TUYÊN NGÔN QUỐC TẾ NHÂN QUYỀN
Nguyên văn Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền, đã
được Ðại Hội
Ðồng Liên Hiệp Quốc thông qua và công bố vào ngày 10 tháng 12 năm 1948.
Xét rằng: Sự thừa nhận nhân cách của tất cả con người
trong đại gia đình nhân loại và những quyền bình đẳng không thể tước đoạt của
họ là nền tảng của tự do, công lý và hòa bình trên thế giới.
Xét rằng: Hành vi xem thường và chà đạp nhân quyền đã
dẫn đến những hành động man rợ, xúc phạm đến lương tâm nhân loại. Sự kêu gọi
thiết lập một thế giới trong đó tất cả mọi người phải được hưởng quyền tự do
ngôn luận, tự do tín ngưỡng, quyền được giải thoát khỏi sự sợ hãi và nghèo khó,
phải được tuyên xưng như là ước vọng cao nhất của con người.
Xét rằng: Nhân Quyền cần phải được triệt để bảo vệ
bằng luật pháp, để con người không bị bắt buộc phải sử dụng biện pháp cuối cùng
là vùng dậy chống lại độc tài và áp bức.
Xét rằng: Mối quan hệ hữu nghị giữa các quốc gia cần
được khuyến khích và mở rộng.
Xét rằng: Trong Hiến Chương, các dân tộc của cộng
đồng Liên Hiệp Quốc đã lại một lần nữa xác định niềm tin vào những quyền căn
bản của con người, vào nhân phẩm và giá trị nhân vị, vào quyền bình đẳng nam nữ
và cũng đã quyết định cổ vũ cho các tiến bộ xã hội và cải tiến mức nhân sinh
trong bối cảnh ngày càng tự do hơn.
Xét rằng: Các quốc gia hội viên đã cam kết hợp tác
với Liên Hiệp Quốc, nhằm cổ vũ việc tôn trọng nhân quyền và các quyền tự do căn
bản.
Xét rằng: Một khuôn mẫu chung về nhân quyền và tự do
là điều tối quan trọng để có thể thực hiện đầy đủ sự cam kết trên.
Do đó, Ðại Hội Ðồng Liên Hiệp Quốc long trọng
công bố Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền này như là một khuôn mẫu chung cần đạt
tới của mọi dân tộc và quốc gia, nhằm giúp cho mọi cá nhân và thành phần của xã
hội luôn luôn theo sát tinh thần của Bản Tuyên Ngôn, dùng sự truyền đạt và giáo
dục, để nỗ lực phát huy sự tôn trọng các quyền tự do này.
Mặt khác, bằng những phương thức tiến bộ trong
phạm vi quốc gia cũng như quốc tế, phải bảo đảm sự thừa nhận và tuân hành Bản
Tuyên Ngôn một cách có hiệu lực, không những giữa các dân tộc của các nước hội
viên với nhau, nhưng còn giữa những dân tộc sống trên các phần đất thuộc thẩm
quyền họ cai quản.
Ðiều 1: Mọi người sinh ra đều được tự do và bình
đẳng về nhân phẩm, cũng như quyền lợi. Mọi người đều được phú bẩm về lý trí và
lương tâm. Sự đối xử giữa con người với nhau phải được trên tinh thần bác ái.
Ðiều 2: Mọi người đều được hưởng tất cả những quyền
và tự do công bố trong Bản Tuyên Ngôn này và không có một sự phân biệt nào, như
chủng tộc, màu da, phái tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị hay tất
cả quan điểm khác, quốc tịch hay nguồn gốc xã hội, tài sản, nơi sinh, hay tất
cả những hoàn cảnh khác. Hơn nữa, cũng không được có sự phân biệt nào đối với
con người sống trên một quốc gia hay trên một lãnh thổ, căn cứ trên cơ chế
chính trị, nền tảng luật pháp hay quy chế quốc tế của quốc gia hay lãnh thổ đó.
Cho dù quốc gia hay lãnh thổ này độc lập hay dưới sự bảo hộ, không được tự trị
hay ở trong tình trạng bị hạn chế về chủ quyền.
Ðiều 3: Mọi người đều có quyền sống, quyền tự do và
an ninh thân thể.
Ðiều 4: Không ai bị cưỡng bức làm nô lệ hay tôi
đòi. Chế độ nô lệ và buôn bán nô lệ dưới mọi hình thức đều bị nghiêm cấm.
Ðiều 5: Không một người nào phải chịu cực hình, tra
tấn, hay bất kỳ hình thức đối xử, hoặc trừng phạt bất nhân, hay có tính cách
lăng nhục.
Ðiều 6: Ở bất cứ nơi nào, mỗi người đều có quyền
được công nhận tư cách của mình trước pháp luật.
Ðiều 7: Tất cả mọi người đều bình đẳng trước pháp
luật, và phải được bảo vệ một cách bình đẳng, không kỳ thị phân biệt. Tất cả
đều được quyền bảo vệ ngang nhau, chống lại mọi kỳ thị vi phạm Bản Tuyên Ngôn
này, cũng như chống lại mọi khiêu khích dẫn đến kỳ thị như vậy.
Ðiều 8: Mọi người đều có quyền được kháng tố trước
các cơ quan tư pháp quốc gia có thẩm quyền về các hành vi vi phạm các quyền căn
bản, do Hiến Pháp và Luật Pháp quy định.
Ðiều 9: Không một ai bị bắt bớ, cầm tù hay lưu đày
một cách độc đoán.
Ðiều 10: Mọi người đều có ngang nhau quyền được phân
xử công khai và công bằng, trước một tòa án độc lập và vô tư, để được phán
quyết về các quyền lợi và nhiệm vụ của mình, hay về những tội phạm mà mình bị
cáo buộc.
Ðiều 11:
(1) Khi truy tố trước
pháp luật, mọi người được xem là vô tội, cho đến khi pháp luật chứng minh là có
tội, trong một phiên tòa công khai và tòa án này phải cung ứng tất cả mọi bảo
đảm cần thiết cho quyền biện hộ của đương sự.
(2) Không ai có thể bị kết án khi có những hành động hay sơ suất xảy ra vào lúc
mà luật pháp của quốc gia hay quốc tế không qui định đó là một hành vi phạm
pháp. Tương tự như vậy, không được áp đặt một hình phạt nào nặng hơn hình phạt
được ấn định vào lúc hành vi phạm pháp xảy ra.
Ðiều 12: Không một ai bị xâm phạm một cách độc đoán
về đời sống riêng tư, gia đình, nhà ở, hay thư tín, cũng như bị xúc phạm danh
dự hay tiếng tăm của mình. Mọi người đều có quyền được luật pháp bảo vệ, trước
những xâm phạm và xúc phạm như vậy.
Ðiều 13:
(1) Mọi người có quyền tự
do di chuyển và cư trú, trong phạm vi biên giới của quốc gia.
(2) Mọi người đều có quyền rời bỏ lãnh thổ bất kỳ nước nào, kể cả nước của
mình, và quyền trở về xứ sở.
Ðiều 14:
(1) Trước sự ngược đãi,
mọi người đều có quyền tị nạn và tìm sự dung thân tại các quốc gia khác.
(2) Quyền này không được kể đến, trong trường hợp bị truy nã thật sự vì các tội
phạm ngoài lý do chính trị, hay do những hành vi trái với những mục tiêu và
nguyên tắc của Liên Hiệp Quốc.
Ðiều 15:
(1) Mọi người đều có
quyền có quốc tịch.
(2) Không một ai bị tước bỏ quốc tịch, hay bị từ chối quyền thay đổi quốc tịch,
một cách độc đoán.
Ðiều 16:
(1) Nam và nữ trong tuổi
trưởng thành có quyền kết hôn và lập gia đình, mà không bị hạn chế về lý do
chủng tộc, quốc tịch hay tôn giáo. Nam nữ đều có quyền bình đẳng lúc kết hôn,
trong đời sống vợ chồng và lúc ly hôn.
(2) Hôn nhân chỉ có thể tiến hành khi cả hai vợ chồng tương lai đều được tự do
quyết định và đồng ý thật sự.
(3) Gia đình phải được xem là một đơn vị tự nhiên và căn bản của xã hội, và
được quyền bảo vệ của xã hội và quốc gia.
Ðiều 17:
(1) Mọi người đều có
quyền sở hữu tài sản cá nhân cũng như tập thể.
(2) Không ai có thể bị tước đoạt tài sản của mình một cách độc đoán.
Ðiều 18: Mọi người đều có quyền về tự do tư tưởng,
nhận thức và tôn giáo. Quyền này bao gồm cả quyền tự do thay đổi tôn giáo hay
tín ngưỡng, cũng như quyền tự do biểu lộ tôn giáo hay tín ngưỡng của mình, với
tư cách cá nhân hay tập thể, ở nơi công cộng hay trong chỗ tư nhân, bằng sự
truyền dạy, thực hành, thờ phượng và áp dụng các nghi thức đạo giáo.
Ðiều 19: Mọi người đều có quyền tự do tư duy và ngôn
luận. Quyền này bao gồm quyền không bị gây khó khăn vì quan điểm của mình và
quyền được tìm kiếm, thu nhận và quảng bá tin tức và ý kiến qua mọi phương tiện
truyền thông và qua mọi biên giới.
Ðiều 20:
(1) Mọi người đều có
quyền tự do hội họp và lập hội, một cách hòa bình.
(2) Không một ai có thể bị cưỡng bách gia nhập vào một đoàn thể.
Ðiều 21:
(1) Mọi người đều có
quyền tham gia vào việc điều hành xứ sở của mình, một cách trực tiếp hay qua
các đại biểu được tuyển chọn một cách hoàn toàn tự do.
(2) Mọi người đều có ngang nhau quyền nhận lãnh những trách nhiệm chung của
quốc gia của họ.
(3) Ý muốn của nhân dân phải là nền tảng của quyền lực chính quyền. Ý muốn này
phải được thể hiện qua các cuộc bầu cử định kỳ và nghiêm chỉnh, bằng phiếu kín,
qua phương thức phổ thông và bình đẳng đầu phiếu, hay các phương thức tương
đương bảo đảm tự do bầu cử.
Ðiều 22: Vì là thành viên của xã hội, mỗi người đều
có quyền an ninh xã hội, qua các cố gắng của quốc gia và hợp tác quốc tế, dựa
theo phương cách tổ chức và tài nguyên của mỗi nước. Quyền này được đặt trên
căn bản của sự thụ hưởng những quyền về kinh tế, xã hội và văn hóa, cần thiết
cho nhân phẩm và sự phát triển tự do của mỗi cá nhân.
Ðiều 23:
(1) Mọi người đều có
quyền làm việc, quyền tự do chọn việc làm, quyền được hưởng các điều kiện làm
việc chính đáng và thuận lợi đối với công việc, và quyền được bảo vệ chống thất
nghiệp.
(2) Mọi người, không vì lý do kỳ thị nào, đều có quyền được hưởng lương bổng
như nhau, nếu cùng làm một công việc như nhau.
(3) Mọi người làm việc đều được quyền hưởng thù lao một cách công bằng và thích
hợp, khả dĩ bảo đảm cho bản thân và gia đình mình một cuộc sống xứng đáng với
nhân phẩm, cũng như được trợ giúp nếu cần, qua các phương thức bảo vệ xã hội
khác.
(4) Mọi người đều có quyền thành lập và tham gia vào các nghiệp đoàn, để bảo vệ
quyền lợi của mình.
Ðiều 24: Mọi người đều có quyền nghỉ ngơi và giải
trí, nhất là sự giới hạn số giờ làm việc một cách hợp lý, và các ngày nghỉ định
kỳ có trả lương.
Ðiều 25:
(1) Mọi người đều có
quyền được hưởng một mức sống phù hợp với sức khỏe và sự no ấm cho bản thân và
gia đình bao gồm: thực phẩm, quần áo, nhà ở, y tế và các dịch vụ xã hội cần
thiết, quyền an sinh trong lúc thất nghiệp, đau ốm, tình trạng bất khiển dụng,
góa bụa, tuổi già hay các tình huống thiếu thốn khác do các hoàn cảnh ngoài khả
năng kiểm soát của mình.
(2) Sinh sản và trẻ con có quyền được chăm sóc và trợ giúp đặcbiệt. Tất cả mọi
trẻ con, sinh có hôn thú hay không, đều được xã hội bảo vệ một cách bình đẳng
như nhau.
Ðiều 26:
(1) Mọi người đều có
quyền được giáo dục. Giáo dục phải được miễn phí, ít nhất là trong trường hợp
cưỡng bách giáo dục ở bậc tiểu học. Giáo dục kỹ thuật và chuyên nghiệp phải
được mở rộng và giáo dục đại học phải được mở rộng bình đẳng cho mọi người,
trên căn bản tài năng xứng đáng.
(2) Giáo dục phải được điều hướng để phát triển đầy đủ nhân cách, và củng cố sự
tôn trọng nhân quyền và các quyền tự do căn bản. Giáo dục phải nhằm cổ vũ sự
cảm thông, lòng khoan dung, và tình hữu nghị giữa mọi quốc gia, mọi nhóm chủng
tộc hoặc tôn giáo, và hỗ trợ việc phát triển các sinh hoạt của Liên Hiệp Quốc
nhằm duy trì hòa bình.
(3) Cha mẹ có quyền ưu tiên chọn lựa phương cách giáo dục dành cho con cái
mình.
Ðiều 27:
(1) Mọi người đều có quyền tự do tham gia sinh hoạt văn hóa cộng đồng, thưởng
thức các bộ môn nghệ thuật, và cùng chia xẻ các tiến bộ khoa học cũng như các
lợi ích của khoa học.
(2) Mọi người đều có quyền được bảo vệ về tác quyền, trên bình diện tinh thần
cũng như quyền lợi vật chất, đối với các tác phẩm khoa học, văn chương, hay
nghệ thuật.
Ðiều 28: Mọi người đều có quyền đòi hỏi được sống
trong một trật tự xã hội và trật tự quốc tế, trong đó các quyền và các tự do
được đề cập trong Bản Tuyên Ngôn này có thể được thể hiện đầy đủ.
Ðiều 29:
(1) Mọi người đều có
nhiệm vụ đối với cộng đồng nào mà chỉ trong đó mới thực hiện được việc phát
triển toàn vẹn và tự do nhân cách của mình.
(2) Trong việc hành xử nhân quyền và thụ hưởng tự do, mọi người chỉ phải chịu
những hạn chế do luật định – và những hạn chế này chỉ nhằm mục tiêu bảo đảm sự
thừa nhận và tôn trọng nhân quyền, và quyền tự do của những người khác, cũng
như nhằm thỏa mãn những đòi hỏi chính đáng về luân lý, trật tự công cộng, và
nền an sinh chung trong một xã hội dân chủ.
(3) Trong bất cứ trường hợp nào, nhân quyền và những quyền tự do này cũng không
được hành xử trái với những mục tiêu và nguyên tắc của Liên Hiệp Quốc.
Ðiều 30: Không một điều nào trong Bản Tuyên Ngôn này
cho phép một nước, một nhóm hay một cá nhân nào được quyền viện dẫn bất cứ lý
do gì để có những việc làm hay hành động nhằm hủy diệt nhân quyền và tự do được
thừa nhận trong bản Tuyên Ngôn này.
Liên Hiệp Quốc, ngày 10 tháng 12 năm 1948
*
* * *
* * *
* * *
Công Ước Quốc Tế về những quyền
Kinh Tế, Xã Hội và Văn Hóa (1966)
Xét rằng : chiếu theo những
nguyên tắc công bố trong Hiến Chương Liên Hiệp Quốc, việc thừa nhận phẩm giá
bẩm sinh và những quyền bình đẳng và bất khả chuyển nhượng của tất cả các phần
tử trong đại gia đình nhân loại là nền móng của tự do, công lý và hòa bình thế
giới.
Nhìn nhận rằng : những quyền này
xuất phát từ phẩm giá bẩm sinh của con người.
Nhìn nhận rằng : chiếu theo Tuyên
Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền, lý tưởng về một con người tự do được giải phóng khỏi
sự sợ hãi và khốn cùng, chỉ có thể đạt được nếu hội đủ những điều kiện thuận
tiện để con người được hưởng những quyền kinh tế, xã hội và văn hóa, cũng như
những quyền dân sự và chính trị.
Xét rằng : nghĩa vụ của các
quốc gia hội viên theo Hiến Chương Liên Hiệp Quốc là phát huy sự tôn trọng và
thực thi trên toàn cầu những nhân quyền và những quyền tự do của con người.
Nhận định rằng : con người có nghĩa vụ
đối với những người khác cũng như đối với cộng đồng, nên có trách nhiệm phải
phát huy và tôn trọng những quyền được nhìn nhận trong Công Ước này.
Ðồng chấp thuận những điều khoản sau đây :
Phần I
Ðiều 1 :
1/ Các dân tộc đều có quyền tự quyết. Chiếu theo
quyền này, họ được tự do quyết định về chế độ chính trị và tự do theo đuổi
đường hướng phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa.
2/ Ðể đạt được mục tiêu này, các dân tộc có quyền
tự do sử dụng các nguồn lợi thiên nhiên của mình, miễn là không vi phạm những
nghĩa vụ phát sinh từ sự hợp tác quốc tế về kinh tế, đặt căn bản trên quyền lợi
hỗ tương và luật pháp quốc tế. Trong mọi trường hợp các phương tiện sinh sống
của người dân không thể bị tước đoạt.
3/ Các quốc gia hội viên ký kết Công Ước này, kể
cả những quốc gia có trách nhiệm bảo hộ hay giám hộ các lãnh thổ khác, phải tôn
trọng và xúc tiến việc thực thi quyền dân tộc tự quyết chiếu theo các điều
khoản của Hiến Chương Liên Hiệp Quốc.
Phần II
Ðiều 2 :
1/ Các quốc gia hội viên ký kết Công Ước này cam
kết, sẽ tự mình và do sự tương trợ và hợp tác quốc tế, đặc biệt về kinh tế và
kỹ thuật, ban hành những biện pháp tận dụng những nguồn lợi quốc gia vào mục
đích thực thi lũy tiến và đầy đủ những quyền được nhìn nhận trong Công Ước này
bằng những phương pháp thích nghi, đặc biệt là bằng việc ban hành các đạo luật.
2/ Các quốc gia hội viên ký kết Công Ước này cam
kết bảo đảm thực thi các quyền liệt kê trong Công Ước này không phân biệt chủng
tộc, màu da, nam nữ, ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến hay quan niệm, nguồn gốc
quốc gia hay xã hội, tài sản, dòng dõi hay bất cứ thân trạng nào khác.
3/ Trong chiều hướng tôn trọng nhân quyền và căn
cứ vào khả năng kinh tế trong nước, các quốc gia đang phát triển có thể ấn định
những quyền kinh tế nào trong Công Ước này sẽ được bảo đảm áp dụng cho những
người không có tư cách công dân.
Ðiều 3 :
Các quốc gia hội viên ký kết Công Ước này cam kết
bảo đảm quyền bình đẳng nam nữ trong việc hành sử những quyền kinh tế, xã hội
và văn hóa liệt kê trong Công Ước này.
Ðiều 4 :
Các quốc gia hội viên ký kết Công Ước này nhìn
nhận rằng, về việc hành sử những quyền ghi trong Công Ước, họ chỉ có thể ấn
định các giới hạn luật định phụ hợp với bản chất của những quyền này và chỉ
nhằm mục đích phát huy sự an lạc chung trong một xã hội dân chủ.
Ðiều 5 :
1/ Không một quốc gia, một phe nhóm hay một cá
nhân nào có quyền giải thích các điều khoản trong Công Ước này để cho phép họ
hoạt động hay làm những hành vi nhằm tiêu diệt những quyền tự do đã được Công
Ước thừa nhận, hoặc để giới hạn những quyền tự do này quá mức ấn định trong
Công Ước.
2/ Các quốc gia nào đã thừa nhận một số nhân
quyền căn bản trong luật pháp quốc gia, công ước, quy chế hay tục lệ, sẽ không
được quyền giới hạn hay đình chỉ thi hành các nhân quyền căn bản đó,
viện cớ rằng Công Ước này không thừa nhận những nhân quyền đó, hay chỉ thừa
nhận trong một phạm vi hạn hẹp hơn.
Phần III
Ðiều 6 :
1/ Các quốc gia hội viên ký kết Công Ước này thừa
nhận cho mọi người quyền làm việc và cam kết sẽ ban hành những biện pháp để bảo
đảm quyền này. Quyền làm việc bao gồm quyền có cơ hội sinh sống nhờ công việc,
quyền tự do nhận việc hay lựa chọn việc làm.
2/ Các quốc gia hội viên ký kết Công Ước này sẽ
ban hành những biện pháp để thực thi đầy đủ quyền làm việc, như những chương
trình huấn luyện, hướng dẫn kỹ thuật và hướng nghiệp, những chính sách và kỹ
thuật để phát triển đều đặn về kinh tế, xã hội và văn hóa, cùng sự toàn dụng
nhân công vào việc sản xuất trong điều kiện những quyền tự do chính trị và kinh
tế căn bản của cá nhân được bảo đảm.
Ðiều 7 :
Các quốc gia hội viên ký kết Công Ước này nhìn
nhận cho mọi người quyền được hưởng những điều kiện làm việc công bằng và thuận
lợi, đặc biệt với những bảo đảm sau đây :
a. Về việc trả lương cho các công nhân, tối thiểu
phải có :
i) Tiền lương tương xứng và công bằng cho các
công việc có giá trị ngang nhau không phân biệt đối xử. Ðặc biệt phụ nữ được
bảo đảm có những điều kiện làm việc tương xứng như nam giới, làm việc ngang
nhau được trả lương ngang nhau.
ii) Một mức sống xứng đáng cho bản thân và gia
đình phù hợp với những điều khoản của Công Ước này.
b. Có điều kiện làm việc an toàn và không hại đến
sức khỏe.
c. Có cơ hội thăng tiến đồng điều cho mọi người
và chỉ căn cứ vào thâm niên và khả năng.
d. Có quyền nghỉ ngơi và giải trí, được ấn định
hợp lý số giờ làm việc, kể cả những ngày nghỉ định kỳ có trả lương.
Ðiều 8 :
1/ Các quốc gia hội viên ký kết Công Ước này cam
kết bảo đảm :
a) Quyền tự do thành lập nghiệp đoàn và tham gia
nghiệp đoàn (theo nội quy và điều lệ), để bảo vệ và gia tăng quyền lợi kinh tế
và xã hội của mình. Sự hành sử quyền này chỉ có thể bị giới hạn theo luật, vì
nhu cầu sinh hoạt trong một xã hội dân chủ để bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự
công cộng, hay sự hành sử quyền tự do của người khác.
b) Quyền của các nghiệp đoàn được kết hợp thành
các tổng liên đoàn quốc gia, và từ đó thành lập hay gia nhập các tổ chức tổng
liên đoàn quốc tế.
c) Các nghiệp đoàn được quyền tự do hoạt động và
chỉ có thể bị giới hạn theo luật, vì nhu cầu sinh hoạt trong một xã hội dân chủ
để bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự công cộng, hay sự hành sử quyền tự do của
những người khác.
d) Quyền đình công được hành xử theo luật quốc
gia.
2/ Ðiều luật này không có tác dụng ngăn cấm việc
ban hành các giới hạn luật định liên quan đến sự hành sử những quyền này của
các giới quân nhân, cảnh sát và công chức quốc gia.
3/ Ðiều luật này không có hiệu lực cho phép các
quốc gia hội viên ký kết Công Ước Lao Ðộng Quốc Tế năm 1948 về Quyền Tự Do Lập
Hội và Bảo Vệ Quyền Lập Hội được ban hành những đạo luật có tác dụng vi phạm
những bảo đảm ghi trong Công Ước Lao Ðộng Quốc Tế.
Ðiều 9 :
Các quốc gia hội viên ký kết Công Ước này thừa
nhận quyền của mọi người được hưởng an sinh xã hội và bảo hiểm xã hội.
Ðiều 10 :
Các quốc gia hội viên ký kết Công Ước này nhìn
nhận rằng :
1/ Vì gia đình là đơn vị tự nhiên và căn bản
trong xã hội nên phải được bảo vệ và hỗ trợ mạnh mẽ nhất, đặc biệt trong giai
đoạn thành lập và trong khi thi hành nghĩa vụ chăm sóc và giáo dục các trẻ em.
Hôn thú được thành lập do sự ưng thuận tự do của những người kết hôn.
2/ Xã hội phải đặc biệt giúp đỡ các sản phụ trong
một thời gian hợp lý trước và sau khi sinh nở. Trong thời gian này, các bà mẹ
đi làm được nghỉ phép có trả lương hay được hưởng trợ cấp an sinh xã hội cần
thiết.
3/ Quốc gia phải ban hành những biện pháp đặc
biệt để bảo vệ và hỗ trợ các trẻ em và thiếu niên không phân biệt tình trạng
phụ hệ hay bất cứ thân trạng nào khác. Trẻ em và thiếu niên phải được bảo vệ
chống mọi hình thức bóc lột về kinh tế và xã hội. Các thiếu niên không được
tuyển dụng vào các công việc nguy hiểm đến đời sống hay phương hại đến đạo lý,
sức khỏe hay đến sự phát triển bình thường của tuổi trẻ. Vi phạm điều này phải
bị truy tố theo luật. Quốc gia cũng phải ấn định số tuổi tối thiểu cho các
thiếu niên làm việc lao động có trả lương. Tuyển dụng các thiếu niên dưới tuổi
luật định phải bị cấm chỉ và truy tố theo luật.
Ðiều 11 :
1/ Các quốc gia hội viên ký kết Công Ước này thừa
nhận cho mọi người quyền được hưởng một mức sống khả quan cho bản thân và gia
đình, đủ cơm ăn, áo mặc và nhà ở. Mức sống này phải được nâng cao liên tục. Các
quốc gia hội viên kết ước sẽ ban hành những biện pháp thích nghi để quyền này
được thực hiện, ý thức rằng sự hợp tác quốc tế trên căn bản tự nguyện giữ vai
trò thiết yếu trong việc này.
2/ Các quốc gia hội viên ký kết Công Ước này thừa
nhận cho mọi người quyền căn bản được giải thoát khỏi sự đói khổ, và cam kết sẽ
ban hành những biện pháp do quốc gia và do sự hợp tác quốc tế, để thực hiện
những chương trình đặc biệt cần thiết như :
a) Cải tiến những phương pháp sản xuất, tồn trữ
và phân phối thực phẩm bằng cách tận dụng các kiến thức khoa học kỹ thuật, phổ
biến các kiến thức về dinh dưỡng, phát triển hay canh tân nông nghiệp để đạt
được năng suất tối đa về phát triển và sử dụng tài nguyên thiên nhiên.
b) Trên phạm vi toàn cầu, phải tiến tới sự phân
phối công bằng và hợp lý các thực phẩm trên thế giới tùy theo khả năng của các
quốc gia suất cảng thực phẩm và nhu cầu của các quốc gia nhập cảng thực phẩm.
Ðiều 12 :
1/ Các quốc gia hội viên ký kết Công Ước này thừa
nhận cho mọi người được hưởng tiêu chuẩn cao nhất về sức khỏe thể chất và tâm
thần.
2/ Ðể quyền này được thực thi đầy đủ, các quốc
gia hội viên ký kết Công Ước này sẽ ban hành những biện pháp cần thiết sau đây
:
a) Giảm bớt tỷ lệ tử vong của thai nhi và hài
nhi, bảo vệ sức khỏe và sự phát triển của trẻ em.
b) Cải thiện những điều kiện vệ sinh trong môi
trường sinh thái và môi trường kỹ nghệ.
c) Ngăn ngừa, điều trị và kiểm soát các bệnh
dịch, các bệnh đặc biệt tại một địa phương hay tại một loại nghề nghiệp, cũng
như các bệnh khác.
d) Tạo điều kiện để bảo đảm việc cung cấp các
dịch vụ y tế và chăm sóc bệnh nhân khi đau yếu.
Ðiều 13 :
1/ Các quốc gia hội viên ký kết Công Ước này thừa
nhận cho mọi người quyền được hưởng giáo dục. Giáo dục phải nhằm phát huy đầy
đủ nhân cách và nhân phẩm, tăng cường sự tôn trọng nhân quyền và những quyền tự
do căn bản; cho mọi người được thực sự tham gia sinh hoạt trong một xã hội tự
do, đề cao sự thông cảm, bao dung và hữu nghị giữa các quốc gia, các cộng đồng
sắc tộc, chủng tộc hay tôn giáo, và yểm trợ các hoạt động của Liên Hiệp Quốc
trong việc duy trì hòa bình.
2/ Các quốc gia hội viên ký kết Công Ước này nhìn
nhận rằng, đường hướng sau đây sẽ giúp việc thực hiện đầy đủ quyền giáo dục :
a) Giáo dục tiểu học phải có tính cách cưỡng bách
và miễn phí cho tất cả mọi người.
b) Giáo dục trung học kể cả các ngành phổ thông,
kỹ thuật và hướng nghiệp phải được phổ cập cho tất cả mọi người bằng những
phương pháp thích nghi và đặc biệt phải tiến dần đến miễn phí.
c) Giáo dục đại học phải được phổ cập bình đẳng
cho mọi sinh viên bằng những phương pháp thích nghi, căn cứ vào khả năng, và
đặc biệt phải tiến dần đến miễn phí.
d) Giáo dục căn bản tráng niên được khuyến khích
và tăng cường tối đa cho những người chưa tốt nghiệp tiểu học.
e) Hệ thống giáo dục các cấp phải được tích cực
phát triển, hệ thống học bỗng tu nghiệp phải được thiết lập và điều kiện vật
chất của các nhân viên giảng huấn phải được cải thiện liên tục.
3/ Các quốc gia hội viên ký kết Công Ước này cam
kết tôn trọng quyền tự do của phụ huynh học sinh hay người giám hộ, được lựa
chọn trường cho con em ngoài hệ thống giáo dục công lập, nếu trường này hội đủ
những tiêu chuẩn giáo dục tối thiểu do quốc gia ấn định. Các phụ huynh hay
người giám hộ cũng được quyền phụ trách về giáo dục tôn giáo và đạo lý cho con
em theo tín ngưỡng của họ.
4/ Ðiều luật này không có tác dụng can thiệp vào
quyền tự do của các cá nhân hay tổ chức trong việc thiết lập và điều hành các
định chế giáo dục tư thục với điều kiện cùng theo đuổi những mục tiêu giáo dục
nêu ở khoản 1 điều này, và nếu hội đủ tiêu chuẩn giaó dục tối thiểu do quốc gia
ấn định.
Ðiều 14 :
Trong thời gian ký kết hay gia nhập Công Ước này,
nếu các quốc gia hội viên nào chưa tổ chức được hệ thống tiểu học cưỡng bách và
miễn phí trong quản hạt quốc gia (hay trong các lãnh thổ mà họ bảo hộ hay giám
hộ), họ cam kết sẽ thiết lập trong vòng hai năm một chương trình hành động với
đầy đủ chi tiết để tuần tự ban hành trong một thời gian hợp lý có ghi rõ trong
chương trình, một hệ thống giáo dục cưỡng bách và miễn phí cho tất cả các học
sinh tiểu học.
Ðiều 15 :
1/ Các quốc gia hội viên ký kết công ước này thừa
nhận quyền của mọi người :
a) Ðược tham gia vào đời sống văn hóa.
b) Ðược hưởng các lợi ích của những tiến bộ và
sáng chế khoa học.
c) Ðược bảo vệ những quyền lợi tinh thần và vật
chất phát sinh từ những sản phẩm khoa học, văn học hay nghệ thuật của mình.
2/ Ðể thực thi đầy đủ quyền này, các quốc gia hội
viên ký kết Công Ước này cam kết sẽ ban hành những biện pháp cần thiết trong
việc bảo tồn, phát triển và phổ biến khoa học và văn hóa.
3/ Các quốc gia hội viên ký kết Công Ước này cam
kết tôn trọng quyền tự do cần thiết cho việc nghiên cứu khoa học và sáng tạo
văn học nghệ thuật.
4/ Các quốc gia hội viên ký kết Công Ước này ghi
nhận những lợi ích trong việc khuyến khích và phát triển những liên lạc và hợp
tác quốc tế trên lãnh vực khoa học và văn hóa.
*
* * *
* * *
* * *
Công Ước Quốc Tế
về những quyền Dân Sự và Chính Trị (1966 )
Lời Mở Ðầu
Các Quốc Gia Hội Viên ký kết Công Ước này :
Xét rằng, chiếu theo những nguyên tắc công bố
trong Hiến Chương Liên Hiệp Quốc, việc thừa nhận phẩm giá bẩm sinh và những
quyền bình đẳng và bất khả chuyển nhượng của tất cả các phần tử trong đại gia
đình nhân loại là nền móng của tự do, công lý và hoà bình thế giới.
Nhìn nhận rằng những quyền này xuất phát từ phẩm
giá bẩm sinh của con người.
Nhìn nhận rằng, chiếu theo Tuyên Ngôn Quốc Tế
Nhân Quyền, lý tưởng về một con người tự do được hành sử những quyền dân sự và
chính trị cũng như được giải phóng khỏi sự sợ hãi và khốn cùng, chỉ có thể đạt
được nếu hội đủ những điều kiện thuận tiện để con người được hưởng những quyền
dân sự và chính trị cũng như những kinh tế, xã hội và văn hóa.
Xét rằng nghĩa vụ của các quốc gia hội viên theo
Hiến Chương Liên Hiệp Quốc là phát huy sự tôn trọng và thực thi trên toàn cầu
những nhân quyền và những quyền tự do của con người.
Nhận định rằng con người có nghĩa vụ đối với
những người khác cũng như đối với cộng đồng, nên có trách nhiệm phải phát huy
và tôn trọng những quyền được nhìn nhận trong Công Ước này,
Ðồng chấp thuận những điều khoản sau đây :
Phần I
Ðiều 1:
1) Các dân tộc điều có quyền tự quyết. Chiếu theo
quyền này, họ được tự do quyết định về chế độ chính trị và tự do theo đuổi
đường hướng phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa.
2) Ðể đạt được mục tiêu này, các dân tộc có quyền
tự do sử dụng các nguồn lợi thiên nhiên của mình, miễn là không vi phạm những
nghĩa vụ phát sinh từ sự hợp tác quốc tế về kinh tế, đặt căn bản trên quyền lợi
hỗ tương và luật pháp quốc tế. Trong mọi trường hợp các phương tiện sinh sống
của người dân không thể bị tước đoạt.
3) Các quốc gia hội viên ký Công Ước này, kể cả
những quốc gia có trách nhiệm bảo hộ hay giám hộ các lãnh thổ khác, phải tôn
trọng và xúc tiến việc thực thi quyền dân tộc tự quyết chiếu theo các điều
khoản của Hiến Chương Liên Hiệp Quốc.
Phần II
Ðiều 2:
1) Các quốc gia hội viên ký kết Công Ước này cam
kết tôn trọng và bảo đảm thực thi những quyền được ghi trong Công Ước cho tất
cả mọi người sống trong lãnh thổ và thuộc thẩm quyền quốc gia, không phân biệt
chủng tộc, màu da, nam nữ, ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến hay quan niệm nguồn
gốc quốc gia hay xã hội, tài sản dòng dõi hay bất cứ thân trạng nào khác.
2) Trong trường hợp những quyền được nhìn nhận
trong Công Ước này chưa được qui định thành văn trong luật pháp quốc gia, các
quốc gia hội viên ký kết Công Ước cam kết sẽ ban hành các đạo luật theo thủ tục
lập pháp quốc gia và theo các điều khoản của Công Ước để các quyền này có hiệu
lực.
3) Các quốc gia hội viên ký kết Công Ước cam kết
này:
a) Bảo đảm cho các nạn nhân quyền được đền bù hay
được bồi thường thỏa đáng khi những quyền tự do của họ bị vi phạm, dù rằng
người vi phạm là một viên chức chính quyền,
b) Bảo đảm cho nạn nhân được quyền khiếu nại tại
các tư pháp, hành chánh hay lập pháp quốc gia, hay tại các cơ quan có thẩm
quyền và phát triển quyền khiếu tố trước toà án,
c) Bảo đảm các cơ quan có thẩm quyền phải thi
hành ngiêm chỉnh những sự đền bù hay bồi thường đã tuyên bố.
Ðiều 3 : Các quốc gia hội viên ký kết Công Ước này cam kết
bảo đảm quyền bình đẳng nam nữ trong việc hành sử những quyền dân sự và chính
trị ghi trong Công Ước.
Ðiều 4
1) Trong khi tuyên bố tình trạng khẩn trương công
cộng vì lý do quốc gia bị đe dọa, các quốc gia hội viên ký Công Ước này có thể
ban hành một số biện pháp đình chỉ thi hành các nghĩa vụ của quốc gia ấn định
trong Công Ước này. Tuy nhiên những biện pháp này phải có tính cách thật cần
thiết vì nhu cầu của tình thế, và không vi phạm các nghĩa vụ của các quốc gia
phát sinh từ luật pháp quốc tế, và cũng không được dùng để kỳ thị chủng tộc,
màu da, nam nữ, tôn giáo, hay nguồn gốc xã hội.
2) Trong mọi trường hợp những quyền dân sự và
chính trị ghi trong các điều 6, 7, 8 ( khoản 1 và 2) và trong các điều 11, 15,
16, 18 của Công Ước không thể bị đình chỉ thi hành.
3) Các quốc gia hội viên ký kết Công Ước này phải
lập tức thông báo qua vị Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc cho các quốc gia hội viên
kết ước khác hay biết những điều khoản nào trong Công Ước bị đình chỉ thi hành
và vì lý do gì. Ngay sau khi chấm dứt tình trạng khẩn trương công cộng, họ cũng
phải thông báo theo thủ tục nói trên.
Ðiều 5 :
1) Không một quốc gia, một phe nhóm hay một cá
nhân nào có quyền giải thích các điều khoảng trong Công Ước này để cho phép họ
hoạt động hay làm những hành vi nhằm tiêu diệt những quyền tự do đã được Công
Ước thừa nhận, hoặt để giới hạn những quyền tự do này quá mức ấn định trong
Công Ước.
2) Các quốc gia hội viên kết ước nào đã thừa nhận
một số nhân quyền cơ bản trong luật pháp quốc gia, công ước, quy chế hay tục
lệ, sẽ không được quyền giới hạn hay đình chỉ thi hành các nhân quyền cơ bản
đó, viện cớ rằng Công Ước này không thừa nhận những nhân quyền đó, hay chỉ thừa
nhận trong một phạm vi hạn hẹp hơn.
Phần III
Ðiều 6 :
1) Mọi người đều có quyền sống. Ðây là một quyền
bẩm sinh được luật pháp bảo vệ. Không ai có thể bị tước đoạt quyền sống một
cách độc đoán.
2) Trong các quốc gia chưa bãi bỏ hình phạt tử
hình, tòa án chỉ được tuyên án tử hình với những tội hình sự nghiêm trọng nhất
chiếu theo luật pháp áp dụng trong thời gian phạm pháp và không trái với những
điều khoản của Công Ước này và của Công Ước Ngăn Ngừa và Trừng Phạt Tội Diệt
Chủng. Hình phạt tử hình chỉ có thể được thi hành chiếu theo một bản án chung
thẩm của một tòa án có thẩm quyền.
3) Ðiều luật này không cho phép các quốc gia hội
viên ký kết Công Ước này được giải trừ các nghĩa vụ ghi trong Công Ước Ngăn
Ngừa và Trừng Phạt Tội Diệt Chủng trong trường hợp sự hành quyết hay sát nhân
cấu thành tội diệt chủng.
4) Các bị cáo bị tuyên án tử hình có quyền xin ân
xá hay ân giảm hình phạt. Lệnh đại xá, ân xá hay ân giảm hình phạt có thể được
ban hành trong mọi trường hợp.
5) Án tử hình không được tuyên án đối với các bị
cáo chưa đủ 18 tuổi khi phạm pháp, và cũng không được thi hành đối với các phụ
nữ mang thai.
6) Ðiều luật này không thể được viện dẫn để trì
hoãn hay ngăn cản việc bãi bỏ hình phạt tử hình tại các quốc gia hội viên ký
kết Công Ước này.
Ðiều 7 : Không ai có thể bị tra tấn, hoặc phải chịu những
hình phạt hay đối xử tàn ác, vô nhân đạo, làm hạ thấp phẩm giá con người. Ðặc
biệt là, nếu không có sự ưng thuận tự do của đương sự, không ai có thể bị dùng
vào những cuộc thí nghiệm y học hay khoa học.
Ðiều 8 :
1) Không ai có thể bị bắt làm nô lệ; chế độ nô lệ
và mọi hình thức buôn bán nô lệ đều bị cấm chỉ.
2) Không ai có thể bị bắt làm nô dịch.
3)
a) Không ai có thể bị cưỡng bách lao động.
b) Khoản 3(a) nói trên không được áp dụng tại các
quốc gia trong đó luật pháp cho phép tòa án có thẩm quyền tuyên án khổ sai.
c) Trong phạm vi khoản này, không được coi là
“lao động cưỡng bách”:
i) Ngoài trường hợp nêu ở khoản (b) trên đây,
những công tác hay dịch vụ mà các tù nhân phải làm trong thời gian bị giam giữ
chiếu theo một bản án hợp pháp của tòa án, hay phải làm trong thời gian được
phóng thích có điều kiện.
ii) Nghĩa vụ quân sự, hay nghĩa vụ quốc gia áp
dụng cho những người được luật pháp cho miễn thi hành nghĩa vụ quân sự vì lý do
lương tâm.
iii) Nghĩa vụ cộng đồng trong trường hợp khẩn
trương hay thiên tai đe dọa đời sống hay sự an lạc của cộng đồng.
iv) Nghĩa vụ dân sự thông thường.
Ðiều 9 :
1) Ai cũng có quyền tự do thân thể và an ninh
thân thể. Không ai có thể bị bắt giữ hay giam cầm độc đoán. Không ai có thể bị
tước đoạt tự do thân thể ngoại trừ những trường hợp và theo những thủ tục luật
định.
2) Khi bị bắt giữ, bị cáo phải được tức thì thông
báo về lý do bắt giữ, và phải được thông báo không chậm trễ về tội trạng bị cáo
buộc.
3) Bị cáo bị bắt giữ hay giam cầm về một tội hình
sự phải được dẫn giải không chậm trễ tới một vị thẩm phán (hay một viên chức có
thẩm quyền tư pháp theo luật), để được xét xử trong một thời hạn hợp lý hay
được phóng thích. Theo thông lệ, không nhất thiết phải câu lưu bị cáo trước
ngày tòa xử. Tuy nhiên để bảo đảm sự hiện diện của bị cáo trong phiên xử hay
trong các giai đoạn thẩm vấn, và để thi hành bản án, nếu cần, sự phóng thích
tạm bị cáo đòi hỏi phải có bảo đảm.
4) Những người bị bắt giữ hay giam cầm đều có
quyền yêu cầu tòa án thụ lý không chậm trễ về tính hợp pháp của sự giam giữ, và
được phóng thích nếu sự giam giữ được xem là bất hợp pháp.
5) Các nạn nhân trong những vụ bắt giữ hay giam
cầm bất hợp pháp có quyền khiếu tố đòi bồi thường thiệt hại.
Ðiều 10 :
1) Những người mất tự do vẫn phải được đối xử
nhân đạo và tôn trọng nhân phẩm.
2)
a) Ngoại trừ những trường hợp đặt biệt, các bị
cáo chưa được xét xử phải được giam giữ cách biệt với những người đã can án và
phải được đối xử theo quy chế những người không can án.
b) Các bị cáo thiếu nhi phải được giam giữ cách
biệt với người lớn và phải được xét xử trong thời hạn sớm nhất.
c) Chế độ lao tù phải đặt trọng tâm vào việc cải
huấn tù nhân, tạo cho họ cơ hội cải hóa và hội nhập vào đời sống xã hội. Các
thiếu nhi phạm pháp phải được giam giữ cách biệt với người lớn, và phải được
đối xử tùy theo tuổi tác và tình trạng pháp lý của chúng.
Ðiều 11 : không ai có thể bị giam giữ chỉ vì không có khả
năng thi hàng một nghĩa vụ khế ước.
Ðiều 12 :
1) Những người cư trú hợp pháp trong lãnh thổ một
quốc gia đều có quyền tự do đi lại và tự do lựa chọn nơi cư trú trong lãnh thổ.
2) Mọi người đều được quyền tự do rời khỏi một
quốc gia, kể cả quốc gia của mình.
3) Những quyền tự do ghi trên không thể bị giới
hạn, ngoại trừ những trường hợp luật định vì nhu cầu bảo vệ an ninh quốc gia,
trật tự công cộng, sức khỏe công cộng, đạo lý, hay những quyền tự do của người
khác, và nếu không trái với những quyền tự do khác được thừa nhận trong Công
Ước này.
4) Không ai có thể bị tước đoạt quyền hồi hương
một cách độc đoán.
Ðiều 13 : Ngoại kiều cư trú hợp pháp trong lãnh thổ các
quốc gia hội viên ký kết Công Ước này chỉ có thể bị trục xuất do một quyết định
hợp pháp. Trừ trường hợp có lý cưỡng thúc về an ninh quốc gia, người bị trục
xuất có quyền trình bày lý do để chống lại quyết định trục xuất, và có quyền
nhờ người biện hộ nạp đơn xin tái xét hồ sơ trục xuất tại các cơ quan hay người
đại diện cơ quan có thẩm quyền.
Ðiều 14 :
1) Mọi người đều bình đẳng trước tòa án. Mọi
người đều có quyền được xét xử công bằng và công khai bởi một tòa án độc lập,
vô tư và có thẩm quyền theo luật, để phán xử về những tội trạng hình sự mà mình
bị cáo buộc hay về những quyền lợi và nghĩa vụ của mình trong các vụ tranh tụng
khác. Báo chí và công chúng có thể không được tham dự một phần hay toàn thể
phiên xử, vì nhu cầu đạo lý, trật tự công cộng hay an ninh quốc gia trong một
xã hội dân chủ, hay dể bảo vệ đời sống riêng tư của các đương sự tranh tụng,
hay, trong những trường hợp thật cần thiết, khi tòa án quyết định rằng xét xử
công khai sẽ làm thiệt hại quyền lợi của công lý, tuy nhiên các bản án hình sự
và các bản án khác phải được tuyên đọc công khai trước tòa, ngoại trừ trường
hợp để bảo vệ quyền lợi của thiếu nhi hay của gia đình trong những vụ tranh
tụng về hôn nhân hay về việc giám hộ các con.
2) Bị cáo về các tội hình sự có quyền được suy
đoán là vô tội cho đến khi bị chứng minh là có tội theo luật.
3) Trong các vụ hình sự, tất cả các bị cáo đều
được hưởng đồng đều những bảo đảm tối thiểu sau đây :
a) Ðược tức thì thông báo tội trạng với đầy đủ
chi tiết bằng ngôn ngữ mà họ thông hiểu.
b) Quyền có đủ thời gian và phương tiện để chuẩn
bị sự biện hộ và được quyền liên lạc với luật sư do mình lựa chọn.
c) Ðược xét xử mau chóng, không diên trì quá
đáng.
d) Ðược hiện diện trong phiên xử để tự biện hộ
hay nhờ luật sư biện hộ do mình lựa chọn; được thông báo về quyền này trong
trường hợp tự biện hộ; và được quyền có luật sư biện hộ miễn phí vì nhu cầu
công lý nếu bị cáo không có phương tiện mướn luật sư.
e) Ðược đối chất với các nhân chứng buộc tội và
được quyền đòi nhân chứng và chất vấn các nhân chứng gỡ tội cho mình, theo cùng
một thủ tục.
f) Ðược quyền có thông dịch viên miễn phí, nếu bị
cáo không nói hay không hiểu ngôn ngữ của tòa.
g) Ðược quyền không khai, để khỏi phải tự buộc
tội mình, hay khỏi phải thú nhận tội trạng.
4) Trong các vụ án thiếu nhi, thủ tục xét xử phải
căn cứ vào tuổi tác của các bị cáo và hướng về mục tiêu cải huấn can phạm.
5) Các bị cáo bị tuyên phạt có quyền kháng cáo
lên tòa trên thủ tục luật định.
6) Trong trường hợp bị cáo bị tuyên hình phạt
chung thẩm và sau này bản án bị tiêu hủy hay đương sự được ân xá vì có sự kiện
mới phát giác cho biết bị cáo đã bị phạt oan uổng, người bị kết án có quyền đòi
bồi thường thiệt hại theo luật, trừ phi có bằng chứng cho biết, sở dĩ sự kiện
mới này không được phát giác trong thời gian xử án, một phần hay hoàn toàn tại
vì bị cáo.
7) Không ai có thể bị tái thẩm hay bị tuyên phạt
một lần nữa về một tội trạng đã được tòa án phán xử chung thẩm bằng cách tuyên
phạt hay tha bổng, chiếu theo luật pháp và thủ tục hình sự hiện hành.
Ðiều 15 :
1) Không ai có thể bị kết án về một tội hình sự
do những điều mình đã làm hay không làm, nếu những điều ấy không cấu thành tội
hình sự chiếu theo luật pháp quốc gia hay quốc tế áp dụng hồi đó; mà cũng không
bị tuyên cáo một hình phạt nặng hơn hình phạt được áp dụng trong thời gian phạm
pháp. Tuy nhiên bị cáo được quyền hưởng hình phạt khoan hồng hơn chiếu theo
luật mới ban hành sau ngày phạm pháp.
2) Ðiều luật này không có tác dụng ngăn cản việc
xét xử hay tuyên phạt một bị cáo vì đã làm hay không làm những hành vi cấu
thành tội hình sự chiếu theo những nguyên tắc luật pháp tổng quát được thừa
nhận bởi cộng đồng các quốc gia trong thời gian đương sự phạm pháp.
Ðiều 16 : Ai cũng có quyền được công nhận là con người
trước pháp luật bất cứ tại đâu.
Ðiều 17 :
1) Không ai có thể bị xâm phạm trái phép hay độc
đoán vào đời tư, gia đình, nhà ở, thư tín, hoặc bị xúc phạm trái phép đến danh
dự và thanh danh.
2) Ai cũng có quyền được luật pháp bảo vệ chống
lại những xâm phạm ấy.
Ðiều 18 :
1) Ai cũng có quyền tự do tư tưởng, tự do lương
tâm và tự do tôn giáo. Quyền này bao gồm quyền tự do theo một tôn giáo hay tín
ngưỡng và quyền tự do biểu thị tôn giáo hay tín ngưỡng qua sự thờ phụng, hành
đạo, nghi lễ hay giảng dạy, hoặc riêng tư hoặc với người khác, tại nơi công
cộng hay tại nhà riêng.
2) Không ai bị cưỡng bách tước đoạt quyền tự do
lựa chọn tôn giáo hay tín ngưỡng.
3) Quyền tự do biểu thị tôn giáo hay tín ngưỡng
chỉ có thể bị giới hạn theo luật, vì nhu cầu bảo vệ an toàn công cộng, trật tự
công cộng, sức khỏe công cộng, đạo lý hay những quyền tự do căn bản của người
khác.
4) Các quốc gia hội viên ký Công Ước này cam kết
tôn trọng quyền của cha mẹ hay người giám hộ trong việc giáo dục các con về tôn
giáo hay đạo lý theo tín ngưỡng của họ.
Ðiều 19 :
1) Mọi người đều có quyền giữ vững quan niệm mà
không bị ai can thiệp.
2) Mọi người đều có quyền tự do phát biểu quan
điểm; quyền này bao gồm quyền tự do tìm kiếm, tiếp nhận, và phổ biến mọi tin
tức và ý kiến bằng truyền khẩu, bút tự hay ấn phẩm, dưới hình thức nghệ thuật,
hay bằng mọi phương tiện truyền thông khác, không kể biên giới quốc gia.
3) Việc hành sử quyền tự do phát biểu quan điểm
(ghi ở khoản 2 nói trên) đòi hỏi đương sự phải có những bổn phận và trách nhiệm
đặc biệt. Quyền này chỉ có thể bị giới hạn bởi pháp luật vì nhu cầu:
a/ Tôn trọng những quyền tự do và thanh danh của
người khác.
b/ Bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự công cộng,
sức khỏe công cộng hay đạo lý.
Ðiều 20 :
1) Mọi hình thức tuyên truyền, cổ võ chiến tranh
phải bị luật pháp cấm chỉ.
2) Mọi hình thức gieo rắc căm hờn, xúi giục kỳ
thị, hiềm khích, kích thích bạo động giữa các quốc gia hay các tôn giáo phải bị
luật pháp cấm chỉ.
Ðiều 21 : Quyền hội họp có tính cách hòa bình
phải được thừa nhận. Việc hành sử quyền này chỉ có thể bị giới hạn bởi luật
pháp, vì các nhu cầu cần thiết trong một xã hội dân chủ để bảo vệ an ninh quốc
gia, an toàn công cộng, trật tự công cộng, sức khỏe công cộng, đạo lý, hay
những quyền tự do của người khác.
Ðiều 22 :
1) Ai cũng có quyền tự do lập hội, kể cả quyền
thành lập và gia nhập các nghiệp đoàn để bảo vệ quyền lợi của mình.
2) Việc hành sử quyền này chỉ có thể bị giới hạn
bởi luật pháp, vì các nhu cầu cần thiết trong một xã hội dân chủ để bảo vệ an
ninh quốc gia, an toàn công cộng, trật tự công cộng, sức khỏe công cộng, đạo
lý, hay những quyền tự do của người khác. Ðiều luật này không có tác dụng ngăn
cấm việc ban hành các giới hạn luật định liên quan đến sự hành sử quyền tự do
lập hội của các giới quân nhân và cảnh sát.
3) Ðiều luật này không có hiệu lực cho phép các
quốc gia hội viên ký kết Công Ước Lao Ðộng Quốc Tế năm 1948 về Quyền Tự Do Lập
Hội và Bảo Vệ Quyền Lập Hội, được ban hành hay áp dụng những đạo luật có tác
dụng vi phạm những bảo đảm về những quyền tự do ghi trong Công Ước Lao Ðộng
Quốc Tế.
Ðiều 23 :
1) Gia đình là đơn vị tự nhiên và căn bản trong
xã hội và phải được xã hội và quốc gia bảo vệ.
2) Thanh niên nam nữ đến tuổi thành hôn có quyền
kết hôn và lập gia đình.
3) Hôn thú chỉ được thành lập nếu có sự ưng thuận
hoàn toàn tự do của những người kết hôn.
4) Các quốc gia hội viên ký kết công ước này phải
ban hành những biện pháp để bảo đảm sự bình đẳng về quyền lợi và trách nhiệm
của vợ chồng khi kết hôn, trong thời gian hôn thú, cũng như khi ly hôn. Trong
trườg hợp ly hôn phải quy định những biện pháp bảo vệ quyền lợi của các con.
Ðiều 24 :
1) Không phân biệt chủng tộc, màu da, nam nữ,
ngôn ngữ, tôn giáo, nguồn gốc quốc gia hay xã hội, tài sản hay dòng dõi, các
trẻ em, với tư cách vị thành niên, phải được gia đình, xã hội và quốc gia bảo
vệ.
2) Trẻ em phải được khai sinh ngay sau khi sinh,
và được đặt tên họ.
3) Trẻ em có quyền thủ đắc quốc tịch.
Ðiều 25 :
1) Không bị kỳ thị (như đã quy định ở điều 2) và
không bị giới hạn bất hợp lý, mọi công dân đều có quyền và có cơ hội :
a/ Ðược tham gia vào việc điều hành chính quyền,
hoặc trực tiếp hoặc qua những đại biểu do mình tự do tuyển chọn.
b/ Ðược bầu cử và ứng cử trong những cuộc tuyển
cử tự do và công bằng theo định kỳ, bằng phổ thông đầu phiếu kín, bảo đảm trung
thực ý nguyện của cử tri.
c/ Ðược quyền bình đẳng tham gia công vụ trong
nước.
Ðiều 26 : Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, và được
pháp luật bảo vệ bình đẳng không kỳ thị. Trên phương diện này, luật pháp cấm
mọi kỳ thị và bảo đảm cho tất cả mọi người quyền được bảo vệ một cách bình đẳng
và hữu hiệu chống mọi kỳ thị về chủng tộc, màu da, nam nữ, ngôn ngữ, tôn giáo,
chính kiến hay quan niệm, nguồn gốc quốc gia hay xã hội, tài sản, dòng dõi hay
bất cứ thân trạng nào.
Ðiều 27 : Ðối với các cộng đồng thiểu số về chủng
tộc, tôn giáo, hay ngôn ngữ tại các quốc gia hội viên, Công Ước này bảo đảm cho
các thành phần thiểu số cùng với những người khác trong cộng đồng của họ được
quyền hưởng văn hóa riêng, được truyền giáo và hành đạo riêng, và được sử dụng
ngôn ngữ riêng của họ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét