ban đầu rất xa. Gọi tên là một hai ba, Ðếm là diệu tưởng, đo là nghi tâm. Ðó là vô căn Bùi Giáng. Trên báo Văn, số 26 tháng 8 năm 1984, Mai Thảo kể lại rằng khi hỏi về cái lực viết phi phàm của Bùi Giáng, Thanh Tâm Tuyền lắc đầu cười: "Chịu, không giải thích được. [...] Nói đến mấy ngàn bài thơ Bùi Giáng là đúng. Mà nói thơ Bùi Giáng chỉ có một bài, vô tận, vô cùng là đúng hơn. Ngủ ra thơ. Thở ra thơ. Ði ra thơ. Ðứng ra thơ. Chứ không phải nghĩ thơ, làm thơ."
Vẫn theo lời
Mai Thảo, ông Thanh Tuệ, giám đốc nhà xuất bản An Tiêm, thuật lại: "Ảnh
lang thang suốt ngày, chẳng thấy lúc nào ngồi viết hết. La cà hết nơi này đến
nơi khác, uống rượu say ngất rồi về lầu lăn ra sàn ngủ, nhiều ngày bỏ cả bữa
ăn. Ðêm cũng không thức, chỗ nằm tối thẳm. Tôi in không kịp, nói ảnh tạm ngừng
thì ảnh ngừng. Nói có máy, có giấy, nói buổi sáng, buổi chiều ảnh đã tới ném
bịch xuống cả năm bẩy trăm trang. Cứ thế đem sắp chữ thôi, đâu có thì giờ đọc."
Mai Thảo kể
tiếp, khi làm số Văn, đặc biệt về Bùi Giáng: "Tôi hỏi xin ông những
bài thơ mới nhất. Ông gật. Tưởng lấy ở túi vải ra. Hoặc nói về lấy, hoặc nói
hôm sau. Tất cả đều không đúng. Ông hỏi mượn một cây bút, xin một xấp giấy, một
chai bia lớn nữa, đoạn ngồi xuống và trước sự kinh ngạc cực điểm của chúng
tôi, bắt đầu tại chỗ làm thơ [...] Lần đầu tiên tôi thấy Bùi Giáng viết,
thoăn thoắt, vùn vụt, nhanh không thể tả. Như thơ không thể từ đầu, từ tim chảy
xuống, xa quá, lâu quá, mà ngay từ ngọn bút, từ đầu ngón thôi [...] Lần đó,
tôi đã thấy, đã hiểu tại sao Bùi Giáng, cứ cánh bướm rong chơi, cứ phiêu bồng
lãng du mà vẫn có ngay nghìn câu một buổi."
Về những cơn
điên Bùi Giáng, Phạm Xuân Ðài kể trong lời tựa tập Thơ Bùi Giáng (5): "Chỉ
có thơ và những cơn điên [...] Bây giờ (năm 1992) anh ít làm thơ lắm, còn các
cơn điên thì vẫn viếng thăm anh gần như định kỳ. Những lúc ấy anh đi nhiều
nơi, nhưng thường xuất hiện ở vùng chợ Trương Minh Giảng (chỗ Ðại Học Vạn Hạnh,
là nơi ngày xưa anh thường trú ngụ) đứng giữa đường vung tay, điều khiển xe cộ,
cử chỉ rất linh động, đặc biệt đôi mắt sáng quắc bừng bừng [...] Có khi anh
múa may trong một lớp áo lòe loẹt, động tác mạnh mẽ chính xác gần như múa võ,
miệng hò hét như đang nạt nộ với một đối tượng vô hình."
Ðó là hiện tượng
Bùi Giáng, qua lời kể của những người thân trong giới văn học.
*
|
Bùi Giáng là ai? Bùi Văn Vịnh, em của
Bùi Giáng, cho biết (6): Bùi Giáng sinh ngày 17 tháng 12 năm 1926 tại làng
Thanh Châu, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam.
Thuở nhỏ, học trường Bảo An tại Ðiện Bàn, Quảng Nam, trung học ở trường Thuận Hóa, Huế. Năm 1950, đậu Tú Tài II văn chương ở Liên Khu V. Sau đó ra Liên Khu IV học tiếp đại học. Nhưng sau khi nghe qua bài diễn văn khai giảng của ông viện trưởng, Bùi Giáng quay về Quảng Nam và bắt đầu quãng đời được gọi là "Mười lăm năm chăn dê ở núi đồi Trung Việt". Tháng năm 1952, Bùi Giáng về Huế thi Tú Tài tương đương và vào Sài gòn ghi danh Ðại Học Văn Khoa. Lần này, sau khi nhìn danh sách giáo sư giảng dậy ở Văn Khoa, Bùi Giáng quyết định chấm dứt việc học ở trường và bắt đầu viết khảo luận, sáng tác, dịch thuật và đi dạy học tại các trường tư thục.
Từ 1957 đến 1997, Bùi Giáng có
khoảng 55 tác phẩm đã in về thơ, dịch và triết. Như lời Mai Thảo, Thanh Tâm
Tuyền, Thanh Tuệ, thơ có đến nghìn bài. Và nội trong một ngày, có thể ném bịch
một vài trăm trang sách. Ðúng là một kỷ lục có một không hai.
|
Chúng ta thử
tìm hiểu bản chất của kỷ lục ấy qua một vài trang sách của Bùi Giáng
trong Con Ðường Ngả Ba Bước Ði Của Tư Tưởng, do An Tiêm xuất bản lần thứ
nhất tại Sài gòn năm 1972, và tái bản tại hải ngoại.
Có thể nói
trong cuốn sách này, cái gọi là điên của Bùi Giáng phát hiện rõ rệt dưới hình
thức loạn ngôn, ngộ chữ cao độ. Về Heidegger, Bùi Giáng viết: "Tất
cả con đường tư tưởng của Heidegger là mọi lối nhiếp dẫn bước đi về những
vùng u kín trong cổ lục uyên nguyên." (trang 13)
Về Nietzsche,
ông viết: "Nietzsche không phải là đại hải đại dương. Nietzsche đã
đón vào lòng mình một dòng sông dơ bẩn. Và từ đó? Từ đó, Nietzsche biến thành
một loại người mạt hậu theo mọi nghĩa thái thậm ly kỳ. Con người mạt hậu và
hư vô chủ nghĩa, con người mạt hậu và sa mạc tinh hoa, con người mạt hậu và Mạt
Hậu "Tử Sinh Môn" Hoạt Tinh Thể, con người mạt hậu và Siêu Hình Học
Lãnh Ðịa, con người mạt hậu và Ðịnh Mệnh Phối Tiết Sử Lịch Tồn Lưu, Ðịnh Mệnh
Phối Tiết Sử Lịch Tồn Lưu và Siêu Hình Học theo nghĩa Sử Lịch chân lý của Hiện
Thể như là Hiện Thể, Sử Lịch chân lý của Hiện Thể và Ðịnh Mệnh Tồn Lưu thoái
tàng ư mật, Tồn Lưu thoái tàng ư mật và Hằng Thể bước vào vòng di vong trầm một,
từ di vong trầm một, còn chút hậu tình ân ốc nào sẽ "trột mầm" cho
một trận Dịch Chuyển thông hành của Ðịnh Mệnh hay không? hay là Siêu Hình Học
vẫn mãi mãi kiên trì tồn lập trong cuộc đù đỡn "trệ lưu ư ngoại" bất
khả tư nghì khuyết phạp từ Hoạt Tinh Thể của Hư Vô? ..." (trang 17)
Và cứ như
thế, Bùi Giáng sản xuất 499 trang Con Ðường Ngả Ba, Bước Ði Của Tư Tưởng.
Ðiểm thích
thú nhất của người đọc trong cuốn sách này là những trích đoạn thơ Bùi Giáng,
phần lớn là những câu thơ hay, tỏa ra những suy tư sâu lắng về bản chất con
người.
Nhưng trong 499
trang chữ ấy, người đọc tìm thấy rất ít dòng đứng đắn và tỉnh táo bàn về những
vấn đề triết học như hiện sinh và bản thể, tồn tại và thời gian, mặc dù ông rất
ngưỡng mộ Heidegger, người thầy hiện sinh được ông trích, dịch một cách kỳ cục.
Ví dụ như câu này, dịch ra từ tiếng Pháp, tiếng Ðức: "Nhưng mà lời
thuyết thoại trì ngự, trong (khởi từ) Ðịnh Mệnh Phối Tiết mở phơi, sẽ ra sao
nếu như cái Sở Khải Khai trong Song Trùng Tịch Hạp bị Ðịnh Mệnh Phối Tiết (ruồng
rẫy) bỏ phó mặc cho cuộc thể hội vất vơ nhân tuần (dung thường nhật lệ) của con
người từ diệt chúng tử chúng sinh?"
(Con Ðường Ngả Ba Bước Ði Của Tư Tưởng,
trang 12-13)
Dù đặc sệt những
tên tuổi triết gia, nặng ký trích dẫn thiên kinh, vạn điển, dù có một số ý trội
lên về vấn đề đọc sách, đọc Nguyễn Du, đọc Bùi Giáng, về sự gặp gỡ giữa những
nhà tư tưởng lớn, đả kích một số nhà xuất bản không tôn trọng văn bản của tác
giả, Con Ðường Ngả Ba vẫn không phải là cuốn sách bàn về triết học,
hoặc đưa ra một hệ thống tư tưởng mạch lạc; mà có thể nói đây chỉ là cuốn
phiếm luận bí hiểm, ngôn ngữ thần chú, nhại triết học, nhạo người đọc. Cho
nên khi Tạ Tỵ viết: "Bùi Giáng đối thoại với Nietzsche, Sophocle,
Parménide, Khổng Tử, Lão Tử, Sartre, Camus..." thì e rằng Tạ Tỵ
quá lời. Sự tìm kiếm siêu hình nơi Bùi Giáng, như chỉ dừng ở phần vỏ của ngôn
từ: tồn sinh, tồn lưu, hằng thể, hư vô, logos, ... mà không đi vào nội tâm của
suy tưởng. Hoặc có lẽ Bùi Giáng chỉ muốn rỡn chơi. Nếu ông có nhắc tới Như
Lai, Bồ Tát, Heidegger, Parménide, Platon, Socrate cũng chỉ như ông nói đến
Nam Phương Hoàng Hậu, Dương Quý Phi, Marilyn Monroe, đười ươi, chuồn chuồn,
châu chấu v.v... vậy thôi, trong một trạng thái "tẩu hỏa nhập ma",
một tinh thần anarchiste toàn diện. Một "người phá", để nói theo
ngôn ngữ Trần Dần. "Người phá" trong cái nghĩa tiêu cực của nó, chứ
không phải trong cái nghĩa sáng tạo, ít nhất là ở cuốn sách Con Ðường Ngả
Ba.
Phải chăng
Bùi Giáng chỉ muốn "hù dọa" người đọc không chuyên môn? Hay ông muốn
nhại, diễu, những hệ thống suy tưởng mà một số trí thức quen dùng như mẫu mực
hoạt động tinh thần? Biến chúng thành một thứ charabia, ngôn ngữ vấn đáp chuồn
chuồn, châu chấu, nói trẹ, nói xàm, nói bá láp và ông có khả năng sản xuất mỗi
ngày vài trăm trang như thế?
Thái độ
anarchiste toàn diện này mở rộng trong đời sống, trở thành một bản năng phản
kháng quẫy đời: Cởi quần áo giữa lớp học, tắm nơi công cộng, ngủ vỉa hè, trở
thành clochard (hành khất say rượu), mặc áo rằn ri lính ngụy, để chỉ đường...,
tất cả những "cơn điên" ấy của Bùi Giáng chứng minh sự sáng suốt của
một Bùi Giáng không điên.
Không điên vì
ông chỉ đẩy đến cùng trạng thái hiện sinh, chứng nghiệm ý thức trần trụi về bản
thể. Cởi dần năm bẩy lớp quần áo chẳng qua chỉ là hình ảnh "rút gọn hiện
tượng", bóc vỏ các tầng lớp bề ngoài của "hiện tượng" để tìm
ra bản chất trong hiện tượng luận Husserl.
Trở thành clochard là một cách thể nghiệm tự do và tự hủy.
Trong những đệ
tử của hiện sinh thời ấy, Bùi Giáng là người đi xa nhất trong hành động tự hủy
và hành xác. Tự hủy để chứng minh: Cá nhân con người đã chán ngấy cuộc sống,
nó có một quyết định tự do lựa chọn, và sự hủy hoại bản thân là sự lựa chọn
tiến gần nhất đến tự do tuyệt đối.
Sau 75, người ta càng yêu Bùi Giáng hơn, vì trong một xã hội được bị lồng vào khuôn phép, một xã hội đã ổn định cơ chế, công chúng yêu mến những gì bất thường, yêu những kẻ ngoại đạo, bất ổn.
Bùi Giáng là
người ngoại đạo duy nhất dám làm lũng đoạn môi trường ổn định bằng thái độ tự
hủy. Cái điên của Bùi Giáng là cái điên sáng suốt trong một tình thế không
có cứu cánh nào khác nếu không tìm về bản thể của con người.
|
Thơ Bùi Giáng, hiện sinh trong đoạn
trường và định mệnh
Những "dạ
thưa", những "tồn sinh", những "phố thị",
những "cố quận", "đười ươi", đã trở thành những cốt
cách, những địa chỉ rất Bùi Giáng:
Dạ thưa phố Huế bây giờ
Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương
Dạ thưa Vỹ Dạ về gần
Ðã từ xa lắm thiên thần nhớ em
Thơ Bùi
Giáng, ngay từ thuở đầu đã rong chơi, lãng mạn, đã tinh nghịch, nhẹ nhàng,
hóm hỉnh, luôn luôn là những lời vấn đáp lẩn thẩn về ý nghĩa cuộc đời, về lẽ
tồn sinh, về những chuyện phù du, dâu bể, ẩn khuất một dục tình khép mở Xuân
Hương:
Cá ở ngoài khe có ít nhiều
Cồn lau cỏ lách có hoang liêu Em về có hỏi răng ri rứa Nhắm mắt đưa chân có bận liều. (Bờ trần gian)
hoặc:
Bỏ hai chân xuống một
vùng
Nước truông là lá thu rừng xuống khe. (Bỏ hai chân)
Những dòng
thơ trên đây, theo như lời Mai Thảo, Bùi Giáng đã làm một mạch, tại chỗ,
xuất bút thành thơ. Huyền thoại Bùi Giáng, thi sĩ bẩm sinh, poète né, trong
thập niên 60-70, được xác định như một hiện tượng văn học độc đáo. Như thể
ông đã biết trước đường đi nước bước của thơ. Có khả năng thiên bẩm về sự
lang thang ngơ ngẩn của chữ trên đời, và chỉ cần huơ tay, bắt chúng, nhốt vào
câu lục bát, như Bình Nguyên Lộc "nhốt gió", là có ngay thơ Bùi
Giáng:
Một hôm đếm một ra
ba
Thật là lạ lắm, ấy là cái chi
hay:
Người con gái lội qua
khe
Bàn chân với nước lạnh đè lên nhau Nỗi niềm tưởng lại xưa sau Bàn chân với nước cùng nhau lại đè. (Lá hoa cồn) *
Hỏi tên? Rằng biển xanh
dâu
Hỏi quê? Rằng mộng ban đầu rất xa Gọi tên là một hai ba Ðếm là diệu tưởng, đo là nghi tâm
Bốn câu tự họa
trên đây dường như đã gói trọn bản chất thơ ca và tư tưởng Bùi Giáng. Một bản
chất đa mang nỗi hiện sinh hoang tưởng trong một "đạo khờ" gắn bó với đoạn
trường tái tân thanh (chữ của Bùi Giáng) tiếp nhận Nguyễn Du như một
thông đạo, thông thư, thông mệnh văn học.
Thân phận dâu bể của con người, nỗi hoài nghi về số kiếp, ta từ đâu lại? Ta là ai? Những trầm luân, biến đổi làm sao đo, đếm, đặt tên được? Ðến bản thân ta, ta còn không biết, nữa là... Nếu trường phái hiện sinh (Sartre) bác bỏ tính chất định mệnh, thì ở Bùi Giáng, định mệnh (Kiều) và hiện sinh giao hưởng với nhau thành một cấu trúc tư tưởng mới, tạo nên những vần thơ đậm dấu Ðạm Tiên, hắt ra những ánh siêu thực:
Em chết bên bờ lúa
Ðể lại bên đường mòn Một dấu chân bước của Một bàn chân bé con Anh qua miền cao nguyên Nhìn chân trời bữa nọ Ðêm cuồng mưa khóc điên Trăng cuồng khuya trốn gió Mười năm sau xuống ruộng Ðếm lại lúa bờ liền Máu trong mình mòn ruỗng Xương trong mình rã riêng (Mưa nguồn)
Bùi Giáng có
những câu thơ rất cao, rất tĩnh, rất sâu, thanh thản, gợi đến hư vô trong một
không gian lãng mạn trữ tình, ít thấy xuất hiện trong thơ Việt.
Buổi trưa đi vào giữa lòng
lá nhỏ
Tiếng kêu kia còn một chút mong manh Dòng nức nở như tia hồng đốm đỏ Lạc trời cao kết tụ bóng không thành (Hư vô và vĩnh viễn - Mưa Nguồn)
Không gian
Bùi Giáng, một cõi hư không đầy dấu hỏi, bồng bế nhau đi, năm này qua tháng
khác, một cõi trùng sinh, di động luân hồi.
Những nhịp bước trên đường
còn dội mãi
Vang về đâu không vọng lại hồi âm Của réo rắt riêng một lần mãi mãi Gió phương trời ủ mộng giữa hoa tâm Em hỏi mãi tuy biết lời đáp lại Chẳng bao giờ thỏa đáng giữa đời câm Em ngó mãi những chiều về trở lại Mang những gì về trong cõi trăm năm... (Chiều - Mưa Nguồn)
Từ Nguyễn Du,
Bùi Giáng trích tạo nên một mô típ bạc mệnh hiện đại, mầu sắc siêu thực, tài
tử và tài hoa, một chất thơ giao thoa Nguyễn Du Bùi Giáng
Lớp phiêu bồng mọc trăng
ngàn
Thành xưa phố cũ muôn vàn phía sau Ðạp thanh vẽ bóng lộn mầu Góp dâng cữ gió nghiêng đầu sương mây Ngõ ban sơ hạnh ngân đài Cổng xô còn vọng điệu tài tử qua Xin chào giữa bước chân ra Chết từ sơ ngộ mầu hoa trên ngàn (Mầu hoa trên ngàn)
Nơi Bùi Giáng
còn một mô típ bạc mệnh, cuồng khất, tổng hợp đoạn trường, tồn sinh, ngông
ngôn, rất liều và rất loạn, mà cũng là vọng âm của niềm hoang mang tuyệt đối:
Hồng quần rất mực bước
ra
Trường quần duệ địa phong hoa lá cồn Phải rằng nắng quáng dập dồn? Hay là đèn trút linh hồn oái oăm? Phải là nguyệt giữa đêm rằm? Nguyên tiêu lãng đãng lá nằm ngẩn ngơ? Kể từ hằng thủy ban sơ? Kể từ sơ thủy về tờ vẽ trang? Kể từ thu tạ lên đàng? Rừng phong thu đã quan san nhuộm mầu? Phải rằng đó trước kia sau? Hay là sau trước còn tao ngộ gì? (Con đường ngả ba)
*
Nhưng bi kịch
của Bùi Giáng là ông lập lại chính mình.
Trong gần nửa thế kỷ
làm thơ, Bùi Giáng để lại hàng ngàn bài, có những câu thơ tuyệt hay, nhưng
chính sự lập lại những khám phá ngôn ngữ buổi đầu khiến thơ ông trở thành
khuôn sáo, về mặt từ ngữ cũng như tư tưởng. Những dạ thưa, tồn sinh,
trùng lai, phố thị của Bùi Giáng, tà huy của Nguyễn Gia Thiều, mù
sa, trăm năm của Nguyễn Du... ban đầu làm xuyến xao người đọc: Em về
rũ áo mù sa, trút quần phong nhụy cho tà huy bay. Nhưng vì lập lại nhiều lần
chúng bị phá giá. Hiện tượng phá giá này có mặt ngay ở những tác phẩm đầu và
chủ yếu của Bùi Giáng.
Từ Mưa
Nguồn, Lá Hoa Cồn, năm 62, 63 đã thấy xuất hiện tính chất đoạn trường, tồn
sinh như tinh thần chính trong tư tưởng Bùi Giáng: Nguyễn Du, Tản Ðà gặp gỡ
Heidegger, Breton phóng sinh một tạng chán đời mới lạ. Bài Rượu Uống trong Lá
Hoa Cồn, một thứ đoạn trường ngông rất lãng mạn siêu thực, tiêu biểu cho tính
chất lang thang trong cấu trúc thơ Bùi Giáng:
Thưa em rượu uống bây giờ
Là trăm năm gục hai bờ tử sinh Ðộng hờ hững chúa điêu linh Em làm Hoàng Hậu mọc tình cỏ phơi Nhà ma cửa quỷ đi đời Chìm hơi thở đục trong lời sương xanh Càn khôn xiêm mỏng che mành Về trong thiên hạ em thành thiên thân.
Thưa em rượu uống bây giờ
Là thiên cổ lụy còn trơ bên mình Tài hoa tiếng vọng điêu linh Phạm Ðan Phượng chết theo Quỳnh Như sao. Thưa em từ bữa nghiêng chào Chớm trang đầu chợt sóng trào trường giang Em đi rắc lá trên đàng Cỏ xanh rì mọc suốt càn khôn kia Mùa xuân mưa rưới mộng lìa Về trong nắng hạ mép bìa sai bâu
Thưa em rượu uống bây giờ
Là trong lát nữa lên bờ đuổi ma Chạy quang cồn cụm lá già Rách như bươm suốt ruộng sa mạc đồng Càn khôn gió đổ chất chồng Rú như beo rống như hùm đổi hang Trên rừng dưới lũng tan hoang Vẫn sừng sững bóng chắn ngang quỷ sầu
Thưa em rượu uống bây giờ
Là trong lát nữa trăng mờ hỏi ma Hỗn mang về giữa hiên nhà Bây giờ cố quận tên là chiêm bao Nhìn nhau trong lũy ngoài hào Lời phôi dựng một điệu chào dị sai Trên đầu thế kỷ chia hai Nguồn man mác lạnh tìm ai bây giờ
Thưa em rượu uống bây giờ
Là thiên thu lại còn trơ hận trường Chung cầm dâu biển khôn lường Chân trời mộng lý con đường chia ba Nam đình doanh trại dàn qua Trống chầu trùng ngộ thưa là không mong Hoạt tồn phát tiết sầu đong Tràng giang thế kỷ xô dòng xuống lên
Bài thơ gồm
năm nhịp nối tiếp nhau bằng điệp khúc Thưa em rượu uống bây giờ. Mở đầu Thưa
em rượu uống bây giờ, điệp khúc mấu chốt, mở cửa dẫn đến câu thơ thứ
nhì: Là trăm năm gục hai bờ tử sinh. Cả hai nằm trong cấu trúc song
song, tổng hợp quan niệm ngông, đoạn trường và hiện sinh của toàn bài. Câu
ba, câu bốn: Ðộng hờ hững chúa điêu linh, Em làm Hoàng Hậu mọc tình cỏ
phơi, đệm thêm chất lẳng lơ dục tính, nhưng đã loãng đi vì loại hình này được
Bùi Giáng dùng nhiều. Rồi Chìm hơi thở đục trong lời sương xanh, một câu
rất hay bị đặt bên một câu lãng xẹt: Nhà ma cửa quỷ đi đời.
Nếu chúng ta đọc đến nhịp thơ thứ nhì:
Thưa em rượu uống bây giờ
Là thiên cổ lụy còn trơ bên mình
cũng vẫn thấy nguyên những nhược điểm
như nhịp thơ đầu, tức là trong phần thơ đệm có những vội vàng, dễ dãi, ghép
chữ, ghép ý rất sáo: Tài hoa tiếng vọng điêu linh, Phạm Ðan Phượng chết
theo Quỳnh Như sao.
Ở những nhịp
sau, thì ngay chính điệp khúc mấu chốt:
Thưa em rượu uống bây giờ
Là trong lát nữa lên bờ đuổi ma
Thưa em rượu uống bây giờ
Là trong lát nữa trăng mờ hỏi ma
Thưa em rượu uống bây giờ
Là thiên thu lại còn trơ hận trường
đã có sự lập lại chính mình, như thể
nhà thơ tiện tay bắt được chữ nào vội bỏ ngay vào lục bát, không màng nhìn lại
những câu thơ đầu nữa.
*
Tất nhiên láy
là một quy ước rất thường trong thi ca. Nhưng láy chỉ làm tăng giá trị thơ
khi nó đưa đến những dồn dập hoặc trong cảm xúc, hoặc trong nhịp điệu, hoặc
trong sinh động... Tức là láy phải đưa tới một trạng thái căng thẳng, tới một
vận tốc khác trong tiến trình âm và ý.
Ví dụ:
Này chồng, này vợ, này
cha
Này là em ruột, này là em dâu
là một trong những cách láy của Nguyễn
Du, vừa tăng vận tốc miêu tả, vừa gia tốc sức ép của hiện thực, rành rành,
chính xác, chỉ mặt, chỉ tên.
Hoặc:
Làm cho cho mệt cho
mê
Làm cho đau đớn ê chề cho coi
Láy ở đây lũy
thừa mật độ ác liệt của Tú Bà.
Hoặc:
Buồn trông cửa bể chiều
hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa Buồn trông ngọn nước mới sa Hoa trôi man mác biết là về đâu
Mỗi lần láy
này là một lần Nguyễn Du chuyển cảnh, chuyển tình.
Sự láy lại,
nơi Bùi Giáng, rất thường khi chỉ là láy dập dình tại chỗ, láy lười, thấy hợp
vần, tiện thể thì láy. Láy hồ đồ ít khi mang tới trạng thái mới, cảm xúc mới,
hoặc một sức ép gia tăng, mà chỉ cho ta một cảm tưởng dằng dai, lai tạp:
Hãy mang tôi tới giữa đời
Giết tôi chết giữa cõi đời mốc meo Hãy mang tôi tới nắng chiều Giết tôi chết giữa một chiều khe mương Hãy mang tôi tới dặm trường Giết tôi chết giữa con đường bơ vơ Hãy mang tôi tới bất ngờ Giết tôi ngẫu nhĩ trong giờ ngẫu nhiên Hãy mang tôi tới diện tiền Giết tôi chết giữa người thuyền quyên kia (Sa mạc trường ca, Cầu Nguyện Ca) *
Jacques Brel,
năm 1966, khi tuyên bố ngừng hát ở tột đỉnh danh vọng, trả lời câu hỏi: "Tại
sao ông ngừng hát lúc này?" Brel bảo: "Tôi ngừng vì muốn giữ
lòng ngay thẳng với thính giả và với chính mình. Bởi vì khi người nghệ sĩ như
tôi, đã nắm vững được tất cả những yếu tố kỹ thuật làm lay động lòng người,
thì người đó sẽ có khuynh hướng ăn gian (tricher), phong tỏa người nghe bằng
tất cả những kỷ sảo của mình, và khi tôi biết mình sắp đi đến chỗ bước vào kỷ
sảo , tôi ngừng." Tất nhiên, Brel chỉ ngừng hát hai năm và năm 68,
khi ông trở lại với âm nhạc, đã với một tinh thần khác, hẳn Brel biết mình đã
đoạn tuyệt được với ý định dùng kỷ sảo để thu phục lòng người. Và
Brel ở lại với âm nhạc thêm sáu năm nữa.
Ở Bùi Giáng hình như không có sự tự giới ấy. Cho nên biết bao lần người đọc tiếc, giá Bùi Giáng đừng ham chơi, chịu khó dừng lại ở chỗ đáng dừng để những câu thơ sáng giá như:
Bụi thu mờ ai phủi với hai
tay
hoặc:
Em về mấy thế kỷ sau
Nhìn trăng có thấy nguyên màu ấy không Ta đi còn giữ đôi giòng Lá rơi có dội ở trong sương mù
khỏi bị lọt vào khu rừng hoang, ôm đồm
những lời thơ vội vàng, mọc lên như cỏ dại.
*
Ám ảnh đoạn
trường, tư tưởng và ngôn ngữ Nguyễn Du theo đuổi Bùi Giáng suốt đời. Những tập
thơ mới nhất, in ở hải ngoại những năm gần đây càng lộ rõ. Trong những cuốn Thơ
Bùi Giáng (sđd), Bùi Giáng 94 (in tại California năm
95), và một phần tập Chớp Biển (sđd), Bùi Giáng tìm về người
thầy Nguyễn Du như một cứu cánh. Hầu như mỗi bài thơ của ông đều có ít nhất một
chữ hoặc một câu của Nguyễn Du. Và cấu trúc toàn bài thường dựa vào ý một câu
Kiều:
Rằng xưa ký ức đàn
bà
Tên là phụ nữ, tuổi là dấn thân. ..... Trước đèn một tập mở ra ..... Biển dâu lục địa cõi miền ..... Cảo thơm lần giở gió giăng dậy thì
Ám ảnh
"mù sa", ám ảnh "chỉn e", ám ảnh "vân mòng",
"mai sau", "trăm năm", "ngẫu nhĩ", "phong
tình", "cổ lục", "dặm về", "tử sinh"... trở
thành lớp da thứ nhì của Bùi Giáng:
Rừng phong thu đã nhuốm
màu
Quan san ngần ấy tư trào ngần kia ..... Chốn nào mộng mị chiêm bao Chốn này tỉnh táo tiêu tao vân mồng
Từ cảnh sang
tình, từ mơ sang thực, ám ảnh ngôn ngữ trở thành ám ảnh tư tưởng. Bùi Giáng
đã cạn dần hồn mình và sống hồn Nguyễn Du trong đoạn cuối đời:
Em đi từ tỉnh mộng đầu
Một mình anh ở mang sầu trăm năm
Em từ vô tận xa xăm
Trùng lai chất vấn: Từ trăm năm nào?
Những câu hỏi
mà Bùi Giáng trải suốt đời thơ, thắc mắc, tìm kiếm, đặt nghi vấn về cõi đi,
cõi ở, cõi có, cõi không, biết đâu hôm nay Bùi Giáng chẳng đã tìm được Nguyễn
Du ở một cõi trùng lai nào đó, và ông đang chất vấn người
thầy về nỗi đoạn trường ấy, từ trăm năm nào?
Tháng 10/1998
Thụy Khuê |
Chú thích:
(1) trích theo Thanh Tâm Tuyền, Bùi Giáng, Hồn Thơ Bị Vây Khổn, Văn, số đặc biệt Bùi Giáng, tháng 5 năm 1973. (2) Trừ một số bài như bài của Tạ Tỵ, trong cuốn Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay, in năm 1972, tại Sài gòn, tái bản ở Hoa Kỳ và các bài viết của Thanh Tâm Tuyền, Cao Huy Khanh, Trần Hữu Cư, Nam Chữ, Tuệ Sỹ, Trần Tuấn Kiệt và Thục Khưu trên báo Văn, số đặc biệt Bùi Giáng, tháng 5 năm 1973 tại Sài gòn. (3) trích theo Thanh Tâm Tuyền, s đ d. (4) trích theo Thanh Tâm Tuyền, s đ d. (5) nhà xuất bản Thế Kỷ in năm 1994 tại Hoa Kỳ. (6) trong cuốn Chớp Biển, thơ Bùi Giáng in tại Canada năm 1996.
© 1995-2001 Thụy Khuê
|
Một bài viết đầu năm về nhà thơ Bùi
Giáng,một thi sĩ kì lạ.Những vần thơ của ông đã in sâu vào tâm trí N :
"Ta sẽ đặt mười ngón tay lên mắt
Để nhìn em qua khe hở du dương."
----o0o----
1. Trạng thái "điên" của Bùi
Giáng có ý nghĩa gì?
Theo thầy Thích Nguyên Tạng (chùa Pháp
Vân, Gia Định, Sài Gòn), Bùi Giáng tự ghi tiểu sử của mình cho thầy trong cuốn
sổ tay vào buổi trưa ngày mùng 10 tháng 11 năm 1993 như sau:
Điên rồ lừng lẫy chết đi sống lại vẻ
vang
Rong chơi như hài nhi (con nít)
Được gia đình ông Phó Chủ Tịch (482) Lê
Quang Định, Hội Đồng Thành Phố đối xử
thơ mộng thênh..."
Bùi Giáng sinh ngày 17 tháng 12 năm 1926
ở làng Thanh Châu xã Vĩnh Trinh huyện Duy Xuyên, Quảng Nam. Tạ thế tại bệnh viện
Chợ Rẫy Sài Gòn, hồi 2 giờ chiều ngày 7 tháng 10 năm 1998. Ông là cháu ngoại của
tổng đốc Hoàng Diệu, con của ông Bùi Thuyên và bà Huỳnh Thị Kiền làm nghề dậy học
ở Đà Lạt, Sài Gòn, biên soạn sách giảng luận về văn học, triết học, kiếm hiệp,
viết văn, làm thơ...
Theo Võ Đắc Danh, hồ sơ lưu trữ tại nhà
thương điên Biên Hoà ghi nhận Bùi Giáng nhập viện hai lần. Lần thứ nhất vào năm
1969, lần thứ hai vào năm 1977, thời gian này Nguyễn Ngu Í vẫn còn trong bệnh
viện, hai người cùng ở khu 3.
Bệnh án của Bùi Giáng có đoạn ghi:
"Bệnh tái phát từ tháng 4 năm 1969, có hôm thức suốt đêm để viết, nói
huyên thuyên, chơi chữ, có khi la thất thanh, ý tưởng tự cao tự đại. Hay phát
biểu ý kiến về những vấn đề chính trị, văn hoá trọng đại, có ý nghĩ bị người ta
phá hoại sự nghiệp văn chương. Tháng 3 năm 1969 bị cháy nhà và cháy tất cả sách
vở quý báu nên đương sự bị bệnh mỗi ngày một nặng hơn...".
Tuy nhiên đọc thơ Bùi Giáng, tôi không
thấy bệnh điên ảnh hưởng gì đến câu chữ của ông. Trái lại, ông ý thức rõ trạng
thái điên của mình, điên là một thái độ sống có ý thức.
Đời này đất đá cằn khô
Điên duỗi dọc, điên ngửa nghiêng
Điên là hạnh phúc thần tiên ở đời.
(Dzách)
Viết vào Bùi Giáng mong manh...
Đọc thơ Bùi Giáng là thuốc thử về quan
niệm thơ, về mỹ học thi ca. Đã và sẽ không ai sai nhiều lắm, cũng không ai đúng
là bao, khi bình bàn về thơ họ Bùi. Nhắc về cái tuyệt đỉnh trong thơ Bùi Giáng,
độ cao sâu tư tưởng ở trước tác Bùi Giáng nhiều bao nhiêu cũng thấy thiếu; mà
chỉ ra những câu thơ dở, những bài thơ tệ, những đoạn văn chán trong chữ nghĩa
Bùi Giáng bao nhiêu cũng bằng thừa.
Viết vào Bùi Giáng mong manh...
ĐỖ QUYÊN
"Đêm nay
Những lứa đôi gặp gỡ
Để ngày mai
Ra đời
Những đứa trẻ mồ côi"...
(Bertolt Brecht)
Trong bài Bài Thơ Ấy của Trung
niên thi sĩ, có hai câu
"Viết vào tờ giấy mong manh
Bao nhiêu tình tự long lanh không lời".
Đọc thơ Bùi Giáng là thuốc thử về quan
niệm thơ, về mỹ học thi ca. Đã và sẽ không ai sai nhiều lắm, cũng không ai đúng
là bao, khi bình bàn về thơ họ Bùi. Nhắc về cái tuyệt đỉnh trong thơ Bùi Giáng,
độ cao sâu tư tưởng ở trước tác Bùi Giáng nhiều bao nhiêu cũng thấy thiếu; mà
chỉ ra những câu thơ dở, những bài thơ tệ, những đoạn văn chán trong chữ nghĩa
Bùi Giáng bao nhiêu cũng bằng thừa.
Cái Hay cái Dở ăn ở ở thơ Bùi Giáng
Hay dở dở hay: Đây là đầu mối của các bình
giá về thơ Bùi Giáng!
Đa số các nhà phê bình đều đánh giá thơ
Bùi Giáng đến mức cạn nguồn tiếng Việt ở độ ca ngợi. Tôi theo "phe"
này, nhưng ngợi ca bằng lời nôm: thơ Bùi Giáng, một là: hay... ơi là hay; hai
là: không phải chỉ có hay! "Phe" chê thì không nhiều, điển hình là Trần
Hữu Thục, Thụy Khuê, Phan Nhiên Hạo...
Giá có ai cầm bút dọa... giết, tôi cũng
không đồng ý với Trần Hữu Thục rằng: "Nói cho rõ ràng ra, thơ của Bùi
Giáng dở. Trừ một số câu thơ hay – chưa hẳn là rất hay –, còn lại hầu hết thơ ông
đều dở", "Ta có thể nói, cái dở trở thành tính cách của thơ
ông". Cũng như ít san sẻ được với Thụy Khuê: "Bùi Giáng để lại hàng
ngàn bài, có những câu thơ tuyệt hay, nhưng chính sự lập lại những khám phá
ngôn ngữ buổi đầu khiến thơ ông trở thành khuôn sáo về mặt từ ngữ cũng như tư
tưởng". Vâng, sự nhàm lặp là có. Nhưng với cái "thằng" nhàm lặp
chịu trách nhiệm ở nhiều câu dở, cũng khó có thể thể thổi tội hắn lên như vậy.
Trong một dịp ngồi chuyện phiếm với Phạm Duy, tôi nhắc đến thơ họ Bùi với ý ca,
họ Phạm gật gù vẻ cho qua, rồi không đừng được ông hơi nhăn mặt: "Nhưng lắm
câu nhàm! Lặp lại quá, cậu ạ!" Cái nhàm ở cấu tứ, nhịp điệu, ngôn từ trong
thơ Bùi Giáng, nhiều người nhận ra như thế. Nguyễn Hưng Quốc đã bình giá thơ
Bùi Giáng mà tôi nghĩ có thể như một lý giải khả ái về vụ nhàm lặp: "Tôi
cho đây là đặc điểm nổi bật nhất trong phong cách thơ Bùi Giáng: thơ Bùi Giáng
chính là sự xoá nhòa của mọi đường biên quen thuộc vốn được mọi người chấp nhận
như là một quy ước, một luật lệ trong văn học từ xưa đến nay". Tôi thật tiếc
cho Thụy Khuê khi chị tiếc cho một cái tiếc xây nên tất cả "ngôi nhà Bùi
Giáng", tác phẩm cùng con người: "Cho nên biết bao lần người đọc tiếc,
giá Bùi Giáng đừng ham chơi, chịu khó dừng lại ở chỗ đáng dừng để những câu thơ
sáng giá (...) khỏi bị lọt vào khu rừng hoang, ôm đồm những lời thơ vội vàng, mọc
lên như cỏ dại". Ô! Nếu như Bùi quân đừng thế này phải thế kia (đóng
complet, leo lên mạng mà chat mà mail thì thơ của ông đã... giáng trần mất rồi!
Thưởng thức thơ, bất nhất như với ẩm thực.
Vì "mùi sầu riêng" ở thơ Bùi Giáng mà sinh tranh cãi – đó là điều dễ
hiểu. Như, trong bài Tặng Quán Phở Huyền Trân,
"Hai cô bán phở dịu dàng
Đừng nên nói bậy hai nàng buồn ta
Trẫm từ lịch kiếp phôi pha
( . .
. )
Tuỳ thời thể dựng mà tuy nhiên là"
khi mà Nguyễn Hưng Quốc ngạc nhiên
"Ai cũng thấy rõ hai câu đầu và sáu câu sau có giọng điệu khác hẳn nhau. Vậy
mà, riêng tôi, thú thật, tôi không hiểu tại sao Bùi Giáng có thể chuyển từ hai
câu đầu xuống sáu câu dưới một cách dễ dàng tự nhiên như vậy", thì cũng
thú thật là tôi hiểu tại sao rồi.
Cái dở trong thơ của các nhà thơ hay
Sẽ rất thú vị về những phát hiện vết đen
trên mặt trời thi ca mà các chiêm tinh gia, thiên văn gia với đầy đủ kính viễn
vọng, vô tình hay cố ý, hoặc bị ràng buộc bởi cách thức phê bình đã không nhận
ra ở các bài phê bình mô phạm. Cái dở trong thơ của các nhà thơ hay. Đó không
phải dọn vườn thơ ở các thi sĩ đã mang thương hiệu. Càng không là hành vi
"lật đít tượng" hay "đốt đền"! Đó cũng không hẳn là
"nói đến cái dở thì cũng chỉ cốt làm nổi cái hay" (Hoài Thanh). Tìm
hiểu điều dở trong thơ ở các thi nhân, xét cho cùng, là – vươn qua các thi nhân
cụ thể – để thấy cái thú vô tận trong cõi chung, bất định, bất toàn của
nghệ thuật thi ca.
Với các bậc kỳ tài, có những cái dở tệ
trong thơ có thể chấp nhận được. Nhưng, thơ rất khó tính: có những cái thơ
không thể cho phép một nhà thơ đã đến thế mà lại có thể hạ một chữ thơ, một câu
thơ, một bài thơ như thế. Điều đó nằm ở đâu: Đề tài? Nội dung? Chi tiết? Câu chữ?
Cấu tứ? Hình tượng? Nhịp điệu? Âm vần? Xúc cảm? Tất cả đều có thể. Và ở từng
tác giả, từng câu, bài cụ thể nó hiện ra mỗi cách, khi hiển hiện khi ẩn tàng.
Trong thơ, chúng là cái dở vô cớ; nói nôm là lãng xẹt, vớ vẩn. Phân tích từng
nhà thơ với văn phong, tính cách, cuộc đời, bối cảnh xã hội… ta có thể tiếp cận
nguyên do của các cái dở vô cớ. Nói chung, với những nhà thơ tránh được lỗi
này, ta gọi họ là những người biết tự biên tập thơ. Làm thơ là khó, là phiêu
lưu; biên tập thơ là chuyện sống chết! Chiến công trong các chuyện sửa thơ thường
được lưu truyền như giai thoại.
Bạn bè chúng tôi hay bày trò lập
"Top” cho thơ Việt hiện đại. Đương nhiên kết quả rất khác nhau. Tùy sân
chơi. Tôi ghi nhận được rằng Bùi Giáng thường có trong "Top-10"; thi
thoảng lọt vào "Top-7"; rất hiếm khi trúng "Top-5". Trong
các nhà thơ được xếp hạng đó, hình như Thanh Tâm Tuyền, Huy Cận là các nhà thơ
ít có những cái dở vô cớ. Xuân Diệu, Nguyễn Bính rồi Bùi tiên sinh nhà ta là
các đấng tài hoa kiêm các đấng "hơi bị nhiều" các cái dở vô cớ, các
đoạn, bài vớ vẩn. Thật chí vớ va vớ vẩn! (Ở đây không xét những gì gọi là
"phục vụ chính trị" đưa đến cái dở vô cớ của một số vị nói trên. Nhấn
mạnh: quan hệ giữa chính trị và chất lượng thơ lại là một đề tài khác. Ta đang
hàm ý việc nhiều nhà thơ vốn không hạp gu chính trị thì dễ có cái dở vô cớ ở
thơ trong khi phải phục vụ chính trị tức thời.)
Còn điều nữa, tương tự: Cái dở trong các
bài thơ hay. Tìm hiểu điều dở, điểm bất cập trong những thi phẩm đã được xếp hạng
kinh điển xét cho cùng, là – vươn qua các thi phẩm cụ thể – để thấy cái thú vô
tận trong cõi chung, bất định, bất toàn của thi ca.
Hàn Mặc Tử có thơ rằng "Người thơ
phong vận như thơ ấy". Bùi Giáng có một đời thơ; và trên hết, còn có những
bài thơ, có một trường thơ vĩnh cửu trong làng thi ca tiếng Việt.
Các tiểu phẩm, dịch phẩm, biên khảo,
sách giáo khoa của thi sĩ dường như chỉ mang giá trị tinh thần, không nhiều người
tìm được giá trị sử dụng. Đọc xong ít nhiều trang văn xuôi của ông, tôi chẳng
biết dùng nó vào việc gì, nhưng đinh ninh chúng là thứ của chìm cho hành trang
sáng tác, suy tư của mình. Còn với Phan Nhiên Hạo: " (…) biết rõ,
ngay từ lần đầu tiên đọc Bùi Giáng, tôi không thích văn chương ông. (...) và
tôi không chịu được dịch thuật của ông. Thơ ông làm theo những thể điệu cũ, vừa
trong sáng nhưng cũng vừa cầu kỳ, giọng điệu vừa đùa cợt lại vừa trịnh trọng,
và phảng phất một không khí cổ. Còn dịch thuật, phải nói ông phóng tác thì đúng
hơn. Mà phóng tác như viết kiếm hiệp. (…) kiểu văn chương "phiêu bồng"
của Bùi Giáng dường như ở quá xa mặt đất đối với tôi." Trang lứa đàn em
Phan Nhiên Hạo bây giờ, chắc sẽ dành hàng giờ để sục xạo các mạng hơn là đọc những
trang văn Bùi Giáng nửa đùa nửa thật, nửa thấp nửa cao. Nên tôi giật mình trước
chi tiết Nguyễn Hữu Hồng Minh đưa ra: "Bùi Giáng rất hay nổi điên khi có một
người nào truy bức ông đến cùng. Cho dù đó là thi ca hay học thuật. Tôi cho rằng
ông tránh các cuộc va chạm nảy lửa và tàn khốc ấy với hai lý do: Một, cuộc đời
ông quá đủ đầy như một minh chứng; và hai, ông không muốn tái lặp lại bất cứ một
đặt đề, một định đề nào cho nghệ thuật". Phải chăng chính tiên sinh nhận
ra, hơn ai hết, chất lỏng lẻo, bất nhất, tang bồng trong các áng văn thơ đó và
ngài ngại bị chất vấn đến cùng? Hay vì ngài là cái nòi không muốn đặt đích cho
công việc, nên không chịu trước tác "thẳng lối ngay hàng" để có các
trang bài mà Phan Nhiên Hạo trông chờ? Nền văn nghệ, văn hóa miền Nam 1954-1975
với đặc thù của mình đã sinh ra được vài kỳ nhân. Xã hội Việt Nam trong hơn một
thế kỷ qua, chưa ở đâu có được những Bùi Giáng, Trịnh Công Sơn, Phạm Công Thiện
như vậy. Những "thiên thần" đó đều có... "ma quỷ" trong
mình.
Nhìn Bùi Giáng "đi vào cõi
thơ"
Đi Vào Cõi Thơ, có thể xem đây là tập
phê bình (nửa bình luận nửa nhận định) văn chương đặc trưng phong cách Bùi
Giáng. Không khó đọc, như nhiều trang văn xuôi khác của ông. Nhà xuất bản An
Tiêm, Paris, 1998, tái bản (từ bản in lần đầu 1969, nhà Ca Dao, Sài Gòn, 1969);
hai cuốn, mỗi cuốn trên dưới 160 trang, khổ thường, trình bày sang, trong sáng.
Nhìn chung các bài đều ngắn, 2-3 trang, nhiều bài chỉ 5-6 câu, nửa trang. (Gọi
là trang cho tiện, chứ các trang của hai cuốn sách này chứa rất ít chữ). Ở cuốn
Hai (mang tên Thi Ca Tư Tưởng – Sổ Đoạn Trường) kích cỡ các bài khá đều; cuốn Một
thì thất thường: những bài chỉ 3-4 câu (về Dylan Thomas, Walt Whitman); vài bài
thiệt dài: về Huy Cận (21 trang), Hoài Khanh (13 trang), Quang Dũng (8 trang),
Tuệ Sỹ (8 trang). Nếu Anton Tchekhov làm phê bình gia, chắc ông sẽ không cần phải
mơ đến "những bài gọn bằng một bàn tay" nữa. Chúng có trong Đi Vào
Cõi Thơ rồi!
Bùi Giáng đã phê, bình, bàn... về nhiều
nhà thơ, nhà tư tưởng cổ kim Đông-Tây. Ở cuốn Hai, vài chủ điểm chung chung
cũng được đáo qua (dịch, thi ca, triết lý, Thượng Đế). Chừng 90 tác giả khá
tiêu biểu được chọn làm tên bài, và hầu như tên bài cũng chỉ là tên tác giả cần
bàn tới. Những tác giả được viết thành bài nhiều nhất là Hồ Dzếnh (7 lần), Nguyễn
Du (6), Xuân Diệu (3), Huy Cận (3), Đinh Hùng (3), Phạm Hầu (2), Hoài Thanh
(2), Đỗ Long Vân (2), Hoài Khanh (2), Mai Vân Thu (2), Khổng Tử (2),
Shakespreare (2), Martin Heidegger (2)... Một lần tác giả tự bình mình, trong
bài Bùi Giáng (trang 98, cuốn Một).
Nhà An Tiêm đã có một thao tác thừa mà rất
nhà nghề, khiến tập sách và tác giả thêm điểm: Lưu ý độc giả rằng tác giả, vì
các hoàn cảnh éo le, không thể viết tiếp các tập 3, 4, v.v... như dự định
"để cố tránh sự ngộ nhận, bởi vì còn nhiều nhà thơ tài ba mà Bùi Giáng
chưa đề cập đến." Khỏi cần thanh minh. Mọi cách thức phê bình đều có chỗ mạnh
yếu. Bản thân lối phê bình theo thị hiếu cá nhân đã là bất cập về tuyển chọn.
Chả thế Hoàng Trung Thông từng viết về Hoài Thanh: "Đừng trách anh tại sao
chỉ nói nhiều về người này mà ít nói về người kia." Cũng như các tác phẩm hay
dở dở hay của Bùi Giáng, tập sách này nếu biên tập chỉn chu, chắc phải bỏ
đến mươi bài.
Phương cách luận thơ của ông cũng theo lối bình
giải văn học, với nội dung và hình thức độc nhất vô nhị. Và, vẫn như Hoài Thanh
– Hoài Chân làm Thi Nhân Việt Nam, cách tuyển chọn, bình giải ở đây không qui
luật, hoàn toàn "phê bình cảm thụ hồn nhiên theo thị hiếu cá nhân".
Phong cách của Hoài Thanh thì sang cả, nhẹ nhõm mà tinh vi. Còn với Bùi Giáng
"nhiều khi đọc lên thật bàng hoàng. Với nhận xét tinh tế, độc sáng về một
khía cạnh nào đó của một tác giả thơ nào đó." (Tạp chí Thời Văn, Sài Gòn;
trang bìa cuối cuốn Hai). Tôi còn nhớ, khi đọc lần đầu, các bài như những đoản
kiếm khi đâm thẳng lúc lao xiên vào nỗi ham biết về thơ ca, vào cái tò mò về
Bùi Giáng của tôi. Trong bài về Hoài Thanh (trang 70, cuốn Hai), Bùi Giáng đã
viết về người thày cũ của ông, rằng phong cách phê bình Hoài Thanh tạo ra
"không biết bao nhiêu con đường cho những thi sĩ và phê bình gia đi
sau". Xin được nói thêm: Bùi Giáng là một. Người sau nên và có thể đi theo
Hoài Thanh được; và người sau không nên mà cũng không thể đi theo Bùi Giáng được.
Bài đầu tiên của cuốn Một, về Tuệ Sỹ, là
một áng phê bình không thể nào quên. Làm ta hiểu đúng và hiểu hay về Tuệ Sỹ,
nhà sư-nhà thơ mà theo tôi có thơ hay nhất trong giới tu hành (tức tính cả Phạm
Thiên Thư.) Các bài hay khác: Hoài Thanh, Hàn Mặc Tử, Nguyên Sa, Đỗ Long Vân,
Huy Cận...
Bài Vui Nhất Và Buồn Nhất (trang
110, cuốn Hai) là tản văn ngắn, dung dị, châm đến một cốt tủy của thơ, ít người
viết ra: làm sao nói được nỗi vui nhất bằng thơ! Xứng đáng đứng vào văn tuyển
cho học sinh.
Bài Đỗ Long Vân (trang 66, cuốn
Một) chỉ có ngần này câu chữ – "Đỗ Long Vân không làm thơ, nhưng lại là kẻ
có tâm hồn thơ sâu đậm thâm thiết rộng rãi hơn bất cứ kẻ thi sĩ nào. Trường hợp
ông cũng như trường hợp Trần Trọng Kim, Đào Duy Anh... mang tâm hồn thi sĩ giấn
mình vào cuộc biên khảo ngậm ngùi" – mà sao lênh láng, ngậm ngùi. Ở sự
đúng và sự thơ. Bài Đỗ Long Vân khác ở trang 87 cũng trúng lắm!
Bùi Giáng tài đúc những câu bảng hiệu
cho nhiều tác giả: "Nguồn thơ Đinh Hùng trong Mê Hồn Ca là nguồn thơ lạ nhất
trong thi ca Việt Nam." (trang 38, cuốn Hai); "Ngôn ngữ thơ Việt Nam
thành tựu bởi Nguyễn Du. Văn xuôi Việt Nam đạt tới cõi thâm viễn với Hoài
Thanh." (trang 70, cuốn Hai); "Thơ Huy Cận quả có như là cõi miền huyền
bí nhất của tinh thể Đông Phương." (trang 98, cuốn Hai).
Người thơ được thành bài nhiều lần nhất
là Hồ Dzếnh: 7 lần! (Nguyễn Du chính thức là 6 lần, nhưng thơ và con người của
"cha nàng Kiều" thì đi tới đi lui trong hai cuốn sách.) Tôi hơi khó
hiểu vì sự hợp "gu" giữa hai nhà thơ này. Có thể giải thích thế nào:
Cùng là thần lục bát? Cùng tâm trạng tha hương bỏ xứ, cô đơn? Đây cũng xin là một
câu hỏi tới các nhà Bùi Giáng học. Đọc 7 bài bình ấy, tôi thấy nó không sai,
không trúng; thú vị thôi, chớ không thần phục. Tôi cũng mê thích thi sĩ Minh
Hương này lắm, coi ông như một trong các đại tướng của quân chủng lục bát Việt
Nam, nhưng cái mê thích của tôi khác với Bùi tiên sinh nhiều quá. Chắc tôi chưa
hiểu hết Hồ Dzếnh rồi! Sẽ phải đọc lại các bài Giang Tây, Phút Linh Cầu từng
khiến Bùi Giáng "bải hoải chân tay".
Và cũng chính từ hai bàn tay ấy có biết
bao lời bình rất... chán:
– Sáo tai, nhàm mắt: "Nghĩ tới Nguyễn
Trãi, không còn can đảm đâu viết nên một lời gì cả" (trang 64, cuốn Một);
– Đại ngôn, tếu táo: "Đọc ông Nguyễn
Du mãi cũng chán. (...) Thơ Nguyễn Công Trứ là một con zéro. Thơ Cao Bá Quát là
một con zéro rưỡi (...) Hàng vạn bài na ná giọng điệu giống nhau. Chỉ còn mấy
bài của Ngân Giang nữ sĩ và Vân Đài nữ sĩ là có linh hồn" (trang 30, cuốn
Hai); "Người Việt Nam có thể không đọc Nguyễn Du, nhưng không thể nào
không đọc bài thơ kia (bài Rằm Tháng Giêng – ĐQ) của Hồ Dzếnh" (trang 36,
cuốn Hai);
– Không thuyết phục: "Thơ Nguyễn Thị
Hoàng trang nhã như thơ Bà Huyện Thanh Quan, mà lại cũng cay đắng như thơ Hồ
Xuân Hương, nhiều lúc nghe thống thiết như thơ bà Đoàn Thị Điểm" (trang
124, cuốn Một).
Họ Bùi bình chọn không ít các nhà thơ
chưa, đang thành danh, nhưng tôi thấy hiếm có bài nào thành công. Không phải vì
tên tuổi các vị đó không rạng rỡ như các vị thành danh, mà chính là ở chất lượng
bài viết. Chúng làm dở một tác phẩm quí hiếm như Đi Vào Cõi Thơ! Dễ có cảm
giác ông có các bài ấy vì thù tạc, hoặc vì ẩu! Có những bài tệ tới độ không phải
bình thơ mà là bàn tán loạn! Như các bài Mai Vân Thu, Phạm Quang Bình...
Võ Phiến cũng nhận xét: "Nói về một
thi sĩ khác, ông bảo khỏi cần trích thơ, chỉ cần nên ra các tên bài cũng đủ. Và
ông liệt kê một loạt tên bài tùm lum; chỉ có tên bài thôi. Có nhiều thi sĩ, ông
"đi vào cõi thơ" của người ta một hồi mà không thấy ông chọn được bài
nào, thậm chí một ý hay một câu hay, một chữ đẹp cũng không! Như thể bận tâm chứng
minh là một bận tâm nhỏ mọn quá, ti tiểu quá, không đáng lí đến."
Võ Phiến đã tinh tường nhìn ra vài bất cập
ở cách bình luận trong hai cuốn sách, khi tác giả động đến các thi sĩ cùng thời,
các bạn thơ của ông: "Khi khác, Đi vào cõi thơ (1969) của các thi sĩ cùng
thời với mình, Bùi Giáng càng tỏ ra tinh quái quá lắm. Chẳng hạn về trường hợp
một thi sĩ nọ – đồng hương với ông – ông nói qua nói lại một hồi, rồi ông bảo
trót đánh mất tập thơ của bạn nên không trích được bài nào. Sau này, có dịp cầm
chính tập thơ nọ trong tay, tôi loanh quanh tìm mãi không thấy có bài nào trích
được! Vậy Bùi Giáng có mất sách thực chăng? Và không tìm ra cuốn sách nào khác
của bạn thực chãng? Lẽ nào ba muơi nãm trước ở Việt Nam thơ ấy khó tìm hơn ba
muơi nãm sau ở Mĩ? Vả lại, không chỉ có trường hợp người bạn vừa kể. Chuyện như
thế xảy ra đều đều". Hai tác giả được Võ Phiến nhắc đến mà Bùi Giáng
"chạy làng" là: Tạ Ký (trang 109, cuốn Một) và Đặng Tấn Tới (trang
168, cuốn Hai).
Tôi không khẳng định có thật là Bùi Giáng
không có sách của hai-ba người đó hay không. Cũng không cho việc cả Bùi Giáng lẫn
Võ Phiến không chọn được bài thơ nào thì tập thơ đó phải dở. (Chúng ta đang nói
về phương pháp bình chọn theo "gu" mà!) Nhưng nếu Võ Phiến có lý thì,
xin thưa rằng bảo "tinh quái" là ông nói yêu đấy thôi. Hay vì ông đã
trọng tuổi nên dư lòng tha thứ! Kẻ viết bài này thua ông 2-3 thế hệ nên cũng
ráng bảo Bùi quân là "quái". Còn đám trẻ hơn, thế hệ "gọi con
mèo là con mèo", sẽ la lên: "Cụ Bùi xạo quá tụi bây nè!" Nếu như
Bùi quân có thủ sách trong tay nhưng không khoái trích dẫn thì quả đấy là một
giọng... trí trá (xin lỗi tôi chưa tìm được từ khác nhẹ hơn!) Ai cũng biết
trong nghề phê bình, tội trí trá được xem là tệ nhất! Nhưng mà thôi, tha lỗi
cho tôi chót nặng lời. Là Bùi "siêu quậy" của thi ca Việt Nam, lời nhận
định của ông cũng quậy, "cũng đi rồi đến". Chúng ta nên đọc ông với một
tâm thế riêng trong tương quan của mình với ông.
Một điểm này thì vui vui. Điều chính của
bài Quang Dũng (trang 88, cuốn Một) là bình bài thơ Kẻ Ở để chứng
minh nhận định (cũng nên coi như một ''đại ngôn" của tác giả): "Thi
ca hiện đại hay thi ca ngàn đời, thi ca Việt Nam hay thi ca thế giới – vâng –
cũng chỉ riêng một Quang Dũng thôi". Đoạn bình Kẻ Ở và toàn bài
Quang Dũng có thể xem là thành công. Nó chỉ "thất bại" ở chỗ, tác giả
lời bình cũng bị số phận như đa số dư luận yêu thơ khác – đó là biết bao nhiêu
năm đã bé cái lầm về tác giả bài thơ quen thuộc. Quang Dũng "người Sơn
Tây" không phải là tác giả của nó đâu ạ! Từ những năm 1989-1992, báo chí
trong nước, rồi ngoài nước, đã "trả cát bụi về cho cát bụi": bài thơ
Kẻ Ở trước được biết của Quang Dũng chính là bài Dặm Về (hay Mai Chị
Về) của Nguyễn Đình Tiên. Báo Cánh Én (Đức, số 15, 1992) đã có bài của
V.X.L. tổng kết vụ này. Các nghi án văn học đều kèm theo tai nạn. Trời giáng ai
nấy chịu. Đến "người trời" như Bùi Giáng cũng không thoát được. (Phụ
lục 1)
Thục quốc danh tướng, Việt Nam lục bát
thi sĩ và Bùi Giáng
Nếu Bùi Giáng (chỉ) là thơ, thì thơ Bùi
Giáng (chỉ) là lục bát.
Tôi sẽ ví các danh tướng nhà Thục thời
Tam Quốc với các thi sĩ lục bát tài danh Việt Nam! Một cách tương đối: Về ngôi
thứ uy quyền, nếu coi Lưu Bị là Nguyễn Du, thì tiếp theo ai là ai? Quan Vũ, ấy
là Nguyễn Bính; Trương Phi là Bùi Giáng. Vậy là xong nhà Lưu-Quan-Trương. Tiếp:
Triệu Tử Long: Hồ Dzếnh. Rồi những Hoàng Trung, Ngụy Diên, v.v... là những Bàng
Bá Lân, Cung Trầm Tưởng, Nguyễn Đức Sơn, Nguyễn Duy, Luân Hoán, Đồng Đức Bốn,
v.v... Còn hạng xoàng xoàng Tôn Càn, My Chúc, Giản Ung... thì kể không kể xiết.
"Lục bát là nơi thử thách bút lực của các thi sĩ" (Trần Đăng Khoa).
Tôi đoán chắc không sai là ai đã làm thơ tiếng Việt thế nào cũng kinh qua một
tá bài lục bát? Với rất nhiều người thơ, lục bát là mối tình đầu.
Bùi Giáng quí cưng Hồ Dzếnh lắm, quí hơn
Nguyễn Bính bội phần. Trong hai cuốn Đi Vào Cõi Thơ nói trên, Dzếnh được bình
những 7 lần (lại còn được yêu đến mức cải tên thành Hồ Xuân Dzếnh!); Bính được
nhõn có 1 lần! Bất chấp, trong khi chưa hiểu hết Hồ Dzếnh, tôi vẫn coi Nguyễn
Bính và Bùi Giáng là hai vị tả hữu quanh ông vua lục bát Việt – Nguyễn Du, Hồ
Dzếnh ở sau, cách xa hai vị này. Và còn khoảng cách rất xa nữa mới tới các vị
sau đó.
Rất nhiều câu thần ở lục bát hai ông thơ
này. Thần thơ Nguyễn Bính là thần dân, thần đất. Ta ngẩn ngơ và ngẫm một hồi,
không lâu. Ta hiểu, cảm được. Phần nào.
"Quê nhà xa lắc xa lơ đó
Ngoảnh lại tha hồ mây trắng bay".
(Hành Phương Nam)
Hay chính câu mà Bùi Giáng chọn khi bình
Nguyễn Bính ở Đi Vào Cõi Thơ:
"Mẹ cha thì nhớ thương mình
Mình đi thương nhớ người tình xa xôi".
(Thư Gửi Thầy Mẹ)
Đọc Bùi Giáng ta gặp Nguyễn Du đều đều, ở
những câu trang trọng, phức tạp:
"Biển dâu sực tỉnh giang hà
Còn sơ nguyên mộng sau tà áo xanh"
(Áo Xanh)
Và cũng gặp Nguyễn Bính thường xuyên, ở
những câu chân chất như lời lách lẹ ra từ tim; như thế này:
"Hôm nay mưa gió đầy trời
Về sau sẽ có vài người quên nhau"
(Mê Cung)
Hay như thế này này, khi nhà thơ tự tả
mình trong cái nhìn của cô hàng xóm:
"Vừa điên dại vừa thê lương
Vừa vui trời đất vừa buồn nắng
mưa".
(Lẩm Cẩm)
Lục bát Bùi Giáng là thơ của trời, lục
bát Nguyễn Bính từ đất. Tư tưởng là nền cho thơ Bùi Giáng. Ở Nguyễn Bình là
tình cảm. Có thể vì học vấn của họ Bùi thâm hậu, còn của họ Nguyễn thì chân
quê! Nhiều câu thần của Nguyễn Bính, đọc xong bạn có thể vỗ đùi: "Giá Bính
không viết, ắt mình hay thằng X. sẽ viết!" Cái thần Bùi Giáng là thần trời.
"Ông trời xanh ắt cũng phải bối rối lắc đầu…" huống hồ. Bạn chỉ có thể
vò đầu:
"Quét xong sân lá chợt buồn
Bỗng dưng chợt thấy nghìn muôn lỗi lầm" .
(Ca Dao)
Thần! Thần đến thế là cùng!
Hỏi ngay giới phê bình hay
các fan Bùi Giáng rằng bài thơ nào, 2-3 bài thơ nào là hay nhất. Chắc
họ tắc tị! Bù vào họ sẽ đọc vanh vách một vài câu, thậm chí cả chục câu xuất thần.
Không! Bùi Giáng đâu phải là nhà-thơ-của-những-câu-thơ-bạc-cắc. Trong tập
Đi Vào Cõi Thơ, khi tự bình thơ mình, ông chọn ra hai bài đượm chất chuồn chấu
nhất – tức Bùi Giáng nhất – đó là Giữa Phố và Bóng Dương Buồn Ngủ. Đã nhâm nhi
đến cả tá lần hai bài này, tôi khó mà có ý gì khác với tác giả. Song, nếu là
người tuyển chọn, tôi sẽ chọn hai-ba bài khác, của riêng mình. Với những độc giả
đã chịu rồi, thơ Bùi Giáng tỏ ra rất hào phóng, "dân chủ". Không như
với đại đa số nhà thơ tên tuổi khác, các bài hay của họ dễ thành của chung
trong lòng người yêu thơ. Ai cũng có thể có một Bùi Giáng, một thơ Bùi Giáng của
riêng mình. Trong khi chúng ta thường có chung một Nguyễn Du, một Nguyễn Bính,
một Xuân Diệu, một Hàn Mặc Tử, một Thanh Tâm Tuyền, một Hoàng Cầm, một Tô Thùy
Yên... Và ngay cả một Đinh Hùng, một Trần Dần...
Thơ Bùi Giáng có trong sách giáo khoa
cho học sinh chưa? Tôi cũng không biết! Nếu chưa thì nên có. Chọn vài bài thơ
hay nhất của Bùi Giáng vào hợp tuyển văn học thì khó. Nhưng không khó lắm khi
chọn thơ của ông vào văn tuyển, sách giáo khoa. Không xa tay tôi đang là tập
Mưa Nguồn (NXB Hội Nhà Văn, Hà Nội, 1993.) Thi phẩm đầu tay của ông. "Có lẽ
Mưa Nguồn là tập thơ đều tay và giá trị nhất của Bùi Giáng" (Đặng Tiến).
Tôi giở không chủ ý, nơi trang 108, được bài lục bát Xuân Bình Dương. Nó có thể
làm bài thuộc lòng cho học trò trung học thời a còng. (Phụ lục 2)
Công việc biên tập, in sách của Bùi
Giáng được làm ra sao?
Tại sao thơ Bùi Giáng lại hay dở dở
hay? Đây không chỉ là câu hỏi quan trọng cho giới phê bình nghiên cứu văn học,
mà còn cho các nhà Bùi Giáng học. Vấn đề biên tập dự phần ra sao? Tôi muốn hỏi
to một câu: Những khi thể trạng ông không điên-tỉnh, là người bình thường liệu
Bùi Giáng có tham gia chịu trách nhiệm trong việc in ấn, phổ biến tác phẩm của
mình không? Thực ra, các bản thảo "nguyên đai nguyên kiện" của một
tác giả nào đó chỉ có giá trị nhất định đối với những ai làm công tác nghiên cứu
văn bản. Một tác giả chỉ được đánh giá công bình qua các tác phẩm ra mắt độc giả
trong sự kiểm soát nào đó của anh ta về sự công bố.
Ngợp và ngạt giữa cái phi phàm lại thú vị,
cái khó hiểu đến kinh dị mà dễ thương, cái lộn xộn mà vẫn đâu ra đấy trong trước
tác của Bùi Giáng, công tác biên tập sách, bài vở của ông ở miền Nam trước
1975, ở Việt Nam và hải ngoại sau đó, dường như đã không qua cách thức bình thường.
Con người ta vốn sợ bỏ rơm rác ra khỏi một kho vàng. Cứ y như là khi phải ra đi
rác rơm mang theo vàng vậy! Là người không có đời sống tinh thần và vật chất ổn
định, là người viết tự do tuyệt đối (về phong cách, nhu cầu in ấn, tính chuyên
nghiệp), tác phẩm của Bùi Giáng dựa trên ý thức của một người phi học, vô
nghề. Cho dù có đúng là Bùi Giáng "không che dấu cái dở của mình.
(...) Chẳng những thế, ông lại còn cố ý phô bày nó ra, phô bày một cách chân
tình, hồn nhiên, toàn diện", nhưng những người biên tập đã làm gì cho tròn
trách nhiệm? Chính các điều dang dở và các điều dở trong bản
thảo đã góp phần tạo phong cách hay dở dở hay ở văn chương Bùi Giáng. Và
thách đố cho những ai bạo gan biên tập sách, bài vở của ông là ở đấy. In sách
thì phải cho ra sách. Ô cửa này của văn minh nhân loại thiên tài nào cũng phải
qua, nếu đã vào vòng định giá. Nhất là ở thời này, khi văn hóa truyền thông coi
việc truyền khẩu, giai thoại và các sản phẩm của nó như một cái gì man rợ!
Tôi ngưng đoạn này trong sự đồng tình
cùng ý với Phạm Thị Hoài: "Không sửa sang cho ông, như thường miệt mài gọt
rũa hay tưởng đang gọt rũa mình công phu lắm, với cái cớ rằng chữ nghĩa của ông
từ ngàn khơi đổ về, chẳng ai biên tập một đại dương. Không thẩm định, không đòi
hỏi, không đặt niềm tin, không thất vọng, ta nhẹ ban cho ông hai chữ
"thiên tài".”
Bùi Giáng và Những đứa trẻ mồ côi
Lời đề từ ở trên cho bài này là nguyên một
bài thơ của Bertolt Brecht. Lời, ý và tứ rõ ràng, lại mang nhiều nghĩa, nghĩa
nào cũng rõ ràng. Rất Đức tính. Thực tế, hiển hiện. Trữ tình, sâu ngút. Ta hãy
đọc nó (bốn câu đầu) bằng nụ cười, rồi (một câu cuối, hai chữ sau cùng) bằng nước
mắt. Sau, đọc lại cả bài bằng nước mắt hay nụ cười cũng được. Các lần đọc sau,
nước mắt khác nước mắt lần đọc trước, nụ cười cũng khác. Để chiêm nghiệm luật
nhân quả như một lẽ thường tình, một điều bất an. Từ khi đọc nó lần đầu, chừng
30 năm nay, tôi giữ bài thơ nhỏ nhắn trong mình như ôm trọn bông hồng đơn rực sắc
với những cánh gai dài nhọn. Mỗi nghĩa của bài thơ ám ảnh tôi trong từng vụ việc
cụ thể.
Độc giả người Việt Nam và người ngoại quốc
của văn học, rồi lịch sử, văn hóa Việt Nam cận-hiện đại là những đứa trẻ mồ
côi. Nhiều "đêm-ngày" đã qua, trong số họ, kẻ chỉ có Trần Đức Thảo,
Hoàng Xuân Hãn, Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi; đứa là của Nhất Linh, Hồ Hữu Tường,
Mai Thảo; dăm tên mau mắt hơn thì có thêm Đào Duy Anh, Trịnh Công Sơn, Trần Dần,
Bùi Giáng...
Mong cho bài tạp văn này về Bùi Giáng
không phải theo phận đứa trẻ mồ côi. *)
Canada, 2003 - 2009
Đỗ Quyên
Bùi Giáng - cuộc đời như giai thoại
Bùi Giáng điên. Cũng có điên. Nhưng ông
sống vui. Cũng thật vui. Kể chuyện ông, người nghe có thể cười cợt hoặc thèm
thuồng, tùy ý, nhưng chắc chắn một điều, người ta không dễ gì quên.
Pham Mi Ly -
Những tư liệu trích từ tập sách “Bùi
Giáng trong cõi người ta”, cuốn sách tập hợp các bài viết về “Đười ươi thi sĩ”
của các nhà nghiên cứu, do dịch giả Đoàn Tử Huyến chủ biên, đã dựng lên một
chân dung Bùi Giáng rõ ràng hơn so với những gì người ta đã biết về ông. 45 bài
viết, cả chân dung và phê bình, ghi chép nhiều câu chuyện có thật về Bùi Giáng
qua cảm nhận người viết, trong đó nhiều người đã tiếp xúc với ông. Đỗ Lai Thúy
là cây bút miền Bắc hiếm hoi có bài viết được tập hợp trong sách, bên cạnh những
cây bút miền Nam như Bùi Văn Nam Sơn, Bùi Công Thuấn, Nguyễn Hữu Hồng Minh, Thu
Bồn, Thanh Tâm Tuyền…
Nhà nghiên cứu Bùi Văn Nam Sơn, họ hàng
của Bùi Giáng, từng viết: “Viết đôi lời về Bùi Giáng không bằng đọc thơ Bùi
Giáng. Đọc Bùi Giáng không bằng giao du với Bùi Giáng. Giao du với Bùi Giáng
không bằng sống như Bùi Giáng. Mà sống như Bùi Giang thì thật vui mà thật khó vậy”.
Đó là nhận định rất chính xác, đến nỗi về sau hầu như không ai nói về “Đười ươi
thi sĩ” mà không trích dẫn câu nói này. Vậy nên, đọc bình về thơ Bùi Giáng thì
cũng thích vừa vừa thôi, đọc chuyện kể Bùi Giáng hồi còn sống, còn rong chơi mới
thật là thích.
Vậy sống như Bùi Giáng là thế nào? Khi
nói về con người ông, nhiều người bảo ông điên. Điên thật. Ông từng vào nhà
thương điên. Nhưng điên chỉ là hình thức thể hiện, sự phản chiếu ra ngoài của
suy nghĩ trong ông về cuộc sống. Chính ông cũng đã phát biểu quan niệm về sự sống
và cái chết, nhân bình một bài thơ của Huy Cận, bài “Chết”. Bùi Giáng viết:
“Chúng ta dường như quên mất rằng mỗi người chỉ có một cuộc sống thật xinh, và
cuộc sống đó rất có thể bị những thứ tai hại trong hồn ta làm cho méo mó đi… Tiếc
sao! Tiếc sao! Một sự sống quá đơn sơ, chúng ta cứ đời đời quên bẵng”.
Cuộc sống, theo Bùi Giáng, “có thể đổi dạng
theo lối tuyệt vô hy vọng, hoặc điên cuồng, hoặc rồ dại. Nhưng cuối cùng, phải
nên dìu nó về thể thái thanh thản khiêm tòng”. Ông đã sống một cuộc đời có nhiều
khoảnh khắc “thanh thản khiêm tòng”, ấn tượng vẫn lưu lại trong ký ức và những
câu chuyện của người thân, bè bạn.
Bùi Giáng rất yêu Huy Cận. Khi Marilyn
Monroe chết, ông cảm thán: “Phải chi bình sinh nàng có đọc thơ Huy Cận, ắt nàng
chẳng phải nên giận phận gì mà vội ngang tàn tính mệnh như thế” [ 1].
Ông xin chép bài “Nhạc sầu” ra để tặng nàng:
Ai chết đó! Nhạc sầu chi lắm thế…
xong xuôi lại viết: “Nhưng cố nhiên,
chép xong rồi thì nên xếp giấy lại, ra đường phố dạo một phen rong chơi… Chẳng
nên đăm chiêu dằng dặc. Chẳng nên o bế cái chết”. Khóc than mỹ nhân cũng chỉ bấy
nhiêu thôi. Sau cùng, vẫn là rong chơi. Bùi Giáng đến ngày tóc bạc hom hem vẫn
ngày ngày lê la trên vỉa hè Sài Gòn. Cuộc sống với ông là thế. “Nên kiệt tận
miên bạc bình sinh để sống cho đậm đà thơ mộng”, vì với ông, nếu không làm thế,
thì cuộc sống cũng chẳng khác nào cái chết.
Thời ông đi học, hai bài thơ “Chết” và
“Nhạc sầu” của Huy Cận đã gây “chấn động dị thường” trong tâm can. Ông bỏ học,
chạy về quê chăn dê. Bao nhiêu thơ làm ra, âm thầm tặng hết cho chuồn chuồn
châu chấu. “Làm thơ tặng chú bé con/ Làm thêm câu nữa tặng con chuồn chuồn”. Mấy
năm chăn dê chính là khoảng thời gian đáng nhớ trong cuộc đời của thi sĩ, là
lúc ông thực sự có “tâm sự u uất”, muốn xa lánh cuộc đời, theo lời người em
trai Bùi Công Luân.
Bùi Giáng có vẻ ngoài kỳ lạ, gặp rồi là
khó có thể quên. Nhà báo Nguyễn Vạn Hồng kể lại: “Ông ăn mặc lôi thôi lếch thếch,
bầy hầy hết chỗ nói”. Nhà thơ Thanh Thảo tả: “Bùi tiên sinh quẩy cái gì đó trên
vai, trông nửa như Bồ Đề Đạt Ma, nửa như… bác hành khất”. Bùi Giáng lại có thời
gian đi chăn dê ở Quảng Nam từ khoảng năm 1948, tổng cộng khoảng 3 năm, nhưng
ông tự bịa là 15 năm, để tương đương với thời gian lưu lạc của nàng Kiều.
Những thông tin trên có thể khiến người
đọc hình dung sai về gia cảnh của Bùi Giáng, vì nghe có vẻ… nghèo. Nhưng thực tế
là ngược lại. Ông sinh ra trong một gia đình giàu có ở Quảng Nam, được coi là
“một trang công tử”. Năm 1945, Bùi Giáng lấy vợ lần đầu ở tuổi 19, vợ là bà Phạm
Thị Ninh xinh đẹp có tiếng, cũng con nhà giàu (nhưng bà sớm qua đời vào năm
1948). Đến khi ông đi chăn dê, cũng là tự bỏ tiền ra mua đàn dê 100 con chứ không
phải chăn thuê. Chăn chơi vì yêu dê, không phải để bán hay để thịt vì nhà giàu
không cần tiền, theo lời kể của người em rể là Phạm Văn Hòa.
Trong bài viết "Bùi Giáng trong đời
tôi", tác giả Phạm Văn Nga, một nhà giáo, kể lại kỷ niệm hồi trẻ gặp gỡ
nhà thơ như sau: Năm 1972 tại Sài Gòn, tác giả thấy Bùi Giáng mang một tập sách
đến “chào hàng” tại hiệu sách nhưng bị chủ cửa hàng chối đây đẩy. Thấy trong
tay ông có hai cuốn “Cõi người ta” và “Hoàng tử bé” của Saint Exupéry còn mới,
lại do chính Bùi Giáng dịch, tác giả rụt rè đề nghị mua cho ông. Bùi Giáng chỉ
bán nửa giá, bán xong xuôi còn hỏi: “Ê, sao mày không để tiền bao gái, mua sách
làm gì?”. Phạm Văn Nga trả lời: “Dạ, tại con thích đọc”.
Thích chí, thi sĩ rủ cậu học trò đi uống
rượu, xong còn tặng anh thêm 4 cuốn sách khác của ông, đề tặng như sau: “Kính tặng
Ngài Văn Nga”. Ông giải thích: “Tao viết hoa chữ Ngài cho mày bằng Thượng đế vì
những thằng mê sách đều xứng đáng là Thượng đế”.
Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo từng kể một câu
chuyện về Bùi Giáng khi đã già. Có lần ông ra đường chơi, đi qua một đám cưới,
thấy cô dâu xinh đẹp quá, liền xông vào đuổi theo khiến cô dâu sợ quá chạy té
khói, làm loạn cả đám cưới của nhà người ta. Con cháu hay tin, đến lôi ông về.
Ông về, nằm được mấy ngày, lại xúi người nhà mở cửa “để tao đi chơi”.
Thơ Bùi Giáng còn gây nhiều tranh cãi về
độ hay dở, có những người không tiếc lời ca ngợi, nhưng cũng có những người cho
là không ra gì. Nhưng hơn hết, Bùi Giáng không chỉ là thơ. Con người ông với
cách sống, cách chơi, cách yêu kỳ lạ luôn khiến người ta cảm thấy thích thú khi
nhắc tới. Chỉ qua thơ ông mà biết ông là điều không thể, và cũng không nên. Vì
sẽ thiếu. Khi đã biết về ông, ít ai chưa một lần muốn sống như ông. Vui nhưng
mà cũng khó.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét