Khai Dân Trí, Chấn Dân Khí.... |
Hà Sĩ Phu - Mấy lời viết thêm (26-10-2013) gửi Quốc hội
đang họp tại Hà Nội:
Đọc lại những lời Phan Châu Trinh trước
đây một thế kỷ mà tưởng như lời một Blogger hay một Trí thức phản biện
của ngày hôm nay. Cứ như thể cụ Phan đang nói với kỳ họp Quốc hội lần 6 khóa 13
này, nói về Hiến pháp sắp được thông qua, phản đối chủ trươngđộc đảng và
“sở hữu toàn dân”, phản đối việc cho đạo Khổng nô dịch
dân Việt, yêu cầu phải thực thi tam quyền phân lập và đa đảng đa nguyên...
Đúng như nhận định của nhà văn hóa Nguyên Ngọc: “Những vấn đề cơ bản
nhất làm nền tảng cho độc lập tự chủ và phát triển dân tộc mà Phan Châu Trinh
đã thống thiết nêu lên từ đầu thế kỷ XX… thì đến nay vẫn còn nguyên đấy”,
“Đó là một nhiệm vụ, một món nợ mà lịch sử còn để lại cho chúng ta hôm
nay”.
Đảng, Nhà nước và Quốc hội hôm nay chẳng những
không giải quyết được những yêu cầu của dân tộc như cụ Phan đề xuất mà còn làm
ngược lại và chống lại gần như trăm phần trăm!
Vậy: Nếu đã coi Phan Châu Trinh là nhà Ái
quốc, nhà Văn hóa, nhà Cách mạng đầu tiên của Việt Nam (như đã viết
trên báo Nhân dân_báo giấy)… thì những người, những chủ trương phản lại các yêu
cầu căn bản ấy ắt phải coi là Phản quốc, Phản văn hóa, Phản cách mạng...!
Lô-gích tự nhiên buộc ta phải kết luận như thế, làm sao khác được?
Một trăm năm trước cụ Phan đã nhìn ra con đường
sáng, lẽ nào con cháu hôm nay vẫn quẩn quanh ở vạch xuất phát tìm đường, lại
tìm đường... về nơi tối tăm?
A. Con đường dẫn ta về với Phan Châu
Trinh
Trong những nhân vật lịch sử của dân tộc ta hồi
đầu thế kỷ 20, gắn liền với cuộc đấu tranh chống Pháp, có ba nhân vật đặc biệt
mà tầm ảnh hưởng sâu rộng hơn cả là Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh và Nguyễn
Tất Thành tức Hồ Chí Minh.
Nói về tinh thần đánh Pháp và đi đến thành công
thì nổi bật nhất là Hồ Chí Minh, rồi đến Phan Bội Châu, rồi mới đến Phan Châu
Trinh, vì hai vị trên chủ trương dùng bạo lực đánh Pháp ngay, còn Phan Châu
Trinh lại bắt đầu bằng sự tiếp xúc ôn hoà với Pháp. Ấn tượng Phan Châu Trinh để
lại trong đầu chúng tôi chỉ là hình ảnh một nhà nho nghĩa khí không sợ Côn Lôn
(nhà tù của Pháp), một bức thư “thất điều” kể tội vua Khải Định, một cái án tử
hình sau giảm thành lưu đày chung thân, vài hoạt động nhân quyền ở Pháp, một số
văn thơ yêu nước, và đặc biệt là đám tang lịch sử khơi dậy một cao trào đấu
tranh toàn quốc, thế thôi, chẳng mấy ai chú ý đến vấn đề tư tưởng. Phan Châu
Trinh mặc dù vẫn được kính trọng song đối với chúng tôi quả thực chưa có gì thu
hút lắm.
Nhưng từ khi biết vươn ra khỏi “tháp ngà” chuyên
môn của mình để suy nghĩ và viết ra những ưu tư về tình hình đất nước, chúng
tôi mới thực sự để tâm tìm đọc cụ Phan.
Điểm khởi thuỷ dẫn chúng tôi đến với Phan Châu
Trinh là từ hai chữ “dân trí”. Nhất định trước hết phải khai thông dân trí, mà
“tổ sư” đề cao dân trí là Phan Châu Trinh. “Khai dân trí, chấn dân khí,
hậu dân sinh”, Cụ đưa dân trí lên hàng đầu trong chiến lược hành
động!
Điểm thứ hai là phương pháp đấu tranh ôn
hoà bất bạo động, hơn thế còn lợi dụng những yếu tố tiến bộ của chính nước
Pháp là kẻ đang cai trị mình để dần dần thoát khỏi thân phận bị cai trị. Điểm
này cũng đang lặp lại với hoàn cảnh Việt Nam hiện nay (chiến thuật “diễn
biến hòa bình” với kẻ đang cưỡi trên cổ mình!). Đây chính là thủ pháp “hiệp
khí đạo”, nhìn bề ngoài nó giống như sự mềm yếu xin xỏ vậy, điểm khác nhau
là ở chỗ lợi dụng sự “cầu hoà” ấy để tranh thủ nâng cao dân trí, tự lập tự
cường, nâng trình độ văn minh của dân mình lên. Nâng cao được dân trí là củng
cố được hậu phương, gây lại được sức mạnh cho mình. Có nội lực cao cường rồi
thì lật ngược thế cờ lúc nào chẳng được? Dân trí chưa cao thì dân chưa đủ năng
lực làm chủ, có đem máu xương đổi lấy chính quyền ngay thì dân cũng không làm
chủ được chính quyền ấy, và rút cuộc dân lại chuốc lấy một kẻ áp bức khác
thôi.
Phan Châu Trinh hơn hẳn những người cùng thời ở
suy nghĩ ấy. Chúng tôi khâm phục và coi cụ Phan như người Việt Nam đầu tiên tiếp cận
phương pháp chuyển đổi xã hội bằng con đường văn minh nhất, mà ngày nay gọi là
phương pháp “diễn biến hoà bình”.
Nhưng như thế chưa đủ. Điều quan trọng có tính
xuyên suốt là phải có một tư tưởng, vì sự nghiệp lớn nào chẳng cần một triết lý
để quán xuyến và làm nền cho dân trí.
Những chân lý phổ quát đã phổ biến trên thế giới
là một chuyện, có Việt hoá được chân lý ấy để tạo ra sức mạnh lôi cuốn dân tộc,
đủ sức chống lại những thiên hướng sai lầm hay không, thì không phải dễ. Đem
những hạt giống tư tưởng ưu việt ở nơi khác gieo vào mảnh đất Việt Nam chắc gì
đã mọc, hay mọc rồi cũng còi cọc lụi tàn? Đâu có thể sang Tây Trúc hay “Mỹ
Trúc” gì đó để thỉnh kinh?
Thử điểm lại chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh: Chủ nghĩa Mác tuy là ngoại lai nhưng trước đây vào được Việt Nam vì
nó bắt rễ rất nhanh vào lòng khát khao đổi đời của người bị trị cùng khổ, nay
tình hình đã đảo ngược, nếu những người bị trị cùng khổ lại tiếp tục áp dụng nó
thì lịch sử sẽ lặp lại một chu kỳ nữa chăng?
“Tư tưởng Hồ Chí Minh” xuất hiện mấy năm gần đây
có ưu điểm là giống “local” nhưng khốn nỗi lại là cái không có thật, mới chế
biến ra thôi, thực chất vẫn là hạt giống Quốc tế 3, là hạt giống hiện nay đã bị
loài người gạt ra ngay tại mảnh đất quê hương của nó.
Không phải cứ chấp nhận có “Tư tưởng Hồ Chí
Minh” mới là yêu quý cụ Hồ, có khi còn ngược lại. Làm người thì trong đầu ai
cũng có tư tưởng (hiểu theo nghĩa đó thì cụ Hồ cũng có tư tưởng như 80 triệu
người dân thôi), nhưng nói “Tư tưởng Hồ Chí Minh” là dùng đến một thuật ngữ,
xác nhận cụ Hồ là một nhà tư tưởng. Chính cụ Hồ không nhận mình là nhà tư tưởng
là rất đúng. Những điều cụ Hồ suy nghĩ thực ra không có gì vượt khỏi tư tưởng
Mác-Lênin, mà chỉ nằm gọn trong tư tưởng ấy. Chưa có độc lập thì phải giành độc
lập, rồi đi theo tư tưởng Mác-Lênin thì vẫn là tư tưởng Mác-Lênin thôi, không
phải vì thế mà coi là sự “kết hợp” để thành một tư tưởng mới. Vận dụng thêm một
số suy nghĩ có tính nông dân hay tính Khổng giáo thì chỉ là sự cộng hưởng để tô
đậm thêm tính chất phong kiến cũng vốn có sẵn trong tư tưởng Mác-Lênin, như đã
phân tích ở phần trên.
Thành công của cụ Hồ Chí Minh một phần lớn thuộc
về phương pháp, đặc biệt là phương pháp vận động quần chúng. Cũng giống như cụ
Phan, cụ Hồ cũng phải phê phán những nhược điểm của tính cách dân tộc và ngay từ
đầu đã thấy tầm quan trọng của dân trí, và là người đầu tiên coi sự “dốt” là “giặc”.
Chỉ có tư tưởng của Quốc tế 2, tức tư tưởng dân
chủ xã hội là kết hợp được mấy yêu cầu cơ bản, làm đòn bẩy để xây dựng
và phát triển:
- Đó là một nhánh của chủ nghĩa Mác nên không xa
lạ với điều kiện Việt Nam.
- Tuy xuất phát từ chủ nghĩa Mác nhưng đã loại
trừ được hai độc tố là chuyên chính vô sản vàkinh tế chỉ
huy, nên rất tiến bộ.
- Đã được nhiều nước kiểm nghiệm là rất thành
công. Những nước theo tư tưởng ấy (các nước Bắc Âu, một số nước Trung Âu) hiện
nay đạt nhiều chỉ số văn minh, nhân đạo vào loại cao nhất thế giới, đối lập hẳn
với tấm gương tan vỡ của các nước theo Quốc tế 3.
- Nhờ có quan hệ huyết thống với chủ nghĩa Mác
nên hy vọng Đảng Cộng sản có thể chấp nhận, ít gây sốc nhất (mặc dù trước đây
Đảng Cộng sản Việt Nam rất phê phán xu hướng gọi là “xét lại” này). Kinh
tế thị trường và nhà nước pháp quyền là hai thứ trước đây bị Đảng Cộng
sản coi là của tư sản nên ghét như kẻ thù, nhưng nay Đảng đã bảo hai thứ ấy là
của chung nhân loại rồi (nên ta cứ dùng thoải mái, không có gì phải ngượng),
thì nay có áp dụng tư tưởng dân chủ xã hội cũng là một cách
“trở về với Mác” thôi mà(!), cũng là của mình cả, trước mình bỏ đi nay mình
dùng lại chứ có phải của tư bản đâu mà tự ái? Đảng không phải tự ái, mà mỗi
đảng viên cũng không phải lấy thế làm day dứt. Vẫn có thể dựng tượng Mác kia
mà! Đối với chính trị thì điều này rất quan trọng (tuy có làm cho một số người
nông nổi cực đoan thấy khó chịu).
- Một ưu điểm nữa là mặc dù trước đây các vị
Quốc tế 3 rất ghét tư tưởng “đệ nhị” nhưng chính các nước liên quan đến “đệ
nhị” này lại luôn chân thành và hào phóng giúp đỡ Việt Nam, nay nếu ta cũng đi
theo đường đó thì sự giúp đỡ của họ chắc còn lớn hơn nhiều. Khi ấy Trung Quốc
và Hoa Kỳ khó lòng mà “bắt bí” được ta.
Về lý thuyết, những luận điểm của tư tưởng dân
chủ xã hội tuy không có sự đột phá gì ghê gớm, nhưng rất thuận lẽ tự nhiên,
điều chỉnh được một số nhược điểm của xã hội tư bản, điều chỉnh cả những sai
lầm của lý thuyết cộng sản, tạo được những nhà nước phúc lợi (Etat-providence,
welfare state), kinh tế và dân quyền cùng phát triển và không ngăn cản gì việc
tiếp tục đổi mới về sau, nên có ý nghĩa thực tế vô cùng to lớn.
Tư tưởng dân chủ xã hội là một tư tưởng tiến
bộ, nếu được tiếp nhận vào nước ta thì đó là cách hoá giải tốt nhất, đỡ mất sức
nhất, trong hoàn cảnh một xã hội đang bị ngự trị bởi “người anh em sinh
đôi” rất cực đoan là tư tưởng cộng sản.
Nghĩ được đến đấy, chúng tôi đã mừng. Nhưng rồi
tiếp tục tìm hiểu về Phan Châu Trinh chúng tôi đã gặp những kết quả bất ngờ. Cụ
Phan không chỉ là một nhà ái quốc, một người làm dậy sóng phong trào, người có
một phương pháp cách mạng uyển chuyển, mà trước hết cụ là một nhà tư
tưởng. Sàng lọc và kết hợp chính xác hai hai luồng tư tưởng
Đông Tây, cụ đã trở thành một nhà dân chủ-nhân quyền, rồi từ
dân chủ Phan Châu Trinh lại trở thành một nhàdân chủ xã hội, tán thành
một kiểu xã hội “xã hội chủ nghĩa” nhưng phi Mác-xít.
Đó cũng là những đúc kết sơ bộ về tư tưởng Phan
Châu Trinh trong ba tiểu luận nghiên cứu của tác giả Mai Thái Lĩnh đăng trên
trang Web talawas, ngày 24.2.2007 [1], 26.2.2007 [2] và24.3.2007 [3].
B. Sàng lọc và kết hợp văn hoá Đông Tây, Phan
Châu Trinh trở thành nhà dân chủ-nhân quyền
Là một nhà nho cụ Phan hiểu biết sâu sắc về
Nho giáo, Khổng giáo, nhưng đây cũng là lĩnh vực mà cụ Phan thể hiện tinh thần
sàng lọc và phê phán mạnh mẽ nhất. Cụ phân loại, tách bạch đâu ra đấy. Cụ phân biệt đạo đức với
luân lý. Những phẩm chất thuộc về cá nhân riêng biệt thì thuộc ĐẠO ĐỨC, như “Nhân,
Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, Cần, Kiệm”, như “Sĩ khả sát, bất khả nhục”,
như “phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất”.
Đạo đức là những phẩm chất của mỗi con người riêng biệt, nó dạy làm người, muốn
làm một con người thì phải như vậy nên đạo đức này rất ổn định, dù là Đông hay
Tây, là kim hay cổ cũng tương tự nhau. Đạo đức như vậy đương nhiên là
tốt.
Những phép ứng xử trong các mối quan hệ gia đình
và xã hội thì thuộc về LUÂN LÝ, như trong các quan hệ “Quân thần, phụ
tử, phu phụ, huynh đệ, bằng hữu”, quan hệ giữa dân với nước... Luân lý lại
chia thành luân lý gia đình gọi là “tư đức” hay đức nhỏ, luân
lý quốc gia và luân lý xã hội thì gọi là “công đức” hay đức
lớn. Luân lý dạy con người trong những mối quan hệ, cho biết bổn phận, trách
nhiệm giữa người trên kẻ dưới, giữa riêng và chung. Luân lý có thể khác nhau
theo quốc gia và theo chế độ chính trị. Các chế độ thường uốn nắn luân lý sao
cho có lợi cho vai trò chính trị của mình.
Sự tách bạch này rất quan trọng để có thể tiến
hành sàng lọc.
Nếu cụ Phan còn sống thì chắc chắn cụ không
thể chấp nhận khái niệm “Đạo đức xã hội chủ nghĩa”, vì cụ đã khẳng
định:
“Đạo đức đã như thế thì không có mới có cũ, có
đông có tây nào nữa, nghĩa là nhất thiết đời nào, người nào cũng phải giữ đạo
đức ấy mới là người trọn vẹn. Dầu nhà bác học xướng ra học thuyết nào khác nữa,
dầu các chính thể khác nhau hoặc dân chủ, hoặc quân chủ, hoặc cộng sản nữa,
cũng không tài nào vượt qua khỏi chân lý của đạo đức, nghĩa là đạo đức thì
không bao giờ thay đổi được.” (Nguyễn Q. Thắng, tr. 478-479) [4]
”Người ta có thể thay đổi luân lý mà không thay
đổi được đạo đức..., thay đổi được thì là đạo đức giả.” (Nguyễn Q. Thắng,
tr. 479)
Cũng vì muốn uốn đạo đức để phục vụ nhu cầu
chính trị nên Nho giáo ở Trung Quốc đã bị biến dạng, thoái hoá từ sau đời nhà
Tần, và chính cái Nho giáo thoái hoá ấy đã du nhập vào Việt Nam nên Nho giáo ở
Việt Nam mang nhiều tính chất tiêu cực về chính trị. Các triều đại phong
kiến hết sức đề cao giường mối “quân sư phụ” chẳng qua là để
được thảnh thơi cưỡi cổ thiên hạ. Cụ nói: “Khi còn ở trong gia đình thì
thở cái không khí chuyên chế của gia đình, khi đến trường học thì thở cái không
khí chuyên chế trong trường học (tính người mình hay thích giao con cho một ông
thầy dữ đòn) thì làm sao khi bước chân ra ngoài xã hội khỏi quen tính nô lệ,
chịu lòn cúi người. Cái tính nô lệ của người mình ngày nay chính là mang từ lúc
trong gia đình chuyên chế mà ra vậy.” (Nguyễn Q. Thắng, tr.
485-486).
Nhưng trong sự đề cao nam giới thì người cha và
người chồng cũng là kẻ được kéo vào để ăn theo, cho có đồng đội thôi, chủ mưu
là người đàn ông trên cùng là vua: “Chẳng những vua quan chuyên chế mà
thôi, họ còn lại lập mưu kéo cả kẻ làm cha, kẻ làm chồng vào cái cạm bẫy độc ác
ấy nữa để cho tiện việc chuyên chế của bọn họ.” (Nguyễn Q. Thắng, tr.
484).
Vua quan cần lợi dụng cái “luân lý xã
hội” (tức cái công đức), để tăng uy quyền, nhưng khi luân lý xã hội đã
thoái hoá thì nó chi phối cả “luân lý gia đình” (tức cái tư
đức) nên cá nhân và gia đình cũng hư hỏng theo. Phát hiện của cụ Phan xem ra
cũng rất đúng cho xã hội Việt Nam ngày nay. Phải yêu dân đến mức nào, phải quý
đạo đức đến mức nào một nhà nho mới khám phá ra được những điều sâu xa chua
chát ấy.
Sự sàng lọc của Phan Châu Trinh đối với Nho
giáo là tôn trọng những đạo đức cá nhân nhưng phê phán kịch liệt sự trung thành
mang tính nô lệ của chữ “trung” Nho giáo (gái trinh không thờ hai chồng, tôi trung không
thờ hai vua). Cụ không bảo những điều Khổng Mạnh nói ra là không tốt, nhưng cụ
vạch ra tính chất một chiều của giáo lý ấy. Cụ lật ngược tình huống để chất
vấn: “Đức Khổng đã nói rằng: Vua phải thương dân, dân phải thương vua,
song nếu vua không thương dân thì dân phải làm sao? Tiếc thay! Ngài không dạy
đến.
Ông Mạnh cũng nói rằng: Dân ‘quý’ mà vua ‘khinh’, nhưng
ngày nay dân hỏi vua, vua bảo rằng vua ‘quý’mà dân ‘khinh’ thì
dân phải làm sao? Ông cũng không hề nói đến”. Cụ đã phát hiện đúng chỗ yếu nhất của thuyết
Nhân trị.
Luân lý ấy cốt dạy điều “tôn quân” mà
nhẹ điều “ái quốc”, tôn trọng bề trên quá thì không có dân chủ, dân
không làm chủ thì tự mình không thể yêu nước theo ý chí của mình. Nhiều trường hợp anh
dũng đánh giặc nhưng chắc gì đã là yêu nước mà chỉ là buộc phải theo vua. Yêu
nước theo kiểu khác đi là bị cấm ngay. Cụ viết rằng: “Không phải là cái độc
quyền chuyên chế từ xưa đã thâm căn cố đế trong người nước ta rồi đấy ư? Tiếng
thương (yêu) nước đã có luật Gia Long cấm. Những kẻ học trò và dân gian không
được nói đến việc nước, lo đến việc nước”. (Nguyễn Q. Thắng, tr. 489)
Thực ra thì bệnh “thâm căn cố đế” của mọi thể
chế chuyên quyền là bắt dân chỉ được yêu nước theo cách của họ (nhưng nói toẹt
ra như luật Gia Long thì thật quá kém về thuật mỵ dân). Rất đáng hoan nghênh
lời phát biểu mới đây của cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt: “Có hàng trăm cách
yêu nước khác nhau!”. Kể từ ngày có Đảng lãnh đạo đến nay, lần đầu tiên tôi
được nghe thấy một đảng viên dám nói cái chân lý sơ đẳng ấy.
Thuyết Nhân trị hay Đức trị cứ nói đạo đức một
chiều, không dám lật ngược tình huống để phản biện, nên khi gặp điều trái ngược
thì không có giải pháp, bế tắc thì khùng lên, từ chỗ đạo đức dẫn đến chỗ phải
chém giết nhau để giải quyết, và luân thường đảo lộn.
Vì thế Nhân trị sẽ dẫn đến bất nhân. Hiểu được
nghịch lý này Phan Châu Trinh đã tìm đến nền dân chủ pháp trị. Chỉ trong sân
chơi dân chủ mới có thể giải quyết mâu thuẫn bằng phương pháp hoà bình mà bây
giờ ta gọi là “diễn biến hoà bình”.
Những người cộng sản Trung Quốc và Việt Nam,
cũng sàng lọc đạo Khổng, nhưng sàng lọc ngược với Phan Châu Trinh, đề cao chữ Trung là
chữ mà cụ Phan kịch liệt phê phán. Rất nhiều đảng viên cộng sản nói rằng vì có
tư duy nho học nên tiếp cận chủ nghĩa Mác được dễ dàng, chẳng qua là do giống
nhau ở tinh thần đức trị, giáo huấn từ trên xuống, coi nhẹ sự phản biện, “feed
back” từ dưới lên. Chữ Trung ấy bao giờ cũng kèm theo ý niệm
về tôn ti trật tự, người trên kẻ dưới rõ ràng, công dân loại một loại hai, và
đây là đặc điểm giống nhau giữa cộng sản và phong kiến.
Khẩu hiệu “Trung với nước, hiếu với dân” là
dẫn xuất từ giường mối “quân sư phụ”, nhưng trong điều kiện Đảng
lãnh đạo “trực tiếp, toàn diện và tuyệt đối” thì thực chất
trung với nước cũng là trung với Đảng thôi, nhưng những người kế thừa Chủ tịch
Hồ Chí Minh còn muốn trực tiếp hơn cho chắc ăn nên đổi thẳng ra là “Trung
với Đảng, hiếu với dân”. (Dù trung hay hiếu, dù Đảng hay dân thì cuối cùng
vẫn thu về một mối là trung với Đảng thôi, kiểm nghiệm qua thực tế càng thấy
đúng như vậy.)
Cũng sàng lọc, nhưng Phan Châu Trinh và Nguyễn
Tất Thành là hai nhánh sàng lọc ngược nhau, một đằng đề cao quốc gia và bảo vệ
quyền làm chủ của dân, một đằng sa vào thuyết tranh đấu giai cấp nên đề cao
quyền lãnh đạo của Đảng. Ai gần với phong kiến hơn ai? Điều ngược đời là tính dân chủ, tính
cách mạng, tính hiện đại lại ở phía người nhiều tuổi hơn. Hoá ra già không phải
ở tuổi mà ở tư tưởng. Biết nghĩ cho chín để bắt đúng cái mạch của tương lai thì
thành trẻ trung.
Nhà duy tân Phan Châu Trinh nổi tiếng ở sự du
nhập tư tưởng dân chủ phương Tây, nhưng sao cụ lại dành nhiều công sức khảo cứu
và bàn thảo về đặc điểm phương Đông cổ truyền của ta như vậy? Hãy nghe cụ giải
thích: “Vẫn biết phép chắp cây của người Tây tài tình
thật, nhưng nay đem một cây rất tươi tốt như cây luân lý ở các nước bên Âu Tây
kia mà chắp với một cây đã cằn cộc như cây luân lý ở nước Việt Nam ta thì tưởng
cũng không tài nào sinh hoa tươi, quả tốt được. Muốn cho sự kết quả về
sau được tốt đẹp, tưởng trước khi chắp cây cũng nên bồi bổ cho hai bên sức lực
bằng nhau đã. Tôi diễn thuyết hôm nay là cốt ý mong anh em nên cứu chữa lấy
cây luân lý cũ của ta, rồi sẽ đem chắp nối với cây luân lý của Âu châu vậy”. (Nguyễn Q. Thắng, tr.
505-506)
Cái mầm khoẻ mạnh tươi tốt của châu Âu mà cụ
chọn để ghép vào cái gốc Việt Nam ta chính là tư tưởng dân chủ và pháp quyền,
hai điều tinh tuý mà ngót một thế kỷ sau, xã hội Việt Nam mới nhìn ra (mà nhãn
quan của giới chính thống hôm nay xem ra vẫn chưa theo kịp cụ đâu).
Trước khi kết hợp văn hoá Đông và Tây, Phan Châu
Trinh còn nhận xét: “Vua Âu châu ở xứ thượng võ, cho nên làm cái gì
cũng hung hăng mà ngay thực, cho đến sự độc ác cũng vậy”. “Vua Á Đông thì họ
không làm như thế. Họ lựa ở trong các lời nói của ông Khổng, ông Mạnh, hoặc ở
trong các sách cổ những câu nói có nhiều nghĩa để họ dựa vào đó; họ lập ra pháp
luật để bó buộc cai trị dân; cái ngôi vua thì gọi là con Trời, nhưng họ cũng cứ
xưng họ là người, chẳng những họ không đứng ra ngoài cái hàng bà con của dân mà
họ lại đứng vào cái hàng thân thiết của dân, như là ta nói ‘quân, sư, phụ’, lại
thường nói ‘vua, cha, chồng’. Dù ở chốn hương thôn dốt nát không biết ông vua
thế nào, nhưng mà họ thấy đứng vào hàng cha, thầy, chồng, thì họ cũng cho đứng
vào đám thân thiết. Dân ngu thì(đối với vua -HSP) họ cứ kính, cứ
yêu, chớ họ có biết đâu đến hồi giận của ông vua thì ông giết cả ba họ người
ta.” (Nguyễn Q. Thắng, tr.
458)
Vậy sự độc đoán chuyên quyền ở châu Á vẫn có
truyền thống thâm độc hơn, giỏi nguỵ trang nên khó trị hơn. Trong 4 nước cộng
sản điển hình còn sót lại thì 3 nước là của châu Á đâu có phải ngẫu
nhiên?
C. Từ dân chủ, Phan Châu Trinh trở thành nhà
dân chủ xã hội, hướng về một chủ nghĩa xã hội phi Mác-xít
Điểm nổi bật trước tiên trong quan điểm chính
trị của Phan Châu Trinh là tinh thần dân chủ,“đa số các nhà làm sử đã công nhận: Phan
Châu Trinh là nhà dân chủ đầu tiên ở Việt Nam”. [5]
Dân chủ là quyền làm chủ của dân trong một nước,
một quốc gia. Nhưng thế nào là một quốc gia, khi nào thì hình thành quốc gia?
Theo Phan Châu Trinh, thoạt đầu trong chế độ quân chủ chưa có quan hệ giữa dân
và nước, mà chỉ có vua và các thần dân của vua, vua thu hết mọi thứ vào trong
tay của mình, xử sự mọi việc như trong nhà của mình, mình chết thì con mình lên
thay.
Quan hệ ấy là “gia đình luân lý” và
khi ấy chưa có quốc gia. Từ khi có tư tưởng Khai sáng, bác bỏ tính chất “đại
gia đình”, bác bỏ quyền lực của vua là do trời định sẵn, vạch rõ quan hệ
của vua với mọi người trong xã hội là bình đẳng, quyền lực của vua là do mọi
người trong xã hội giao cho... khi ấy khái niệm nước (quốc gia) mới hình thành, gia
đình luân lý mới chuyển thành quốc gia luân lý. Và sau này
từ quốc gia luân lý sẽ hình thành xã hội luân lý,
từ chủ nghĩa quốc gia sẽ phát triển thành chủ nghĩa xã
hội. Theo Phan Châu Trinh, khái niệm Chủ nghĩa xã hội (socialism)
có căn nguyên như thế. Sự tiến triển ấy theo Phan Châu Trinh là “lẽ
tiến hoá tự nhiên”.
Đối chiếu tiến trình “tiến hoá tự nhiên” ấy
vào nước ta cụ Phan thấy trình độ Việt Nam thời ấy còn quá lạc hậu: “Bàn
đến quốc gia luân lý thì tôi xin thưa rằng, nước ta tuyệt nhiên không có” (NQT,
tr. 487). “...quốc gia luân lý của ta từ xưa đến nay chỉ ở trong vòng
chật hẹp hai chữ vua và tôi. Không nói đến ‘dân và nước’ vì dân không được bàn
đến việc nước!” (NQT, tr. 487). Chưa có một nhà nước dân chủ thì chưa thể nói
đến quốc gia theo đúng nghĩa được (quan niệm dân chủ của Phan Châu Trinh thật
là triệt để, quyết liệt).
Theo Phan Châu Trinh, chủ nghĩa quốc gia
(nationalism) phải tiến sang chủ nghĩa xã hội (socialism) để
giải quyết hai mâu thuẫn, mâu thuẫn giữa người với người trong mỗi quốc gia và
mâu thuẫn giữa các quốc gia trên thế giới. Bên trong thì “giàu nghèo
cách biệt thái quá, người ngồi không kẻ cắm đầu làm, thành ra kẻ lao động,
người tư sản xung đột nhau mà trong nước không yên” (NQT, tr. 506).
Trên thế giới thì “Mê tín quốc gia chủ nghĩa về đời trung cổ thái quá,
yêu nước mình, ghét nước người, cho nên phải mang hoạ chiến tranh mãi mãi” (Nguyễn
Q. Thắng, tr. 506).
Chủ nghĩa xã hội giải quyết quan hệ “người
này với người kia, người có giúp người không, người mạnh giúp cho người yếu” (tức
là làm giảm bớt sự cách biệt về tiền bạc và về quyền lực), ngoài ra còn giúp
giải quyết quan hệ “loài người với loài người” tức quan hệ bình đẳng giữa các
quốc gia.
Nghiên cứu quan điểm Phan Châu Trinh về xã hội
chủ nghĩa so sánh với quan điểm Mác-xít, ông Mai Thái Lĩnh đã rất đúng khi kết
luận: “Với quan niệm như trên, rõ ràng là cái nhìn của Phan Châu Trinh
hoàn toàn khác với quan điểm Mác-xít. Theo nhà chí sĩ họ Phan, xã hội loài
người tiến lên theo con đường ‘gia đình - quốc gia - xã hội’, trong khi đối với
Marx thì “lịch sử tất cả các xã hội cho đến ngày nay chỉ là lịch sử đấu tranh
giai cấp” (Mai Thái Lĩnh, bđd). Thực tế cho thấy không bao giờ có
chuyện Vô sản toàn thế giới (vượt qua ranh giới các quốc gia)
mà liên hiệp lại được.
Điều đáng khâm phục ở Phan Châu Trinh là khi
phê phán nền quân chủ, phê phán nạn bất công, phê phán thói độc tài, phê phán
những sai lầm, yếu kém của bạn bè, cụ là người thẳng thắn đến mức rất nặng lời,
rất quyết liệt (như phê phán Phan Bội Châu, Nguyễn Tất Thành…), nhưng khi tìm
đường giải thoát cho dân tộc cụ lại luôn nghĩ đến con đường trung dung, ôn hoà,
hợp pháp.
Phải chọn con đường ôn hoà là bởi thương dân.
Khi phê phán con đường bạo lực cách mạng của Phan Bội Châu, của Nguyễn Tất
Thành, cụ giải thích: Lực mình yếu mà muốn dùng bạo lực tất phải nhờ vả người
khác, thế thì “thảng như cái phương pháp của ông Phan (Phan
Bội Châu) mà thành công, thì quốc dân đồng bào vẫn nguyên là cái lưng
con ngựa, chỉ thay người cỡi mà thôi”. (Thư Phan Châu Trinh gửi Nguyễn Ái Quấc).
Vì thế mà phải tự lực, lúc đầu phải chọn con
đường hoạt động hợp pháp, hợp pháp tối đa, thậm chí phải “khẩu thuyết
vô bằng” để chính quyền không kiếm được cớ mà trị tội. (Chứ không phải chưa
chi đã ngang nhiên tuyên bố thế này thế khác để giương oai!). “Chỉ vì tính cách và
trình độ của ông (tức Phan Bội Châu) cùng với tánh cách và trình độ của
quốc dân trong nước tương ứng với nhau, nên người trong nước mê theo mà không
biết, vui theo mà quên chết. Do đó cuộc dân biến không khác nào ông Phan Bội
Châu trực tiếp giết dân”. Cụ lên án thái độ cứ ở bên ngoài xúi giục
người trong nước hy sinh để mình “đãi thời đột nội”. Cụ lên án
sự bạo động của “chủ nghĩa báo thù” hay chỉ biết “đâm đầu vào lửa chết
vô ích”.
Thời kỳ Phan Châu Trinh ở Pháp (1911-1925) là
thời kỳ thế giới đầy biến động về các quan điểm cách mạng, trong đó có cách
mạng vô sản Nga tháng Mười 1917, sự phân ly giữa Đảng Xã hội và Đảng Cộng sản
Pháp ở Đại hội Tours tháng 12-1920.
Trong khi Nguyễn Tất Thành chọn con đường cộng
sản của Quốc tế 3 thì Phan Châu Trinh rất gần gũi với Léon Blum, Jean Jaurès,
Jules Roux, Marius Moutet... là những đảng viên Đảng Xã hội không chịu gia nhập
Đảng Cộng sản mà vẫn tiếp tục con đường Jean Jaurès vạch ra.
“Phan Châu Trinh không gần gũi với ‘cánh tả’ của
Đảng Xã hội, tức là phái xã hội chủ nghĩa từ cuối năm 1920 đã rời bỏ Đảng Xã
hội (SFIO) để thành lập Đảng Cộng sản, gia nhập Quốc tế III. Trước và sau Đại
hội Tours (12/1920), đã có nhiều Việt kiều khuynh tả lôi kéo ông tham dự các
cuộc họp của cánh tả Đảng Xã hội và sau này là Đảng Cộng sản. Nhưng có thể vì
bản tính ôn hoà, hoặc vì quan niệm về ‘dân chủ, cộng hoà’ của ông đã bắt rễ khá
sâu trong nhận thức, ông xa rời Đảng Cộng sản Pháp một cách tự nhiên; và những
người cộng sản cũng “dị ứng” với ông một cách tự nhiên...” (Mai Thái Lĩnh,
bđd.)
Trong một lá thư đề ngày 26.3.1922 Phan Châu
Trinh viết: “Say mê chủ nghĩa xã hội, tôi đã luôn đấu tranh chống lại
chế độ độc tài chuyên chế hiện nay đang có mặt ở Đông Dương, do các nhà chức
trách Pháp cũng như do các quan lại bản xứ thực hiện” (Mai Thái Lĩnh,
bđd.). Cũng
đau lòng vì cảnh đất nước trong vòng nô lệ, cũng một môi trường trưởng thành là
Paris nước Pháp, lại cũng yêu lý tưởng xã hội đến say mê, vậy mà khác với
Nguyễn Tất Thành, Phan Châu Trinh không sa vào chủ nghĩa chuyên chính. Trước
sau trong tâm hồn nhà nho cách mạng vẫn thắp sáng một ngọn đèn dân chủ.
Chính ngọn đèn ấy đã dẫn cụ đến tư tưởng đa đảng
đa nguyên từ những ngày đầu thế kỷ. Hồi ấy ở Paris cũng có một du học sinh tên
là Đông gửi thư cho Phan Châu Trinh bày tỏ lo ngại “đa đảng đa nguyên thì loạn”
(như quan điểm của ĐCSVN hôm nay), cụ đã trả lời: “Còn anh lo trong
nước sinh ra nhiều đảng phái mà hại, ấy là anh hiểu lầm; trong nước nhiều
đảng thì cãi cọ nhau nhiều, cãi cọ nhiều thì thì sự lợi hại mới biết, dân mới
có thể lựa đảng nào phải mà theo; anh xem các nước văn minh, nước nào mà không
có bè đảng, chỉ có nước dã man, thì chỉ có một lệnh vua mà thôi” (Mai Thái Lĩnh,
bđd.). Cụ chủ trương xã hội pháp trị (dân trị) và vạch rõ những tệ hại, tuỳ tiện,
may rủi của chủ nghĩa nhân trị (đức trị, quân trị) mà hôm nay không ít người
vẫn còn say mê. Phan Châu Trinh chủ trương tam quyền phân lập. “Đảng tiền phong”
ngày nay đã đi chậm sau ông già nhà nho ấy ngót một thế kỷ, mà bây giờ cũng đã
chịu nghe đâu?.
Phan Châu Trinh là một người dân chủ xã hội.
Nhưng “mặc dù gần gũi với những người thuộc Đảng Xã hội, tư tưởng của
Phan Châu Trinh vẫn không hoàn toàn giống họ. Trong khi những người xã hội chủ
nghĩa ở Pháp vẫn còn bị ràng buộc ít nhiều với chủ nghĩa Marx thì quan niệm về chủ
nghĩa xã hội của Phan Châu Trinh lại không có dính dáng chút gì với chủ nghĩa
Marx. Không có đấu tranh giai cấp, không có sự lên án đối với chế độ tư hữu, và
do đó cũng không có chủ trương quốc hữu hoá.” (Mai Thái Lĩnh,
bđđ.)
“Vấn đề là tại sao Phan Châu Trinh không đả kích
chế độ tư hữu, không lên án kịch liệt giai cấp tư sản như những người mác-xít
hay những người cộng sản? Ngoài bản tính ôn hoà mà ông đã có ngay từ thời bắt
đầu hoạt động chính trị, chúng ta cần chú ý đến chủ trương của ông về kinh tế.
Ngay từ khi phát động Phong trào Duy Tân, Phan Châu Trinh đã đề ra khẩu hiệu
‘khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh’, kêu gọi mọi người lập ‘hội nông’,
‘hội buôn’, ‘hội nuôi tằm’, v.v. nói chung là khuyến khích dân làm giàu. Như
vậy, nếu ông không lên án chế độ tư hữu, không đặt quốc hữu hoá thành mục tiêu
hàng đầu thì cũng là điều dễ hiểu. Có thể do Phan Châu Trinh không coi chế độ
tư hữu là nguồn gốc của mọi bất công xã hội. Hoặc ông cho rằng nước Việt Nam
còn quá nghèo, đất nước muốn phát triển còn cần nhiều đến những nhà tư sản yêu
nước. Do đó, ông không đả kích người giàu, mà chỉ đề ra yêu cầu ‘người giàu
giúp đỡ người nghèo’. Nói một cách chính xác, quan niệm của ông nghiêng về
‘công bằng’ (justice) hơn là ‘bình đẳng’ (égalité)”. (Mai Thái Lĩnh,
bđd.)
Phan Châu Trinh thuộc những nhà dân chủ xã hội
tiên phong, một chủ nghĩa dân chủ xã hội mang dấu ấn Việt Nam, sinh ra từ điều
kiện Việt Nam. Cái chủ nghĩa xã hội nhân đạo mà ta đang định hướng về Bắc Âu để
kiếm tìm thì nay chẳng những không phải tìm đâu xa, mà còn sẵn có một phương
sách thích hợp hơn với dân với nước ta nữa.
D. Từ Phan Châu Trinh, nghĩ về một vài bài học
cho hôm nay
a. Vai trò tiên phong của tư tưởng Phan Châu
Trinh
Trong cuốn sách nghiên cứu về Phan Châu Trinh,
TS Thu Trang Công Thị Nghĩa viết: “đa số các nhà làm sử đã công nhận: Phan Châu Trinh là một
nhà dân chủ đầu tiên ở Việt Nam”(Thu Trang, sđd).
Tinh thần dân chủ Phan Châu Trinh được bộc lộ
một cách toàn diện: Điều hành xã hội bằng luật pháp chứ không bằng ý thức hệ,
phải “tam quyền phân lập” và đa đảng đa nguyên (bên cạnh một đảng cánh tả rất
cần có một đảng cánh hữu), chú trọng tự do tư tưởng, tự do ứng cử bầu cử, tự do
lập hội. Phan Châu Trinh luôn coi sự phản biện trong mọi lĩnh
vực là tối cần thiết, ngay khi diễn thuyết cũng phải theo nguyên tắc “nghịch
luận” (tạo những ý kiến trái ngược để cùng bàn luận). Phan Châu Trinh
luôn coi trọng sự khác biệt, đồng thời coi trọng sự hợp tác tương hỗ. Về hoạt
động thực tiễn Phan Châu Trinh là chiến sĩ dân chủ-nhân quyền đầu tiên,
chiến sĩ “diễn biến hoà bình” đầu tiên của Việt Nam.
Tiến bộ đặc biệt của Phan Châu Trinh là sớm
biết phê phán bản chất lạc hậu của Nhân trị (hay Đức trị), nó cản trở pháp
luật, cản trở nền dân chủ pháp trị: “Nhân trị nghĩa là cai trị một cách
rộng rãi hay là nghiêm khắc chỉ tuỳ theo lòng vui, buồn, thương, ghét của một
ông vua mà thôi, pháp luật tuy có cũng như không.” Đừng quên rằng sau
bao năm cầm quyền mà thủ tướng Phạm Văn Đồng vẫn chưa có ý thức rõ ràng về xây
dựng nền luật pháp (e pháp luật sẽ “trói tay” Đảng làm Đảng khó lãnh đạo), và
ngay đến thế kỷ 21 này ĐCSVN vẫn chưa dám thực hiện “tam quyền phân lập”, và không ít cán bộ cũng
như trí thức vẫn còn lưu luyến Nhân trị thì mới biết cụ Phan đã đi trước dân
tộc một đoạn dài lắm.
Tiếp tục đi xa hơn, Phan Châu Trinh đã trở thành
nhà xã hội dân chủ đầu tiên, người đầu tiên chủ trương “định
hướng” xã hội chủ nghĩa, nhưng là xã hội chủ nghĩa phi Mác-xít, mà
thực chất rất gần gũi với nền chính trị của nhiều quốc gia tiên tiến nhất của
thế kỷ 21 này.
Vậy nếu tôn vinh Phan Châu Trinh là nhà tư tưởng
lớn của dân tộc này thì có xứng đáng không?
Học giả Hoàng Xuân Hãn nói: “Những tư
tưởng của Phan Châu Trinh về cơ bản vẫn còn giá trị lớn đối với xã hội ta ngày
nay”. Bởi vì, như ý kiến của nhà văn Nguyên Ngọc: “Những vấn đề cơ bản
nhất làm nền tảng cho độc lập tự chủ và phát triển dân tộc mà Phan Châu Trinh
đã thống thiết nêu lên từ đầu thế kỷ XX, trong đó trung tâm là vấn đề dân trí…
thìđến nay vẫn còn nguyên đấy”, “Đó là một nhiệm vụ, một món nợ mà lịch sử còn
để lại cho chúng ta hôm nay: nhiệm vụ xây dựng một xã hội dân chủ trên cơ sở
một dân trí được nâng cao”. [6]
Nhà sử học Daniel Héméry, một người nghiên cứu
khá sâu về Việt Nam, (và khá sâu về Chủ tịch Hồ Chí Minh) đã viết: “Khuôn mặt vĩ đại
của Phan Châu Trinh theo tôi là khuôn mặt đáng chú ý nhất trong lịch sử văn hoá
và chính trị Việt Nam ở thế kỷ XX, bởi chính ông đã xác định một cách rành
mạch, sáng rõ nhất những nan đề (les problématiques) đặt ra lâu dài mà các thế
hệ người Việt Nam sẽ phải - và mãi mãi còn phải - đảm nhận”. [7]
b. Phan Châu Trinh biết chắt lọc và kết
hợp một cách sáng tạo những tri thức của thế giới. Với cái vốn Hán học,
Phan Châu Trinh ngoài việc tiếp thu những tư tưởng của Lương Khải Siêu, Khanh
Hữu Vi, Tôn Dật Tiên… còn đọc các bản dịch chữ Hán các cuốn De l’esprit des
lois của Montesquieu, Contrat social của J. J. Rousseau. Đọc như thế chưa phải là
nhiều, nhưng cụ rút ngay ra được nhiều điều tinh tuý là bởi cách đọc thông minh. Huỳnh Thúc Kháng viết
về Phan Châu Trinh: “Tiên sinh (…) đọc sách có con mắt riêng, làm văn
tạo xuất cách mới, không làm những lối tìm câu lặt chữ, vẽ bóng pha mầu (…). Bất kỳ đề mục gì vào
đến tay tiên sinh thì sao cũng mở ra một lối mới để tỏ ý bi ca khảng khái
của mình”. [8]
Với lối đọc sách như thế, kết hợp với thực tiễn
tổ chức và tham gia tranh đấu và tù đày trong nước, kết hợp với sự quan sát học
hỏi trong môi trường chính trị ở Pháp, dưới sức thôi thúc của tinh thần ái quốc
tự thân, (không bị bất cứ trào lưu nào làm cho mất tính chủ động) và ở vào độ
chín sung mãn nhất của đời người (từ 35 đến 55 tuổi) Phan Châu Trinh đã kịp kết
tinh và thăng hoa.
Từ tấm gương ấy, mỗi chúng ta đều có thể rút lấy
một phần kinh nghiệm. Thời nay bao nhiêu người được đọc nhiều sách, nhưng ngập
trong rừng sách mà làm nô lệ cho sách, bao nhiêu người từng dấn thân sâu vào
cuộc tranh đấu nhưng vì thế mà mất hết tính chủ động, có thể nhìn vào tấm gương
Phan Châu Trinh mà tự gỡ cho mình.
c. Phan Châu Trinh là người biết kết hợp
nhận thức-tư tưởng với hoạt động thực tiễn. Trước hết Cụ là người của hành
động, chủ trương “thực học”. Mục đích của cụ là “Chống
lại chế độ độc tài chuyên chế hiện nay đang có mặt ở Đông Dương, do các nhà
chức trách Pháp cũng như do quan lại bản xứ thực hiện”. Cụ không bao giờ là
người lý thuyết suông (có thể nói: Lý thuyết cụ vốn không ham!). Nhưng cụ biết
vai trò rất căn bản của tư tưởng nên phải “sục” vào kho tàng tư tưởng để xác
định nền móng và tìm phương hướng, cuối cùng (như “vô tình”) thành nhà tư tưởng
với một nội dung rất sắc sảo và phong phú. Vì cần giải phóng dân tộc mà một nhà
nho tự biến mình thành một nhà “Tây học” (mà không hề lai căng), vỡ lòng học
lấy những điều mới lạ, không chút tự ái bảo thủ.
Ngày nay, một số người Tây học hoạt động dân chủ
lại chỉ đề cao hành động (thực ra mới chỉ là hành động bề nổi, chưa đáng gọi là
hoạt động chính trị) mà coi khinh nền tảng tư tưởng.
Một bạn trẻ tâm sự với tôi đầy tự tin: “Đã
biết chân lý là dân chủ đa nguyên thì ta cứ xốc thẳng tới đó mà tiến, chẳng
phải rắc rối quanh co gì hết! Còn cả thế giới bên ngoài, sợ gì!”
Ta đã từng chê cười chủ trương trước đây “dựa
vào sức mạnh vô địch của phe ta, để tiến nhanh tiến mạnh tiến vững chắc lên chủ
nghĩa xã hội”, nhưng hiện nay xốc nổi như thế thì khác nào “dựa hẳn vào sức
mạnh Hoa Kỳ để tiến nhanh tiến mạnh tiến vững chắc lên dân chủ đa đảng đa
nguyên”? (Có người còn dự đoán năm 2007, năm 2008... dân chủ sẽ toàn
thắng!) Vẫn giống nhau cái tâm lý thực dụng, ăn xổi, võ biền thì rất khó rút
kinh nghiệm. Ai phê bình là tự ái ngay.
Có người lại hỏi: “Thế bên Tiệp, cũng xã
hội chủ nghĩa, sao người ta làm Cách mạng Nhung, xoạch một cái là xong? Chờ xây
dựng dân trí thì đến mùng thất!”. Xin thưa, cái nền dân trí của Tiệp đã cao
hơn mình hẳn một tầm, nhưng dân trí là cái vô hình, nó ngấm sâu vào tâm
lý, vào nhiều mặt sinh hoạt khác nên ta không để ý. Dân trí lại phụ thuộc nhiều
vào giới trí thức tinh hoa. Dân trí chỉ xuất lộ trước những biến cố, nên ngồi nói chuyện
với một người dân Tiệp có thể thấy họ cũng chẳng hơn gì mình, nhưng đừng vì thế
mà nghĩ rằng dân trí hai nước như nhau. Châu Âu đã từng trả bao nhiêu xương máu (từ
thế kỷ 18-19) để có ý thức dân chủ ngày nay, để bây giờ có cái Nghị quyết 1481.
Nước mình đổ xương máu cũng nhiều, nhưng chỉ để trả cái nợ độc lập cho dân tộc
còn chưa xong, cuộc tranh đấu cho dân chủ mới chỉ bắt đầu.
d. Vững tin vào con đường dân chủ-xã hội (Social
Democracy)
Mấy năm gần đây, tuy chưa khai thác được “kho
báu” tư tưởng Phan Châu Trinh, nhiều trí thức Việt Nam trong và ngoài nước tự
mình cũng đã lưu tâm đến con đường dân chủ xã hội (cũng gọi là xã hội dân chủ)
và tìm thấy ở đó sinh lộ cho tình hình Việt Nam.
Bài “5 nhà trí thức
phát biểu về “Con đường xã hội – dân chủ” ở nước ta” của Lê
Bảo Sơn-Phan Trọng Hùng (talawas 2.9.2005) [9] đã
giới thiệu tóm tắt ý kiến của Phan Đình Diệu, Lữ Phương, Lê Đăng Doanh, Nguyễn
Xuân Nghĩa, Hà Sĩ Phu về con đường XHDC ở nước ta.
Sau đó là tác phẩm Huyền thoại về
một nhà nước tự tiêu vong và bài “Dân chủ - Xã hội
là gì?” của Mai Thái Lĩnh, bài “Xưa nhích chân đi,
giờ nhích lại” của Hà Sĩ Phu... và rất nhiều bài viết khác của các tác
giả trong và ngoài nước (tôi xin lỗi, vì không có văn bản chính thức trong tay
nên không kể được ra đây) từ những cách tiếp cận khác nhau đều gặp nhau ở niềm
hy vọng vào con đường dân chủ xã hội (cũng gọi là xã hội dân chủ), bạn bè khắp
nơi giới thiệu những thành tựu đỉnh cao của Thuỵ Điển, Na Uy.
Đến khi phát hiện con đường dân chủ xã hội trong
kho tàng tư tưởng Phan Châu Trinh thì chúng tôi mừng lắm, khâm phục viễn kiến
của Phan Châu Trinh vô cùng, như đã giới thiệu trong các phần trên.
Một thắng lợi bất ngờ là lại đến. Tác giả Trung
Quốc Tạ Thao giới thiệu công trình nghiên cứu của một đảng viên
cộng sản Trung Quốc, ông Tân Tử Lăng.
Tác giả khẳng định sự thắng lợi của chủ nghĩa xã
hội dân chủ, tức Quốc tế Hai, là tất yếu, thất bại của “chủ nghĩa
xã hội bạo lực” của Lênin là tất yếu. Vì chính cuối đời Marx và Engels
đã thấy sai lầm và sửa đổi theo tinh thần xã hội dân chủ (?), chỉ có Lênin lúc
ấy còn chống lại.
Xin trích vài dòng trong bài viết của Tạ
Thao:
- “Quyển 3 Tư bản luận đã lật đổ kết luận của
quyển 1 Tư bản luận”, ”chủ nghĩa cộng sản Marx đề xướng lúc trẻ nhưng vứt bỏ
lúc cuối đời” (?);
- “Breznev nói với em trai: Chủ nghĩa cộng sản
cái gì, đều chỉ là những lời nói trống rỗng nhằm dỗ dành dân chúng”;
- “Cái viết trên ngọn cờ chủ nghĩa Mác đương đại
là chủ nghĩa xã hội dân chủ, kiên trì chủ nghĩa Mác là kiên trì chủ nghĩa xã
hội dân chủ”, “Khi chủ nghĩa xã hội bạo lực đi đến sơn cùng thuỷ tận, thì chủ
nghĩa xã hội ở Tây Âu và Bắc Âu lại giành được thành công cực lớn”;
- “Thuỵ Điển là tấm gương của chủ nghĩa xã hội
dân chủ, kinh nghiệm của Thuỵ Điển có giá trị phổ cập thế giới, là cống hiến vĩ
đại cho văn minh nhân loại”;
- “Chỉ có chủ nghĩa xã hội dân chủ mới có thể
cứu Trung Quốc”;
- ”Năm 2004, Hồ Cẩm Đào nói chuyện tại Quốc hội
Pháp, đã trịnh trọng nói rõ với thế giới: “Phát triển chính trị dân chủ xã hội
chủ nghĩa là mục tiêu phấn đấu trước sau không thay đổi của chúng tôi”, “hàng
loạt chính sách mới đó thuộc về chủ nghĩa xã hội dân chủ, nhưng để tránh nỗi
nghi ngờ “chủ nghĩa xét lại” chúng ta đã gọi nó là con đường xã hội chủ nghĩa
có sắc thái Trung Quốc”...[10]
Đây là lời những đảng viên cao cấp của Đảng
Cộng sản Trung Quốc, những người “một lòng canh cánh cứu Đảng”,
dũng cảm gấp trăm lần những đảng viên cộng sản Việt Nam, và đi trước Đảng Cộng
sản Việt Nam nhiều lần, nhưng thưa rằng so với Phan Châu Trinh thì họ chỉ là
những người nói sau ngót một thế kỷ!
e. Phan Châu Trinh, lý tình trọn vẹn
Phan Châu Trinh sống giữa một giai đoạn đầy biến
động của một dân tộc đang tìm đường cứu nước, nên tính mâu thuẫn giữa các xu
hướng là điều nổi bật.
Nhưng phê phán nhau kịch liệt (về phương pháp) mà
vẫn không quên ca ngợi sở trường của bạn, bảo vệ quan điểm của
mình mà vẫn dũng cảm nhận ra sở đoản của mình, mà vẫn khuyên
nhủ thuyết phục nhau, vẫn ủng hộ nhau, mà vẫn vui sướng khi xu hướng khác mình
giành được thắng lợi như các vị ấy thì thật hiếm có.
Trong những cuộc bàn thảo vừa xung đột vừa cảm
động ấy (đặc biệt là giữa Phan Châu Trinh với Phan Bội Châu và Nguyễn Tất
Thành) Phan Châu Trinh luôn là người chủ động nhất và cũng là người có nhiều
trăn trở dằn vặt nhất. Sở dĩ như vậy là vì Phan Châu Trinh luôn là người trung
dung, dân chủ, ôn hoà, mà người như thế thường là chiếc cầu ở giữa nối các phía
cực đoan gần lại với nhau.
Nhưng từ khi Phan Châu Trinh mất đi, phe ôn
hoà không còn, chỉ còn toàn những phe chủ trương bạo lực thì tình hữu ái tương
đối ấy không còn nữa, tuy cùng muốn cứu nước mà lại tìm cách vu cáo nhau, thôn
tính nhau, tranh công của nhau đến một mất một còn. Bài học ấy đáng để những
người đương thời suy ngẫm.
f. Tại sao tư tưởng Phan Châu Trinh bị chìm
lắng?
Đã 81 năm kỷ niệm ngày mất của chí sĩ họ Phan
(24.3.1926), hôm nay đã có đủ độ lùi để nhìn lại một giai đoạn lịch sử dân tộc. Tất nhiên lịch sử là
cái đã qua, nhưng với niềm luyến tiếc ta cứ thử nghĩ về một chữ “nếu”.
Nếu đoàn tàu Việt Nam thuở ấy rẽ vào đường ray
Phan Châu Trinh, nhằm hướng xã hội dân chủ như Na Uy, Thuỵ
Điển bây giờ thì sao nhỉ?
Nếu nương vào Pháp để đi lên thành công, không thành cộng sản,
thì giản ước được bao nhiêu thứ:
- không có cuộc đánh Pháp 9 năm
- không có cuộc “Nam Bắc phân tranh lần thứ 2”
dẫn đến cuộc đánh Mỹ
- không phải tham chiến ở Căm-pu-chia
- không tranh giành gì để phải đánh Tàu năm 1979
(và đứng trước nguy cơ Bắc thuộc mới)
- không có lý do gì phải tiến hành cuộc “đổi mới
hay là chết”
- không có lý do gì để xuất hiện làn sóng đòi
dân chủ-nhân quyền, dẫn đến hài kịch bịt miệng bị cáo trước toà cho thiên hạ
xem, vân vân…
Nghĩa là tiết kiệm được bao nhiêu thời gian,
bao nhiêu gương anh hùng, bao nhiêu nạn nhân, bao nhiêu máu xương, bao nhiêu
hận thù..., và tăng thêm được bao nhiêu là hạnh phúc. Lịch sử không thể quay
lại để kiểm chứng, nhưng ai cũng có quyền giả thiết để suy ngẫm, để rút kinh
nghiệm cho hiện tại và tương lai.
Nhưng tổ tiên mình thuở trước chắc vụng đường tu
nên Trời đã sai lão Thiên lôi ra “bẻ ghi” để con tàu Việt Nam không thể đi vào
đường ray Phan Châu Trinh, mà ngoặt sang đường ray Quốc tế số 3, có
chữ “tiên tiến nhất trong xã hội loài người”, và thế là hôm nay ta
đang ngồi đây giữa sân ga hiện thực này, tụt hậu so với xung quanh gần nữa thế
kỷ, với bao vết thương trên thịt da và trong phủ tạng.
Sau khi đã công nhận những điều ưu điểm tuyệt
vời trong tư tưởng Phan Châu Trinh, ta thường an ủi cho sự đi trệch đường ray
đó bằng cách giải thích:
“Lịch sử, do những éo le của nó, đã không đi
được theo con đường Phan Châu Trinh sáng suốt lựa chọn gần 100 năm trước” (Nguyên Ngọc, bđd.). Có
lẽ hầu hết chúng ta đều làm dịu vết thương của mình như thế.
Nhưng cái gì là “sự éo le” của
lịch sử? Ta bảo đó là “kẻ thù đã buộc chúng ta...”.
Cũng có thể kể ra một loạt sử liệu làm “bằng
chứng cấu thành tội phạm” để kết án kẻ thù đã làm chúng ta “lỡ tàu”, để tự an
ủi bằng chữ “bất khả kháng”. Nhưng mọi kẻ thù xưa nay, dù ở mức độ này hay mức
độ khác, bản chất chúng bao giờ cũng thế thôi, bao giờ kẻ thù chẳng buộc chúng
ta chọn con đường bất lợi. Quy tội cho chúng một nghìn lần cũng vô ích.
Vấn đề là ở mình. Nhìn số phận của mình mà lại
thấy nguyên nhân nằm ở ngoài mình thì có nghĩa là mình bó tay. Cứ chịu bó tay, cứ chịu thua kém thiên
hạ thì kẻ thù lại đến, và mình lại phải gồng lên để lại tiếp tục “anh
hùng”!
(Năm 1975, sau “đại thắng”, ta tuyên bố từ nay trở đi không kẻ thù nào dám xâm
phạm bờ cõi ta nữa, thì chỉ 4 năm sau, một kẻ thù khác lại xâm phạm bờ cõi ngay
chứ họ sợ gì đâu? Rồi đây, cái “biên giới mềm” lại càng khó bảo vệ hơn nữa). Phan Châu Trinh là
người Việt Nam đầu tiên nhận ra nguyên nhân gốc rễ của cái chuỗi khổ ải lặp đi
lặp lại bất tận ấy, là thua kém thiên hạ một tầm văn minh, và có giải pháp cơ
bản để thoát ra và chấm dứt nó.
Nhưng bất hạnh thay, lịch sử đã không “chọn”
Phan Châu Trinh.
Không, đừng nói lịch sử, phải nói: dân tộc này
đã không “chọn” Phan Châu Trinh. Đổ cho lịch sử khách quan là vô trách nhiệm
với chính mình.
Mặc dù đã cố gắng hết mình, lo cho số phận dân
tộc, Phan Châu Trinh vẫn không thoát khỏi số phận cô đơn. Nếu Phan Châu Trinh
cũng hô “Trí phú địa hào, đào tận gốc trốc tận rễ”, cũng“thề
phanh thây uống máu quân thù” (lời cũ bài Quốc ca) thì chắc “lịch sử” đã
chọn cụ rồi. Chọn cái gì, không chọn cái gì là do tâm lý dân tộc, sở thích của
dân tộc, nhận thức của dân tộc, và chúng ta lại trở về với hai phần đầu của bài
viết này (về mấy nhược điểm chính trong tính cách của dân tộc ta).
Thay vì “phanh thây” quân thù ta cần “nội soi”
và mổ xẻ chính cơ thể mình với bàn tay tinh tế của y thuật.
Phan Châu Trinh lo cho dân trí của dân tộc
này, nhưng chưa kịp làm cho dân trí trưởng thành thì dân trí đã gạt cụ ra bên
lề lịch sử (mặc dù vẫn kính trọng cụ nhưng kính nhi viễn chi thôi,
chỉ “cung kính” chứ không “tòng mệnh”, không đi
theo đường).
Nhưng điều oái oăm là trong khi những người muốn
đổi mới số phận dân tộc còn đang lúng túng trước dân trí thì phía cai trị bao
giờ cũng hiểu dân trí rất rõ và tận dụng rất tài những nhược điểm của dân
trí.
*
Mở đầu bài viết tôi chỉ muốn kính gửi đến các
ông Võ Văn Kiệt, Bùi Tín, Lê Hồng Hà (và đến tất cả mọi người) mấy ý kiến nhỏ
mà các ông đề cập về tình hình thời sự-chính trị, mà rồi lan man phải nhắc đến
cụ Phan Châu Trinh 100 năm về trước, có lẽ một phần vì những điều các ông phát
biểu (nhất là bài của ông Lê Hồng Hà) đều phảng phất có hình bóng Phan Châu
Trinh trong đó, gợi ra cái nhu cầu phải ôn lại nhân vật lịch sử kiệt xuất này,
làm chút ánh sáng giúp ta tránh một số điều mù quáng hiện nay. Nhưng đây là
lĩnh vực tôi ít hiểu biết nhất. May mà có những người đi trước đã khảo cứu khá
sâu về Phan Châu Trinh như các vị Nguyễn Q. Thắng, Nguyễn Văn Dương, Nguyên
Ngọc, TS Thu Trang, Mai Thái Lĩnh…, lại thêm ở quê nhà Quảng Nam của cụ Phan
cũng đã có nhiều hoạt động để nối tiếp con đường của cụ. Tôi xin cảm ơn các vị
ấy.
Để kết luận, tôi thấy không gì bằng dùng lời kết
của TS Thu Trang khi viết về Phan Châu Trinh:“CHỚ ĐEM THÀNH BẠI LUẬN ANH HÙNG!”.
Bà nhắc lại lời của triết gia Nietzsche: “Có vô vàn sự việc mà
nhân loại đã thu đạt được trong bao thời kỳ trước, nhưng với một vẻ rất nhỏ,
rất yếu tựa như còn trong trứng, nên người ta không trông thấy được sự thành
hình. Nhưng với thời gian, có khi cần đến hàng thế kỷ, những sự việc ấy
mới nổi bật lên trong ánh sáng...” (Thu Trang, sđd)
Sinh thời, bao giờ Phan Châu Trinh cũng rất yêu
mến bạn bè và dân chúng, thế mà rất nhiều lần cụ phải nhắc đến chữ “ngu”, như nhắc đến một kẻ
thù nguy hiểm, không thể coi thường. Chính cụ cũng lấy chữ ngu ra để tự răn
mình.
Vâng, cái ngu dốt thật đáng sợ, nhưng đáng sợ nhất
là ngu dốt mà được hoan hô và nhất thời thắng lợi, vì như thế nó phá huỷ mất
khả năng nhận thức ra chân lý.
Đà Lạt, viết xong ngày 24.5.2007
Hà Sĩ Phu
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét