Cách Mạng Văn Hóa |
Vũ Bất Khuất
- Tôi không định viết về Nho giáo vì khả năng hiểu biết về
nho giáo hạn hẹp của mình. Nhưng hôm nay thì phải đành “múa gậy vườn hoang” một
bận, khi tể tướng Lý Khắc Cường ra chiếu chỉ cho các thái thú ở An Nam phải
nhanh chóng thành lập viện Khổng Tử ở Việt Nam.
Những ai am tường về lịch sử nước nhà đều hiểu
rằng Việt Nam là một quốc gia của đạo Bụt. Tính cách của dân tộc suốt chiều dài
lịch sử của mình hoàn toàn dung hợp một cách máu thịt với đạo Bụt với một quan
điểm sống rất giản dị, cụ thể: “Ăn Hiền Ở Lành” với ba bước “văn,
tư, tu” nghĩa là học tập, suy nghĩ và thực nghiệm.
Bên cạnh là một dân tộc khác, hoàn toàn khác,
Hán tộc. Nền tảng văn hóa của họ hoàn toàn được gói gọn trong tư tưởng Nho giáo
với bốn bước để thành người “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” mà
xương sống của học thuyết Nho giáo là thuyết chính danh. Thuyết này kêu gọi mọi
người cầm phải hành xử đúng vị trí mà họ đảm đang “Vua ra vua, tôi ra tôi. Cha
ra cha, con ra con...”. Tất cả những giáo điều của Nho giáo chỉ nhằm một đích
duy nhất là giáo dục con người học tập, suy nghĩ và làm việc để thực hiện
nghiêm chỉnh điều này, một thứ trật tự mặc định. Trong suốt quá trình phát
triển của Nho giáo với hàng loạt những nhà tư tưởng Nho giáo dù có triển khai,
du nhập các học thuyết khác như đạo Bụt, Lão Trang, Hồi giáo, Công giáo cũng
đều nằm trong mục đích duy nhất; tôn tạo và phát triển Nho giáo, nghĩa là phát
triển con người với tiêu chí “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” đã
nêu trên. Nghĩa là “tu thân phải có cây kềm”, “tề
gia phải có cây roi”, “trị quốc phải có cây cùm”, “bình
thiên hạ phải có cây gươm”. Từ đó nãy sinh ra một cái tên Trung Hoa hay
Trung Quốc và nãy sinh ra khái niệm “dĩ Hạ biến Di” nghĩa là
lấy văn minh Hoa Hạ để giáo hóa các dân tộc man di khác. Tư tưởng này phát
triển đến đỉnh điểm vào thời Đường Thái Tôn với tứ trấn: An Bắc (Nội, Ngoại
Mông, chúng gọi là bắc di) An Nam (Đại Việt, chúng gọi là nam man), An Tây (Tân
Cương, Tứ Xuyên, chúng gọi là tây nhung), An Đông (Mãn Châu, Triều Tiên, chúng
gọi đông địch). Nhưng trên thực tế thì dân tộc Hán đều bị các dân tộc nằm ở tứ
trấn ấy thay phiên xâu xé và đô hộ, trừ Đại Việt, nhưng cũng đã từng bị quân
dân Đại Việt giáng cho những trận “thất điên bát đảo” khi cất bước xâm lăng.
Trở lại vấn đề Nho giáo ở Việt Nam, ngay từ
khi tiêu diệt nhà nước Nam Việt năm 111 TCN, Nho giáo đã nương theo bóng dáng
quân xâm lược tràn vào Đại Việt, nhưng sức thẩm thấu bị dội ngược lại, đến năm
43 SCN, sau khi nhà nước của Hai Bà Trưng thất bại, Mã Viện đã thực hiện một cú
xâm lược văn hóa tàn khốc với cây trụ đồng như là một sự định vị của sách lược
đồng hóa, nhưng không bao lâu sau những hòn sỏi nhỏ mang đầy tính “ăn hiền ở
lành” đã xóa sạch vết tích của nền văn hóa nô dịch. Nhân dân Đại Việt và đạo
Bụt âm thầm tôn tạo bản lĩnh dân tộc làm cho tư tưởng Nho giáo lại phải dội
ngược lên giới quan lại thống trị và bọn theo đóm ăn tàn.
Có hai câu ca dao rất đáng suy nghĩ, dù rất
buồn cười:
Tam hoàng ngũ đế chi thư.
Thầy ngồi thầy để củ từ thầy ra.
Cuối thế kỷ thứ II, năm 187 khi vừa nhón chân
vào phủ thái thú ở Luy Lâu, việc làm đầu tiên của Sĩ Nhiếp là mở hàng loạt các
trường học và cấm nhân dân Đại Việt sử dụng chữ Việt cổ và đón nhận hàng loạt
những nho gia thuộc loại “vong gia thất thổ” từ chính quốc
tránh loạn Tam quốc vào Đại Việt. Đây là một cú xâm lược văn hóa lớn nhất lịch
sử. Nhưng, cũng lại nhưng, với 40 năm ngồi chễm chệ trong dinh thái thú như ông
vua con, Sĩ Nhiếp lại bị chính cái quan điểm “dĩ Hạ biến Di” đảo
ngược lại thành “dĩ Di biến Hạ” vì một độc chiêu của Mâu Tử “giáo
Tàu đâm Chệt” với tác phẩm Lý hoặc Luận viết bằng chữ Hán, sử dụng lập
luận Nho gia để phản bác Nho gia và một câu nói làm rúng động thiên hạ “Hán
địa vị tất vi thiên trung dã” (Đất Hán không phải là trung tâm của
trời đất) và sau này, thời vua Lê Đại Hành, Lý Giác cũng phải xác nhận “Thiên
ngoại hữu thiên ưng viễn chiếu” (Ngoài trời còn có trời khác sáng
hơn).
Hơn một ngàn năm (111 TCN - 938 SCN), Nho giáo
tung tẩy những giáo điều của mình trên non sông Đại Việt như là một cơn gió
thoảng qua và kết thúc bằng một câu thơ nổi tiếng “Đằng giang tự cổ huyết do
hồng” (từ xưa máu quân xâm lược loang hồng trên sông Bạch Đằng).
Tất nhiên tham vọng thì bao giờ cũng là tham
vọng, bởi vì cái học thuyết bá quyền tiềm ẩn trong Nho giáo luôn luôn nuôi
dưỡng sự hiếu chiến trong lòng Hán tộc. Dù họ lúc nào ngán ngẩm vì điều đó,
nhưng chỉ là với những người dân hiền lành chất phác thôi, chứ nếu như bò lên
tới bước “bình thiên hạ” rồi thì tất nhiên là phải sắt máu.
Tiếc rằng bài học của vua Trần Nhân Tông dạy
Hốt Tất Liệt cách làm vua thì chỉ có một mình ông ta thuộc.
Sau khi đánh bại Nguyên Mông lần thứ ba. Nhân
lễ chúc thọ Hốt Tất Liệt. Vua Trần Nhân Tông có sai sứ sang chúc thọ mà phẩm
vật chỉ là một bài thơ có 16 từ:
Thiên tứ hoàng đế
Đế tứ thứ dân
Thần chúc thánh thượng
Ức vạn niên xuân
(Trời cho làm vua
Vua lo cho dân
Thần chúc thánh thượng
Muôn triệu mùa xuân)
Đúng là vị vua nhân từ, sáng suốt và tài hoa
nhất lịch sử Việt Nam đã dạy cho một ông vua đã từng làm kinh động thế giới
hiểu rằng phải biết lo cho dân mình có muôn triệu mùa xuân. Mùa xuân đồng nghĩa
với an lạc, thịnh vượng mà muốn thế thì đừng đàn áp kẻ khác, đừng gây chiến
tranh làm thương vong ly tán, làm đất nước cạn cùng. Bài thơ mượn quan điểm Nho
giáo mà nội dung lại chuyển tải tinh thần đạo Bụt. Có lẽ Hốt Tất Liệt thuộc bài
nên từ đó không thấy Nguyên Mông dòm ngó Đại Việt.
Nhưng với Nho gia Việt Nam thì không thuộc bài
học mà ông cha đã dạy cho, một Hồ Quý Ly đã đẩy đất nước đến họa diệt vong vì
choáng ngợp trước những hào nhoáng của Nho giáo đến nỗi con ông là Hồ Nguyên
Trừng phải than vãn “Thần không sợ đánh mà chỉ sợ dân không theo”.
Nhưng đã trễ, Trương Phụ đã tràn sang tiêu diệt nhà Hồ và các cuộc khởi nghĩa
khác tiến hành một cuộc xâm lược lãnh thổ và xâm lược văn hóa một cách bạo
liệt. Sử sách, nhân tài, vật lực bị cướp sạch và tuồn vào hàng núi tứ thư, ngũ
kinh và các mầm mống văn hóa độc hại khác mà sau khi Lê Thái Tổ dành lại đất
nước thì cái mầm mống độc hại của Nho giáo phát triển như một căn bệnh cấp
tính, trước tiên là cái chết của Phạm Văn Xảo, Trần Nguyên Hãn, Nguyễn Trãi với
cái trò “điểu tận cùng tàn” xảy ra nhan nhản trên đất nước
Trung Hoa mà đây là lần đầu tiên xảy ra ở Đại Việt. Để rồi khi một ông vua nho
gia Lê Thánh Tông lên ngôi sau những cuộc tranh giành quyền lực kinh hoàng.
Triều chính mà vua Lê Thánh Tông thiết lập gần như là một bản sao hoàn chỉnh
của mô hình chính quyền theo kiểu Nho giáo “Dân khả sử do chi, bất khả
sử tri chi” (Đối với dân, chuyện nào cần họ làm thì bảo họ làm, chớ
không nên giảng giải nghĩa lý sâu xa vi diệu với họ) (Luận Ngữ tiết 10. Thái
Bá).
Để sau khi vua Lê Thánh Tông chết (1497) thì
đất nước hoàn toàn rơi vào loạn lạc, cảnh anh em giết nhau, vua tôi giết nhau,
quân tướng giết nhau để tranh giành quyền lực xảy ra như cơm bữa giữa các Nho
gia luôn mồm “chi hồ giả dã” để tạo ra cái loạn Nam Bắc triều
và một mô hình nhà nước dị hợm “phủ Chúa, cung Vua”.
Từ đó, Nho giáo chiếm lĩnh vũ đài chính trị
trong cả nước với những loạn lạc triền miên, nhưng đất nước không diệt vong mà
còn phát triển chính là nhờ tinh thần dân tộc hòa quyện cùng nội hàm của đạo
Bụt đã ăn sâu vào trong tâm thức mặc cho sự khuynh loát của những thế lực quân
sự, văn hóa, kinh tế ngoại bang mà điển hình độc đáo là 200 năm yên bình và
phát triển của Đại Việt Đàng Trong (1561-1767) theo con đường của Bụt.
Vua Gia Long (1802-1819), Minh Mạng
(1819-1840), Tự Đức (1847-1883) là 3 ông vua hùng tài đại lược đầu triều Nguyễn
nhưng họ lại không có cái tinh thần dung thông của đạo Bụt mà bị trói buộc vào
cái vòng kim cô bảo thủ cứng ngắt của Nho giáo để rồi đất nước lại lâm vào thảm
họa.
Đã bao nhiêu tiếng than van vì cái nho giáo cổ
hủ, bá quyền, hiếu chiến và vong bản.
Nào có ra gì cái chữ Nho
Ông nghe ông cống cũng nằm co
Chi bằng đi học làm ông phán
Tối rượu sâm banh sáng sữa bò - Tú Xương
Sự lệ thuộc vào Nho giáo hay đúng hơn vào
Trung Quốc, dù trên bất cứ lĩnh vực nào cũng là một hiểm họa khôn lường. Nó đày
ải con người đi đến chỗ chán chường, rồi khi họ thức tỉnh thì lại rẽ sa một
đường tiêu cực khác.
Một non sông bị bán rẻ, đã từng bị bán rồi,
thì luôn luôn giành lại được để tồn tại đến hôm nay. Nhưng một nền văn hóa bị
bán rẻ là một điều không thể. Mà nếu có thể thì có nghĩa là bị tiêu diệt hoàn
toàn. Không hiểu mấy tay cộng sản chóp bu có hiểu không?
Viện Khổng tử thành lập ở Việt Nam để làm gì?
Bất cứ một người yêu nước nào cũng đều lo ngại, thậm chí phẫn nộ. Họ đã quá
hiểu mục tiêu của cái viện đó.
Ở đây không bài bác Khổng Tử và Nho Giáo.
Trong một chừng mực nhất định Khổng Tử và Nho giáo cũng là một thứ văn hóa cần
học hỏi. Nhưng dứt khoát không phải để thuộc vào. Lịch sử với bao nhiêu trang
hào hùng, bất khuất vẫn còn đó, nhưng một vài trang bi thương, điếm nhục vẫn
chưa nhòa. Nhưng không thể, một ngàn, một triệu lần không thể để cho cái học thuyết
bá quyền hiếu chiến ấy cùng hiệp đồng với chủ nghĩa cộng sản tàn phá lương tâm
dân tộc này.
Hao Nguyen09:10 Ngày 23 tháng 10 năm 2013
Trả lờiXóaKính thưa quý bạn đọc và thưa bạn VBK tác giả bài viết trên.
Ttrước hết tôi cũng xin phép mạo muội nêu lên một vài cảm nghĩ thô thiển của tôi sau khi đọc qua bài nầy và tôi cũng tự ví mình như con cóc "gọi trời nắng mưa" với nhã ý dung hòa "múa gậy vườn hoang " và chủ đề cũng như nội dung chi tiết ,tôi hoàn toàn không có ý phản bác mà rất mong được thông cảm và đây chỉ là sự phản xạ tự nhiên của một đọc giả không an phận" dựa cột mà nghe."
- Về tín ngưỡng : Đạo NHo ( Khổng Phu Tử , Lão Trang ) đã thâm nhập vào Viêt Nam cũng hơn 4 nghìn năm văn hóa suốt chiều dài lịch sử Đinh Lê, Lý Tần.các triều đại phong kiến cũng đã từng tôn sùng là thánh nhân hiền triết và vẫn ứng dụng chữ viết làm văn bản bang giao , truyền đạt dẫn giãi giáo huấn sĩ tử qua các kỳ thi và và ban hành huấn thị pháp lệnh trong nước suốt đằng đẳng ngần ấy thời gian mà người Việt Nam ta vẫn không bị nô dịch vào văn hóa của nước đã có sáng kiến dùng chữ viết để ghi chép diển đạt cũng như nhân loại có những dạng chữ khác nhau nhưng không ngoài mục đich là dùng chữ viết là một phương tiện lưu dụng trong nhiều lãnh vực tiện ích trong công việc hiện tại kế thừa kinh nghiệm quá khứ để phát triển tương lai.Với xu hướng hòa nhập giao lưu văn hóa ,ngôn ngữ toàn thế giới bây giờ chúng ta không sợ nô dịch văn hóa của ai cả một khi đã nghĩ đến việc đó tức là đã ý thức việc đó rồi .
-Trong nước ta đã có học viện của những tôn giáo lớn ( Phật Giáo .THiên Chúa giáo , Đạo Hồi , Cao Đài ,V,V. thì thêm một học viện Khổng Phu Tử cũng chẳng có gì ảnh hưởng cả vì tự do tín ngưỡng mà .
- Thánh Hiền tạo chữ không nhớ công cũng được và không tôn sùng cũng được. Các vị đó tạo thành chữ viết thành sách để con người hiểu là cái nghĩa làm con người sao cho đúng là người ,đừng để nhân loại oán thán lòng lang dạ thú đội lốt người.Và làm người thì phải giữ .NHÂN LỄ NGHĨA TRÍ TÍN.
Và Nhân đây trân trọng mời quý đọc giả dành chút ít thời giờ vàng ngọc xem thêm bài :Chính sách hà khắc giữ hơn cọp . Của dịch giả Trần Văn Chánh. ( trích trong TOÀN THƯ TỰ HỌC CHỮ HÁN )
Drive On Co Tri Tan.
Hy vọng rằng nhận định chung là tâm Thánh Hiền luôn luôn ngời sáng và dù cho ai đó muốn mượn danh thì họ tự làm vẫn đục vậy.