Năm cùng
tháng tận, tết nhất đến nơi mà thành phố vẫn phấp phỏng không biết bom đạn trên
trời ập xuống lúc nào. Dáng ai cũng vội. Mưa bụi hơi nặng hạt. Tiếng pháo rải
rác. Con chuột cống trụi hết lông trong rãnh nước lép nhép ra, gặp ánh điện lại
lõm bõm thong thả quay vào. Ngày mùng một, những bộ quần áo mới và những người
đẹp loé lên như nắng sớm. Kiểu áo Thái Lan vạt không viền gấu ngổ ngáo được các
ông phó may đất Kẻ Chợ làm cho dịu đi, ưa mắt. Thì cái áo đại cán ở Thái Nguyên
về chẳng ra sao mà đến Hà Nội cũng hoá nhũn nhặn, dễ trông. Chiếc chả giò Sài
Gòn bé bằng ngón út mà ra đây hoá thành cái nem rán nhân cua bể, món ăn quốc tế.
Chỉ những mái tóc xun xoăn lên như cô gái châu Phi thì hình như các tay thợ
ngôi chịu, vẫn để nguyên mẫu thế trên đầu các cô gái đời mới.
“Kẻ hèn nhát hỏi: ‘Có an toàn không?’ Kẻ cơ hội hỏi: ‘Có khôn khéo không?’ Kẻ rởm đời hỏi: ‘Có được tiếng tăm gì không?’ Nhưng, người có lương tâm hỏi: ‘Có là lẽ phải không?’ Và có khi ta phải chọn một vị trí không an toàn, không khôn khéo, không để được tiếng tăm gì cả, nhưng ta phải chọn nó, vì lương tâm ta bảo ta rằng đó là lẽ phải.”
Thứ Hai, 6 tháng 5, 2013
HỒI KÝ 7 NGÀY Ở CHIẾN TRƯỜNG QUẢNG TRỊ CỦA TRUNG ÚY NGUYỄN NGỌC ẨN - KỲ 1
Tôi là một
Y sĩ Trung úy mới tốt nghiệp khóa 18 Y Nha Dược sĩ Hiện dịch hồi tháng 12 năm rồi.
Trong suốt thời gian còn học trong trường, trong đầu tôi, lúc nào tôi cũng nghĩ
mình sẽ chọn Binh chủng Nhảy Dù khi ra trường nhưng hoàn cảnh làm tôi đã không
thực hiện được ý muốn đó. Tôi chỉ có hai anh em, anh tôi, do học hành lận đận
nên mặc dù hơn tôi hai tuổi nhưng anh đậu tú tài hai cùng năm 64 với tôi. Chán
việc học hành, anh đã tình nguyện gia nhập vào trường Võ bị Đà Lạt khóa 21 và
ra trường năm 66, đơn vị Lực lượng Đặc biệt. Sau bao nhiêu lần vào sinh ra tử ở
các toán Delta, toán A, khi LLĐB giải tán và biến thành Biệt động quân Biên
phòng cũng như đơn vị trừ bị cho LLĐB là Liên đoàn 91 Biệt cách Dù đổi thành
Liên đoàn 81 Biệt cách Dù (9 nút cho nó hên) anh tôi trở thành người lính Biệt
động quân. Chính vì lý do đó mà vào giờ đứng lên chọn đơn vị, tôi đã chọn Liên
đoàn 5 BĐQ với ý định gia đình mình có hai anh em thì nên đi cùng binh chủng
...
HỒI KÝ 7 NGÀY Ở CHIẾN TRƯỜNG QUẢNG TRỊ CỦA TRUNG ÚY NGUYỄN NGỌC ẨN - KỲ 2
Xe Dodge
của hai thầy trò tôi không thể nào chạy trên đường được nữa nên Hải quẹo xuống
bên đường để chạy tiếp. Bánh xe lún xuống cát tung lên tung tóe mà xe không tiến
lên được là mấy, Hải phải sang số cho xe chạy cả 4 bánh để có sức kéo mạnh hơn
nhưng sau cùng, chiếc xe bắt đầu tung khói lên mù mịt do nóng quá độ. Khói lên
từ cái bình nước xe len qua nắp máy và cuồn lên đen nghịt, Hải lầu bầu :
Chủ Nhật, 5 tháng 5, 2013
HỒI KÝ VỀ CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT: "BA NGƯỜI KHÁC" CỦA TÔ HOÀI - KỲ 1
1 2 3 4
Mười bốn năm sau khi
hoàn thành bản thảo, tác phẩm Ba người khác của nhà văn lão thành Tô
Hoài nay đã chính thức ra mắt bạn đọc và đang được dư luận đặc biệt chú ý.
Trong những ngày qua, chúng tôi đã có dịp đăng một số bài viết về tác phẩm này.
Được sự cho phép của tác giả, Ký Tế kì này hân hạnh giới thiệu toàn văn Ba
người khác đến bạn đọc.
Các đội
công tác vùng đồng bằng hạ lưu sông Hồng kéo về tổng kết đợt ở huyện lỵ, đông
có đến cả nghìn con người. Suốt tháng triền miên nghe kể lể thành tích và những
anh những chị rễ, chuỗi [1] ở xã lấy lên nay đã
thành cán bộ đội vừa khóc vừa nói về cuộc đời bị đoạ đày xưa kia.
HỒI KÝ VỀ CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT: "BA NGƯỜI KHÁC" CỦA TÔ HOÀI - KỲ 2
1 2 3 4
Trời nắng
ong ong đã mấy hôm, như sắp bão. Thôn Am rúc tù và từng hồi thúc người đi đắp
đê quai phòng lũ. Người ra đồng cứ cung cúc như chạy mưa. Mọi khi chả việc công
ích nào được nhanh nhẹn thế. Chính quyền xoá hết rồi, chưa có cả đến trưởng
thôn. Vậy mà trên huyện vẫn có công văn thúc mọi việc. Thế là đội, các anh đội
phụ trách xóm cáng hết. Ai cũng lội bì bõm như trâu đằm, cả các anh đội xung
phong ra chuyển đất, bùn ánh lên mặt tôi nóng rát. Hò lơ... hó lơ... hò lờ... Lại
hò hát. Kể ra mọi người cũng hăng thật, không việc công thì đi kiếm miếng ăn, cứ
biền biệt từ mờ đất, trưa về lại ngồi học chữ.
HỒI KÝ VỀ CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT: "BA NGƯỜI KHÁC" CỦA TÔ HOÀI - KỲ 3
1 2 3 4
Dai dẳng, ngắc ngoải, thoi thóp, rồi nạn đói cũng qua.
Buổi chiều không còn rào rạt gió giải đồng mùa hạ. Mây trắng lờ
đờ từng tảng vần vụ trong nắng nhạt. Mấy chân lúa ba giăng đã lác đác được gặt.
Lúa một vụ, mùa trên đồng cao, chiêm dưới đồng trũng với vài miếng ba giăng hiếm
hoi. Lúa của nhà ai, nhưng mà thế là đã trông thấy cái sống người rồi. Tiếng liềm
cắt xoèn xoẹt và tiếng cười phảng phất ở đâu. Trẻ con từng đám ra chân ruộng đã
quang nhấc gốc rạ tìm cua, bắt chuột.
HỒI KÝ VỀ CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT: "BA NGƯỜI KHÁC" CỦA TÔ HOÀI - KỲ CUỐI
1 2 3 4
Mười mấy năm sau.
Hồi ấy thành phố đương bị đe dọa máy bay Mỹ bắn bom. Mỗi chặp tối những đoàn xe
chở tân binh ầm ầm ngang qua trên cầu Long Biên.
Rồi tôi lại trở về cơ quan. Người đi cải cách lũ lượt về, người công tác sửa
sai lại ba lô lên vai. Đã thành nếp mỗi khi nơi nào có công tác quan trọng, mỗi
cơ quan đều phải cử từng đợt đi. Ai cũng nhiệm vụ đi, từ anh nuôi, chị tiếp liệu
văn phòng, đến các bộ phận chuyên môn. Chỉ có những chánh phó thủ trưởng
"không đi được vì công tác lúc nào cũng bù đầu". Mà cũng không ai đề
nghị thủ trưởng đi đâu.
HỒI KÝ MỘT CƠN GIÓ BỤI CỦA TRẦN TRỌNG KIM - KỲ 1
Cuộc Đời Yên Lặng Và Vô Vị
Sau 31
năm làm việc trong giáo giới, trải làm giáo sư ở trường Trung Học Bảo Hộ và trường
Sĩ Hoạn, kế lại sung chức Bắc Kỳ Tiểu Học Thanh Tra, rồi về giữ chức giám đốc
trường Nam Tiểu Học ở Hà Nội, đến năm 1942 mới được về hưu. Tưởng thế là được
nghỉ ngơi cho trọn tuổi già. Bởi vì trong một đời có nhiều nỗi uất ức sầu khổ về
tình thế nước nhà, về lòng hèn hạ đê mạt của người đời, thành ra không có gì là
vui thú. Một mình chỉ cặm cụi ở mấy quyển sách để tiêu khiển. Ðó là tâm tình và
thân thế của một người ngậm ngùi ở trong cái hoàn cảnh éo le, và trong một bầu
không khí lúc cũng khó thở. Ðược cái rằng trời cho người ta có sẵn cái tính tùy
cảnh mà an, cho nên bất cứ ở cảnh nào lâu ngày cũng quen, thành ra thế nào cũng
chịu được.
HỒI KÝ MỘT CƠN GIÓ BỤI CỦA TRẦN TRỌNG KIM - KỲ 2
Cuối tháng một dương lịch, chiều bảy giờ lên xe hơi chạy ra nghỉ ở Ðông Hà. Sáng hôm sau ra đến Nghệ, vào nghỉ nhà người cháu, trưa hôm sau xe mới ra Thanh Hóa, rồi hôm sau nữa mới đến Hà Nội. Dọc đường nhờ trời được bình an. Khi xe đến bến đò sông Gianh, sông rộng, gió to, sóng lớn, tôi thấy gần đó có chiếc tàu con kéo phà chở xe hơi sang sông, tôi hỏi: "Tàu có chạy không?". Người ta nói: "Tàu hết dầu xăng". Tôi hỏi: "Có đò nào có mui cho thuê một chiếc để đưa chúng tôi sang trước". Người ta nói chỉ có chiếc đò không mui thôi. Chúng tôi đang lo nghĩ không biết tính sao, thì thấy người tài xế chạy đi nói thì thầm gì với mấy người chở phà, rồi một lát thấy chiếc đò có mui đến mời chúng tôi xuống. Khi chiếc đò chở chúng tôi ra ngoài, thấy chiếc tàu đốt máy kéo phà đi. Sang bên kia hỏi người lái đò lấy bao nhiêu, người ấy nói: "Cụ cho bao nhiêu cũng được". Sau tôi mới biết người tài xế biết chúng tôi, đi nói với mấy người chở đò nên họ mới đi lấy đò và cho tàu chạy. Ðây là một việc tỏ ra nhân dân trung bộ đối với tôi vẫn có chút cảm tình, không ai ta oán gì trong khi chúng tôi vẫn làm việc. Chỉ có khi đến Thanh Hóa bị lính Tàu và Lính Việt Minh khám xe đâm thủng nát cái bồ đựng sách của tôi.
HỒI KÝ MỘT CƠN GIÓ BỤI CỦA TRẦN TRỌNG KIM - KỲ CUỐI
1 2 3
Khi tôi về
Sài gòn, trong lưng chỉ còn có 20 đồng bạc Ðông Dương. Ông Cousseau thấy vậy có
đưa tiền, nhưng tôi không lấy. Sau tôi gặp những người quen biết có giúp đỡ ít
nhiều để mua thuốc thang và may vá lặt vặt. Tôi đến nhờ ông cử Bùi Khải, ông vì
tình anh em, tiếp đãi một cách thành thực và tử tế, các cháu đều hết lòng kính
mến. Nhưng vì cả gia quyến bốn năm người đến ở đấy lâu ngày, ăn không ngồi rồi,
nghĩ cũng khó coi. Con gái tôi biết tiếng Anh, có nhiều người muốn học, định đi
thuê nhà để dạy học, nhưng không thuê được nhà. Sài gòn cũng như ở bên Tàu, cái
nạn khan nhà thật là điêu đứng. Muốn thuê một cái nhà nhỏ, ít ra cũng phải trả
tiền trà mất một vài vạn bạc, thì lấy tiền đâủ Sau hai vợ chồng con tôi gặp những
người quen nói ở trên Nam Vang, bên Cao Miên, cơm gạo rẻ và dễ thuê nhà, chúng
nó mới xin giấy lên Nam Vang. Lên ở nhà khách sạn được mấy ngày chẳng may con
tôi bị bỏng suýt chết. Nhờ có những người quen biết trông nom giúp đỡ nên không
việc gì.
HỒI KÝ BA PHÚT SỰ THẬT CỦA PHÙNG QUÁN - KỲ 1
1 2 3 4
Lời nói đầu
Phùng Quán (1932- 1995) là nhà văn để lại nhiều
dấu ấn khó quên trong lịch sử văn học Cách mạng Việt Nam từ nửa sau thế ký XX.
Anh là một nhà văn chiến sĩ trọn đời trung thành với lý tưởng mà mình đã chọn
từ thuở thiếu thời: Đi theo Vệ quốc Đoàn chiến đấu vì Tổ quốc vì nhân dân. Dù
phải vượt qua vô vàn tai ương đau khổ suốt 30 năm trời, từ sau vụ "Nhân
văn giai phẩm"; dù phải đi lao động cải tạo từ Thái Nguyên, Việt Trt,
Thanh Hóa, Thái Bình, không nhà cửa, lấy nhau có hai con rồi mà 20 năm ròng
không có chỗ trú thân. Tên không được in trên sách, phải "cá trộm, rượu
chịu, văn chui".
HỒI KÝ BA PHÚT SỰ THẬT CỦA PHÙNG QUÁN - KỲ 2
1 2 3 4
7. Nhà Thơ Với Tệ Tham Nhũng
Cách đây đã nhiều năm… Một buổi trưa mùa hè,
tôi ra bãi An Dương phía ngoài đê sông Hồng, tìm thăm nhà thơ Đoàn Phú Tứ, tác
giả bài thơ bất hủ Màu thời gian. Năm đó nhà thơ đã ngoài 70 tuổi. Nắng hè
thiêu đốt nóng đến ngạt thở. Tôi thật sự kinh khiếp khi thấy ông tóc bạc trắng,
cởi trần, thản nhiên ngồi đọc sách trên bức phản gỗ mọt, mặe cho mồ hôi chảy
đầm đìa trên mặt, trên lưng, giọt giọt từ chòm râu xuống những trang Ngôi nhà
búp bê của Íp-en. Ông đặt sách xuống tiếp tôi ông gần như dốc ngược chai rượu
mới được đầy một chén, và sẻ cho tôi một nửa. Tôi đọc ông nghe bài thơ vừa mới
viết về đề tài kháng chiến. Đọc đến câu: Giữa chiến khu võ vàng đói khát, Cả
tiểu đội tôi chỉ còn mắt với răng…, ông đặt chén rượu đã uống cạn xuống, ngắt
lời tôi: "Chỉ vì những người lính - chỉ còn mắt với răng" các cậu mà
năm đó mình đã đụng độ với thằng Trần Dụ Châu… Cậu có biết Trần Dụ Châu
không?" Tôi nói: "Những người lính chống Pháp bọn em, ai mà không
biết Trần Dụ Châu…". Hắn là Đại tá Cục trưởng Cục Quân nhu, trông coi việc
ăn mặc cho toàn quân. Ngày đó chúng tôi thường gọi: "Màn Trần Dụ
Châu", vì mỗi cái màn lính hắn ăn cắp mất hai tấc vải, nên hễ ngồi lên là
đầu đụng trần màn; "Áo mền trấn thủ Trần Dụ Châu" vì hắn ăn cắp bông
lót trong áo, trong mền và thay vào bằng bao tải… Nét mặt ông vụt sa sầm khi
nghe tôi nhắc lại những chuyện đó. Kỷ niệm một thời hào hùng đánh giặc cứu nước
bất ngờ ập đến, cặp mắt già nua của nhà thơ lóe ánh giận dữ. Ông kể:
HỒI KÝ BA PHÚT SỰ THẬT CỦA PHÙNG QUÁN - KỲ 3
1 2 3 4
13. Người Bạn Lính Cùng Tiểu Đội
Vào những năm đầu của thập ky sáu mươi (1960),
trên các mặt báo trung ương và địa phương các trang thơ tràn ngập đề tài sản
xuất, chiến đấu, ca ngợi các hợp tác xã điển hình, các nông trường, các nhà
máy, hầm mỏ tiên tiến, nào "sóng Duyên Hải, gió Đại Phong", nào gương
người tốt việc tốt, tố cáo tội ác Mỹ Diệm…, thôi thì đủ thứ. Bỗng dưng, trên
một trang thơ tuần báo Văn Nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam xuất hiện một bài thơ
tứ tuyệt, nhan đề: Nghe nhạc Strauss. Tên tác giả lạ hoắc: Tuân Nguyễn.
HỒI KÝ BA PHÚT SỰ THẬT CỦA PHÙNG QUÁN - KỲ CUỐI
1 2 3 4
16. Sinh Ra Trong Một Gia Đình Cách Mạng
PHỤ LỤC
NGUYỄN
VẠN
Gia đình tôi là nhà nông nghèo, bố tôi Phùng Kiểm là nhà nho, mẹ tôi Lê Thị Me là bần nông. Bố mẹ tôi vay tiền của nhà giàu, thuê ruộng ô ruộng đầm để làm ăn với giá rất rẻ, nếu may mắn được mùa thì trở nên giàu có, nhưng chẳng may bị mất mùa liên tiếp, vì lụt sớm nên ruộng bị ngập không thu hoạch được, bị vỡ nợ, phải bán hết tài sản để trả nợ. Gia đình bị bần cùng, thường bị thiếu đói. Bố tôi xin làm lính hộ lăng của nhà vua ở lăng Minh Mạng, được cấp một mẫu rưỡi ruộng công, gọi là ruộng lương điền, ruộng hạng nhất. Mẹ tôi chăm lo làm ruộng rẫy, được màu, đủ nuôi con ăn học…
CUỘC SỐNG HAI MẶT CỦA KÝ GIẢ ĐIỆP VIÊN PHẠM XUÂN ẨN
Nhiều sử liệu được giải mật sau 1975 chứng minh chế độ Cộng hoà Miền Nam sụp đổ
vì lý do khiếm khuyết về tình báo hơn là vì yếu kém về mặt quân sự. Cuộc
chiến giữa Nam và Bắc VN, đúng vậy, là một sự tranh chấp ý thức hệ, nặng về tâm
lý, yếu tố ủng hộ của nhân dân vì thế đóng vai trò quyết định. Hiệp ước Genève
ký chưa ráo mực thì Cộng sản Bắc Việt đẩy mạnh tuyên truyền và sự
xâm nhập tình báo dưới vĩ tuyến 17 trong mọi lãnh vực : quân
đội, báo chí, quốc hội, học đường, nông thôn…..., với các khẩu hiệu nóng cháy
như chống ngoại xâm Mỹ, thống nhất và độc lập.
Thứ Bảy, 4 tháng 5, 2013
HỒI KÝ CHIỀU CHIỀU CỦA TÔ HOÀI - KỲ 1
Nghé ơ nghé
Nghé bông hay là nghé hoa
Như cà mới nở
Mẹ cõng xuống sông
Xem rồng lấy nước
Mẹ gọi tiếng trước
Cất cổ lên trông
Mẹ gọi tiếng sau
Cất lồng lên chạy
Lồng ba lồng bảy
HỒI KÝ CHIỀU CHIỀU CỦA TÔ HOÀI - KỲ 2
Chương V
Chợ lèo tèo ngay giữa phố, gió lùa đùng đùng. Bánh ngô, bánh đúc
bị táp cát, ăn nhai cả sạn, thì vẫn ăn thế. Một chốc chợ tan, các cọc lêu được
nhổ lên, đàn vịt lại uà vào rúc cái bãi trống. Chỉ còn lại một hiệu ảnh người
xúm đông xúm đỏ xem bác phó nháy lúi húi tô màu. Khách chụp ảnh thích ngồi ghế,
môi má tô màu đỏ, áo hồng sau lưng có phông chậu hoa và hồ Hoàn Kiếm.
Trong kháng chiến, bộ đội tỉnh đã tấn công san bằng bốt Diêm Điền, không biết bốt
ở chỗ nào. Chắc hỏi thì cái Hến, thằng Toàn cũng chẳng biết. Tây về đóng lại,
xây đồn sang Quang Lang. Một lần xuống khu Ba công tác hậu địch đồng bằng sông
Hồng, Hoàng Trung Thông- tổ trưởng Thông của chúng tôi đã đi với đoàn cán bộ
vào tận Quang Lang này. Thông kể: Quang Lang có tề hai mang, ngày ở hầm, tối
lên gặp và họp với cán bộ cơ sở, ngay cạnh đồn. Trông ra biển, ngọn hải đăng
Hòn Dáu và đèn điện bên Đồ Sơn nhấp nháy. Hoàng Trung Thông đã bí mật ở Quang
Lang cả tháng. Khi trờ ra, đóng vai người thuyền buôn các nơi về chợ Diêm.
HỒI KÝ CHIỀU CHIỀU CỦA TÔ HOÀI - KỲ 3
1 2 3 4 5 6 7 8
Chương IX
Tôi gặp Trần Đức Thảo ngoài cổng bệnh viện Hữu Nghị. Cả
thành phố đã thuộc cái ông đi chiếc xe đạp con vịt trẻ con sơn xanh, không
phanh, ngồi phải doạng chân cho đầu gối khỏi đụng lên ghi đông, đấy là nhà triết
học Trần Đức Thảo. Ông dịch sách lý luận kinh điển cho nhà xuất bản Sự Thật để
lấy lương ăn. Người biết đôi chút thì thắc mắc: không biết ông có được dạy, ông
có được phong giáo sư không. Tôi thì biết bây giờ ông dông dài lam làm chơi
chơi thế thôi. Tôi cũng chẳng biết ông có Nhân Văn Giai Phẩm gì không và tại
sao ông lại càng ngày càng bị quên lãng dưới đáy.
HỒI KÝ CHIỀU CHIỀU CỦA TÔ HOÀI - KỲ 4
Chương XII
Bộ máy tổ chức ta dựng
lên thì khoa học, trong ý nghĩ và trên giấy, nhiều cấp và cán bộ lại thu thập
tài liệu và dư luận bằng nghe ngóng. Chu Văn, trưởng ty văn hoá tỉnh Nam Định
được dự kiến đề cử tỉnh uỷ khoá mới. Đấy lên tin đồn anh ấy là Nhân Văn, thế là
bị nhấc ra. Chu Văn viết thư kể nỗi oan và đề nghị can thiệp- tôi đã được phân
công xuống gặp bí thư tỉnh, nhưng rồi cũng không lại được lời đồn. Can thiệp
với dư luận “có tin bảo, có người nói” thì như đánh nhau với bóng tối, cứ phòng
sẵn cho chắc đã. Và cái việc Chu Văn bị dính đến những lôi thôi mập mờ này, đã
làm cho Chu Văn hóa ra cứng rắn khác thường. Những ai đã công tác cùng Nguyễn
Bính ở ty văn hoá Nam Định có thể biết Chu Văn đã quần Nguyễn đến điều thế nào.
Nguyễn Bính về Nam Định rồi quyết định ở hẳn dưới ấy chỉ vì Nguyễn Bính đã sắp
nên vợ nên chồng với cô hàng cà phê thành Nam. Nguyễn Bính đã bỏ không ở nhà
xuất bản Hội Nhà Văn với tôi để xin ra làm báo Trăm Hoa. Khi Trăm Hoa hết tiền
phải đình bản, Nguyễn Bính không còn ở biên chế nào thì Hội Nhà Văn đã giới
thiệu Nguyễn Bính về Nam Định.
HỒI KÝ CHIỀU CHIỀU CỦA TÔ HOÀI - KỲ 5
Đầu năm ấy, chiến dịch lao động đào sông Tô Lịch. Lao động công ích, mỗi năm một công dân thành phố góp bảy ngày bằng sức hoặc bằng tiền. Đào sông cũng như đắp công viên Thống Nhất, được trừ điểm lao động công ích lại được trả công đào. Không đi, thuê người khác đi hộ. Lấp mạch sủi đê sông Cái, đào hố chứa rác, vét bùn, đều được tính cả. ấy thế nhưng phải tổng vệ sinh trước lễ Quốc Khánh đã Sáng chủ nhật, sáu tổ lấy sáu người đem chổi và cái hót rác lên trường Trưng Vương tiễn đồng bào chạy nước về lại dưới bãi- thông tri viết thế, nhưng cung cách chỉ dẫn các thứ vậy thì hiểu nghĩa là lên quét dọn làm vệ sinh cho nhà trường các chỗ đồng bào đã tạm trú cả tháng qua.
HỒI KÝ CHIỀU CHIỀU CỦA TÔ HOÀI - KỲ 6
Đầu mùa đông 1957, tôi đi Matxcơva, dự hội nghị quốc tế về văn học
thiếu nhi. Người dịch tiếng Nga cho tôi là Marian Tkchôp. Năm ấy, Marich trên
hai mươi tuổi đôi chút. Tốt nghiệp khoa tiếng Việt ở Matxcơva rồi làm việc ban
đối ngoại hội Nhà Văn Liên Xô. Thoạt trông, tưởng người ít ra đã trạc bốn mươi.
Một lọn tóc vắt che trán hói lên gần đỉnh đầu, cái đuôi tóc còn thừa thòng lòng
ra đằng gáy. Vừng trán cao phẳng lặng thật lạc lõng với người trẻ tuổi mới có
người yêu.
HỒI KÝ CHIỀU CHIỀU CỦA TÔ HOÀI - KỲ 7
(Nhật ký)- Hà Nội đã
vào tháng chạp 1972. Hàng ngày cứ căng thẳng rồi lại bình thường. Nhưng với tâm
lý muốn bình yên thì tưởng tượng của người ta ngả về bình yên nhiều hơn. Đường
phố đông người khác thường, hình như ai cũng ra đường. Vẫn giục từng nhà đi sơ
tán. Nhưng trong bụng người giục cũng cho là nếu có bom xuống thì hoạ may người
ta mới đi.
Họp khối phố, thu được
150 đ, hôm nào thu đủ thì đem lên khu lấy tem phiếu đợt 1. Nửa đêm, tiếng bom
bên kia sông phía Gia Lâm. Tháng vừa rồi yên yên, lại ra vẻ bắt đầu đây. Gần
sáng, tiếng bom kéo dài nặng nề hơn. Phúc thức giấc, nói: “Con nghe như tiếng
B52". Nó có kinh nghiệm chiến trường. Mình đoán vu vơ: “Không có lẽ".
Tiếng bom đến tận tảng sáng, trời cứ vừa hửng vừa sẫm lại.
HỒI KÝ CHIỀU CHIỀU CỦA TÔ HOÀI - KỲ CUỐI
Về đến sứ quán ở Bắc
Kinh thấy đông nhộn khác cái thoáng vắng hôm trước. Giữa vườn cây lê cây táo
trơ trụi mùa đông, những đống cao lù lù như cây rơm phủ kín ni lông xanh, ni
lông xám. Hỏi mới biết đấy là những núi đồ đạc mới đưa về, để trong nhà không
có chỗ, phải chất ra giữa trời. Bắc Kinh đương mưa tuyết, mưa cả đêm. Những
mảng băng đầu mùa bám ngoài ni lông, khi tuyết rơi nhiều, băng xụt xuống như
bùn trắng nhão quanh chân các gò đống đồ đạc.
Người
về ở đông kín các phòng chiêu đãi sở, khắp cả nhà cơ quan làm việc. Xe lửa
Matxcơva về Hà Nội bị cắt lưng chừng, giữa khi qua Cát Lâm trên Đông Bắc. Sứ
quán phải thuê xe lên đón. Cán bộ và sinh viên đi công tác, về phép, về hết
hạn, người và hành lý đưa cả về đây. Tạm ở, đợi bao giờ lại có đường có tàu thì
chưa biết.
HỒI KÝ THÁNG BA GÃY SÚNG CỦA CAO XUÂN HUY - KỲ 1
Lời Tựa Cho Tháng Ba Gãy Súng
Cuối
tháng Giêng 85, cùng với một số đồng bào may mắn muộn màng khác ở đảo Bataan,
chúng tôi có tên trong danh sách rời trại tị nạn Phi Luật Tân, lên đường đi định
cư ở một thành phố miền đông bắc Hoa Kì, nơi tôi sẽ được gặp lại cô em út sau
mười năm xa cách.
Cảnh vật mùa Ðông ở Springfield đẹp mà buồn. Cây cối trụi lá trơ cành khẳng
khiu in mờ nhạt trên một bầu trời xám xịt. Mặt đất phủ đầy tuyết trắng lạnh
giá. Tuy vậy, tôi còn nhớ rõ trong lòng tôi tràn ngập một niềm hạnh phúc ấm áp.
Giờ đây khi bước sang mùa Ðông thứ hai, tôi nghiệm thêm một điều là không phải
bao giờ tuyết cũng trắng sạch, cũng đẹp đẽ và cũng thú vị như cái cảm giác tôi
đã có trong những ngày đầu. Dù sao, đó sẽ lại là một chuyện khác.
HỒI KÝ THÁNG BA GÃY SÚNG CỦA CAO XUÂN HUY - KỲ CUỐI
1 2
Phản ứng đầu tiên của tôi khi tỉnh dậy là đưa tay sờ lên đầu, chỗ để đội mũ còn nguyên nhưng cái mũ sắt đã văng đâu mất. Biết chắc là mình còn sống, tôi cố gắng trấn tĩnh nhưng trong người vẫn thảng thốt làm sao ấy. Kết quả của viên đạn làm bay mũ sắt trên đầu tôi đã làm tôi không còn suy nghĩ gì nữa, ý nghĩ muốn chết ngay lập tức đã không còn, mở đường máu hay không mở đường máu không còn là vấn đề. Ðầu óc tôi hoàn toàn đờ đẫn, trống rỗng. Giờ này có lẽ cũng một, hai giờ khuya gì rồi. Vấn đề của tôi lúc này là ngủ. Ngồi dựa lưng vào vách giao thông hào, tôi ngủ một giấc. Giấc ngủ dĩ nhiên rất mệt mỏi và chập chờn trong tiếng súng.
Thứ Sáu, 3 tháng 5, 2013
HỒI KÝ KHÔNG TÊN CỦA TÊN ĂN CƠM QUỐC GIA THỜ MA CỘNG SẢN LÝ QUÝ CHUNG - KỲ 1
Lý Quí Chung (1940-2005), bút danh Chánh Trinh, là một nhà báo, và cũng là một
dân biểu và nghị sĩ đối lập dưới thời chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Ông từng
giữ chức Bộ trưởng Bộ Thông tin trong chính phủ tồn tại 2 ngày của Tổng thống
Việt Nam Cộng hòa cuối cùng Dương Văn Minh. Ông mất ngày 3.3.2005 tại Sài
Gòn.
Thân thế
Ông sinh năm 1940 tại Mỹ Tho (Tiền Giang), nhưng hầu hết thời thơ ấu của ông
theo gia đình về Biên Hòa ở từ 3 đến 12 tuổi (1943 - 1952), nơi cha ông làm
công chức cho cơ quan hành chánh tỉnh.
HỒI KÝ KHÔNG TÊN CỦA TÊN ĂN CƠM QUỐC GIA THỜ MA CỘNG SẢN LÝ QUÝ CHUNG - KỲ 2
Buổi khai mạc Quốc hội, tôi mời cha tôi và Quỳnh Nga, vợ tôi
tham dự với tư cách khách mời riêng của cá nhân tôi (mỗi dân biểu đắc cử được mời
hai người khách trong buổi khai mạc). Dù thế nào, đây cũng là bước thành đạt đầu
tiên của tôi khi tham gia vào đời sống chính trị Sài Gòn, tôi muốn cha tôi và vợ
tôi được chứng kiến ngày này. Đó cũng là một cách nhớ ơn sinh thành của cha mẹ
và công lao của người vợ đã chia sẻ những gian nan và khó khăn ban đầu với
mình. Ngồi giữa khung cảnh rộng lớn của Nhà hát thành phố, lần thứ hai được sử
dụng làm trụ sở Quốc hội (lần đầu dưới chế độ Ngô Đình Diệm), tôi vẫn chưa hết
ngỡ ngàng những gì đã xảy ra với mình. Tôi bước vào sân khấu chính trị không do
chính tôi chủ động mà do định mệnh chọn lựa mình. Tôi không than phiền gì về sự
“chỉ định” này của định mệnh vì trong hoàn cảnh đặc biệt của đất nước rất cần
tiếng nói ở nhiều phía và từ nhiều đấu trường khác nhau để có một sức mạnh tổng
hợp lòng lay chuyển tình thế thì diễn đàn Quốc hội cũng là một môi trường hoạt
động khá thuận lợi. Mặc dù nhiều lúc Quốc hội Sài Gòn khi ấy không khác một nhà
hát hài kịch rẻ tiền và lố lăng, nhưng từ diễn đàn này cũng đã vang lên khá nhiều
tiếng nói của những phần tử đối lập, của những ý thức vận nước tìm cách thể hiện
nguyện vọng của người dân miền Nam không chịu tách rời với miền Bắc ruột thịt,
muốn được thấy Tổ quốc hòa bình, độc lập và thống nhất.
HỒI KÝ KHÔNG TÊN CỦA TÊN ĂN CƠM QUỐC GIA THỜ MA CỘNG SẢN LÝ QUÝ CHUNG - KỲ 3
Sau Tết Mậu Thân, không khí chính trị tại Sài Gòn hoàn toàn thay
đổi. Chẳng hạn trước Tết Mậu Thân, một cuộc thăm dò dư luận Mỹ vào tháng
11-1967, cho thấy 44% người Mỹ muốn quân đội của họ rút về nước toàn bộ hoặc dần
dần; 55% chủ trương một đường lối cứng rắn, tức sử dụng vũ khí hạt nhân. Tháng
2-1968, khi cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân đang diễn ra ác liệt, 53% người Mỹ
chủ trương tăng cường các cuộc hành quân quân sự với một qui mô lớn hơn và chấp
nhận cả nguy cơ chạm trán với Liên Xô và Trung Quốc. Chỉ có 24% người Mỹ muốn
thấy cường độ chiến tranh hạ thấp xuống. Thế nhưng chỉ 6 tuần lễ sau sự kiện Tết
Mậu Thân, sự ủng hộ của người Mỹ dành cho tổng thống Lyndon Johnson từ 40% rớt
xuống còn 26%. Người ta còn nhớ khi ông Johnson mới vào Nhà Trắng, cứ 10 người
Mỹ thì có đến 8 người ủng hộ ông.
HỒI KÝ KHÔNG TÊN CỦA TÊN ĂN CƠM QUỐC GIA THỜ MA CỘNG SẢN LÝ QUÝ CHUNG - KỲ 4
Như đã nói, tôi gặp trung tướng Dương Văn Minh lần đầu tại
Bangkok (Thái Lan) năm 1966 khi ông Minh sống lưu vong tại đây. Tôi đến Bangkok
để dự Hội nghị APU (Hiệp hội dân biểu nghị sĩ châu Á). Lúc này sắp có bầu cử Tổng
thống lần đầu (1967), tôi là đại diện cho báo chí cho liên danh Trần Văn Hương
- Mai Thọ Truyền. Tôi được ông Hương ủy nhiệm gặp trung tướng Dương Văn Minh để
thuyết phục lên tiếng ủng hộ liên danh của ông. Cuộc gặp ấy để lại trong tôi một
tình cảm đẹp về vị tướng ăn nói nhỏ nhẹ, vừa trí thức vừa khiêm tốn. Những người
không quen thân ông vẫn gọi ông là đại tướng Nguyễn Khánh gắn cho ông sau cuộc
lật đổ chế độ Diệm ngày 1-11-1963. Ông vẫn giữ cấp bậc trung tướng.
HỒI KÝ KHÔNG TÊN CỦA TÊN ĂN CƠM QUỐC GIA THỜ MA CỘNG SẢN LÝ QUÝ CHUNG - KỲ 5
Tuần lễ đầu tháng 4 – 1975, trung tướng Dương Văn Minh và nhóm
ủng hộ ông quyết định chính thức công bố ý định thay thế tổng thống Nguyễn Văn
Thiệu. Trước đó, nhóm ông Minh đã họp bàn tại Dinh Hoa Lan. Có người nhắc lại
rằng thay thế vị trí của tổng thống Thiệu lúc này thì khả năng lớn nhất chỉ
thay Thiệu để đầu hàng mà thôi. Sẽ không còn hy vọng cho bất cứ một giải pháp
chính trị nào.
Nhận định này được nhiều người có mặt chia sẻ nhưng không một ai
đưa ra đề nghị rút lui. Chúng tôi đặt thẳng vấn đề với nhau để những ai còn ý
định tiếp tục gắn bó với nhau đi tới thì không mập mờ gì về sự lựa chọn của
nhóm, đó là: sẵn sàng thay Thiệu dù chỉ để cầm cờ đầu hàng. Thật sự ông Minh
chẳng có ảo tưởng gì về cái ghế tổng thống vào lúc này. Nó không còn là quyền
lực và địa vị. Nhưng nó vẫn còn có tác dụng nhất định để góp phần đưa miền Nam
đi đến một kết thúc bớt được những đổ máu vô ích. Cuộc công bố chính thức với
báo chí của ông Minh về quyết định sẵn sàng thay tổng thống Thiệu được tổ chức
tại Đường Sơn Quán, một nhà hàng đặc sản của cựu trung tướng Mai Hữu Xuân nằm
giữa một đồn điền cao su trên Xa lộ Đại Hàn. Các nhà báo nước ngoài được mời dự
gồm: Peter Ross Range, trưởng văn phòng tuần báo Mỹ Times
Magazine; Francois Nivelon phóng viên báo PhápFrance Soir; Carl
Robinson phóng viên nhiếp ảnh của AP; Jean Louis Arnaud, trưởng văn phòng hãng
tin AFP... Về phía nhóm ông Minh có luật sư Trần Ngọc Liễng, bác sĩ Hồ Văn
Minh, trung tướng Mai Hữu Xuân, giáo sư Tôn Thất Thiện, luất sư Bùi Chánh Thời,
các dân biểu Hồ Ngọc Nhuận, Dương Văn Ba và tôi. Anh Ba vì đang bị chính quyền
Thiệu truy nã nên không xuất hiện công khai. Từ Sài Gòn lên Đường Sơn Quán, anh
Ba ngồi ô tô chung với ông Dương Văn Minh để tránh bị cảnh sát chận bắt dọc
đường.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)