T. LAN
Đi thăm mặt trận
Chuyện này bắt đầu cách đây đã 40 năm về trước.
Chúng tôi được nghe kể lại cách đây hơn 10 năm. Tôi nhớ được thế nào xin thuật
lại thế ấy.
Năm 1950, ta chuẩn bị đánh quét giặc Pháp ra
khỏi đường số 4 và giải phóng biên giới Việt–Trung. Bác định đi thăm mặt
trận.
Để Bác đi đỡ mệt, chúng tôi làm một chiếc cáng.
Gọi là “cáng” cho vui, chứ sự thật chỉ là một tấm vải thô, hai đầu cột chặt vào
một đoạn tre, một người có thể nằm để hai người khiêng. Nhưng Bác bảo: “Thôi
dẹp nó đi!”.
Bác cùng chúng tôi đi bộ từ Phủ Chủ tịch ở
Tuyên Quang đến mặt trận biên giới, rồi đi ngược đến tỉnh lỵ Cao Bằng, công
việc xong lại trở về Tuyên Quang.
Xin thưa rằng, trong câu chuyện này nhiều danh
từ chỉ có nghĩa thô sơ thôi. Như “Phủ Chủ tịch” chỉ là một túp nhà sàn, bốn bề
phên không vách, làm ở trong rừng, xây dựng một ngày là xong, ở vài tháng rồi
lại dời đi nơi khác.
Đối với chúng tôi, cuộc đi này thật vất vả,
nhưng cũng thật thú vị.
Đi theo Bác có: một tiểu đội bảo vệ, một thầy
thuốc – Bác sĩ Chân, đồng chí Thành với tôi, T. Lan. Muốn đi nhanh Bác cho đội
bảo vệ đi trước vài mươi phút, rồi Bác và ba anh em chúng tôi đi sau.
Để tránh máy bay địch, chúng tôi khi thì đi ban
đêm, khi thì đi đường rừng. Sáng dậy thật sớm. Đến trưa, hễ gặp một ngọn suối
trong, có cây cao bóng mát, có những tảng đá to, thì Bác bảo dừng lại. Giở cơm
nắm ra ăn với thịt Việt Minh (một cân thịt vằm với một cân muối và một cân ớt).
Ăn xong, mỗi người nằm nghỉ lưng trên một tảng đá, tha hồ mà “vui thú lâm
tuyền”. Nghỉ một tiếng đồng hồ rồi lại tiếp tục đi.
Phần thì để giữ bí mật; phần thì không muốn làm
phiền đồng bào, mỗi tối, chúng tôi thường đóng quân ở một ngôi đình, ngôi chùa,
hoặc một cái lán bỏ hoang. Mấy đống lá cây phủ thêm mấy tấm vải bạt, ở giữa đốt
bếp lửa, thế là thành “hành doanh” của đội “phụ tử binh [1] ”
chúng tôi.
Tôi còn nhớ một lần đi đêm, trời đã khuya, thì
may gặp một cái quán làm bằng vải tấm tranh cột trên bốn cái cọc tre. Ban ngày
đồng bào miền núi thường đưa chuối, sắn, mía, khoai, v.v. treo vào đó. Khách
qua đường ai muốn ăn thì cứ ăn, ăn hết bao nhiêu, khách tự tính giá phải chăng
và tự bỏ tiền vào một cái ống nứa để sẵn ở đó. Tối đến, chủ quán ra thu dọn số
hàng còn lại và lấy tiền về, không bao giờ thâm vào vốn. Trước quán có một cái
“ghe dài” làm bằng một đoạn cây to và cong queo, gác trên hai chữ X bằng nứa để
cho khách ngồi. Bác đặt ba lô xuống, ghé lưng vào ghế, hai chân, hai tay giữ
lấy ghế cho khỏi ngã… Một lát sau Bác đã ngủ ngon!
Có đêm, đang đi giữa đường thì nghe máy bay
địch ném bom phía trước và phía sau, như chúng muốn chặn đường lính. Nhưng kinh
nghiệm cho biết rằng chúng chỉ ném lung tung để phá đường giao thông và doạ các
đội vận tải của ta.
Hôm nào trời nắng ráo, thì vừa đi vừa “ngoạn
thuỷ du sơn” cũng thích. Nhưng hôm nào trời mưa to thì cũng khổ thật. Các toán
vắt “lợi dụng thời cơ” mà tấn công chúng tôi; thêm vào đó là đường trơn, gió
rét. Tình cảnh ấy khiến tôi nhớ lại câu đối mà cha tôi thường đọc:
“Đi đường đất thịt trơn như mỡ
Ngồi gốc cây đa rét tận xương”.
Có những đoạn đường đất đỏ, bùn lút mắt cá, đi
một bước trượt hai bước. Bác ra lệnh rút dép cao su ra, xắn quần quá đầu gối,
tay thì chống gậy mà đi. Trong mấy anh em chúng tôi, bác sĩ Chân đi kém nhất,
mà lại có nhiệm vụ phải đi theo kịp Bác. Nhiều khi đồng chí ấy muốn nghỉ chân,
nhưng không dám nói. Một buổi sáng, mưa như đê trên trời bị vỡ, sau khi đi được
vài tiếng đồng hồ, thì thấy mấy cái nhà nhấp nhô dưới rừng cây cổ thụ. Nỗi lòng
không nín được nữa, bác sĩ ta bèn thốt lên một tiếng, chỉ một tiếng mà thôi
“Nhà!”.
Bác cười và bảo: “Đúng rồi. Đó là lán của các
anh em vận tải đấy…” Chúng tôi hiểu ý Bác, nhìn nhau cười thầm.
Đến đường số 4, đồng chí Tổng tư lệnh đưa một
chiếc xe gíp ra đón. Chúng tôi đã mừng và khẽ bảo nhau: “Bây giờ khỏi cuốc bộ
rồi!”. Không ngờ Bác bảo đồng chí cán bộ “đưa xe về cho bộ đội dùng chở tiếp
tế. Bác đi bộ quen rồi, không cần đi xe”.
Trên đường đi, Bác thường ghé thăm một cách bất
thình lình đồng bào các bản làng và các đơn vị bộ đội. Anh em chiến sĩ và cán
bộ thấy Bác đến một cách đột ngột, lúc đầu thì ngơ ngác rồi thì mừng quýnh lên,
reo hò nhảy nhót, quây quần lấy Bác, có khi quên cả trật tự. Sau khi xem tận nơi
bếp nấu, chỗ ở, công tác vệ sinh, Bác thân mật hỏi han thăm sắc khỏe mọi người,
dặn dò, phê bình, khuyến khích mấy lời như cha nói với đàn con, rồi lại tiếp
tục đi.
Chúng tôi được biết rằng sau những cuộc đến
thăm “du kích” của Bác, kết quả là về tinh thần thì bộ đội thêm ngăn nắp và
càng chú ý công tác vệ sinh.
Trong chiến dịch này, bộ đội ta tỏ ra rất anh
dũng, điều đó ai cũng biết. Đây tôi chỉ muốn nói thêm rằng nhân dân ta cũng anh
dũng vô cùng. Đồng bào các dân tộc đi dân công không quản dãi nắng dầm mưa,
không quản trèo đèo lội suối, không quản máy bay địch uy hiếp suốt ngày, họ
luôn luôn vui vẻ, làm tròn nhiệm vụ.
Một hôm, trời hửng sáng, Bác ghé thăm một xóm ở
gần đường. Ngoài đồng ruộng thấy mấy trăm chị em dân công, Kinh có, Tày có,
Nùng có, Mán có… Người thì vừa nhóm bếp nấu cơm, vừa nói chuyện vui vẻ. Người
thì chụm năm chụm ba, đang ngồi dựa lưng vào nhau mà ngủ. Bác hỏi mấy chị đang
nhóm lửa: “Các cô cả đêm ngồi ngủ ngoài trời như vậy cả sao?”
Các chị trả lời: “Vâng ạ, nhà đồng bào chật,
chỉ đủ chỗ để chứa lương thực của bộ đội khỏi ướt. Các cháu ngủ ngoài đồng thế
này càng vui…”.
Bác ôn tồn khen ngợi chị em, rồi bảo chúng tôi:
“Bộ đội ta dũng cảm như vậy, nhân dân ta dũng cảm như vậy, ta nhất định thắng,
địch nhất định thua”.
Lời nói của Bác đã thành thật. Trận ấy ta thắng
to, tiêu diệt được nhiều địch, giải phóng được biên giới, bắt được ba tên quan
năm. Ta tạm giữ ba tên quan năm này trong những hang núi, Bác hoá trang làm một
cán bộ mới bị thương, lấy vải băng che tóc, che râu, rồi đến hỏi chuyện chúng.
Tên quan năm thầy thuốc tỏ vẻ hối hận và nói: “Thôi. Thôi! Tôi chán ngấy chiến
tranh lắm rồi! Chính phủ Pháp đã tuyên truyền láo toét! Chúng nói Việt Minh chỉ
là một nhóm phiến loạn, không có quần chúng ủng hộ… Bây giờ tôi thấy rõ rồi.
Nếu được tha về, tôi sẽ nói hết sự thật cho nhân dân Pháp biết…”.
Tên quan năm Lơ–pa–dơ kéo quân từ Lạng Sơn lên
hòng cứu thoát quân địch từ Cao Bằng chạy xuống. Nhưng đến nửa đường thì đoàn
quân của y bị đánh tan và y bị tóm cổ. Anh chàng này, nói phô, kín đáo. Nhìn ra
những đội quân của ta, hàng nghìn người kìn kịt gánh lương thực và đạn dược,
liên tiếp nhau trên đường như những con rồng dài uốn khúc, y nói với một giọng
buồn bã: “Tôi nhận đó là lực lượng đã làm cho các ông thắng lợi”. Bác nói: “Ông
nói đúng. Đó chính là lực lượng đã làm cho các ông thất bại”.
Tên quan năm Sác–tông, chỉ huy quân Pháp ở Cao
Bằng, vừa bỏ tỉnh lỵ kéo cả tiểu đoàn định chạy về xuôi, đến nửa đường cũng bị
đánh tan và bắt được cả. Y là một tên phát xít hạng nặng. Vừa gặp Bác nó than
phiền ngay: “Chà ông nghĩ mấy hôm liền, râu không được cạo, giầy không được
đánh bóng…” Nó nói tiếp: “Nếu còn có Thống chế Pê-tanh cầm quyền ở Pháp, thì
chắc không xảy ra cuộc chiến tranh này. Nếu có chiến tranh thì quân đội Pháp
cũng không đến nỗi thất bại…”.
Bác không ngắt lời nó, mời nó hút thuốc và ôn
tồn khơi cho nó nói. Cuối cùng nó cũng phải nhận rằng chiến tranh xâm lược là
phi nghĩa, thực dân Pháp đã thua, quân đội ta thắng. Rồi nó nói thêm: “Như thái
độ của ông, thì tôi có thể nói chuyện. Còn các cán bộ trẻ tuổi của ông muốn
thuyết phục tôi, thì thuyết phục sao được…”
Sau khi đã xem xét các vùng Đông Khê và Thất
Khê, Bác lên thăm thị xã Cao Bằng mới được giải phóng, dặn dò cán bộ những công
việc cần phải làm, rồi lại trở về Tuyên Quang.
Trong những ngày đi đường, Bác dạy chúng tôi
học những đoạn Kim Vân Kiều và Chinh phụ ngâm,
hoặc kể chuyện đời xưa, chuyện tiếu lâm. Vừa đi vừa ngâm nga nói cười như vậy
làm cho mọi người khuây khoả, đi đường xa nhưng không mệt mỏi. Cũng có khi Bác kể
chuyện cho chúng tôi nghe. Sau đây là tóm tắt câu chuyện Bác đã kể:
Câu chuyện bắt đầu
Hồi đó Bác trọ nhà luật sư Phan Văn Trường ở
Pa-ri. Buổi sáng thì đi làm nghề tô ảnh phóng đại để lấy tiến ăn. Buổi chiều
thì hoạt động cách mạng. Chính phủ Pháp cho hai tên mật thám đêm ngày theo dõi
Bác.
Chính phủ Pháp lúc đó do Poanh–ca–rê cầm đầu. Y
là một người cực kỳ phản động. Chính y đã chủ trương đánh cách mạng Nga. Khi
quân sự đã thất bại, y chủ trương tẩy chay kinh tế Nga. Trong một cuộc tổng
tuyển cử hạ nghị viện Pháp y đã cho dán khắp cả nước bức vẽ tuyên truyền chống
cộng, dưới nhan đề là “Bônsêvích hai hàm răng ngậm dao”. Trong bức vẽ phía sau
là những ngôi nhà đang cháy ngùn ngụt! Phía trước là một người “bônsêvích” mặt
mũi dữ tợn, miệng ngậm một cái dao đẫm máu, tay xách cái đầu của một người đàn
bà… Vài năm sau, chính Poanh–ca–rê đã chủ trương chiếm đóng khu hầm mỏ Rua của
nước Đức.
Đảng Cộng sản Pháp đập lại Poanh–ca–rê một vố
cũng khá nặng. Số là Poanh–ca–rê trong khi đến thăm một nghĩa địa có hàng nghìn
mộ lính Pháp, thì Poanh–ca–rê nhăn răng cười. Đảng Cộng sản Pháp lấy được bức
ảnh đó, cho in ra hàng triệu tấm, dưới nhan đề “Poincaré qui rít” (nghĩa là
Poanh–ca–rê nó cười) và bán khắp nước Pháp. Bức ảnh đó đã gây nên một phong
trào sôi nổi chống Poanh–ca–rê.
Một buổi trưa đi làm về, một bà già giữ nhà đưa
cho Bác một bức thư. Quái! Xưa nay Bác vẫn chưa hề nhận thư gửi đến địa điểm
này. Vì đề phòng mật thám, thư từ anh em cho tin tức hoặc bàn công việc đều gửi
đến các nhà bạn quen của Bác. Mở thư xem thì ra của quan thượng thư thuộc địa
mời Bác đến gặp. Cách vài hôm sau, Bác đi gặp y.
Trong phòng khách của Bộ Thuộc địa, một bầy
người Pháp “tai to mặt lớn” đang nhô nhố chờ đến phiên mình được “quan thượng”
gọi vào. Nhưng Bác không phải chờ, vừa đến thì liền có ông già mang xiềng bằng
bạc (người truyền đạt ở các cơ quan cao cấp) mời vào ngay.
Một gian phòng rộng rãi và lộng lẫy, trưng bày
đầy những đồ xưa vật quý mang từ các thuộc địa về. Quan thượng thư, đầu sói như
quả bưởi, một mắt mang kính trắng, “uy phong lầm lẫm” ngồi chễm chệ bên một cái
bàn rất rộng và chất đầy giấy tờ. Thấy Bác vào, ông ta đứng dậy bắt tay và mời
ngồi một cách lễ độ giả dối.
Hai người ngồi đối mặt nhau.
Một người thì đại biểu của chế độ đế quốc thực
dân Pháp đang áp bức bóc lột Việt Nam.
Một người là tượng trưng của nhân dân Việt Nam
đang bị Pháp đô hộ một cách tàn nhẫn.
Y thì nắm trong tay cả quyền binh kinh tế,
chính trị, quân sự, cảnh sát, toà án, trại giam… ở các thuộc địa Pháp.
Bác là một trong 50 triệu người thuộc địa đang
bị bọn thực dân Pháp bắt làm nô lệ.
Y có quyền bắt giải Bác về Việt Nam, gắn cho
tội tuyên truyền cộng sản, rồi đưa lên máy chém. (Triều đình Việt Nam đã vâng
lệnh Pháp mà xử án Bác vắng mặt).
Bác thì chỉ dựa vào lực lượng chính nghĩa và
cảm tình của giai cấp công nhân Pháp, nhất là công nhân Pa–ri.
Hai giai cấp, hai chế độ ngồi đối mặt nhau. Thế
nhưng Bác cảm thấy ông ta sợ Bác, vì sợ cách mạng và đoán biết rằng ông ta cũng
cảm thấy Bác không sợ ông ta, vì cách mạng không sợ cái chế độ do ông ta đại
biểu.
Thượng thư thuộc địa mắt thì nhìn Bác chằm
chằm, tay thì vẽ trên bàn, miệng thì nói như phun ra lửa. Y nói đại ý như
sau:
“Hiện nay, có những kẻ ngông cuồng hoạt động ở
Pháp. Họ liên lạc với bọn “bônsêvích” ở Nga. Từ Nga họ liên lạc với Quảng Đông.
Vừa từ Quảng Đông họ liên lạc với Việt Nam. Chính phủ Pháp biết hết những dây
liên lạc đó! Họ âm mưu phá rối trật tự trị an ở Đông Dương và chống lại nhà
nước bảo hộ. Nước Mẹ Đại Pháp rất khoan hồng, nhưng sẽ không tha thứ những kẻ
gây rối loạn… Nước Mẹ Đại Pháp đủ sức để bẻ gãy họ, như thế này…”
Nói đến đó, y vẻ mặt hầm hầm, hai tay nắm lại
và làm như đang bẻ gãy những vật gì rất cứng rắn – những người cách mạng Việt
Nam…
Bác cứ giữ thái độ ung dung, mỉm cười, để mặc y
nói. Cái mỉm cười trước những lời đe doạ làm cho thượng thư hỏi: “Ngài nói xong
rồi chứ?”.
Là một nhà chính trị cáo già, ông ta đổi giọng
và nói một cách ôn tồn:
“Tôi rất thích những thanh niên có chí khí như
ông. Có chí khí là tốt, nhưng còn phải ‘thức thời’ mới ngoan. Ô này! Khi nào
ông có cần gì tôi luôn luôn sẵn sàng giúp đỡ ông. Từ nãy, chúng ta đã quen biết
nhau, ông không nên khách sáo…”
Bác nói: “Cảm ơn ngài! Cái mà tôi cần nhất trên
đời là: Đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập… Kính ngài ở lại, tôi
xin phép về.”
Trên đường về, ngồi trong xe điện dưới hầm
(Mê–tờ-rô), Bác cười trong bụng: “Con cáo già thuộc địa đã đoán trúng ý định
của mình!”.
Xa chạy cao bay
Cách mạng Tháng Mười vĩ đại có một sức lôi cuốn
kỳ diệu vô cùng. Từ khi nghe tin cách mạng xã hội chủ nghĩa thành công, Bác
liền có ý định đi Nga mặc dù lúc đó chưa hiểu hết ý nghĩa cực kỳ to lớn của
cuộc cách mạng ấy.
Hồi đó, đi Nga là một việc rất khó khăn và nguy
hiểm. Sau khi Hồng quân đã đánh lui bộ đội của 14 nước đế quốc và dẹp xong bọn
phản động trong nước, thì Nga lại bị các nước đế quốc bao vây chặt chẽ. Có
những người như nhà thơ Pháp là đồng chí Ray–mông Lơ–pho–vơ–rơ cùng mấy anh em
công nhân đã mạo hiểm bí mật đi Nga, thì bị bọn phản động quốc tế bắt và thủ
tiêu…
Nguy hiểm thì không sợ. Nhưng làm thế nào để
giải quyết các khó khăn. Trước hết, làm thế nào để vượt được đoạn đường từ
Pa–ri đến biên giới cho khỏi bị mật thám Pháp bắt lại? Làm thế nào để xuyên qua
nước Đức và nước Ba Lan.
Ngày thường gần gũi anh em công nhân, Bác biết
họ rất khảng khái. Vài thí dụ:
Trong một cuộc mít tinh ở Pa–ri, nhằm quyên góp
giúp Nga đang bị đói kém và bệnh hoạn, người diễn thuyết là bà Sơ–vơ–rin, đồng
chí Ca–sanh và đồng chí V. Cu–tuya–ri–ê. Khi nghe nói đến lạc quyên, thì trăm
người như một, trong túi có bao nhiêu trút ra quyên hết, không ai đến xem mình
quyên ít hay là nhiều. Đó là một biểu hiện đồng tình vô sản quốc tế rất cao
quý.
Một đồng chí thợ già tên là N. làm ở nhà máy
điện thường cùng Bác đi dự các cuộc mít tinh. Một hôm, khi cùng nhau từ cuộc
hội họp di về, đồng chí N. thủ thỉ nói với Bác: “Chú mày! Mình suốt đời đi lao
động, có dành dụm được chút ít tiền. Mình không vợ không con, bao giờ mình
‘nhắm mắt’ mình để số tiến đó giúp chú làm cách mạng…”
Nay muốn đi Nga, thì chỉ có một cách là nhờ anh
em công nhân giúp. Ý định như vậy rồi, Bác tìm làm quen với anh em công nhân xe
lửa. Sau nhiều ngày tìm kiếm, thăm dò, Bác đến gặp đồng chí X, làm ở đầu máy xe
lửa đi Pa–ri – Bá Linh. Nghe nói Bác muốn đi Nga, đồng chí X vui vẻ nhận giúp
ngay. Đồng chí X nói: “Được, chúng tôi sẽ giấu đồng chí ở một chỗ trên xe, bọn
mật thám cũng chẳng tìm ra được! Nhưng xe chúng tôi chỉ đi lên Bá Linh thôi…”.
Nheo mắt lại nghĩ ngợi một lát rồi đồng chí X nói tiếp: “Không sao! Tôi sẽ bàn
với anh em xe lửa Đức giúp cho đồng chí…”
Thế là bước đầu đã thành công. Nhưng khó khăn
vẫn còn không ít. Làm thế nào để bỏ rơi bọn mật thám ngày đêm theo mình như
bóng theo hình? Anh em công nhân Đức có thể giúp, nhưng công nhân Ba Lan sẽ sẵn
sàng giúp mình chăng? Và ai sẽ phụ trách tờ báo Paria [2] ?.
Các đồng chí Á – Phi người thì giúp bài, kẻ thì giúp tiền làm báo, nhưng cần có
gia đình bận bịu như mình để phụ trách mọi việc: như đi góp tiền, đi giục bài,
bí mật gửi báo đến các thuộc địa, bán báo để tuyên truyền ngay ở Pa-ri… Thật là
“ngổn ngang trăm mối bên lòng!”.
Quanh quẩn mấy tháng, kế hoạch chưa xong, thì
một hôm được Trung ương Đảng Cộng sản Pháp gọi đến và bảo: “Đồng chí sẽ được đi
dự đại hội lần thứ năm của Quốc tế Cộng sản với danh nghĩa là đại biểu dân tộc
thuộc địa”.
Tin mừng đó làm cho Bác sung sướng ngất
trời!
Bọn mật thám nắm vững “quy luật” hoạt động của
Bác: Sáng đi làm công. Chiều đến thư viện. Tối dự mít tinh. Khuya về nhà
ngủ…
Bác cũng nắm vững quy luật “hoạt động” của
chúng: Chúng chỉ theo Bác từ nhà trọ đến chỗ làm việc, đến chỗ xem sách, đến
nơi hội họp. Sau đó tin chắc rằng Bác chẳng đi đâu mất, chúng về nhà chúng để
vui thú gia đình.
Hôm đó, hai tay đút túi, Bác ung dung lên xe
buýt đi tham gia cuộc mít tinh ở ngoại ô Pa–ri. Độ nửa giờ sau, Bác lặng lẽ đi
quành về ga xe lửa. Một đồng chí tin cẩn đã chờ sẵn ở đó, trao cho Bác một vé
xe lửa hạng nhất (vì hạng nhất chỉ có những khách sang trọng, ít bị tình nghi),
và một cái va ly con. Bác cố trấn tĩnh, nhưng đến khi xe lửa qua khỏi biên giới
Pháp – Đức, trống ngực mới hết phập phồng.
Chắc chắn là bọn mật thám phụ trách gác Bác sẽ
được quan thượng thư thuộc địa “thưởng” cho một mẻ nên thân. Mà chính quan
thượng thư cũng tức mình đến “ung thư phát bối”.
Khi đi qua địa phận Đức bị quân Pháp chiếm
đóng, thì thấy lại những cảnh tượng thực dân. Đối với người Đức, bọn quân phiệt
Pháp ở đây cũng vênh váo lên mặt, làm mưa làm gió, y như bọn Pháp ở nước ta… Có
mấy người thương binh Pháp lên nhầm toa xe hạng nhất, liền bị một tên quan sáu
Pháp khua ba–toong đuổi xuống xe…
Tuy sau chiến tranh đã sáu năm, ở Bá Linh vẫn
đói kém dữ (có lẽ ở các nơi khác cũng vậy). Người nào cũng có vẻ xanh xao, vàng
vọt! Nạn lạm phát giấy bạc thật là kinh khủng, sớm một giá khác, chiều một giá
khác. Đưa giấy bạc mua một tờ báo thì số giấy bạc chắp nhau lại, rộng hơn tờ
báo. Cả gia tài bác chỉ vẻn vẹn hơn 1.000 quan Phơ–răng, vậy mà tính ra tiền
Đức, Bác đã trở thành người giàu bạc triệu!
Tổ quốc cách mạng
Bác đến Nga vào mùa đông. Mọi vật đều bị tuyết
phủ trắng xoá như một thế giới bằng bạc. Có ngày rét đến 42 độ dưới 0.
Đại hội Quốc tế Cộng sản hoãn chưa khai, vì
Lê–nin còn ốm nặng.
Hôm 21-1-1924, một cơn gió thảm mưa sầu đã chấn
động toàn thể nhân dân Nga, cũng như nhân dân lao động và dân tộc bị áp bức cả
thế giới: Lê–nin, người thầy, người bạn, người đồng chí kính yêu của chúng ta
mất rồi!
Cuối tháng 8–1918, trong lúc đến nói chuyện ở
một cuộc mít tinh của công nhân nhà máy tại thành phố Pe–tec–bua (nay là
Lê–nin–gờ-rát) Lê–nin bị một tên phản động bắn bị thương nặng. Từ đó về sau,
Lê–nin thường bị yếu, nhưng vẫn cố gắng làm việc đến hơi thở cuối cùng.
Nghe tin buồn đó, nhiều người oà lên khoác. Bác
cũng khóc. Kể sao cho xiết tình thương tiếc không bờ bến của những người lao
động đối với người thầy cách mạng vĩ đại ấy. Biến thương xót thành hành động!
Lê–nin mất, nhưng ngọn cờ chủ nghĩa Lê–nin có Đảng Bônsêvích anh hùng nắm vững
lá cờ và có hàng triệu người cộng sản khắp thế giới giương cao. Để tỏ tình đoàn
kết chặt chẽ và nhiệt liệt ủng hộ Đảng của Lê–nin, hơn 24 vạn công nhân Nga lúc
đó đã xin vào Đảng.
Bốn năm chiến tranh thế giới lần thứ nhất và
năm năm nổi loạn, ngoại xâm đã phá hoại nền kinh tế Nga một cách cực kỳ nặng
nề. Như so với năm 1913 (tức là năm trước chiến tranh), thì năm 1920:
Công nghiệp nặng nói chung bảy phần chỉ còn
một:
Nghề đúc sắt chỉ còn 3% (116.000 tấn);
Than chỉ bằng 1/3;
Dầu lửa chỉ bằng 2/5;
Nghề dệt vải chỉ còn 5%, phần mỗi người không
đầy một thước.
Cuối năm 1924, đầu năm 1925, tuy kinh tế đã
bước đầu khôi phục, nhưng mức sản xuất vẫn còn kém. So với năm 1913 thì:
Tổng sản lượng công nghiệp mới đạt ba phần
tư,
Sắt mới đạt một phần ba,
Gang mới đạt một phần hai,
Giao thông vận tại mới đạt bốn phần năm.
Trong nước vẫn còn hơn mười vạn người thất
nghiệp.
Từ năm 1928 bắt đầu kế hoạch năm năm lần thứ
nhất, rồi bắt đầu hợp tác hoá nông nghiệp. Nhờ sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng
Cộng sản và tinh thần hăng hái thi đua của nhân dân trong khoảng mươi năm, kinh
tế Liên Xô đang tiến lên vùn vụt thì năm 1940, phát xít Đức lại gây ra cuộc
Chiến tranh Thế giới lần thứ hai. Giữa năm 1941 chúng tiến công Liên Xô. Trong
gần năm năm, chúng đã tàn phá của Liên Xô;
1.710 thành thị,
32.000 xí nghiệp
70.000 nông thôn…
Nhắc lại những khó khăn trong thời kỳ trước, để
so sánh với những thành tích ngày nay, càng thấy rõ sự cố gắng và sự thắng lợi
của Liên Xô vô cùng vĩ đại.
Ngày Bác đến Mốt–cu lần đầu tiên, điều kiện đời
sống ở Liên Xô cũng đang rất khó khăn. Những thứ cần dùng hàng ngày như: bánh
mì, bơ, thịt, đường, vải, v.v. đều bị hạn chế. Một thí dụ: Người Liên Xô quen
uống nước chè với đường, nhưng lúc đó đường rất khan hiếm. Năm thì mười hoạ mỗi
gia đình mới được mua chút ít. Người ta phải dùng Xa–kha–rin (một chất hoá học
hơi ngòn ngọt) thay thế cho đường. Nhân dân phải nhịn những thứ của ngon vật
quý để đưa ra nước ngoài đổi lấy máy móc cho công việc xây dựng. Nhà ở cũng
thiếu thốn… Tuy vậy không ai than phiền oán trách; trái lại mọi người đều cố
gắng để vượt qua khó khăn để ra sức xây dựng.
Có thể nói: Hồi đó mức sống của người lao động
Liên Xô và của người lao động Đức cũng kham khổ như nhau. Nhưng có những điều
tuyệt đối khác nhau, giữa nhân dân hai nước:
- Người Đức phải tự nhận mình là kẻ thua trận trong cuộc
chiến tranh, người Liên Xô thì tự hào mình đã thắng lợi trong cuộc cách
mạng xã hội chủ nghĩa. Người Đức thì buồn rầu. Người Liên Xô thì phấn
khởi.
- Nhân dân Đức rất cực khổ, nhưng bên cạnh họ thì bọn
thống trị Đức và bọn tư sản nước ngoài sống một cách cực kỳ xa hoa. Nhân
dân Liên Xô thì từ trên xuống dưới đều đồng cam
cộng khổ, thắt lưng buộc bụng, đoàn kết phấn đấu, để xây dựng nước nhà,
xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Do đó, người Đức sống trong một bầu không khí
ảm đạm mịt mù. Người Liên Xô thì hăng say lao động và trông thấy trước mắt một
tương lai hạnh phục rực rỡ.
Còn bản thân Bác cũng có sự thay đổi lớn. Từ
một công nhân nghèo ở Pa–ri sang đến Đức thoắt trở nên một người “triệu phú”.
Từ một người có bạc triệu ở Đức sang đến Liên Xô lại trở nên một thành viên
chân chính, một người anh em ruột thịt trong đại gia đình vô sản quốc tế. Bác
nói: “Từ bé đến lớn chưa bao giờ thấy trong mình tự do, khoan khoái và sung
sướng như lúc bấy giờ. Tuy vậy, chỉ mong đại hội quốc tế sớm họp, để sau đại
hội thì được đi hoạt động”. Trong khi chờ đợi, Bác cố gắng học hỏi và xem
xét.
Một hôm Bác cùng mấy đồng chí người châu Phi đi
thăm một trại nhi đồng có độ 300 em. Mặc dù trong hoàn cảnh thiếu thốn, nhi
đồng được đặc biệt săn sóc về mặt vật chất. Về mặt tinh thần, các em cũng rất
khôn. Cùng sáng hôm đó có mấy người viết báo Anh và Pháp đến thăm trại. Đối với
họ các em giữ đúng lễ độ. Họ hỏi câu gì, các em trả lời câu ấy thế thôi. Các em
không thích chuyện trò thân mật với những người “buốc dôi” (tư bản).
Nhưng khi thấy Bác và các đồng chí châu Phi
đến, thì các em vui vẻ chạy ùa ra như một đàn chim để hoan nghênh nhiệt liệt
các chú, các bác cộng sản.
Một em gái độ sáu bảy tuổi, đẹp và ngoan khẽ
hỏi Bác: “Chú ơi chú, mặt mũi bọn đế quốc ra thế nào? Chắc nó xấu lắm nhỉ? Cháu
nghe các anh chị nói: Chúng hành hạ cả trẻ con Việt Nam, cháu ghét chúng nó
lắm!... Bao giờ về nước, nhờ chú chuyển những cái hôn của các cháu cho các bạn
Việt Nam nhé!". Nói xong em ôm choàng hôn Bác và mắt em hơi ướt vì cảm
động.
Tháng 6–1924, Đại hội lần thứ năm của Quốc tế
Cộng sản họp ở Mốt–cu có đại biểu của 49 đảng cộng sản đến dự.
Trong đại hội, vấn đề quan trọng nhất là phân
tích tình hình thế giới: Hồi đó, chủ nghĩa tư bản đang đi vào thời kỳ ổn định
tương đối và tạm thời. Các đảng xã hội thuộc Quốc tế thứ hai đi đầu hàng giai
cấp tư sản. Có đảng cộng sản đã phạm một số sai lầm trong phương pháp hoạt
động… Vì vậy, đại hội đặc biệt nhấn mạnh vấn đề Mặt trận thống nhất giữa hàng
ngũ công nhân, và yêu cầu các đảng cộng sản theo đúng chủ nghĩa bônsêvích về
các mặt tư tưởng, tổ chức và sách lược…
Phát biểu ý kiến, Bác trình bày trước đại hội
tình hình chung của các nước đế quốc và các nước thuộc địa, cùng tình hình
riêng của Đông Dương; nêu những việc các đảng cộng sản đã làm được và những
điều thiếu sót đối với phong trào cách mạng ở các thuộc địa. Kết luận, Bác đề
ra năm yêu cầu đối với Đảng Cộng sản Pháp.
- Báo Đảng thường xuyên đăng những bài về vấn đề thuộc
địa;
- Tăng cường tuyên truyền và kết nạp vào Đảng những phần
tử cốt ở những thuộc địa có chi bộ Đảng;
- Gửi một số đảng viên ở các thuộc địa đến Mốt–cu
học;
- Tổng công hội (thống nhất) Pháp kết nạp những công nhân
thuộc địa ở Pháp vào hội, để giáo dục họ;
- Đặt nhiệm vụ cho các đảng viên phải quan tâm hơn nữa
đến vấn đề thuộc địa.
Sau đại hội, những vấn đề đó đều được thực hiện
dần dần.
Câu chuyện đến đó, thì trời vừa trưa, bụng cũng
đói, Bác bảo: “Phía tay phải đường kia có hang đá. Các chú xem thử có đúng
không?”. Chúng tôi chạy đến xem, quả nhiên có một cái hang khá rộng, trông ra
xung quanh thì “sơn thuỷ hữu tình”. Vào hang tạm nghỉ, chúng tôi hỏi sao mà Bác
đoán biết ở đây có hang? Bác nói: “Những ngày hoạt động bí mật ở vùng Pác Bó,
thường đi tìm hang làm địa điểm, cho nên trông thấy ở đâu có rặng cây và mỏm đá
hơi khang khác thì đoán biết ở đó có hang."
Chúng tôi dọn cơm nắm ra ăn. Vừa ăn được nửa
chừng, bỗng nghe tiếng máy bay địch từ phía xuôi lên. Chúng tôi trèo lên núi
xem, thấy cả ba chiếc. Chúng lượn quanh mấy vòng, rồi thay phiên nhau thả bom
và bắn liên thanh xuống đường cái. Vì chung quanh nhiều rừng núi, tiếng động cơ
tiếng bom và tiếng súng dội lên ầm ầm, long trời chuyển đất. Mười phút sau, thả
hết bom, bắn hết đạn, chúng lại chuồn về xuôi.
Trận bắn phá ấy có vẻ hung tợn lắm, nhưng không
có kết quả gì. Khi nghe máy bay địch đến, đồng bào dân công kéo nhau đi tạt vào
rừng, ngồi nghỉ chờ máy bay địch đi rồi, đồng bào lại ra đường, không chút sợ
hãi. Có người còn rủa địch: “Bố tiên sư nó! Nếu ngày nào chúng cũng lên, thì càng
tốt, chúng sẽ tốn nhiều đạn, nhiều bom, nhiều xăng”…
Chúng tôi đi một đoạn thì gặp một đội thanh
niên đang lấp hố bom, sửa lại đường. Bác hỏi: “Các cháu có sợ máy bay?”. Một cô
thanh niên vừa cuốc đất vừa nhanh nhảu trả lời: “Thưa không ạ, các cháu quen
rồi, cuốc xẻng của chúng cháu đã nhiều lần thắng máy bay của giặc…”
Trước khi Bác tiếp tục kể chuyện, anh Thành đề
nghị: “Nếu Bác kể cho nghe những hoạt động bí mật của Bác thì chắc là thú vị
lắm”.
Không đồng ý với anh Thành, bác sĩ Chân nói:
“Đã là bí mật thì không nên nói công khai. Anh em cách mạng ở các nước khác có
thể còn dùng những cách bí mật đó. Nói ra không lợi”.
Bác bảo: “Chú Chân nói đúng. Thôi, để Bác kể
những chuyện không bí mật vậy”.
Sau Đại hội lần thứ năm của Quốc tế Cộng sản,
Bác còn dự các cuộc Đại hội Quốc tế Công hội đỏ, Quốc tế Nông dân, Quốc tế Phụ
nữ, Quốc tế Thanh niên, Quốc tế Cứu tế đỏ.
Ở Đại hội Quốc tế Phụ nữ, Bác đã gặp nhiều nữ
đồng chí Bônsêvich, trong đó có đồng chí Cơ–rúp–scai–a (vợ Lê-nin). Đồng chí
Cờ-rúp–scai–a rất chất phác, hiền lành, khiêm tốn và nói tiếng Pháp rất thành
thạo. Đồng chí ân cần hỏi Bác về phong trào phụ nữ Việt Nam và nói cho Bác nghe
về một số kinh nghiệm về việc hoạt động phụ nữ. Hồi đó đồng chí làm Bộ trưởng
Bộ Giáo dục.
Sau các cuộc Đại hội đó, Bác bí mật sang Trung
Quốc. Lúc đó, Trung Quốc đang ở trong tình trạng lộn xộn. Ở miền Bắc bọn quân
Phiệt Ngô Bội Phu, Đoàn Kỳ Thuỵ, Trương Tác Lâm… do các nước đế quốc giật dây –
đang đánh nhau lung tung. Ở miền Nam Quốc dân Đảng của cụ Tôn Trung Sơn và Đảng
Cộng sản đang hợp tác chặt chẽ, do đó mà phong trào cách mạng đang lên cao.
Chính phủ cách mạng (Quốc dân Đảng) đóng ở Quảng Châu đang chuẩn bị tiến quân
về phía Bắc.
Bác về đến Quảng Châu thì may lại gặp các đồng
chí Chu Ân Lai, Lý Phú Xuân, Thái Xướng (vợ đồng chí Lý), và nhiều đồng chí
khác mà Bác đã quen biết lúc ở Pháp. Đồng chí Mao Trạch Đông hồi đó phụ trách
trường huấn luyện nông dân. Đồng chí Lưu Thiếu Kỳ phụ trách phong trào công
nhân. Đồng chí Bành Bái phụ trách tổ chức nông dân.
Thiên hạ đều biết rõ hoạt động cách mạng của
các đồng chí lãnh đạo Trung Quốc. Đây Bác chỉ tóm tắt kể chuyện đồng chí Bành
Bái. Tuy xuất thân từ một nhà địa chủ phong kiến kếch xù, đồng chí Bành là một
trong những người lập nên Đảng Cộng sản Trung Quốc. Trước đó đồng chí đã vận
động và tổ chức nông dân ở vùng Hải Lục Phong. Đầu tiên đồng chí vận động những
tá điền của bố mình đòi giảm tô, giảm tức, vì vậy mà bị ông cụ ghét bỏ thậm tệ.
May nhờ bà cụ cưng con và cô em gái thương anh, mà đồng chí Bành tiếp tục hoạt
động được.
Trong thời kỳ đầu, đồng chí Bành đã gặp nhiều
thất bại như: mặc áo Tây đến nhà nông dân, họ tránh không chịu gặp vì họ nghĩ
“cậu ấm” đến đòi nợ cho bố. Vì hay nói chữ, nông dân nghe không hiểu. Vì gặp
phụ nữ cũng nói chuyện, bị nông dân ghen, v.v… Mỗi lần thất bại, đồng chí đều
có tìm ra nguyên nhân và sửa chữa ngay. Nhờ có quyết tâm và chịu khó, chẳng bao
lâu đồng chí đã tổ chức được nông hội khắp hai huyện đã dùng súng ống đánh nhau
với những địa chủ ngoan cố… Khi Quốc dân Đảng phản bội cách mạng, nông hội Hải
Lục Phong vẫn đứng vững và đã che chở được nhiều cán bộ bí mật. Công xã Quảng
Châu thất bại, đồng chí Bành vâng lệnh Đảng lên hoạt động bí mật ở Thượng Hải,
bị bắt và đã oanh liệt hy sinh.
Ở Quảng Châu, Bác vừa làm phiên dịch cho đồng
chí Bô–rô–đin, cố vấn Liên Xô bên cạnh chính phủ cách mạng Quốc dân Đảng, vừa
phụ trách mục tuyên truyền trong tờ báo Canton Gazette – báo
bằng chữ Anh của Trung ương Quốc dân Đảng.
Đến Quảng Châu được ít lâu, Bác cùng các đồng
chí Lê Hồng Phong, Hồ Tùng Mậu, Lê Tản Anh… tổ chức Việt Nam Thanh niên Cách
mạng Đồng chí Hội, chuẩn bị nền tảng cho việc tổ chức Đảng Cộng sản sau này.
Với sự giúp đỡ của các đồng chí Trung Quốc, hội bí mật đưa một số thanh niên
trong nước đến Quảng Châu học ở lớp huấn luyện chính trị. Hội ra một tờ
báo Thanh niên in bằng giấy sáp, bí mật gửi về trong nước để
tuyên truyền.
Thế là lời đoán mò cách đây mấy năm trước của
“quan thượng thư thuộc địa Pháp” đã thực hiện: Phong trào cách mạng từ Pa–ri
sang Mốt–cu, từ Mốt–cu sang Trung Quốc, từ Trung Quốc sang Việt Nam.
Được các đồng chí Trung Quốc đồng ý, Bác tổ
chức “Á châu bị áp bức dân tộc liên hiệp Hội”, hội này có người Việt Nam, người
Trung Quốc, người Ấn Độ, người Triều Tiên, v.v… tham gia khá đông và hoạt động
khá mạnh. Cụ Liêu Trọng Khải được bầu làm hội trưởng, Bác làm bí thư.
Trong thời kỳ đó, ở Hương Cảng nổ ra cuộc tổng
bãi công. Các nhà máy, các bến tàu, các trường học, các chợ búa đều bãi công,
bãi thị, bãi khoá. Nông dân chung quanh Hương Cảng thì bị cấm nghiêm ngặt không
để tiếp tế lương thực cho người Anh. Đời sống của thực dân Anh bị tê liệt hẳn.
Nhiều người Anh và người nước ngoài khác đã cuốn gói Hương Cảng. Cuộc bãi công
gần đến thắng lợi hoàn toàn thì phải chấm dứt, vì bọn Tưởng Giới Thạch
phản.
Từ năm 1925 đến đầu năm 1927, phong trào cách
mạng chung tiến rất thuận lợi. Ở Trung Quốc thì quân “Bắt phạt” Quảng Đông đánh
đâu thắng đó. Họ đã lấy được Thượng Hải, Nam Kinh và đang tiến thẳng lên Hoa
Bắc. Phong trào công nhân nông dân, học sinh rầm rộ khắp nơi. Ở Việt Nam, thì
nhiều thanh niên được huấn luyện ở Quảng Châu đã trở về nước và hăng hái hoạt
động bí mật ở nhà máy, nông thông, ở trường học từ Bắc đến Nam.
Vào khoảng đầu năm 1927, bọn Tưởng Giới Thạch
phản bội cách mạng, thẳng tay khủng bố. Đảng Cộng sản và các đoàn thể quần
chúng đều phải đi vào bí mật. Hội Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội”
cũng vậy. Bác cũng phải bí mật rời khỏi Quảng Châu.
Sau ngày Cách mạng Tháng Mười Nga thành công,
cụ Tôn Trung Sơn thấy rõ rằng cuộc cách mạng Tân Hợi (1911) chưa phải đã thắng
lợi. Tuy Trung Quốc đã xoá bỏ chế độ vua chúa nhưng vua Mãn Thanh vẫn giữ “tiểu
trào đình” ở Bắc Kinh, bọn đế quốc vẫn hoành hành, bọn quân phiệt vẫn chia nhau
thống trị, công nhân và nông dân vẫn bị áp bức bóc lột như xưa. Cụ bèn chấn
chỉnh lại Quốc dân Đảng và định ra ba chính sách lớn là: thân Nga, thân cộng,
giúp đỡ công nông. Từ đó, lực lượng cách mạng ở Quảng Đông ngày càng phát
triển.
Cuối năm 1924, cụ Tôn Trung Sơn lên Bắc Kinh
đàm phán với các nhóm chính trị nhằm tìm cách thống nhất Trung Quốc. Chẳng may
cụ ốm và chết trước khi khai mạc hội nghị. Bọn Tưởng Giới Thạch và Uông Tinh Vệ
lên nắm quyền lãnh đạo Quốc dân Đảng và đến năm 1927, chúng ra mặt phản cách
mạng. Cuộc “Quốc cộng hợp tác” lần thứ nhất tan rã. Nội chiến bắt đầu. Đảng
Cộng sản đã tổ chức Hồng quân, lập chính quyền Xô Viết ở những vùng mình chiếm
được. Đến năm 1931, Nhật Bản xâm lược Trung Quốc. Bọn Tưởng Giới Thạch muốn
thoả hiệp đầu hàng. Đảng Cộng sản kêu gọi chấm dứt nội chiến để toàn dân chống
Nhật. Dưới sức ép của nhân dân, Quốc dân Đảng buộc phải đồng ý cuộc “Quốc cộng
hợp tác” lần thứ hai, nhưng bọn Tưởng-Uông vẫn có âm mưu “dùng Nhật diệt
cộng.
Chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ. Năm
1945 trước thế tiến công “như chẻ tre” của Hồng quân Liên Xô, Nhật Bản thất bại
phải đầu hàng và chuồn khỏi Trung Quốc. Đế quốc Mỹ giật dây, Tưởng quay lại
chống cộng. Nội chiến lại bùng nổ. Sau năm năm chiến đấu vô cùng gian khó và
anh dũng, Đảng Cộng sản đã tiêu diệt năm triệu quân của Tưởng, đuổi đế quốc Mỹ
ra khỏi Trung Quốc, và thành lập nước Trung Hoa Dân chủ Cộng hoà.
Hôm ấy mới bốn giờ chiều, nhưng đã đi được ngót
40 cây số. Bác và chúng tôi vào nghỉ ở một xóm đồng bào Nùng.
Chúng tôi đang mở ba lô sắm sửa nấu ăn, thì
bỗng nghe đồng bào trong xóm bảo nhau: “Ra xem tù binh! Ra xem tù binh!” Chúng
tôi cũng theo ra xem.
Một tốp hơn một trăm tên vừa quan vừa lính của
tiểu đoàn Sác-Tông, do một tiểu đội ta giải đi, đang kéo qua làng. Số đông
chúng chỉ mặc áo lót, quần lót, vì trước đây vài hôm, chúng đã bị quân ta đánh
úp, không kịp trở tay, cũng không kịp mặc áo. Tên nào cũng mặt mày khờ khạo,
râu ria xồm xoàm. Có tên dù không bị thương cũng đã đi cà nhắc. Bao nhiêu “khí
thế yêng hùng” của bọn lê dương của “quân đội đại Pháp” đều biến mất hết. Trước
kia chúng ngang tàng dữ tợn bao nhiêu, thì bây giờ chúng càng mếu máo tiều tuỵ
bấy nhiêu, chúng đã trở nên một đàn người chẳng nên người, ngợm không ra
ngợm.
Trong đám chúng có một tên ở trần, áo lót cũng
không có. Hoàng hôn ở vùng rừng thì trời bắt đầu rét, nó chạy co ro. Chạnh lòng
thương hại, Bác cởi vất cho nó một cái áo. Nó chắp tay vái và miệng lẩm bẩm:
“Cám ơn ngài! Cám ơn ngài!” Bác bảo nó: “Thôi, đi đi!”.
Anh em bộ đội cho biết rằng: bọn tù binh Pháp
sợ hãi ghê lắm. Chúng sợ chết. Theo chính sách của Đảng và Chính phủ, ta đối
đãi tù binh một cách nhân đạo. Nhưng ta cho chúng ăn uống khá, thì chúng sợ
rằng “Việt Minh nuôi cho béo, rồi mới giết”. Sau khi giải thích cho chúng hiểu
chiến tranh xâm lược là phi nghĩa, Việt Nam nhất định thắng, thực dân nhất định
thua - ta thường thả một số tù binh. Được thả chúng cũng sợ rằng “Việt Minh sẽ
phục kích chúng trong rừng để khỏi phải nuôi tốn gạo”. Sở dĩ như vậy là vì
chúng đã bị thực dân tuyên truyền nhồi sọ: “Lính Pháp thà chết còn hơn, nếu lọt
vào tay Việt Minh thì sẽ bị móc mắt, cắt tai, chặt đầu, mổ bụng…”.
Những tù binh được ta thả, về đến đơn vị chúng
bị nhốt lại rồi tống về Pháp ngay. Bọn chỉ huy Pháp sợ họ tuyên truyền chống
chiến tranh.
Dù sao, chính sách nhân đạo của ta đã có ảnh
hưởng tốt, nhất là đối với binh lính người châu Phi. Từ khi họ biết ta đối đãi
tốt những tù binh người Phi, thì trong các cuộc càn quét, họ không hung ác như
trước, có khi họ còn tỏ đồng tình với đồng bào ta…
Tối hôm nay chúng tôi nghỉ ở nhà cụ Thèng, đồng
bào Nùng. Nhà sàn rộng rãi, sạch sẽ, nhưng trống trải. Như để trả lời câu hỏi
mà chúng tôi chưa thốt ra, cụ Thèng nói: Vùng này đồng bào triệt để làm “vườn
không, nhà trống”. Của cải lương thực đều đưa hết vào lán trong rừng, phòng
giặc Pháp cướp phá. Bây giờ giặc thua rồi, ta thắng rồi, đồng bào bắt đầu dọn
về nhà…
Cụ Thèng đã ngoài 60 tuổi, nhưng vẫn mạnh khoẻ
và nhanh nhẹn. Qua câu chuyện, chúng tôi được biết rằng cả nhà này đều tham gia
kháng chiến. Cụ Thèng là phó đội trưởng du kích xã. Cụ bà là “mẹ chiến sĩ”. Anh
cả đã hy sinh oanh liệt trong trận đầu tiên trên đường số 4. Anh hai và anh ba
đang ở bộ đội. Hai cô dâu đều là đội viên dân quân du kích. Cô Kim con gái thứ
tư làm y tá, rất gan dạ trong khi cứu chữa thương binh, đã được khen thưởng
nhiều lần. Con trai thứ năm là em Pồn, mười ba tuổi và con gái út là em Hoà
mười tuổi, đều làm “Liên lạc viên”.
Thật là “một nhà trung hiếu, muôn thuở thơm
danh!”. Độ bẩy giờ tối, ông cụ mang súng đi tuần, Pồn và Hoà đi học, tay cặp
sách, tay xách đèn, cái đèn thắp dầu hoả, làm bằng lọ mực. Khắp vùng này cũng
như nhiều nơi khác, để tránh máy bay địch, trường học chỉ vào ban đêm. Khoảng
bảy giờ tối, từng toán nhi đồng dắt nhau đi học, em nào cũng xách một cái đèn.
Từ xa trông lại, hàng chục cái đèn biến thành một con rồng lượn trên đồng lúa,
nương bông. Vừa vui mắt vừa cảm động. Cảm động vì gặp hoàn cảnh khó khăn mấy,
con em ta cũng vẫn cố gắng học.
Cũng như thường lệ, sáng hôm sau, chúng tôi dậy
sớm (cả nhà cụ Thèng đã đi công tác từ lâu), nấu cơm gói vào mo cau để ăn trưa.
Bác cháu mỗi người ăn một bát lót bụng rồi thong thả lên đường.
Ở vùng này, lúc hoàng hôn và lúc tảng sáng,
phong cảnh rất nên thơ. Gió rừng thổi vi vu làm cho các cành cây đu đưa một
cách nhẹ nhàng yểu điệu. Mặt trời chênh chênh rọi xuống, biến ức triệu giọt
sương trên lá cây ngọn cỏ thành những hạt ngọc nhấp nháy, lung linh. Những con
suối trong vắt chảy róc rách, hoạ vần với giọng ca líu lo của hàng nghìn, hàng
vạn chim rừng. Nhiều khi ngửi thấy mùi thơm của hoa và nhựa cây từ xa bay đến,
phảng phất và nhẹ nhàng. Trên trời xanh biếc có vài đám mây trắng đủng đỉnh
bay, giống hệt những chiếc thuyền buồm khoan thai lướt trên mặt biển. Bên ven
rừng, hàng vạn con bướm nho nhỏ vàng vàng bay phấp phới như muốn thi đua với
khách đi đường. Như để làm cho phong cảnh thiên nhiên càng thêm màu, thêm vẻ,
mấy chú bé cưỡi trên lưng những con trâu béo núc na núc ních, em thì hò hát, em
thì giở sách chăm chú ôn lại bài học tối hôm qua. Khó mà nói đó là bài thơ
trong bức vẽ, hay là bức vẽ trong bài thơ.
Trong những lúc đó, nếu không gặp những tốp tù
binh Pháp, không gặp những đơn vị bộ đội ta đang phấn khởi tiến lên mặt trận và
đồng bào dân công đang hăng hái vận tải tiền tệ - thì người ta có cảm giác đang
sống trong một thế giới thanh bình!
Tiếp tục câu chuyện hôm qua, Bác nói: “Tuy bọn
Quốc dân Đảng khủng bố tợn, Bác vẫn nán ở lại Quảng Châu một thời gian, vì Bác
cần bí mật liên lạc với đồng chí Trung Quốc và cần duy trì công việc của Hội
“Thanh niên Cách mạng Đồng chí”. Nhưng một đêm đã canh khuya, vào đầu tháng
5/1927, đồng chí Lĩnh (người Việt Nam, tốt nghiệp tại trường Quân quan Hoàng
Phố, làm việc ở Sở Công an) đến báo tin: “Chúng sắp bắt anh đấy! Tính thế nào,
anh phải tính nhanh đi!”, “36 chước, chước chuồn là hơn”, Bác liền bí mật đi
Hương Cảng.
Đến Hương Cảng bị sở mật thám Anh xét hỏi. Cũng
như đối với mật thám Pháp, mật thám Ý, lần này gặp mật thám Anh, Bác cũng đối
phó xong xuôi, dù lần này khó khăn hơn nhiều. Chúng bảo Bác phải rời khỏi Hương
Cảng trong 24 giờ.
Lên Thượng Hải, bọn Quốc dân Đảng cũng khủng bố
gắt. Để che mắt mật thám, Bác mặc thật bảnh, ở khách sạn thật sang. Nhưng mưu
mô ấy không thể kéo dài, tốn tiền quá.
Chỉ còn một cách là chạy về Tổ quốc cách mạng -
chạy về Liên Xô. Bác làm việc một thời gian ở Mốt-cu và ở Bá Linh rồi ở Pa-ri.
Cố nhiên lần này không đến gặp quan thượng thư thuộc địa và phải hết sức khéo
léo lánh mặt những người “bạn” mật thám Pháp đã quen thuộc năm xưa… Bác được
phái đi dự cuộc hội nghị quốc tế “chống chiến tranh đế quốc” ở Bơ-rúc-xen, thủ
đô nước Bỉ. Đến ga xe lửa thì Bác gặp đồng chí Xan Ca-ta-da-ma, người sáng lập
Đảng Cộng sản Nhật. Vì tuổi già đồng chí được đoàn thể cấp cho vé xe hạng nhất.
Khi thấy Bác đi hạng ba, mặc dù Bác khẩn khoản mời đồng chí cứ đi hạng nhất cho
khoẻ khoắn, đồng chí Xan Ca-ta-da-ma là một người thợ nhiều nghề, đấu tranh đã
nhiều, lênh đênh không ít, tính rất kiên quyết đồng thời rất hiền lành.
Đến dự hội nghị, có nhiều đại biểu các nước
thuộc địa và đại biểu mấy đảng cộng sản các nước đế quốc. Ở hội nghị Bác có gặp
người chiến sĩ lão thành yêu nước là cụ Nê-ru, thân sinh của Thủ tướng
Nê-ru.
Sau hội nghị ít lâu, Bác đi Thuỵ Sĩ, sang Ý để
dần dà đi về Tổ quốc.
Thuỵ Sĩ là một nước nhỏ, chỉ rộng hơn 41.000
cây số vuông, với hơn năm triệu dân. Vì ở vào giữa ba nước Pháp, Đức, Ý cho nên
người Thuỵ Sĩ nào cũng biết ba thứ tiếng: nói chung thì trình độ văn hoá khá
cao. Phong cảnh rất đẹp, có núi An-pơ cao hơn 4.000 thước và tuyết phủ suốt
đời. Có hồ Giơ-ne-vơ mênh mông, dài 70 cây số, rộng 12 cây số, sâu hơn 800
thước, v.v… Mỗi năm có hàng chục vạn người nước ngoài đến thăm, “lữ hành” là
một nguồn lợi lớn, được coi như một công nghiệp.
Hồi đó, Ý đang bị bọn phát xít Mút-xô-li-ni
thống trị. (Mút-xô-li-ni cướp chính quyền năm 1922, bị nhân dân xử tử năm
1945). Ở các hiệu môn, các trường học, các cơ quan, các nhà tù, hai bên đường…
nơi nào cũng treo ảnh Mút-xô-li-ni với những cái mũ khác nhau. Khi thì như đô
đốc hải quân. Khi thì như đại nguyên soái. Khi thì như tổng tư lệnh không quân.
Khi thì như quận công thủ lĩnh tối cao của đảng phát xít… Nhưng bộ mặt vênh
vang dễ ghét thì bao giờ cũng không thay đổi.
Khi thấy Bác xin giấy phép đi qua nước Ý, cơ
quan phát xít hỏi nhiều câu lôi thôi. Đến biên giới công an biên phòng phát xít
giở xem quyển “từ điển chống cộng quốc tế” dày khoảng 2.000 trang, ghi tên tuổi
những người cách mạng (tiếp trang 31) các nước từ chữ A đến chữ Z. Không thấy
tên mới của Bác trong đó, chúng chào lễ phép và nói: “Mời ông cứ đi!”.
Đến phía Bắc nước Ý, Bác ghé vào xem hội chợ ở
Mi-lan, một thành phố buôn bán phồn thịnh nhất nước Ý. Ở đó có một cái tháp
cao, ai muốn lên tháp xem phong cảnh chung quanh thì phải mua vé. Bác chào ông
cụ già gác tháp và hỏi bằng tiếng Ý: “Sao cụ, đời sống thế nào?”. Nhìn trước
nhìn sau không có ai, ông cụ thở dài và nói: “Ôi khổ lắm ông ạ. Biết bao giờ sẽ
chấm dứt chế độ này…!”.
Khi đi xem phong cảnh thủ đô Rôm, Bác bị hỏi
giấy và bị đưa về sở công an. Cũng nhờ bị bắt mà Bác hiểu thêm cách thống trị
của phát xít. Trên các đường phố, cứ cách độ 100 thước, thì có một tên mật
thám. Cách 500 thước thì có một tên tổ trưởng mật thám. Tên mật thám hỏi giấy
và bắt Bác hầu như mù chữ. Tại sở mật thám, chúng ra vẻ rất lễ độ. Tên trưởng
phòng đứng dậy bắt tay Bác mời Bác ngồi và mời Bác hút thuốc, rồi hỏi những câu
bâng quơ. Người ít kinh nghiệm thì dễ rơi vào cạm bẫy của chúng…
Rôm là một thủ đô khá đẹp, với khoảng hai triệu
nhân dân, có nhiều di tích lịch sử gần 3.000 năm. Hầu như đường phố nào cũng có
một nhà thờ Công giáo, hoặc to, hoặc nhỏ. Thành phố xa hoa, nhộn nhịp “ngựa xe
như nước, áo quần như nen”. Nhưng người thường dân thì cực khổ, vì giá sinh
hoạt thì đắt đỏ, và thuế khoá nặng nề. Ngủ khách sạn một đêm cũng phải nộp
thuế. Ăn một đĩa súp cũng phải nộp thuế. Đi xem chiếu bóng cũng phải nộp thuế.
Một bạn công nhân Ý nói khẽ với Bác: “Người Ý từ lúc còn ở trong bụng mẹ cho
đến sau khi vào quan tài, động một chút là phải nộp thuế!”.
Bên cạnh Rôm có thành phố Va-ti-can, là cung
điện của Giáo hoàng, đại bản doanh của đạo Thiên chúa. Ở đó có nhiều nhà thờ và
lâu đài rất nguy nga đồ sộ. Bộ đội của Giáo hoàng canh gác nơi đây vẫn ăn mặc
như lính phong kiến cách đây hơn 300 năm, khi nhà thờ đòi đốt sống ông Ga-li-lê
nếu ông không chịu bỏ cái lý thuyết rằng quả đất xoay vần.
Rất đông khách nước ngoài đến xem Va-ti-can,
nhất là những ngày có cúng lễ lớn thì có đến hàng chục vạn người. Dân cư chính
cống ở thành phố này không đầy 1.000 người, số đông là nhân viên của toà thánh.
Viện bảo tàng có trưng bày những gông cùm mà trước đây nhà thờ dùng để phạt
những người dân thiếu thuế thiếu nợ. Có một cái guồng xe như cái đu tiên, người
ta trói ngửa người bị phạt vào đó, cột chặt mình mẩy và chân tay vào guồng xe,
rồi vừa đánh vừa quay tít thò lò…!
Bác đến cửa biển Náp-lô, đi xem núi lửa
Vê-xu-vơ và di tích Pom-pê-i. Đời xưa Pom-pê-i là một thành phố nghỉ mát của người
Rô-manh. Cách đây khoảng 1.880 năm, Pom-pê-i bất thình lình bị tro và bùn núi
lửa Vê-xu-vơ vùi lấp hết. Về sau người ta đào lên dần dần. Ngày này dấu tích
nhà cửa vẫn còn. Nhiều bức vẽ trên tường ghi tả đời sống xa hoa, dâm dật của
bọn quý tộc - màu sắc vẫn còn tươi đẹp. Núi lửa Vê-xu-vơ không dữ tợn như
trước, nhưng vẫn phun khói mù trời.
Bác đáp tàu Nhật Bản đi sang Xiêm. Ở Xiêm Bác
giúp kiều bào chỉnh đốn thêm những đoàn thể yêu nước, và tổ chức trường dạy học
các trẻ em. Kiều bào ở Xiêm có thể chia làm ba hạng: (A) là những đồng bào
nghèo - số đông từ hai tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị sang Xiêm buôn bán kiếm ăn.
(B) là cháu chắt những đồng bào theo đạo Thiên chúa bị triều đình Minh Mạng và
Tự Đức khủng bố, chạy trốn sang Xiêm. Những kiều bào này ở tập trung thành từng
xóm, từng làng. Họ vẫn nói tiếng Việt và ăn mặc như người Việt dù họ đã lấy
quốc tịch Xiêm. (C) là những người đã tham gia phong trào Văn thân ngày trước
và phong trào cách mạng ngày nay, bị thực dân Pháp khủng bố mà chạy sang đây.
Khi đông người thì ở tập trung từng xóm, ít người thì ở xen lẫn với kiều bào
cũ.
Nói chung, kiều bào đều đoàn kết giúp đỡ lẫn
nhau, nhớ thương Tổ quốc, và căm thù thực dân. Có những cán bộ rất tận tuỵ và
được kiều bào tin cậy.
Bà con Xiêm đối với kiều bào ta cũng tử tế.
Chuyện sau đây chứng tỏ tình cảm tốt của người Xiêm đối với kiều bào: Cụ Tú
Hướng (em cụ Đặng Nguyên Cẩn) là một người cách mạng già rất gương mẫu. Một
hôm, thực dân Pháp phải cho mật thám sang yêu cầu chính phủ Xiêm bắt giam cụ Tú
cho chúng. Viên quan địa phương cho mời cụ Tú đến trụ sở và hơn mười cụ già
Xiêm đều da đen, người thấp, râu bạc, giống hệt cụ Tú, rồi bảo tên mật thám
Pháp: “Đấy ông xem ai là Tú Hướng thì ông bắt đi. Nhưng nếu ông bắt nhầm người
công dân Xiêm, thì ông sẽ phải chịu phạm luật quốc tế!”. Tên mật thám nhìn kỹ,
thấy ông già nào cũng giống nhau, nó không nhận ra ai là cụ Tú. Kết quả là nó
phải cụp đuôi chuồn không dám bắt ai.
Ở Xiêm khoảng một năm, Bác được tin Hội
"Thanh niên Cách mạng Đồng chí” sẽ chia thành ba phái và tổ chức ba đảng
cộng sản khác nhau. Nóng ruột Bác lại bí mật trở về Trung Quốc và mời đại biểu
ba phái đến Hương Cảng họp hội nghị. Đến dự hội nghị có Bác và các đồng chí Hồ
Tùng Mậu, Lê Tản Anh, Nguyễn Đức Cảnh…
Để giữ bí mật, hôm thì mấy anh em giả đánh “mạc
chược” ở khách sạn, hôm thì đến sân vận động xem đá bóng. Sau mấy buổi bàn cãi
sôi nổi, đến ngày 3/2/1930 (vào dịp Tết âm lịch) ba phái đều đồng ý thống nhất
thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Mọi người đều vô cùng vui mừng, phấn khởi. Để
chúc mừng Đảng ra đời, Bác đãi một bữa Tết Nguyên đán vừa tiết kiệm, vừa linh
đình.
Bác nói: Từ năm 1918, Bác gửi cho Hội nghị
Vec-xa (hội nghị hoà bình giữa các nước dự cuộc chiến tranh thế giới lần thứ
nhất, họp ở Pháp) tám khoản yêu cầu của nhân dân Việt Nam, đến năm 1920 - vào
Đảng Cộng sản Pháp, đến năm 1924, dự Đại hội lần thứ năm của Quốc tế Cộng sản
và năm 1930 - dự cuộc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, đó là những ngày sung
sướng nhất trong đời Bác.
Từ đó, giai cấp công nhân Việt Nam có Đảng tiên
phong của mình, và ngay từ đầu Đảng đã nắm quyền lãnh đạo cách mạng. Tin mừng
về việc thành lập một đảng cộng sản thống nhất làm cho cán bộ đảng viên và nhân
dân ta vô cùng phấn khởi và từ đó cuộc vận động cách mạng ào ạt tiến lên từ Bắc
đến Nam.
Sau đó, Bác sang Xiêm và Mã Lai… Trở lại Hương
Cảng được ít lâu, thì bị đế quốc Anh bắt giam.
Nghe câu chuyện đến đây, chúng tôi rất hồi hộp.
Nhưng xem đồng hồ vừa đúng 1 giờ. Cũng vừa gặp một con suối quanh co với những
tảng đá lô nhô, nước chảy trong vắt, hai bên bờ có nhiều cây cổ thụ rải bóng
mát êm đềm như những bức màn khổng lồ. Thiên nhiên như tỏ ý ân cần mời khách đi
đường tạm nghỉ bước. Bác cháu chúng tôi ăn cơm nắm xong, rồi với thú vị “màn
trời chiếu đất” ngủ trưa một giấc ngon lành.
Muốn biết câu chuyện phát triển thế nào, xin
các bạn chờ xem kỳ sau viết tiếp.
Chúng tôi hồi hộp nghe Bác kể chuyện bị bắt ở
Hương Cảng như sau:
Ngày xưa giai cấp thống trị nước Anh có truyền
thống đối đãi “khoan hồng” với những người cách mạng nước ngoài. Ví dụ:
- Người thầy cộng sản của chúng ta là Các Mác bị chính
phủ Đức đuổi ra khỏi nước, rồi bị chính phủ Pháp đuổi. Nhưng đến Luân Đôn
thì chính phủ Anh để ông Mác ở yên suốt đời.
- Sau khi Công xã Pa-ri thất bại (1871), bọn phản động
Pháp khủng bố dữ. Nhiều lãnh tụ công xã lánh nạn san Anh, chính phủ Anh
cũng để họ làm ăn yên ổn.
Tháng 7/1903, Đại hội lần thứ hai của Đảng
Lê-nin (hồi đó gọi là Đảng Công nhân Xã hội Dân chủ nước Nga) họp ở Luân Đôn.
Khi đại hội hết tiền ăn, một người tư sản Anh đã cho đại hội mượn tiền để tiếp
tục khai hội.
Đối với những người cách mạng nước ngoài, chính
phủ Anh chỉ đặt một điều kiện: “Các người tuyệt đối chớ động đến nội chính của
nước Anh”.
Nhưng từ ngày Cách mạng tháng Mười thành công,
cộng sản trở nên một phong trào mạnh trên thế giới, thì giai cấp thống trị Anh
không “dễ dãi” với những người cộng sản.
Bác nói tiếp: Hoạt động cách mạng bí mật phải
hết sức cẩn thận để tránh bị bắt. Nhưng đồng thời phải luôn luôn chuẩn bị sẵn
sàng đối phó nếu không may mà bị bắt. Nếu bị bắt thì nguyên tắc bất di bất dịch
là: Thà chết chứ quyết không nói gì, làm gì có hại cho cách mạng.
Năm 1931 là năm phong trào chống Nhật lên cao
trong quần chúng nhân dân Trung Quốc, cũng như là năm Quốc dân Đảng và bọn đế
quốc khủng bố tợn. Nhiều người cách mạng bị bắt ở Trung Quốc, ở Phi-lip-pin, ở
Mã Lai, ở Hương Cảng… Các đồng chí Việt Nam như: Hồ Tùng Mậu, Nguyễn Minh Khai,
v.v… người thị bị bắt ở Hương Cảng, người bị bị bắt ở Thượng Hải, ở Quảng
Châu…
Ngày 6/6/1931, Bác bị bắt ở số nhà 186 Phố Tam
Lung (Cửu Long). Sau đó cảnh sát Anh bí mật bao vây dãy phố ấy mấy tuần hòng
đặt “bẫy chuột” để bắt đồng chí qua lại với Bác. Nhưng kết quả không bắt được
ai. Gian nhà Bác ở thì bị chúng lật hết từng bức tường, từng viên gạch, dùng
chất hoá học nghiên cứu, để tìm tài liệu bí mật. Nhưng cũng không tìm được
gì.
Những người cách mạng Trung Quốc bị bắt ở Xiêm,
Mã Lai, Phi-lip-pin và các nơi khác đều bị đưa về Hương Cảng. Đối với họ, cũng
như đối với những người cách mạng bị bắt ở Hương Cảng, đế quốc Anh chỉ giam giữ
ít lâu, tra khảo, lấy khẩu cung, rồi đuổi ra khỏi cảng, chứ không phạt tù
đầy.
Thật là “khoan hồng”! Nhưng một khi bước chân
xuống thuyền (Hương Cảng là một hòn đảo, chung quanh là biển, muốn đi bất kỳ
nơi nào khác, cũng phải đi thuyền), thì hầu hết những đồng chí được “trục xuất
cảnh” đều bị bọn đặc vụ Quốc dân Đảng bắt ngay.
Bác vào nhà giam vài hôm, thì đồng chí Hồ Tùng
Mậu bị đưa ra nhà giam để “trục xuất cảnh”. Nhân dịp đó đồng chí Mậu báo cho
luật sư Lô-dơ-bi (chủ nhiệm công ty luật sư RUSS, của người Anh) biết tin Bác
bị bắt, và nhờ ông ta giúp Bác.
Ông Lô-dơ-bi vào nhà giam gặp Bác và nói ông sẽ
ra sức cãi hộ cho Bác.
Bác nói không có tiền để trả phí tốn cho công
ty.
Ông Lô-dơ-bi nói: “Tôi biết ông là một lãnh tụ
cách mạng Việt Nam. Tôi cãi hộ ông là vì danh dự chứ không nhất thiết chỉ vì
tiền…”.
Từ đó, vợ chồng ông Lô-dơ-bi hết lòng giúp đỡ
Bác về đời sống trong nhà tù cũng như về vụ án kiện. Cũng do ông Lô-dơ-bi mà
các đồng chí Pháp và Hội Quốc tế Cứu tế đó biết rõ tình hình của Bác.
Được tin Bác bị bắt, thực dân Pháp ở Việt Nam
vui mừng và hoạt động tợn. Chúng phái cả bầy mật thám sang chầu chực ở Cảng.
Chúng vận động chính phủ, toà án và cảnh sát Anh dùng mọi cách để trao Bác cho
chúng. Chúng phái tàu thuỷ chờ sẵn ở Cảng, nếu toà án ký lệnh “trục xuất"
là chúng tóm Bác đưa lên tàu chở về Việt Nam ngay. Chúng cho rằng lần này chúng
sẽ thực hiện được lời đe doạ của quan thượng thư thuộc địa đã nói mười năm
trước đây: tức là bẻ gãy những người cách mạng Việt Nam.
Chính phủ Cảng cũng muốn bí mật trao Bác cho
thực dân Pháp. Nhưng luật sư Lô-dơ-bi làm cho việc Bác thành ra công khai và
đòi Toà án tối cao phải xét xử.
Một mặt do bọn thực dân Pháp tuyên truyền Bác
là một người Bônsêvích cực kỳ nguy hiểm; mặt khác do công an Cảng vu cáo Bác có
âm mưu lật đổ chính quyền người Anh ở xứ này - thành thử dư luận cho rằng đây
là một vụ án quan trọng nhất từ trước đến nay chưa từng có ở Cảng!
Từ tháng 6 đến tháng 9, toà án họp 9 phiên. Mỗi
phiên họp đều có cảnh sát vũ trang Anh và Ấn Độ gác khắp các cửa ra vào.
Trong các phiên toà có nhiều quan chức cao cấp
đến xem. Vai chính là:
- 2 vị chánh án và phó chánh án
- 2 vị công tố, thay mặt “nhà vua” buộc tội
- 2 vị luật sư cãi hộ cho Bác.
Các vị này đều mặc áo thụng đen và mang tóc giả
theo lối đời xửa đời xưa. Trên bàn trước mặt mỗi vị có những chồng sách to
tướng về luật lệ. Họ luôn luôn giở sách để dẫn chứng những lời họ trình bày,
thật là “nói có sách, mách có chứng”.
Ông Lô-dơ-bi ngồi ở bàn và Bác ngồi trong vành
móng ngựa đều không được nói gì hết. Khi muốn trao đổi ý kiến với nhau, hoặc
với thầy kiện, thì chỉ việc tóm tắt trên một miếng giấy nhỏ.
Lý lẽ của các thầy kiện tóm tắt là:
1. Việc bắt giam Bác là
trái phép, vì Bác bị bắt giam từ hôm 6/6/1931, nhưng đến hôm 12/6, tổng đốc Anh
mới ký lệnh chính thức cho phép bắt.
2. Người công chức lấy
cung đã làm trái phép vì y đã hỏi Bác những điều ngoài khuôn khổ pháp luật đã
quy định hỏi.
3. Buộc Bác phải đáp tàu Pháp đi về Đông Dương,
tức là cố ý giao Bác cho Pháp để chúng giết Bác, thế là trái phép.
Hai điểm trên, chính phủ và công tố đã phải
nhận sai lầm. Nhưng quan toà và công tố vẫn quyết định đuổi Bác về Đông
Dương.
Ông Lô-dơ-bi chống án lên “Hội đồng Nhà vua” và
nhờ luật sư Nô-oen Pơ-rít( Nowell Prit) ở Luân Đôn cãi hộ cho Bác.
Đến tháng 2/1933, gần Tết âm lịch, “Hội đồng
Nhà vua” xoá án và ra lệnh: Cho phép Bác tự do đi đâu thì đi, miễn là ra khỏi
Hương Cảng.
Thế là thắng lợi bước đầu! Nhưng đi đâu? Đi thế
nào cho thoát? Nếu không khéo thì ra khỏi nhà giam sẽ rơi vào tay thực dân
Pháp.
Bà Lô-dơ-bi nhờ một người bạn mua hai vé tàu
thuỷ hạng nhất…
Hôm đó, một chiếc tàu nước ngoài (từ Hương Cảng
qua Thượng Hải đi Nhật Bản) mới nhổ neo đi ra biển độ ba cây số thì được lệnh
phải đỗ lại…
Chiếc ca nô riêng của Tổng đốc Hương Cảng đưa
một vị thân sĩ Trung Quốc vào một phòng hạng nhất trên chiếc tàu ấy…
Tàu đến Hạ Môn thì vừa đúng 30 Tết âm lịch.
Nhận lời mời của bầu bạn, vị thân sĩ Trung Quốc lưu lại ăn Tết ở Hạ Môn…
Sau 20 tháng gian lao nguy hiểm, một lần nữa
Bác lại thoát khỏi âm mưu độc ác của thực dân Pháp và tạm thời đánh lạc hướng
của chúng.
Thắng lợi này phần rất lớn là nhờ sự hết lòng
giúp đỡ của ông bà Lô-dơ-bi.
Tức tối vì không bắt được Bác, giận dữ đối với
người Anh, các báo thực dân Pháp bịa đặt ra tin rằng: Bác mắc bệnh lao trong
nhà lao Anh, và đã chết rồi.
Các báo Anh liền quật lại, đại ý như sau:
“Các anh là những người hèn hạ, ngậm máu phun
người. Các anh run sợ trước một người cách mạng Việt Nam nhưng không làm gì
được. Người cách mạng đó đã được toà án Anh tha rồi và đã xa chạy cao bay. Vì
các người muốn bôi nhọ công lý và danh dự của người Anh, mà bịa đặt rằng người
cách mạng đó chết là bị người Anh giam giữ. Sự thật là người Việt Nam ấy vẫn
sống. Mà sự hy vọng vô lý của các anh thì chết rồi”.
Các báo Anh nói thêm: “Việc người cách mạng
Việt Nam được trắng án là một danh dự lớn cho luật sư Lô-dơ-bi và của công lý
nước Anh. Nhưng thiên hạ cũng phải công nhận rằng một người Việt Nam ấy được
may mắn còn biết bao nhiêu người khác không được may mắn mà bị xử oan…”
Nghe câu chuyện đến đây, anh em chúng tôi đều
cảm thấy nhẹ nhàng cả người. Một lần nữa Bác lại thoát khỏi cơn nguy hiểm. Bác
sĩ Chân liền hỏi:
“Thưa Bác, trong khi bị bắt giam, tình trạng
tinh thần và vật chất của Bác thế nào?”
Bác xem đồng hồ nói: “Sáng nay, chúng ta đã đi
được nửa đường rồi. Các chú xem có chỗ nào tốt, chúng ta nghỉ chân và ăn cơm,
rồi Bác sẽ tiếp tục kể chuyện.”
Khám lớn Hương Cảng rất to rộng, gọi là ngục
Vích-tô-ri-a. Vích-tô-ria là một vị vua đàn bà Anh nổi tiếng trị vì 64 năm, thọ
82 tuổi (1819-1901).
Nhà giam Bác có ba tầng, mỗi tầng hai dãy xà
lim. Cách xây dựng xà lim không xứng kích thước phổ thông chút nào! Bề cao 3
thước tây, mà bề ngang chỉ hơn một thước, bề dọc không đầy hai thước, bề rộng
chỉ vừa một người nằm xiên xiên. Cao chót vót trên đầu tường chỉ có một cái cửa
sổ nhỏ hình nửa mặt trăng lờ mờ, bị song sắt và lưới sắt bưng bít. Ban ngày từ
cửa sổ ấy ánh sáng lọt vào xà lim một cách rụt rè, bỡ ngỡ. Cửa xà lim bằng ván
gỗ dày độ một gang tay và bọc sắt; ở chỗ cao ngang đầu người có một lỗ tròn,
phía trong rộng, phía ngoài hẹp, như một cái loa. Chốc chốc tên lính gác ngục
(người Ấn Độ, người Xíc và người Anh) ghé mắt vào lỗ xem xét tình hình người tù
trong xà lim.
Mỗi ngày, tù được ra ngoài xà lim 15 phút, đi
dạo quanh một cái sân hẹp. Bốn phía sân đều là nhà giam cao ngất nghểu với
những bức tường kín mít, âm u, người ta cảm thấy như đi dạo đáy một cái giếng.
Ngửng đầu lên thì chỉ trông thấy trời rộng bằng một chiếc khăn tay. Ở trong xà
lim ngột ngạt, ra ngoài xà lim cũng vẫn ngột ngạt.
Mỗi ngày ăn hai bữa cơm gạo xay, một phần tư là
thóc. Hôm nay, thức ăn bữa sáng có rau muống, bữa chiều có mắm thối hoặc cá
ươn. Hôm sau, để thay đổi “khẩu vị”, bữa sáng có mắm thối hoặc cá ươn, bữa
chiều có rau muống. Mỗi tuần được ăn một bữa tiệc: một phần cơm trắng cùng vài
miếng thịt bò.
Cùng giam với Bác đều là những người bị bắt vì
chính trị. Những người phạm tội khác bị giam riêng. Dù cực khổ và có lẽ cái
chết đã treo sau ót, những người tù cách mạng không hề tỏ vẻ lo sợ, họ vẫn vui
cười như thường. Tối nào đến giờ đi ngủ, họ cũng hát vang Quốc tế Ca và
nhiều bài cách mạng khác, bất chấp bọn lính gác ngục đe doạ la lối om
sòm.
Đời sống vật chất trong nhà tù, tóm tắt là như
vậy. Mấy tháng về sau, vì sức yếu và nhờ có ông Lô-dơ-bi vận động, Bác được đưa
vào nhà thương, điều kiện ăn ở có dễ chịu hơn.
Khi bị bắt giam, trong tâm trạng chỉ có một
điều là lo. Không phải lo số phận mình sau này sẽ ra sao, vì sẵn biết rằng kết
quả cuối cùng chỉ có thể hoặc là sẽ bị bọn thực dân thủ tiêu, hoặc là sẽ thoát
khỏi xiềng xích, trở lại hoạt động cách mạng. Lo là lo những công việc mình làm
chưa xong, ai sẽ tiếp tục làm thay? Ít nhiều kinh nghiệm mình đã gom góp được,
làm thế nào để truyền lại cho đồng chí khác? Những nối mạch và những địa điểm
chỉ có mình biết, từ nay ai sẽ xây dựng lại?… Đảng ta tuy mới thành lập nhưng
uy tín đã cao, đấu tranh đã mạnh, giai cấp công nông đều trông vào sự dìu dắt
của Đảng; đồng thời bọn thực dân ra tay khủng bố, nhiều đồng chí bị bắt và bị hy
sinh, nhiều tổ chức bị phá vỡ - từ nay công tác của Đảng sẽ tiến hành ra sao?
Ai sẽ hướng dẫn những đảng viên mới, anh dũng có thừa những kinh nghiệm còn
thiếu? Lo hết việc này, lại lo đến điều khác. Chỉ lo suông mà không giải quyết
được cho nên:
“Ngổn ngang trăm mối bên lòng
Ngủ không ngon giấc ăn không ngon mồm.”
Lo chán lại đặt kế hoạch: Nếu được trở lại tự
do, đối với công việc Đảng ta sẽ tăng cường điểm này, cuộc vận động công nhân
và nông dân ta sẽ cải tiến cho họ: việc tổ chức thanh niên và phụ nữ ta phải
sửa đổi chỗ kia… Biết bao nhiêu là kế hoạch chủ quan, mình tự đặt ra, rồi mình
lại thảo luận, bàn cãi với mình. Nếu người ngoài nhìn thấy vậy có thể cho Bác
là đãng trí, lẩm cẩm. Sự thật là một người đang hoạt động sôi nổi, bỗng nhiên
bị nhốt lại một mình trong một cái xà lim âm thầm kín mít, ngày này qua tháng
khác không được nói năng gì với ai, không ai được nói năng gì với mình – trong
hoàn cảnh đó, muốn cho khỏi đãng trí thì chỉ có một cách là đặt ra chuyện mà lo
tính và tính lo cho khuây khoả và giữ cho đầu óc cứ hoạt động như thường.
Còn một cách tiêu khiển nữa là gây chiến tranh
với rệp, hoặc là xem kinh thánh Cơ đốc. Kinh thánh Cơ đốc là một thứ sách được
khuyến khích xem trong nhà tù. Dù sao, đối với công cuộc và tương lai của cách
mạng Bác quyết không hề bi quan, luôn luôn lạc quan.
Hồi đó, ở khám lớn Vích–to–ri–a có vài chuyện
thú vị.
Anh Lý bị án 7 năm tù (không rõ vì sao), còn 5
tháng nữa thì hết hạn. Lý được đưa vào làm (khổ sai) ở xưởng may áo của nhà tù.
Ở xưởng may có một tên cai người Anh rất hung ác. Lý nói: “Ta quyết giết chết
thằng ác ôn này, để anh em đỡ khổ với nó”. Một hôm tên cai ấy đang đánh đá túi
bụi một bạn tù, thì Lý cầm một chiếc kéo to thọc nó lòi ruột. Lý lại bị đưa ra
toà và chịu thêm 7 năm tù nữa. Từ đó bọn gác ngục không dám lại gần Lý. Còn anh
em tù thì đều gọi Lý là anh hùng.
Cũng trong thời gian đó, Trịnh Quốc Dậu, con
một Hoa kiều triệu phú, vì giành nhau một cô gái nhảy mà phạm tội giết người.
Bị tống vào khám Vích–to-ri-a. Vì “công tử” không ăn được cơm gạo xay như mọi
người tù khác, nó được phép nhận cơm ở nhà đưa vào. Cơm ở ngoài đưa vào thì
phải kinh qua những người tù làm “coóc vê” chuyển đến cho Dậu. Những người tù
này nói với nhau: “Bồ ổ nó ăn sung mặc sướng nhiều rồi. Nhân dịp này chúng mình
chia chút đỉnh cho anh em tù nghèo cùng nếm”. Thế là hầu hết nem, chả, vật lạ
của ngon không đến miệng Dậu. Dậu tức lắm nhưng không dám mở mồm.
Anh em tù (đã thành án), bãi công, bãi thực để
đòi cải thiện chế độ giam cầm. Chủ ngục dùng cách khủng bố, đánh đập từng
người. Nhưng hễ một người tù bị đánh đập thì tất cả mọi người khác la um sùm.
Khi đêm khuya thanh vắng, họ cùng nhau kêu van: “Đói lắm trời ơi! Khổ lắm trời
ơi” làm chấn động cả khu phố. Muốn đấu dịu, chính phủ Hương Cảng bảo một nhóm
thân sĩ Hoa kiều vào khám lớn khuyên dỗ anh em tù. Có vị thân sĩ khi đứng đằng
xa thì nói to: “Anh em nên chấm dứt cuộc bãi công, bãi thực đi. Nhà nước sẽ đáp
ứng những yêu cầu của các anh em...” Nhưng khi đến gần anh em tù, thì vị thân
sĩ ấy nói khẽ: “Anh em cứ đấu tranh cho đến thắng lợi cuối cùng”...
Những mẩu chuyện ấy cho chúng ta thấy rằng tình
giai cấp và tình dân tộc ở đâu cũng có hoặc ít hoặc nhiều. Một mẩu chuyện
nữa:
Khi Bác ở trong khám, nhiều “ông, bà” người Anh
có quyền dắt nhau vào xem, ý chừng họ muốn thấy mặt mũi “lạ lùng” của người
Bônsêvích.
Khi Bác vào nhà thương, anh chị em nhân viên
người Trung Quốc cũng đến xem, nhưng với một cách kín đáo, không sỗ sàng như
người Anh.
Một hôm, cô y tá người Trung Quốc thường ngày
chăm sóc Bác, thủ thỉ hỏi Bác một cách bí mật: “Chú này! Cộng sản là thế nào?
Chú làm cộng sản làm gì để bị bắt bớ khổ thân!” Cô ta biết cộng sản không phải
là trộm cướp, buôn lậu giết người; thế thì cộng sản là gì và vì sao mà bị bắt
giam, điều đó cô ta không hiểu được!
Bác trả lời: “Nói tóm tắt cộng sản là làm cho
ai cũng sung sướng và bình đẳng, không ai bóc lột và đè nén ai. Ví dụ: Cộng sản
muốn làm cho chị em cô không phải mang cổ xanh suốt đời không bị người mang cổ
đỏ sai khiến (cổ áo đỏ là y tá trưởng người Anh; cổ áo xanh là những y tá nữ
người Trung Quốc)”.
Cô y tá giương to cặp mắt nhìn Bác và nói: “Thế
ạ!”.
Ở Hạ Môn ít lâu, Bác đi tàu thuỷ lên Thượng
Hải.
Đến Thượng Hải hôm trước, hôm sau xem báo thì
thấy tin “Hôm qua những tàu biển cập bến tô giới Pháp đều bị nhà chức trách lục
soát rất kỹ...”
Hú vía! Ở Thượng Hải, bọn Quốc dân Đảng cũng
khủng bố gắt gao. Để che mắt bọn mật thám, Bác phải tíêp tục giữ bộ điệu như
một vị thân sĩ, mặc áo quần thật sang, ở khách sạn thật sang, nhưng đến tối
thường khoá cửa lại, rồi ăn khoai trừ bữa và tự giặt lấy quần áo...
Mùa thu năm 1933, được tin có một đoàn đại biểu
từ châu Âu sắp sang các nước Viễn Đông tuyên truyền chống chiến tranh đế quốc.
Đoàn gồm có một người quý tộc Anh, một đại biểu quốc hội nước Bỉ, một nhà văn
người Pháp (là đồng chí Vây-ăng Cu-tuy-ri-ê). Tin tức này làm cho Bác mừng rỡ
nhẹ cả người.
Bác đến Thượng Hải đã lâu mà vẫn chưa bắt được
liên lạc.
Đối với người cách mạng, không gì khổ tâm bằng
đã không hoạt động được, lại mất liên lạc với đoàn thể lâu ngày. Điều đó làm
cho người cách mạng đêm ngày cảm thấy vô cùng cô độc linh đinh.
Đoàn đại biểu hoà bình đến Thượng Hải bị chính
quyền Quốc dân Đảng và tất cả người da trắng ở thành phố này tẩy chay. Khi tàu
sang đến Nhật cấm không cho lên bờ.
Ở Thượng Hải, bà Tống Khánh Linh (vợ Cụ Tôn
Trung Sơn) đã bí mật tổ chức một cuộc mít tinh cho đoàn nói chuyện.
Bác viết thư cho đồng chí Vây-ăng Cu-tuy-ri-ê.
Thư này bỏ vào trong một thư khác cho một người bạn nhờ chuyển hộ.
Người bạn này (Bác chỉ quen biết sơ thôi) có uy
tín cho nên Quốc dân Đảng và bọn đế quốc ghét lắm, nhưng chỉ phái đặc vụ bao
vây dò xét, chứ không dám bắt bớ, giam cầm.
Bác ăn mặc thật sang, thuê một chiếc xe hơi
thật sang, đi đến nhà người bạn ở trong tô giới Pháp, gõ cửa, trao bức thư, rồi
đi ra ngay. Lúc trở về, thấy cảnh sát Pháp chặn các khu phố lục soát người đi
đường. Người lái xe tỏ vẻ ngập ngừng... Bác bảo: “Cứ đi!”. Chắc là vì chiếc xe
rất sang trọng, cho nên không bị chặn lại khám xét... Một lần nữa hú vía!
Chiều tối hôm sau, bác gặp đồng chí Vây-ăng
Cu-tuy-ri-ê ở một địa điểm kín đáo. “Muôn dặm quê người gặp bạn thân!” Cả hai
người vô cùng mừng rỡ, vừa cảm động vừa nghẹn ngào... Hai anh em siết chặt tay
nhau mà nói chuyện.
Bác nói cho đồng chí Vây-ăng Cu-tuy-ri-ê biết
hoàn cảnh khó khăn của mình.
Đồng chí Vây-ăng Cu-tuy-ri-ê nói cho Bác rõ
tình hình phong trào cách mạng.
Ở Việt Nam từ ngày phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh
anh dũng, thực dân Pháp cực kỳ hoảng sợ và thẳng tay khủng bố hết sức dã man.
Nhiều làng mạc bị san phẳng. Nhiều đồng chí bị hy sinh. Nhiều tổ chức bị tan
vỡ...
Tháng 3-1931, trong lúc Trung ương Đảng bí mật
họp hội nghị ở Sài Gòn, Ngô Đức Trì bị bắt và phản bội. Vì nó khai mà đồng chí
Trần Phú và nhiều đồng chí khác bị bắt. Suốt sáu tháng bị tra tấn dã man, tháng
9 năm ấy đồng chí Trần Phú đã chết trong nhà tù.
Tuy phong trào tạm thời bị xuống thấp, nhưng sự
hy sinh oanh liệt của can bộ và đảng viên đã làm cho ảnh hưởng và uy tín của
Đảng không ngừng lên cao. Tên Bộ trưởng Thuộc địa Pháp đã công nhận rằng: “Hoạt
động của Đảng Cộng sản nguy hiểm cho Pháp gấp mấy lần cuộc bạo động của Quốc
dân Đảng”...
Từ cuối năm 1931 đến nay (mùa thu 1933), do sự
cố gắng phi thường của các đảng viên và lòng hăng hái của nhân dân nhiều chi bộ
đảng và nhiều cơ sở quần chúng dần dần được tổ chức và hoạt động lại.
Tình hình thế giới thì thế này: một bên là chủ
nghĩa tư bản lâm vào khủng hoảng trầm trọng, đã phái đi đến con đường tối phản
động là chủ nghĩa phát xít. Một bên là giai cấp công nhân các nước đấu tranh
ngày càng hăng. Nhân dân lao động Liên Xô thắt lưng buộc bụng để xây dựng chủ
nghĩa xã hội, đã thu được nhiều thắng lợi lớn... Nói tóm lại, tuy cách mạng gặp
khó khăn không ít, nhưng tiến bộ cũng rất nhiều...
Đã ba năm không hay biết gì hết, hôm nay được
đồng chí Vây-ăng Cu-tuy-ri-ê cho biết những tin tức đó, lòng Bác bâng khuâng
vừa thương xót vừa vui mừng. Vui mừng vì những cuộc thử thách cực kỳ ác liệt,
Đảng ta đã tỏ ra cứng cáp và đường lối chính trị và Đảng dần dần khôi phục lại
lực lượng của mình. Đồng thời phong trào cách mạng trên thế giới đang tiến lên,
thành trì cách mạng thế giới là Liên Xô đang xây dựng chủ nghĩa xã hội thắng
lợi.
Thương xót vì những người con ưu tú của Đảng và
của nhân dân – như đồng chí Trần Phú, và những đồng chí khác đã bị hy
sinh.
Đồng chí Trần Phú là một trong những thanh niên
đầu tiên sang học ở trường huấn luyện chính trị tại Quảng Châu, rồi tham gia
Hội “Thanh niên Cách mạng Đồng chí” và được giới thiệu đi học ở Mát–xcơ–va một
thời gian. Vào khoảng tháng 4-1930 đồng chí Trần Phú trở lại Trung Quốc gặp Bác
bàn bạc công việc Đảng, rồi về nước hoạt động. Tháng 10-1930 Trung ương họp hội
nghị lần thứ nhất, chính thức bầu đồng chí Trần Phú làm Tổng Bí thư đầu tiên
của Đảng. Là một người rất thông minh, hăng hái, cần cù, đồng chí Trần Phú đã
làm được nhiều việc quan trọng cho Đảng tuy chỉ hoạt động được một năm (từ ngày
về nước đến ngày bị bắt).
Mấy hôm sau khi gặp đồng chí Vây-ăng
Cu-tuy-ri-ê, thì Bác chắp được liên lạc với đoàn thể. Nỗi vui mừng lúc đó không
thể tả được.
“Ba năm lưu lạc lênh đênh
Nay đà trả lại trong đại gia đình công nông.”
Tháng 7-1935, Quốc tế Cộng sản họp đại hội lần
thứ 7. Đến dự Đại hội có đại biểu 65 đảng cộng sản. Đảng ta có đồng chí Lê Hồng
Phong và Nguyễn Thị Minh Khai là đại biểu chính thức, Bác và vài đồng chí nữa
là đại biểu dự khuyết.
Ở Đại hội, đồng chí Đi-mi-tơ-rốp (Dimitrov), Bí
thư Ban Chấp hành Trung ương của Quốc tế Cộng sản, đọc báo cáo chính trị, phân
tích sau sắc tình hình thế giới lúc bấy giờ: Bọn phát xít ngày càng điên cuồng.
Nguy cơ chiến tranh ngày càng khẩn cấp. Để lãnh đạo giai cấp công nhân đấu
tranh thắng lợi, nhiệm vụ của các đảng cộng sản là phải lập một mặt trận thống
nhất nhân dân thật rộng rãi, bao gồm các đảng phái, các đoàn thể các phần tử có
xu hướng yêu hoà bình, chống chiến tranh, chống phát xít. Đồng thời đại hội kêu
gọi nhân dân các nước ra sức giúp đỡ những dân tộc đang đấu tranh chống chủ
nghĩa đế quốc giành lại độc lập tự do.
Đồng chí Đi-mi-tơ-rốp (sinh năm 1882, mất năm
1949, thọ 67 tuổi), là lãnh tụ Đảng Cộng sản Bun-ga-ri, đồng thời là lãnh tụ
phong trào công nhân quốc tế.
Năm 20 tuổi đồng chí tham gia Đảng “Công nhân
Xã hội Chủ nghĩa” Bun-ga-ri. Trong thời kì hoạt động bí mật đồng chí đã bị bắt
giam nhiều lần và 2 lần bị kết án tử hình vắng mặt. Năm 1935, cùng với các đồng
chí trung ương khác, đồng chí Đi-mi-tơ-rốp lãnh đạo cuộc khởi nghĩa, tuy không
thành công, nhưng đã có ảnh hưởng to lớn và thức tỉnh giai cấp công nhân
Bun-ga-ri.
Năm 1933, đồng chí bị bắt ở Đức, bọn phát xít
tìm đủ mọi cách để buộc tội, nhưng đồng chí đã gan dạ vạch trần tội ác của
chúng trước toà án Lép-dích (Leipzip). Công nhân khắp các nước đều tổ chức biểu
tình ủng hộ đồng chí. Chính phủ Liên Xô can thiệp mạnh mẽ để bảo vệ đồng chí,
do đó đồng chí Đi-mi-tơ-rốp đã thoát khỏi xiềng xích phát xít và được trở về
Liên Xô.
Năm 1935, đồng chí được bầu làm Tổng bí Thư
Quốc tế Cộng sản và giữ chức vụ ấy đến năm 1943.
Trong cuộc đại chiến thế giới lần thứ II,
Bun-ga-ri bị Đức chiếm đóng. Khi Hồng quân Liên Xô tiến vào Bun-ga-ri thì đồng
chí Đi-mi-tơ-rốp cùng Trung ương Đảng lãnh đạo nhân dân lật đổ chính phủ phát
xít thân Đức, và lập nên chế độ dân chủ nhân dân. Trong cuộc tổng tuyển cử,
đồng chí được bầu làm thủ tướng đầu tiên của nước Cộng hoà Nhân dân
Bun-ga-ri.
Lần trước, năm 1925 Bác dời Liên Xô đi sang
Trung Hoa lúc đó nhân dân Liên Xô ai nấy đều thắt lưng buộc bụng để xây dựng
nước nhà. Về tinh thần ai nấy cũng hăng hái phấn khởi, nhìn về hạnh phúc mai
sau. Nhưng về đời sống vật chất thì đang rất eo hẹp. Ở nhà, áo mặc, lương thực
mọi thứ đều phải hạn chế nghiêm ngặt. Bác nhớ hồi đó Liên Xô đàn ông không ai
đeo cavát, đàn bà ăn mặc rất giản đơn. Thường chỉ dùng một vuông khăn đỏ buộc
đầu, thay cho mũ. Thanh niên thì tự động cấm uống rượu, cấm hút thuốc, cấm nhảy
đầm...
Lần này, năm 1935, Bác trở lại Liên Xô tình
hình đã khác hẳn. Trong 10 năm qua nhân dân Liên Xô tiến những bước khổng lồ.
Đời sống về mọi mặt đã tiến bộ nhiều lắm.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Bônsêvích, kế hoạch 5
năm lần thứ nhất đã hoàn thành vượt mức, kế hoạch 5 năm lần thứ hai đã bắt đầu.
Ngay vài năm đầu, công nghiệp và thương nghiệp đã hoàn toàn xã hội chủ nghĩa,
75% nông hộ đã vào hợp tác xã (nông trang tập thể), chiếm 85% diện tích trồng
trọt lương thực.
Nhờ sản xuất mọi thứ đầy đủ, cuối năm 1934 đã
bỏ luật hạn chế mua sắm và các thứ ăn mặc. Phải nhớ rằng: Sau cách mạng thành
công đã 17 năm, mới bỏ được hạn chế. Chỉ một điều đó đủ thấy những khó khăn lớn
và quyết tâm vượt khó khăn của Liên Xô. Lúc đó chỉ một mình là nước xã hội chủ
nghĩa, bốn bề bị các nước đế quốc bao vây. Thắng lợi đó là do chí khí hăng hái
lao động quên mình của nhân dân Liên Xô. Trong cuộc thi đua xã hội chủ nghĩa
hơn 5 triệu công nhân thanh niên là “đội viên đột kích”. Phong trào Sta-kha-nốp
là tên một người công nhân mỏ đầu tiên đào được 102 tấn than trong một kíp,
vượt mức 13 lần. Về sau nhiều người còn đạt mức cao hơn nữa.
Trong kế hoạch năm năm lần thứ hai, nhà nước
quy định tăng năng suất lao động 62%, nhưng công nhân đã tăng năng suất đến
82%. Nhờ vậy kế hoạch đã hoàn thành vượt mức trước thời hạn 9 tháng so với
trước chiến tranh (1913), tổng sản lượng công nghiệp tăng gấp 7 lần, về nông
nghiệp thì số hộ xã viên nông trang tập thể chiếm 93% tổng số ruộng đất.
Nói tóm lại, từ một nước nông nghiệp lạc hậu,
Liên Xô đã trở nên một nước hùng mạnh có công nghiệp tiên tiến và nông nghiệp
tập thể.
Kinh tế tiến lên thì thành phần trong xã hội
cũng thay đổi, pháp luật cũng do đó mà thay đổi. Cho nên cuối năm 1936, Xô Viết
Tối cao đã ban hành hiến pháp mới, một hiến pháp dân chủ nhất trên thế
giới.
Trước kia Bác quen thuộc Mát–xcơ-va. Nhưng lần
trở lại Mát–xcơ-va có hơi bỡ ngỡ vì cái gì cũng mới, nhà cửa, đường xá... cho
đến báo chí cũng đều đổi mới. Những em nhi đồng Bác quen biết trước nay đều là
các chiến sĩ Hồng quân hoặc là sinh viên đại học. Những bạn Côm–sô–môn (thanh
niên cộng sản), nay đều là bác sĩ, công trình sư... và đều được vinh dự vào
Đảng. Lúc đó, Đảng Bôn-sê vích có hơn 2 triệu 80 vạn đảng viên.
Từ sau 1930 tình hình thế giới ngày càng khẩn
trương, nó giống như một chuỗi bom nổ chậm khổng lồ liên tiếp nổ năm này sang
năm khác.
- Năm 1913 phát xít Nhật xâm chiếm miền đông bắc Trung
Quốc và lập ra cái gọi là “Nước Mãn Châu”.
- Năm 1933, lũ quỹ khát máu phát xít Hítle cướp chính
quyền ở Đức, chúng thẳng tay đàn áp phong trào cách mạng trong nước và ra
sức chuẩn bị chiến tranh.
- Năm 1935, phát xít Ý xâm lược nước A-bi-xi–li (ở Châu
Phi).
- Năm 1936, bọn phát xít Đức và Ý giúp tên phát xít
Phơ-răng–cơ (Franco) đánh cách mạng Tây Ban Nha.
Cũng trong năm ấy, phát xít Đức, Ý, Nhật kí
hiệp định “liên minh chống cộng”, về sau liên minh này bị đập tan.
- Năm 1937 quân đội phát xít Nhật đánh chiếm thêm các
tỉnh Trung Quốc.
- Năm 1938 hòng xoa dịu phát xít Đức–Ý và ngấm ngầm
khuyến khích chúng quay mũi nhọn chiến tranh sang phía Liên Xô, hai chính
phủ Anh và Pháp ký với nhau một bản hiệp định ở thành phố Muy–ních
(Munich, Đức) nhượng bộ chúng về mọi mặt.
Liền sau đó phát xít Đức chiếm nước Áo.
Năm 1939, phát xít Đức chiếm nước Tiệp Khắc...
rồi bắt đầu đánh Pháp và Anh. Đế quốc Anh và Pháp đã lầm to... Những tưởng dùng
chính sách nhân nhượng thì bọn phát xít Đức–Ý sẽ nể nang họ, nào ngờ khi chúng
có dịp thì chúng choảng ngay vào đầu Anh và Pháp.
Năm 1940 chỉ trong mấy tuần Pháp đã mất thủ đô
Pa-ri và một nửa nước, và phải quỳ gối đầu hàng; Anh thì bị máy bay Đức bắn phá
tan hoang, làm cho “thất điên bát đảo”. Phát xít Đức chiếm được các nước Tây Âu
rồi quay sang chinh phục các nước Đông Âu.
Bên châu Á thì phát xít Nhật chiếm hết cả Trung
Quốc (vì Tưởng Giới Thạch chỉ lo “giật công” chứ không chống lại Nhật), hất
cẳng thực dân Pháp ở Đông Dương, đuổi thực dân Anh khỏi Hương Cảng, Miến Điện,
Mã Lai; đuổi thực dân Mỹ và chiếm luôn Phi-lip-pin...
Năm 1941, bọn phát xít Đức-Ý-Nhật đã khoe
khoang:
Tung hoành châu Á, châu Âu
Dọc ngang nào biết trên đầu có ai
Với sức người, sức của chúng đã cướp được ở các
nước kia, với chủ quan điên rồ tưởng rằng chúng là “vô địch”, tháng 6 năm 1941
phát xít Đức bất thình lình tiến công vào Liên Xô, chúng gọi là “chiến tranh
chớp nhoáng”.
Trước tình hình đó những người yếu bóng vía vừa
lung lay nhăn mặt, thở dài bi quan, thất vọng. họ kêu rên: “Ôi thôi ồi, phát
xít mạnh quá, chắc chúng sẽ thắng thôi!”, song những người cách mạng chân chính
trông rộng thấy xa thì không bi quan chút nào. Họ tin một cách chắc chắn “Liên
Xô nhất định sẽ thắng!”.
Cách Bác đi đường là như thế này: Buổi sớm, cố
gắng đi quá một nửa đường. Buổi chiều thì đi thong thả, hễ nơi nào có phong
cảnh đẹp thì nghỉ lại vài phút để ngắm nghía; và nếu có dịp nói chuyện với đồng
bào.
Nhân lúc tạm nghỉ, tôi mạnh dạn nói: “Thưa Bác,
chúng cháu chỉ biết chung chung rằng phát xít là hung ác, những chúng hung ác
như thế nào thì không rõ”...
Bác nói:
Phát xít Đức là một hình thức phản động nhất,
hung ác nhất của chuyên chính tư bản đế quốc. Vì chúng không thể thống trị bằng
cách giả nhân giả nghĩa, giả dân chủ như thời xưa nữa. Chúng khủng bố một cách
cực kỳ ghê tởm, cực kỳ dã man tất cả những người và những đoàn thể tiến bộ, dân
chủ và yêu chuộng hoà bình. Chúng đặt ra cái thuyết “nòi giống”: Người Đức là
nòi giống cao quý, trời sinh ra họ để trị vì thiên hạ. Người các nước khác đều
là nòi giống đê hèn, phải chịu phát xít Đức thống trị. Người Do Thái là nòi
giống ma quỷ, phải tiêu diệt cho kỳ hết! Chủ nghĩa phát xít đã gây ra chiến
tranh thế giới thứ hai, để giết trên 30 triệu người, thiêu huỷ hàng ngàn thành
phố và hàng vạn làng mạc. Biết bao nhiêu là tài sản quý báu do lao động và trí
tuệ của nhân dân từ nhiều thế kỷ xây dựng nên đã bị phá hoại sạch. Hơn 6 triệu
người Do Thái đã bị chúng thiêu chết.
Do Thái là một dân tộc ở rải rác khắp các nước
phương Tây, nổi tiếng tiết kiệm và buôn bán giỏi. Ngay lúc bắt đầu chiến tranh,
Him-le (tên giúp việc số 1 của Hít-le) ra lệnh cho quân đội phát xít Đức: “Bắt
được người Do Thái thì giết sạch”.
Nếu bắn thì phải tốn nhiều đạn và nhiều công,
chúng bèn bày ra cách thiêu. Ở nhiều nơi tại nước Đức, và các nước bị chiếm,
chúng xây dựng những lò hơi ngạt. Đánh chiếm đến đâu, chúng cướp hết của cải,
và bắt hết người Do Thái đến đó. Bất kỳ gái, trai, già trẻ, bất kỳ nông công
thương, chúng lùa họ hàng nghìn, hàng vạn người chồng chất lên xe lửa, khoá
chặt cửa xe lại, rồi chở đến nhưng nơi có lò thiêu. Dù đường xa, xe chạy suốt
ba, năm ngày họ cũng không được ăn uống gì hết. Khi đến nơi, đã có nhiều người
chết đói, chết ngạt... Chúng chọn một số người có sức khoẻ để đi làm khổ sai ở
các nhà máy và các đồn điền Đức. Vì đói rét và bị đánh đập tàn nhẫn, sau vài
tháng nếu không chết mòn, chết mỏi thì cũng kiệt sức không lao động được nữa,
họ cũng bị đưa đến lò thiêu. Đại đa số Do Thái bị thiêu ngay.
Trước khi bước vào lò thiêu, họ phải cởi truồng
hết. Áo quần giày dép của họ bị bọn phát xít chọn lọc sắp xếp tử tế để gủi về
Đức.
Mỗi lần mỗi lò thiêu được độ 800 người. Người
vào xong rồi, lửa lò khoá lại, hơi ngạt mở ra. Sau mươi phút hấp hối quay
cuồng, mọi người chết queo hết.
Chúng đưa xác chết ra, chúng cắt lấy tóc đàn bà
chở về nhà máy dùng làm dây thừng hoặc độn nệm. Chúng khám miệng thây chết để
nhổ lấy răng vàng. Chúng chọn những thây người béo để lấy mỡ nấu dầu, nấu xà
phòng. Thây người gầy thì chúng đốt làm phân bón ruộng... Nói tóm lại bọn phát
xít giết người một cách rất “khoa học”. Chúng tính ra bình quân mỗi người bị
thiêu chết đưa lại cho chúng 1.631 đồng Mác (tiền Đức).
Chỉ một lò thiêu ở Biếc-cơ-nao (Birkenau), mỗi
ngày thiêu chết 24.000 người Do Thái, từ đầu năm 1942 đến giữa năm 1944 hơn
2.110.000 người Do Thái đã bị thiêu chết ở cái lò này!
Tóm lại, chủ nghĩa phát xít là hung tàn, bạo
ngược xấu xa như thế đó.
Mùa đông năm 1983, Bác trở lại Trung Quốc. 13
năm trước đây lần đầu tiên Bác đến Trung Quốc và lần này Bác lại đến Trung
Quốc, hai hoàn cảnh khác nhau xa về mọi mặt.
Lần trước, Bác đến Quảng Đông, lần này Bác đến
Thiểm Bắc.
Lần trước bọn quân phiệt đang đánh nhau lung
tung. Lần này nhân dân Trung Quốc đang chiến tranh chống phát xít Nhật.
Lần trước, Đảng Cộng sản mới ra đời, lực lượng
chưa có mấy. Lần này Đảng Cộng sản đã mạnh lắm và có nhiều kinh nghiệm
lắm.
Cuối năm ngoái (1937) Đảng Cộng sản lập lại Mặt
trận Thống nhất, lại hợp tác với Quốc dân Đảng để cùng nhau chống giặc Nhật. Do
đó, Hồng quân đổi tên là Bát lộ quân, và Tân tứ quân. Đối với vấn đề nông dân,
thì chính sách của Đảng trong thời kỳ kháng chiến là thực hành giảm tô giảm
tức, tạm thời không tiếp tục cải cách ruộng đất…
Hôm đầu tiên Bác đến Tây An được các lão đồng
chí hoan nghênh nhiệt liệt. Mà cũng là hôm đầu tiên phải “chạy máy bay” Nhật
đến ném bom.
Tây An là một thành phố có nhiều di tích lịch
sử xưa cũ hơn ba, bốn nghìn năm, và có nhiều phong cảnh xinh đẹp. Nhưng trong
hoàn cảnh chiến tranh, có thời giờ đâu, có tâm trạng đâu mà đi xem! Tuy vậy Bác
vẫn thấy được một điều lạ: rất nhiều chim quạ đen. Lúc trời gần tối có hàng
chục vạn con quạ từ bốn phương bay đến, đỗ kín các mái nhà và ngọn cổ thụ trong
công viên. Sáng sớm chúng xuống đỗ kín mặt đất, nhảy nhót và kêu quạc quạc ầm
lên như cãi nhau, rồi từng nhóm kéo nhau bay qua mỗi nhóm một phương trời.
Trông thấy bầy quạ, Bác nhớ lại câu ca dao:
“Quạ nào mà chẳng đen lông
Địa chủ nào mà tốt với bần cố nông bao giờ.”
Ở Tây An vài hôm rồi đi Diên An. Bác cùng mấy
đồng chí Trung Quốc phụ trách “hộ tống” mấy ngày chiếc xe chở vải rách (mua về
để bện dép) đến Diên An. Xe này không phải là xe hơi mà cũng không phải là xe
bò, vì nhiều khi phải dùng một ngựa, một lừa và một trâu cùng kéo. Mỗi ngày chỉ
đi được vài chục cây số. Tối đến, trọ ở nhà nông dân; tiền phòng ngủ và tiền ăn
(ăn miến, ăn nhiều ít tuỳ ý) chỉ tốn 2 hào. Đi đủng đỉnh chậm chạp như thế có
hơi mệt. Nhưng lại được nhiều điều thú vị.
Trên đường, gặp nhiều nhóm thanh niên, trai có,
gái có số đông là trí thức, từ các nơi lũ lượt kéo nhau đi Diên An. Phần thì vì
không quen lao động, phần thì vì đi bộ đã nhiều ngày, lắm người mỏi mệt, hầu
như phải lê từng bước. Nhưng họ hướng về Diên An, trung tâm cách mạng, như các
tín đồ hướng về “đất thánh”. Họ quyết vượt mọi gian khổ, đi cho đến nơi. Họ
chia thành từng nhóm, giúp đỡ lẫn nhau. Hai bên đường, trên gốc cây và tảng đá,
thường có những khẩu hiệu viết bằng phấn hoặc bằng than: “Anh chị em ơi! Gần
đến X rồi! Cố gắng lên thôi!...”
Bác có gặp một nhóm thanh niên Hoa kiều đi bộ
từ Xiêm về. Bác thân mật nói chuyện về bảo vệ họ: lấy nước tiểu bóp chân cho đỡ
mỏi; vừa đi đường vừa kể chuyện hoặc ca hát cho khuây khoả...
Từ Tây An đến Diên An có nhiều vùng “xôi đỗ”:
Những huyện “trắng” thuộc Quốc dân Đảng. Những huyện “đỏ” thuộc về ta. Cũng có
huyện nửa “trắng” nửa “đỏ”, ở đấy vì huyện trưởng thường là “trắng”, mọi việc
dân cứ tìm đến cán bộ đỏ, cho nên “quan huyện” rất nhàn hạ như câu hát:
“Chiều chiều quan huyện ra câu,
Cái ve, cái chén, cái bầu sau lưng…”
Thanh niên học sinh các nơi tìm vào Diên An,
lúc đi qua vùng trắng, có khi bị bọn Quốc dân Đảng bắt cóc làm mất tích.
Ở vùng trắng, dọc đường thường có lính Quốc dân
Đảng cầm súng gác. Ở các trạm vùng đỏ, do nông dân hoặc thanh niên phụ nữ, đôi
khi các em nhi đồng cầm dáo dài ngù đỏ canh phòng.
Một buổi trưa trời nắng, Bác đang nghỉ trong một
cái quán. Khi cơm mới sôi, thì chị nhà hàng hối hả mang nồi chạy ra sau vườn.
Ngoài đường phố một toán lính Quốc dân Đảng đang khệnh khạng kéo đi, sau mươi
phút, bà chị lại hăm hở mang nồi cơm về. Bác hỏi: “Cơm đang sôi, sao thấy chị
mang chạy?” Chị nhà hàng khẽ trả lời: “Các đồng chí mới đến không biết chúng ăn
đã không có tiền thì chớ, chúng còn đánh đập người ta nữa là khác!”.
“Chúng” tức là bọn binh sĩ Quốc dân Đảng. Dân
gian ở đây có câu: “Nhất binh nhì phỉ, vơ vét thật kỹ, nhất phỉ nhì
binh”.
Cùng trên một đường phố thị trấn H, Bát lộ quân
và Quốc dân Đảng cũng có đặt trạm mộ binh mới. Bên trạm “Bát lộ” thì người đến
đăng ký đông kìn kịt. Bên trạm “Quốc dân” chẳng có ai vào, tên trạm trưởng bèn
nghĩ ra một diệu kế - nó trang hoàng trạm nó giống hệt như trạm “Bát lộ”. Kết
quả có người vào ngay. Nhưng người vào rồi người lại ra, ra để vào trạm “Bát
lộ”… Hơn nữa, nhiều lính Quốc dân Đảng bí mật trốn theo Bát lộ quân…
Nhìn qua những việc nhỏ bé, người ta cũng thấy
được lòng dân hướng về ai.
Đi độ một tuần thì đến Diên An.
Diên An là một thị trấn thường, ở địa phận núi,
nhà cửa không nhiều mấy, nhưng số người lại rất đông. Đại đa số ở nhà “hầm”,
tức là xuyên núi đất thành những tổ tò vò khổng lồ, hàng chục người ở được. Nhà
hầm có cái ưu điểm là mùa đông thì ấm, mùa hè thì mát. Những dãy nhà hầm chạy
theo chân và sườn núi. Học sinh và bộ đội ở nhà hầm. Các đồng chí lãnh tụ đảng
và chính phủ cũng ở nhà hầm.
Bác nói: Đến Diên An, trong lòng rất phấn khởi,
nhưng không khỏi bỡ ngỡ ít nhiều. Thí dụ: Lúc đầu không phân biệt được ai là bộ
đội, ai là học sinh, ai là chỉ huy, ai là cán bộ, thậm chí không phân biệt được
ai là đàn ông, ai là đàn bà! Thật vậy, vì mọi người đều ăn mặc gọn gàng và một
kiểu như nhau: áo quần nhuộm màu chàm, và giầy vải… Mấy ký giả nước ngoài đã
tặng đồng chí Chu Đức cái danh hiệu “Hoả đầu phu tướng quân” vì Chu tổng tư
lệnh cũng mặc như người đầu bếp.
Ăn thì một ngày hai bữa cơm gạo mạch với cà rốt
và củ cải. Lúc đầu Bác chưa quen, ăn không được. Nhưng vài hôm sau dần dần ăn được,
vì như câu tục ngữ nói: “Đói, thì muối cũng ngon”.
Cứ cách mươi hôm lại có bữa “ca xôi” (thêm
rau). Các “anh nuôi” khéo tiết kiệm. Khoảng mười ngày cộng lại một lần, tiết
kiệm được bao nhiêu đều dùng vào “ca xôi”: cơm trắng với cá, thịt, vịt, gà… như
một bữa tiệc no.
Về mặt vật chất, Diên An là một nơi cực kỳ giản
đơn, chất phác, khắc khổ. Về mặt tinh thần thì Diên An là một “Trời đất tự do”
cực kỳ vui vẻ, sôi nổi, phấn khởi, khẩn trương. Ai cũng tăng gia, ai cũng học
tập.
Trường học to nhất là “Kháng đại” (Kháng Nhật
quân chính đại học) trong mấy năm đã đào tạo 20 vạn cán bộ quân sự và chính
trị. Nhà trường trống rỗng, không ghế không bàn. Khi lên lớp mỗi học sinh mang
theo một cái ghế cỏn con để ngồi; khi ghi chép thì học sinh kê sách lên đầu gối
mà viết.
Lúc đó Diên Anh là nơi tổng chỉ huy của 18 vạn
quân đội cách mạng và 8, 9 khu giải phóng ở Hoa Bắc và Hoa Trung. Một không khí
bồng bột lạ thường bao trùm tất cả mọi người và biểu lộ ra trên nét mặt của mỗi
một người. Đoàn kết, phấn đấu, thắng lợi – đó là chí khí của Diên An, nó thật
xứng đáng với cái tên vẻ vang mà nhân dân Trung Quốc tặng cho nó: “Thánh địa
cách mạng”.
Gần Diên An có mấy di tích lịch sử nổi tiếng:
Lăng Hoàng đế (Hoàng đế là tên một vị vua có công đức với dân, cách đây khoảng
5.000 năm) “Đỗ Phủ xuyên” là con suối mà đời xưa đại thi sĩ Đỗ Phủ thường đi
đến; có Bửu tháp trên núi Gia Lăng. Khi đi gần Cam Tuyền. Bác nhớ lại câu “Khói
Cam Tuyền mờ mịt thức mây” trong Chinh phụ ngâm nổi
tiếng.
Vội đi Hoa Nam cho gần nước ta hơn. Bác chỉ ở
lại Diên An hai tuần, rồi trở lại Tây An. Lần này đi cùng năm chiếc xe hơi chở
học sinh, cán bộ trung cấp và cao cấp. Khi đi qua vùng “trắng” X, bọn đặc vụ
Quốc dân Đảng bắt xe dừng lại và lục soát, rồi chúng doạ giữ xe và người lại.
Đồng chí Lâm Bưu bảo chúng đại ý: “Chúng tôi đi có việc và rất quan trọng. Nếu
muốn giữ chúng tôi lại, thì các anh phải viết giấy rõ ràng…” Trước thái độ cứng
cỏi đó, bọn đặc vụ không dám lôi thôi nữa.
Việc này lại một lần nữa phơi bày sự đê hèn của
bọn Tưởng.
Đến Tây An, Bác đi Quảng Tây, vì Quảng Đông hồi
đó bị giặc Nhật chiếm rồi. Cùng đi chuyến ấy có đồng chí L. là cán bộ Đảng. Để
cho có vẻ, đồng chí L. ra vai quan trưởng, Bác thì làm vai lính hầu của
L.
Ở Quế Lâm (tỉnh lỵ Quảng Tây) có biện sự xứ và
một đơn vị nhỏ của Bát lộ quân, Bác vừa tham gia công việc Bát lộ quân, vừa tìm
cách liên lạc với trong nước. Các đồng chí Trung Quốc giúp Bác nhiều trong việc
này.
Khi đơn vị Bát lộ quân mới đến đóng ở ngoại ô
Quế Lâm, nhân dân địa phương tỏ vẻ lạnh nhạt, vì họ đã bị Quốc dân Đảng tuyên
truyền. Nhưng ra sức thực hành khẩu hiệu “Hết lòng giúp đỡ nhân dân”, cho nên
không bao lâu thì cảm tình giữa Bát lộ quân và bà con địa phương trở nên “như
cá với nước”.
Bác được đơn vị bầu làm chủ nhiệm Câu lạc bộ.
Câu lạc bộ vừa là một cơ quan văn hoá của đơn vị, vừa là cơ quan tuyên truyền
đối với nhân dân địa phương.
Được ít lâu, Bác đi Hành Dương với đồng chí
tướng quân Diệp Kiếm Anh. Vì Bát lộ quân và Tân tứ quân khéo dùng chiến thuật
du kích, luôn luôn thắng lợi trước mặt trận cũng như sau lưng địch. Ngày bắt
đầu chống Nhật, hai quân đội ấy chỉ có độ 4 vạn chiến sĩ; năm 1938 đã phát
triển đến hơn 18 vạn người, đã thu phục lại nhiều nơi bị Nhật chiếm vì quân
Quốc dân Đảng bỏ chạy, đã mở nhiều khu giải phóng rộng lớn, và đương đầu với
hơn 40 vạn quân Nhật. Còn quân Quốc dân Đảng thì liên tiếp thua trận này đến
trận khác. Thấy vậy, Tưởng Giới Thạch bèn nhờ Bát lộ quân dạy chiến thuật du
kích cho một số sĩ quan của hắn. Đồng chí Diệp Kiếm Anh lãnh đạo một số đồng
chí giáo quan phụ trách trường huấn luyện ấy.
Bác được bầu làm bí thư chi bộ, kiêm việc nghe
đài phát thanh lấy tin tức quốc tế làm tài liệu huấn luyện thời sự cho đơn vị.
Cả hai công việc đều mới lạ, nhưng cũng đều thú vị.
Trong chi bộ thì tướng có, binh có, trai có,
gái có; tiếng nói đông, tây, nam bắc đều có. Trong đơn vị thì có chiến sĩ cũ,
có chiến sĩ mới, có một số không phải đảng viên, chi bộ đều phải săn sóc họ.
Việc thì việc lớn, việc nhỏ từ việc ăn uống, học tập, giải trí, kỷ luật cho dến
việc riêng của mọi người đều tìm đến bí thư. Bác cùng hai đồng chí phó bí thư
(phụ nữ) làm việc suốt ngày.
Việc nghe radiô cũng không dễ, vì lần này là
lần đầu tiên mó tay đến máy thu thanh, không biết đài nào phát giờ nào và làn
sóng nào, Bác thức suốt năm đêm, vặn đi vặn lại tìm nghe. Đến khuya đêm thứ sáu
mới nghe được đài Luân Đôn.
Trường huấn luyện du kích, kết quả thế nào?
Muốn đánh du kích thì phải dựa hẳn vào lực lượng của nhân dân, phải được nhân
dân yêu mến và giúp đỡ. Muốn đạt được mục đích đó thì mỗi đội viên du kích phải
yêu kính nhân dân, giúp đỡ nhân dân, cùng nhân dân đồng cam cộng khổ, đoàn kết
thành một khối. Đàng này quân Quốc dân Đảng đều thuộc giai cấp bóc lột, quen
thói hà hiếp nhân dân, họ không thể hành được cái họ đã học. Kết quả là “Chữ
thầy lại trả thầy”.
Bọn Tưởng Giới Thạch đánh Nhật thì rất nhát,
chống cộng lại rất hăng. Âm mưu của chúng là mượn tay phát xít Nhật để tiêu
diệt quân đội cách mạng. Không ngờ Bát lộ quân và Tân tứ quân càng ngày càng
đánh sâu vào sau lưng địch, mở rộng khu giải phóng phát triển bộ đội mình, và
thế lực ngày càng mạnh.
Âm mưu nham hiểm kia đã thất bại, cuối năm
1939, Tưởng Giới Thạch công khai mở cuộc chống cộng, phái quân đánh vào Biên
khu là nơi Trung ương Đảng Cộng sản đóng, và đánh vào những vùng thuộc phạm vi
Bát lộ quân và Tân tứ quân. Đảng Cộng sản vừa phải đánh Nhật, vừa phải chống
Tưởng, lại vừa phải khôn khéo giữ gìn cho Mặt trận Thống nhất khỏi tan
vỡ.
Trung Quốc đang ở trong vùng binh lửa, thì lửa
chiến tranh bắt đầu cháy ở châu Âu. Thế là thảm hoạ chiến tranh lan hầu khắp
thế giới…
Từ năm 1936, Mặt trận Bình dân Pháp thắng thế
và lên nắm chính quyền. Do đó, ở Việt Nam ta xiếng xích thực dân cũng được nới
lỏng đôi chút. Một số đồng chí tù đày đã được thả về và tiếp tục hoạt động. Cơ
sở Đảng được dần dần khôi phục. Phong trào quần chúng dần dần lên cao.
Cuối năm 1939, vì tình hình chiến tranh, lại vì
Đảng Xã hội Pháp ươn hèn, chính phủ Mặt trận Bình dân Pháp bị đổ, bọn phản động
lên cầm quyền. Thực dân Pháp ở Việt Nam lại tung hoành như cũ. Chút đỉnh tự do
mà nhân dân ta đã giành được trong mấy năm qua đều bị chúng xoá sạch. Lại khủng
bố. Lại vơ vét, lại bắt lính, bắt phu. Đảng ta phải đi vào hoàn toàn bí
mật.
Ở Pháp có phòng tuyến Ma–gi–nô chạy dọc biên
giới Pháp–Đức. Xây dựng ở dưới đất có 3 tầng, bằng xi măng cốt sắt. Kho đạn,
kho lương, nước máy, đèn điện… các thứ đều đủ. Tại phòng tuyến này có một triệu
quân. Tướng tá Pháp khoe khoang rằng: Địch có cánh cũng không bay qua được.
Nhưng chỉ trong vài tuần, quân Đức đã bao vây kín phòng tuyến này bắt sống cả
một triệu binh lính và mấy trăm ông tướng làm tù binh. Thế rồi ào ạt kéo quân
chiếm lấy thủ đô Pa–ri và một nửa nước Pháp. Tháng 6–1940, Pháp ở “nước mẹ” đầu
hàng Đức. Tiếp đến thực dân Pháp ở Đông Dương cũng đầu hàng Nhật. Giặc Nhật kéo
vào Việt Nam, từ đó đồng bào ta bị một cổ hai tròng!
Không thể khoanh tay ngồi chịu, đồng bào ta
liên tiếp khởi nghĩa ở Bắc Sơn (9-1940), ở Nam Kỳ (11-1940) và ở Đô Lương (Nghệ
An). Những tin tức sôi nổi ấy làm cho Bác càng nóng ruột.
Ở biên giới Quảng Tây không chắp được liên lạc,
các đồng chí Trung Quốc giúp cho Bác đi Vân Nam. May mắn thay! Đến Côn Minh thì
gặp các đồng chí Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Hoàng Văn Hoan và mấy đồng chí
nữa. Thế nào chuyến này cũng nhất định về nước để bàn định kế hoạch xong, mấy
anh em cùng nhau đi trở lại Quảng Tây. Cùng đi trên thuyền có mấy Việt kiều
khác. Để giữ bí mật, Bác đóng vai một người viết báo Trung Hoa, không biết
tiếng Việt. Nhưng một hôm đồng chí Hoan để tàn thuốc rơi xuống áo mà không
biết, Bác quên cả bí mật mà thốt ra: “Cháy áo, cháy áo kìa!”.
Nghe đến đây chúng tôi cười ồ lên. Bỗng văng
vẳng nghe: tiếng trẻ con hát từ đường xa vọng lại. Nhìn sang bên kia đường,
chúng tôi thấy chênh chênh bên sườn đồi có hơn một chục ngôi nhà, nấp gọn kín
dưới những cây đa rậm rạp. Bác cùng chúng tôi ghé vào thăm.
Trong một ngôi nhà tranh bé nhỏ, nhưng xinh xắn
và sạch sẽ, có mấy dãy ghế dài bằng tre, hơn hai mươi em trai và gái trạc 10
tuổi, đang học ê a. Cô giáo là người Tày, mặt mũi thông minh và hiền hậu. Thấy
chúng tôi vào, các em vui mừng và kêu ầm lên: “Các chú bộ đội, các chú bộ
đội”.
Với một giọng nghiêm trang, cô giáo bảo: “Các
em giữ trật tự”.
Các em im phăng phắc. Cô giáo bảo: “Các em ra
sắp hàng!”.
Các em ra sắp hàng hai. Cô giáo bảo: “Nghiêm!
Các em chào các chú bộ đội!” Các em đồng thanh hô to: “Chào các chú ạ!”.
Bác xem sách các em và khen các em viết chữ
khá. Bỗng thấy bên cạnh cái bàn nhỏ của cô giáo, có một cháu bé ngồi trong cái
nôi. Cháu bé vạm vỡ, rất dễ thương. Bác bế nó lên, nó không sợ lạ mà lại cười.
Bác hỏi cô giáo: “Cháu này là con của cô, phải không?”. Cô giáo thẹn đỏ cả mặt
ngập ngừng trả lời: “Thưa không phải ạ! Chị hàng xén gửi cháu ở đây để đi làm
nương đấy ạ”.
Đang nói chuyện thì nghe có tiếng máy bay. Bác
hỏi: “Các cháu có sợ máy bay giặc không?”. Các em tranh nhau trả lời: “Thưa
không ạ! Các cháu không sợ. Các cháu có hầm trú ẩn đằng kia kìa!”.
Bác hỏi: “Các cháu biết hát không?”. Các em
thưa: “Hát bài 'Kết đoàn’ ạ!” Rồi Bác cầm nhịp: “Kết… ết đo… oàn… Hai… Ba!” Các
em hát, cô giáo cũng hát. Chúng tôi cũng hát.
Trước khi từ giã đi ra, Bác quay lại hỏi cô
giáo: “Cô biết 'khôn hé’ là ai không? “Như không nén nổi tấm lòng sung sướng,
cô giáo Thìn chạy lại ôm chầm lấy Bác và nói với một giọng cảm động: “Thưa có
biết chứ! Nhưng cháu phải giữ bí mật cho Bác!”.
Cô Thìn và các em tiễn chúng tôi đến đường cái
quyến luyến mãi không muốn rời tay…
Ra đến đường cái Bác lại tiếp tục kể
chuyện:
Khi từ Côn Minh đến Tĩnh Tây, thì gặp một nhóm
thanh niên Cao Bằng, dẫn đầu là các đồng chí Quảng Ba, Hoàng Sâm… Họ sang đây
tìm người lãnh đạo cách mạng và đã gặp Trương Bội Công.
Trương Bội Công là người Việt Nam sang Trung
Quốc và làm việc cho Quốc dân Đảng đã lâu năm. Tuy không hiểu biết gì về quân
sự, nhưng y đã được Tưởng Giới Thạch phong cho hàm thiếu tướng. Nay Tưởng phái
y đến biên giới, nhằm lung lạc cách mạng Việt Nam. Gặp nhóm thanh niên, Trương
Bội Công khoe khoang nhiều lắm, lên mặt “chí sĩ yêu nước, cách mạng lão thành”
và sẵn sàng thu nạp đám thanh niên làm “bộ hạ” cho y.
Nhưng anh em thanh niên cũng tinh quái đáo để.
Chỉ nghe cách y nói khoác lác, họ cảm thấy y không phải là người cách mạng chân
chính. Họ thất vọng. Họ sắp kéo nhau trở về Cao Bằng, thì nhóm Bác vừa đến Tĩnh
Tây. Các đồng chí Đồng, Giáp… tìm gặp nói chuyện với đám thanh niên hăng hái
đó. Giải thích cho họ rõ bước đường cách mạng hiện nay. Bàn với họ mở ban huấn
luyện, v.v… Anh em thanh niên rất hoan nghênh. Nói ngay, làm ngay. Tối hôm đó
họ rời khỏi Tĩnh Tây. Sáng hôm sau, Trương thiếu tướng ngủ dậy thì không thấy
“bộ hạ” của y đâu nữa, cho người đuổi theo, thì muộn quá rồi!
Đồng chí Lê Quảng Ba dẫn Bác và nhóm thanh niên
đi cả đêm, đến một làng Trung Quốc gần biên gới Việt Nam, mượn nhà người quen,
mở ban huấn luyện, do Bác phụ trách. Lớp huấn luyện rất sôi nổi, dân chủ và vui
vẻ. Bà con Trung Quốc trong làng không hiểu chúng mình dạy cái gì, học cái gì,
nhưng đều khen thanh niên Việt Nam đoàn kết, chăm học, siêng làm. Bà con trong
làng nhất là những người cho mượn nhà rất mến chúng ta. Vì vò nước bao giờ cũng
đầy, đống củi bao giờ cũng cao, nhà cửa bao giờ cũng sạch, trong nhà có việc gì
chúng ta cũng ra tay làm giúp. Đặc biệt các em nhi đồng luôn luôn xoắn xít
chung quanh anh em ta để học hát, học nhảy múa, không nghịch ngợm, và đánh nhau
như trước nữa. Chúng ta đã góp phần làm cho cái làng tĩnh mịch trong một thung
lũng âm u vui hẳn lên… Bác bảo các đồng chí thanh niên: “Đó là một cách dân vận
thiết thực đấy”.
Vào khoảng tháng 2–1941, vừa đến Tết âm lịch
thì ban huấn luyện cũng vừa kết thúc. Tối mồng một Tết, được tin chuyên viên
Quốc dân Đảng sắp đến kinh lý vùng này. (Tin này sau hoá ra tin vịt.) Sợ bị lộ,
sáng sớm mồng hai Tết, Bác cùng tất cả anh em thanh niên cuốn gói chuồn, mặc dù
bà con trong làng khẩn khoản mời ở lại ăn Tết đến ngày hạ nêu hẵng đi.
Hôm đó, sương mù dày đặc, ngồi giáp mặt nhau
cũng không thấy rõ nhau. Mọi người cho khí hậu như thế là tốt, vì để giữ bí
mật. Đi cách làng một thôi khá xa, ai cũng mỏi chân và đói bụng. Bác bảo: “Nơi
đây kín đáo, chúng ta ngồi nghỉ một chốc…” Nghỉ chưa đầy hai phút thì trời sáng
sương tan. Té ra ngồi nghỉ giữa cánh đồng ruộng, chẳng kín đáo chút nào! Mọi
người lại vội vàng khoác gói lên đường, bước nhanh hướng về phía Tổ quốc.
Chiều hôm đó, đồng chí Quảng Ba dẫn Bác và cả
nhóm thanh niên về Pác Bó. Xa rời Tổ quốc đã hơn 30 năm. Đã mất bao nhiêu thời
giờ và sức lực tìm liên lạc mà không được. Bao nhiêu năm thương nhớ, đợi chờ.
Hôm nay mới bước chân về nơi non sông gấm vóc của mình. Khi bước qua cái bia
giới tuyến, lòng Bác vô cùng cảm động. Từ hôm đó, cái hang Pác Bó trở nên “đại
bản doanh” của chúng ta. Hội nghị lần thứ tám của Trung ương đã khai mạc ở Pác
Bó. Ở đó đã tổ chức những ban huấn luyện ngắn ngày để đào tạo cán bộ. Mở lớp
dạy chiến thuật du kích, phát triển tổ chức Việt Minh và cơ sở Đảng, đặt kế hoạch
vũ trang chống Pháp, chống Nhật, v.v… Những việc đó đã có nhiều đồng chí thuật
lại, chắc các chú đã được nghe rồi. Bây giờ Bác chỉ kể những chuyện mà các chú
chưa biết hoặc ít được nghe, tức là cuộc kháng chiến của Trung Quốc và cuộc
Chiến tranh Thế giới lần thứ hai.
Trong cuộc kháng chiến vô cùng gay go mà cũng
vô cùng anh dũng, lực lượng của Đảng Cộng sản Trung Quốc phát triển rất nhanh;
từ ngày bắt đầu chống Nhật - số đảng viên là 4 vạn người, năm 1940 tăng lên 80
vạn người. Tân tứ quân từ một vạn người tăng lên 10 vạn người.
Lực lượng cộng sản càng phát triển, thì bọn
Tưởng Giới Thạch càng lo sợ và tìm đủ mọi cách để phá hoại.
Năm 1941, ở châu Âu, phát xít Đức phản bội điều
ước đã ký kết, bất thình lình kéo quân ào ạt vào Liên Xô. Ở châu Á, phát xít
Nhật cũng mở rộng cuộc chiến tranh ở Thái Bình Dương. Để khỏi bận bịu nhiều về
hậu tranh ở Trung Quốc, phát xít Nhật dùng phần lớn quân đội đi càn quét các
khu giải phóng. Có khi chúng càn đi càn lại luôn ba, bốn tháng liền. Chúng thi
hành chính sách “tam quang” - giết sạch, cướp sạch, phá sạch. Trong khi đó
Tưởng Giới Thạch lại phái 90 vạn quân phong toả Bát lộ quân và Tân tứ
quân.
Năm 1941–1942, ở nhiều khu giải phóng lại bị
mất mùa nặng. Lương thực hết, quân và dân phải ăn lá cây, rễ cỏ trừ cơm. Mùa
đông tuyết phủ đầy núi đầy đồng, gió rét tận xương, tận tuỷ, mà áo chăn thiếu,
giày dép cũng thiếu. Những binh sĩ bị thương, những cán bộ đau yếu đều thiếu
thuốc men. Thật là gian nan cực khổ.
Trong hoàn cảnh vô cùng gay go ấy, trong cán bộ
quần chúng không khỏi có người đâm ra tiêu cực, bi quan. Để củng cố lại hàng
ngũ, Trung ương kiên quyết mở hai cuộc vận động lớn trong một lúc. Một là chỉnh
Đảng - tức là uốn nắn lại tư tưởng, tác phong trong Đảng. Bất kỳ làm việc gì. Ở
cương vị nào, cán bộ và đảng viên phải làm gương mẫu. Hai là phát động phong
trào tăng gia sản xuất, phát triển kinh tế và “tinh binh, giản chính!”.
Kết quả về chính trị là đã đánh lui không khí
bi quan. Về kinh tế thì các đơn vị bộ đội, các cơ quan, các trường học đã đi
đến hoàn toàn tự túc, hoặc tự túc một phần. Hai vấn đề trên đã giải quyết,
Trung ương chủ trương đẩy mạnh chiến thuật du kích và “vườn không nhà trống”,
làm cho giặc Nhật mò đến đâu cũng đụng đầu vào sức chiến đấu mới của quân và
dân ta. Cuối cùng là kế hoạch càn quét của địch bị phá tan.
Năm 1943–1944, quân đội Liên Xô đại thắng quân
phát xít Đức ở châu Âu, thì Trung Quốc Bát lộ quân và Tân tứ quân cũng phát
triển khu giải phóng khắp cả nước.
Tháng 8–1945, quân đội Liên Xô đánh tan Quan
đông quân là quân đội tinh nhuệ nhất của phát xít Nhật chiếm đóng ở miền Đông
Bắc Trung Hoa. Như con rắn bị đánh vỡ đầu, giặc Nhật buộc phải đầu hàng.
Hồi đó, Bát lộ quân và Tân tứ quân có cả thảy 1
triệu 28 vạn binh sĩ; khu giải phóng rộng lớn gồm có 130 triệu nhân dân và hơn 2
triệu dân quân du kích. Đảng Cộng sản có 1 triệu 20 vạn đảng viên.
Những năm đau khổ dưới gót sắt của giặc Nhật
vừa chấm dứt, nhân dân Trung Quốc mong mỏi sẽ được hưởng một đời sống hoà bình.
Nhưng đế quốc Mỹ liền cấu kết với bọn Tưởng Giới Thạch, gây lại cuộc nội chiến,
hòng tiêu diệt cách mạng để giữ gìn quyền thống trị độc tài của chúng.
18 năm nắm quyền thống trị, bốn “đại gia đình”
(là Tưởng Giới Thạch, Tống Tử Văn, Khổng Tường Hy, Trần Lập Phu) thẳng tay vơ
vét xương máu của nhân dân để làm giàu. Tài sản của chúng trị giá 20 tỷ đô-la
Mỹ. Đế quốc Mỹ lại đã “hùn” thêm cho chúng 6 tỷ đô-la. Tư bản quan liêu và tư
bản đế quốc đã ăn cánh với nhau, đè đầu cưỡi cổ, bóc lột tàn tệ hơn 600 triệu
nhân dân Trung Quốc.
Để gây lại nội chiến, đế quốc Mỹ đã trang bị
với vũ khí hiện đại cho 4 triệu 30 vạn quân Tưởng, cộng với một triệu vũ khí
lấy được của quân Nhật đầu hàng, ngoài ra còn có hải quân và không quân Mỹ giúp
sức, 70% đất đai Trung Quốc đang ở dưới quyền cai trị của Tưởng.
Trong lúc đó, Giải phóng quân chỉ có một triệu
28 vạn người và 30% đất đai. (Từ ngày nội chiến Bát lộ quân và Tân tứ quân đổi
tên là Trung Quốc Nhân dân Giải phóng quân.)
Với địa bàn rộng, quân đội nhiều, trang bị tốt,
lại có quan thầy Mỹ giúp đỡ, bọn Tưởng đã hý hửng khoác lác rằng: Sớm thì 3
tháng, chậm thì 6 tháng, chúng sẽ tiêu diệt Giải phóng quân.
Những người lừng chừng cũng lo sợ rằng: So sánh
lực lượng hai bên khác nhau quá xa, Giải phóng quân đánh nhau với Tưởng Giới
Thạch khác nào châu chấu đấu với voi!
Nhưng Trung ương Đảng và đồng chí Mao Trạch
Đông thì quả quyết nói: “Chúng ta cần phải và có thể đánh bại bọn Tưởng… vì
chúng ta là lực lượng cách mạng đánh lực lượng phản cách mạng…” Song song với
công việc quân sự; Đảng tiến hành cải cách ruộng đất trong các khu giải phóng.
Chính sách ấy đã nâng cao nhiệt tình cách mạng của nông dân, họ hăng hái tham
gia Giải phóng quân và đội du kích. Đồng thời Đảng đẩy mạnh công tác Mặt trận
Nhân dân Thống nhất. Đoàn kết các giới công, nông, binh, học, thương; các đoàn
thể nhân dân; các đảng phái dân chủ; các dân tộc thiểu số và các nhân sĩ yêu
nước - tạo thành một lực lượng khổng lồ chống Mỹ-Tưởng. Từ đó giặc Tưởng càng
đánh càng yếu, Giải phóng quân càng đánh càng mạnh. Cuối năm 1948, đầu năm
1949, Giải phóng quân đánh đâu thắng đó, ào ạt tiến lên như ngọn thuỷ triều.
Tháng 3 giải phóng vùng Bắc Kinh. Tháng 4 giải phóng Nam Kinh, rồi lần lượt
giải phóng cả nước.
Ngày 1-10-1949, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản, thành lập nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa.
Thắng lợi vĩ đại của nhân dân Trung Quốc tức là
thắng lợi của Chủ nghĩa Mác-Lênin vĩ đại. Nó có ảnh hưởng rất lớn đối với thế
giới:
Nó làm cho phe xã hội chủ nghĩa ngày càng mạnh
thêm.
Nó khuyến khích nhân dân các nước thuộc địa
mạnh bạo nổi lên đấu tranh chống đế quốc và giành lấy tự do độc lập.
Nó làm cho thế lực của đế quốc chủ nghĩa suy
sụp rất nhiều, vì thêm một phần tư nhân dân thế giới đã thoát khỏi xiềng xích
của chúng.
Còn đế quốc Mỹ thì “tiền mất tật mang”, càng
bộc lộ hình dạnh xấu xa của con hổ giấy.
Đối với cuộc kháng chiến của Việt Nam ta, thắng
lợi của nhân dân Trung Quốc đã giúp đỡ nhân dân ta giành được thắng lợi cuối
cùng.
Bắt đầu kể chuyện cuộc chiến tranh yêu nước (ta
quen gọi là kháng chiến) của Liên Xô, Bác nói: Về địa lý, Liên Xô cách Việt Nam
ta hàng nghìn cây số (đường máy bay Mát-xcơ-va đến Hà Nội hơn 8700 cây số). Hồi
đó Đảng ta đang hoạt động bí mật. Báo chí khi nhận được, khi không. Tin tức rất
lõm bõm và chậm chạp. Tuy vậy, Liên Xô bị Đức phát xít tiến công là một biến cố
vô cùng to lớn. Nó làm ầm cả thế giới, nó vang đến tận cái hang bí mật trên
đỉnh núi đá Cao Bằng!
Tổ quốc cách mạng bị tiến công! Những người
cộng sản khắp năm châu ai nghe tin tức ấy mà không nóng ruột!
Lúc đầu Bác có ý định giữ bí mật, không vội đưa
tin tức ấy ra, chờ có thêm tài liệu chắc chắn rồi sẽ báo cáo với các đồng chí
và đồng bào địa phương. Nhưng chờ đến bao giờ? Rút cuộc đưa tin tức ấy ra một
cách dè dặt và có giải thích. Thí dụ: Không nói rằng mấy hôm đầu quân phát xít
đã tiến sâu vào gần 600 cây số, mấy thành phố Liên Xô tạm bị địch chiếm, v.v…
mà chỉ nói phát xít Đức tiến công Liên Xô thôi!
Khi mới nghe tin, mọi người tỏ vẻ sửng sốt và
lo âu. Nhưng một lát sau, thì nhiều người giương nắm tay lên và quả quyết nói:
“Không sợ! Liên Xô nhất định sẽ thắng!” Điều này tỏ rõ trình độ chính trị khá
cao của các đồng chí ta và họ tin tưởng sắt đá vào lực lượng của Liên Xô vĩ
đại.
Không chờ Bác giải thích, một đồng chí cán bộ
đứng lên phát biểu ý kiến, đại ý nói: Ngày Cách mạng tháng Mười thành công,
kinh tế của Liên Xô rất kém cỏi. Ngoài thì quân đội của 14 nước đế quốc đánh
vào. Trong thì khắp nới bọn phản động nổi loạn. Hồng quân thì mới được tổ chức,
trang bị thiếu thốn mọi bề. Tuy vậy, Đảng Bôsêvích của Lê-nin đã lãnh đạo nhân
dân Liên Xô đập tan nội loạn, đánh lui đế quốc, đưa Liên Xô đến thắng lợi hoàn
toàn. Ngày nay tình hình khác hẳn với thời đó, lực lượng của Liên Xô đã mạnh
gấp trăm nghìn lần. “Vỏ quýt dày có móng tay nhọn”, dù bọn phát xít Đức có mạnh
đến mấy chăng nữa, chúng cũng sẽ thất bại, và Liên Xô nhất định sẽ thắng
lợi!...”
Tiếng vỗ tay dậy cả vùng rừng. Không ai bảo ai,
mọi người cùng đồng thanh hô to: “Liên Xô nhất định thắng lợi! Đảng Bônsêvích
muôn năm!”. Liền sau cuộc họp đó, mỗi cán bộ phụ trách một địa phương để giải
thích cho nhân dân rõ.
Bác nói tiếp: “Những chuyện Bác sẽ kể cho các
chú nghe, lúc đó Bác cũng không biết hết. Sau Cách mạng tháng Tám thắng lợi,
nhân dân ta nắm chính quyền Bác mới có dịp tìm thêm tài liệu để biết rõ
thêm.
Khuya hôm 21-6-1941, tên chỉ huy một đơn vị
phát xít Đức đóng gần biên giới Liên Xô ra lệnh tập họp bộ đội lại. Từ một
chiếc phong bì ngoài có hai chữ: “Tối mật”, nó lấy ra một trang giấy và đọc to:
“4 giờ rưỡi sáng 22-6-1941, toàn quân ta sẽ mạnh bạo tiến công vào Liên Xô. Ký
tên: Đại bản doanh của thủ lĩnh tối cao Hít-le!”.
Nó vừa dứt lời thì một viên tiểu đội trưởng tên
là Vim-hum-sun (Wilhelm Schultz) vùng chạy về phía biên giới Liên Xô. Tên chỉ
huy phát xít hét lên: Mày chạy đâu? Bắn. Mấy tên lính rượt theo bắn. Anh
Vim-hem-sun cứ cắm đầu chạy, rồi nhảy xuống bơi sang bên kia sông, tuy anh đã
bị thương nặng.
Nghe tiếng súng, mấy đồng chí Hồng quân chạy ra
bờ sông xem xét, và vớt anh Sun lên. Sun cố hết sức mà chỉ nói được một câu:
“Tôi… cộng sản Đức… Mai sớm… chúng chiến tranh… chủ nghĩa cộng sản muôn… năm!”.
Nói xong thì anh tắt thở. Trên nét mặt anh vừa có vẻ đau đớn bởi nhiều vết
thương, vừa có vẻ sung sướng vì là làm tròn trách nhiệm của một người cộng
sản.
Sáng 22-6-1941, ánh bình minh mát mẻ báo một
ngày tươi đẹp, nhân dân Liên Xô dậy sớm, bắt đầu chuẩn bị công việc hàng ngày.
Bất thình lình tiếng hàng trăm chiếc máy bay Đức ném bom long trời chuyển đất…
Thế là chiến tranh Xô- Đức (một bộ phận lớn nhất trong cuộc chiến tranh thế
giới lần thứ hai) nổ bùng.
Phát xít Đức gọi cuộc chiến tranh này là “chiến
tranh chớp nhoáng”. Hít-le đã quyết định từ 2 tháng đến 4 tháng, chậm lắm là 5
tháng sẽ tiêu diệt Liên Xô.
Tên tham mưu trưởng của nó tên là Phôn-bóc (Von
Bock) còn chủ quan hơn. Hắn nói: “Chỉ trong ba tuần thì sẽ kết thúc những trận
đánh lớn. Và chỉ cần sáu tuần thì Liên Xô sẽ bị tiêu diệt hoàn toàn”.
Để thực hiện âm mưu ấy, chúng đưa vào mặt trận
này:
190 sư đoàn tinh nhuệ
3.500 xe tăng và xe bọc sắt
5.000 chiếc máy bay.
50.000 súng đại bác…
Tên đại tướng phát xít Đức Tô-mat (Thomas), còn
khoác lác hơn cả. Nó nói: “Hễ quân Đức vào đất Nga, thì chính quyền Bônsêvích
sẽ sụp đổ”.
Từ ngày bắt đầu cuộc chiến tranh Xô-Đức, Đảng
ta ra sức tuyên truyền vận động ủng hộ Liên Xô chống phát xít Đức.
Tháng 9-1941, lầm tưởng chúng sẽ thắng lợi mọt
cách dễ dàng. Hít-le ra lệnh cho quân đội nó: Nếu Mát-xcơ-va và Lê-nin-gơ-rát
xin hàng thì cũng quyết không cho hàng, mà phải tiêu diệt sạch hai thành phố
này, cả người lẫn vật!
Suốt tháng 9, quân phát xít Đức gồm có 80 sư
đoàn, trong đó 23 sư đoàn xe tăng, tiến đến bao vây Mát-xcơ-va.
“Lửa thử vàng, gian nan thử sức”, trước tình
thế gay go đó hơn 10 vạn đảng viên, 26 vạn đoàn viên thanh niên cộng sản tình
nguyện lên mặt trận. Hơn 50 vạn phụ nữ đêm ngày đào đắp công sự chung quanh
Mát-xcơ-va. Các nhà máy quân dụng ở Mát-xcơ-va cứ tiếp tục làm việc. Công nhân,
thanh niên tổ chức những đội “ủng hộ mặt trận”, bảo đảm hoàn thành gấp đôi mức
kế hoạch đã định. Sau một thời gian cầm cự, tháng 1-1942, Hồng quân phản công
và đánh tan vòng vây Mát-xcơ-va.
Đối với Liên Xô, mùa thu năm 1942 là một mùa
thu cực kỳ chật vật. Trên các mặt trận, lực lượng phát xít Đức tăng đến 266 sư
đoàn. Chúng chiếm đóng những vùng gồm 47% đất ruộng, 45% nhân dân và 33% tổng
sản lượng công nghiệp cả nước. Những xí nghiệp chuyển về hậu phương tuy bắt đầu
sản xuất, nhưng chưa hoàn toàn vào nề nếp. Số người và số hàng cần chở ra mặt
trận ngày càng tăng, nhưng sức giao thông vận tải tiến chưa kịp… Tuy vậy, với
tinh thần Bônsêvích, nhân dân Liên Xô quyết vượt mọi khó khăn.
Tháng 8 năm ấy, Bác có việc sang Trung Quốc,
thì bị bọn Quốc dân Đảng bắt. Sau khi bị chúng trói giải đi suốt 18 nhà lao, từ
trại giam này đến trại giam khác, chúng đưa Bác về giam ở Liễu Châu. Trong khi
nhân dân Liên Xô anh em đang dốc hết lực lượng vào cuộc kháng chiến thần thánh,
khi phát xít Nhật–Pháp đang hoành hành ở Việt Nam, khi đồng bào ta đang quằn
quại dưới hai ách áp bức, khi công việc Đảng và Mặt trận Việt Minh đang nhanh
chóng lan rộng ăn sâu vào quần chúng nhân dân – mà mình thì phải nằm queo trong
một phòng giam của bọn phản động Trung Quốc, sốt ruột biết bao! Đây không phải
là một trại giam chính cống, mà chỉ là một “cấm bế thất” - một phòng giam nhỏ
hẹp ngay bên cạnh đội cảnh vệ của tướng Trương Phát Khuê. Chỉ một mình Bác bị
nhốt ở đó. Lâu lâu mới có một vài sĩ quan Quốc dân Đảng bị phạt vào ở đó năm,
bảy ngày. Bác lợi dụng những dịp đó để học tiếng “Quan”.
Bác gây cảm tình được với vài người lính gác.
Mỗi bữa ăn xong còn thừa rau bí luộc, họ đưa cho Bác để “cải thiện sinh hoạt”
phần nào. Điểu tốt nhất là một ngày họ bí mật quẳng vào cho Bác một tờ Liễu
Châu nhật báo, đó là một món ăn tinh thần. Nhờ đó mà Bác theo dõi được tin
tức chiến sự.
Tháng 2-1943, xem thấy tin: sau hơn sáu tháng
chiến đấu vô cùng anh dũng, Hồng quân đã đại thắng ở Sta-lin-gơ-rát, bắt sống
33 vạn quân Hít-le… Bác mừng nhảy lên, suýt đụng đầu vào kèo phòng giam. Bác tự
bảo nhất định phải ăn mừng cuộc thắng lợi này. Trong túi chỉ còn vẻn vẹn 1 đồng
bạc, Bác đưa tuốt cả số tiền đó nhờ người lính gác mua giùm cho ít kẹo và “dầu
cháo quẩy” (mua 1 đồng bạc chỉ được 5 hào, đó là quy chế của nhà giam), để làm
bữa tiệc. Sau khi phấn khởi hô khe khẽ mấy khẩu hiệu: Đảng Bônsêvích muôn năm!
Hồng quân muôn năm! Liên Xô thắng lợi muôn năm! Bác ngồi xuống một mình “chén
tạc, chén thù” rất đàng hoàng vui vẻ. Từ đó về sau, mỗi tin tức Liên Xô thắng
lợi là một món quà tinh thần từ phương xa đến để an ủi Bác.
Tôi nói: “Thưa Bác, lúc đang bị giam, Bác có
làm nhiều thơ. Nếu Bác cho đăng lên báo, chắc cán bộ và đồng bào sẽ hoan nghênh
lắm…”
Bác cười và trả lời: “Các cháu không nhắc thì
Bác cũng không nhớ đến nữa. Bác không phải là người hay thơ, mà thơ của Bác
cũng không hay. Mười mấy tháng bị nhốt trong một cái phòng u ám và quạnh hiu,
một mình một bóng, không được nói chuyện với ai, không có việc gì làm. Muốn ‘du
lịch’ thì đi dọc chỉ 5 bước, đi ngang 4 bước. Để ‘tiêu khiển’ ngày giờ, chỉ có
cách nghêu ngao, vắt tắt ghi lại mấy nét sinh hoạt của người ở tù, cho khuây
khoả thế thôi, phải thơ phú gì đâu…”
Khi được thả ra, mắt Bác nhìn kém, chân bước
không được. Bác quyết tâm tập đi, mỗi ngày 10 bước. Dù đau mà phải bò, phải
lết, cũng phải được 10 bước mới thôi. Cuối cùng Bác chẳng những đi vững mà còn
trèo được núi. Lần đầu tiên lên đến đỉnh núi, Bác cao hứng làm một bài thơ chữ
Hán như sau:
“Vân ủng trùng sơn, sởn ủng vân
Giang tâm như cánh tĩnh vô trần
Bồi hồi độc bộ Tây phong lĩnh
Nam vọng trùng dương ức cố nhân.”
Bác chỉ nhớ được bài thơ đó. Chúng tôi hết sức
chỉ tạm dịch được thế này:
“Mây ôm núi, núi ôm mây
Lòng sông sạch, chẳng mảy may bụi hồng
Bùi ngùi dạo bước Tây phong
Trông về cố quốc, chạnh lòng nhớ ai.”
Hồng quân đại thắng ở Sta-lin-gơ-rát là một
bước tiến rất to lớn trong cuộc kháng chiến của nhân dân Liên Xô, cũng như
trong lịch sử chiến tranh thế giới lần thứ hai. Trước hết nó đã đánh tan cái
“mê tín” cho rằng quân Hít-le là “quân tất thắng, quân vô địch”. Hai là nó
chứng tỏ Liên Xô ngày càng mạnh và đã nắm quyền chủ động trong cuộc chiến tranh
khổng lồ này. Ba là sau trận đó, cái gọi là “chiến tranh chớp nhoáng” (mà bọn
phát xít luôn muốn khoe khoang) đã bị tan tành và từ đó quân phát xít Đức ở các
mặt trận khác chỉ có bại, không có thắng. Hồi tháng 11-1942, Hít-le đã phải thở
than rằng: “Cuộc chiến tranh với Nga có thể kéo dài hơn 10 năm, thậm chí 30
năm!”. Nhưng Liên Xô không để cho nó kéo dài 30 năm, mà chỉ non trong 3 năm thì
Hít-le phải tự tử và chế độ phát xít Đức cũng bị tiêu diệt.
Tháng 9-1943, quân đội phát xít Ý của
Mút-xô-li-ni đầu hàng. Ít lâu sau tên quỷ khát máu Mút-xô-li-ni bị quân du kích
Ý treo cổ. “Liên minh chống cộng” Đức–Ý-Nhật như cái kiềng ba chân. Nay một
chân là phát xít Ý đã bị bẻ gãy, rồi đây hai chân kia cũng sẽ gãy theo.
Tháng 1-1944, thành phố Lê-nin-gơ-rát anh dũng
được giải vây…
Ba thành phố to nhất và quan trọng nhất là
Mát-xcơ-va, Lê-nin-gơ-rát và Sta-lin-gơ-rát đều đã hoàn toàn giải phóng. Từ đó
Hồng quân tiến về các mặt trận phía Tây như mưa giông gió bão, đánh đuổi quân
Đức và giải phóng địa phương này rồi đến địa phương khác.
Tháng 9-1944, đất đai Liên Xô hoàn toàn được
khôi phục, và Hồng quân đã tiến vào địa phận Đức – sào huyệt của kẻ thù.
Tháng 4-1945, Hồng quân ba mặt vây đánh Bá
Linh. Sau mười ngày chiến đấu kịch liệt hôm 30-4-1945 cờ đỏ búa liềm của Liên
Xô (do hai đồng chí Hồng quân cắm lên) phất phới tung bay trên nhà lầu quốc hội
Đức phát xít.
Hồng quân thắng lợi hoàn toàn. Con quỷ Hít-le
tự sát. Nước Đức phát xít đầu hàng.
Trong những năm chiến tranh, các đảng cộng sản
và công nhân nhiều nước châu Âu đã lãnh đạo nhân dân tổ chức những đội quân du
kích chống lại quân phát xít xâm lược. Khí đánh tiến về phía thủ đô nước Đức,
Hồng quân đã giúp các đội du kích ấy đánh đuổi quân Đức, lật đổ chính phủ phản
động, và xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân, như ở Ba Lan, Tiệp Khắc,
Bun-ga-ri, Hung-ga-ri, An-ba-ni, Nam Tư, Đông Đức.
Liên Xô đã kết thức thắng lợi cuộc đại chiến ở
phương Tây. Để giúp nhân dân Á Đông ra khỏi xiềng xích phát xít, tháng 8-1945,
Hồng quân quay sang đánh phát xít Nhật. Chỉ trong mười ngày, Hồng quân đã tiêu
diệt Quan đông quân, là quân chủ lực của Nhật, giải phóng miền Đông Bắc Trung
Quốc và Triều Tiên. Cuộc thế giới chiến tranh lần thứ hai chấm dứt. Trung Quốc
kết thúc cuộc kháng chiến chống Nhật. Cách mạng tháng Tám của Việt Nam ta thành
công.
Vì sao, chỉ trong mười tháng quân phát xít Đức
đã chinh phục các nước châu Âu, mà chúng lại bị Liên Xô tiêu diệt một cách thảm
hại như vậy?
Vì dưới ngọn cờ tất thắng của chủ nghĩa
Mác–Lê-nin, Đảng Cộng sản Liên Xô đã đoàn kết nhân dân thành một khối vô cùng
chặt chẽ như thành đồng luỹ thép. Hoàn cảnh càng gay go, nhân dân càng anh
dũng. Những chuyện oanh liệt làm cho “Trời đất phải kinh, quỷ thần phải khóc”
nhiều lắm, không thể kể hết. Sau đây là vài điều nổi bật:
Năm 1941, sau cuộc chiến tranh bùng nổ, trong
sáu tháng có hơn 34 vạn công nhân ưu tú đã được kết nạp vào Đảng Cộng
sản.
Năm 1942, hơn 1 triệu 95 vạn người được vào
Đảng.
Trong những năm chiến tranh, Đảng đã kết nạp 8
triệu 93 vạn đảng viên.
Đảng viên chiếm gần 60% trong Hồng quân.
1 phần 3 uỷ viên Trung ương Đảng hoạt động
trước mặt trận giáp địch.
Mặc dù hy sinh rất nhiều, do phong trào sôi nổi
tham gia bộ đội, năm 1944, qua ba năm rưỡi chiến tranh số Hồng quân đã tăng gấp
ba lần.
Công nhân đã vượt mọi khó khăn, như nguyên liệu
thiếu thốn, lương thực hạn chế… họ làm việc không kể ngày đêm để cung cấp đủ
cho mặt trận. Năm 1944 trang bị của Hồng quân về mọi mặt đã tăng gấp 4 lần trở
lên.
Ở nông thôn, chồng và con đi bộ đội, mọi việc
đồng áng đều do phụ nữ đảm đang. Họ lao động quên mình, không quản nắng mưa,
sương tuyết. Có khi họ tự động chịu thiếu thốn để cung cấp lương thực nhiều hơn
cho bộ đội.
Trong quân đội, trong nhà máy, trong tổ chức du
kích… bất kỳ ở đâu và công việc gì, thanh niên đều hăng hái gương mẫu, rất xứng
đáng là cánh tay đắc lực của Đảng…
Nói đến đây, Bác ngừng lại một lát và có vẻ
ngẫm nghĩ, rồi nói tiếp: Chắc các chú đã nghe chuyện các cháu Đô-i-a Xô Viết,
Lưu Hồ Lan Trung Quốc và Võ Thị Sáu Việt Nam. Các cháu ấy đều cùng một lứa
tuổi, đều nồng nàn yêu nước, đều phi thường gan góc trước mặt kẻ thù, đều hy sinh
một cách vô cùng oanh liệt. Người ta có thể tưởng tượng như đó là 3 chị em, 3
cô con gái vẻ vang của gia đình xã hội chủ nghĩa.
Trong cuộc kháng chiến vĩ đại, người trí thức
Liên Xô cũng đã góp phần xứng đáng. Các bác sĩ và y sĩ đã xông pha lửa đạn, hết
lòng hết sức săn sóc thương binh, bệnh binh. Các người văn nghệ đã tổ chức
những đội văn công lên tận mặt trận phục vụ bộ đội…
Phong trào thi đua yêu nước, phong trào quyên
góp, phong trào “đỡ đầu” chiến sĩ đều sôi nổi và bền bỉ. Nói tóm lại: Toàn Đảng,
toàn dân đã thực hiện khẩu hiệu do Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô đề ra: “Tất
cả cho mặt trận! Tất cả để chiến thắng!”.
Trong lúc chúng tiến vào cũng như trong khi
chúng thua chạy, quân phát xít Đức đã phá hoại rất nhiều tài sản của Liên Xô.
Chúng đã phá huỷ:
1.170 thành phố
1.876 nông trường Nhà nước
32.000 xí nghiệp
70.000 nông thôn
98.000 nông trường tập thể (hợp tác xã) và vô
số trường học, nhà trường.
Tất cả các tổn thất cộng lại đáng giá 2.600 tỷ
đồng rúp, tức là bằng số tiền vốn của 12 cái kế hoạch năm năm! Cuộc chiến tranh
đã làm cho công cuộc xây dựng của Liên Xô chậm hơn mười năm.
Tổn thất nặng nề nhất, là Liên Xô đã hy sinh 17
triệu người con dũng cảm.
Tuy vậy, chiến tranh vừa chấm dứt thì Đảng Cộng
sản lập tức đề ra kế hoạch năm năm lần thứ tư. Trước kia anh dũng giết giặc,
thì ngày nay nhân dân Liên Xô anh dũng trong công cuộc xây dựng lại nước nhà.
Ngay từ lúc đầu, hơn 80% công nhân đã hăng hái tham gia phong trào thi đua xã
hội chủ nghĩa. So với trước chiến tranh, năng suất lao động tăng 37%. Tổng giá
trị sản lượng nông nghiệp tăng 73%. Kế hoạch năm năm lần thứ tư đã hoàn thành
vượt mức trước thời hạn 9 tháng.
Nhiều thành phố xí nghiệp, trường học, nông
trường, v.v… được xây dựng lại to hơn và đẹp hơn trước. Nhân dân Liên Xô chẳng
những đã hàn gắn xong vết thương của chiến tranh, mà còn nhanh chóng tiến lên
con đường cộng sản chủ nghĩa.
Một điều cần nói thêm: Trước chiến tranh, phe
đế quốc chủ nghĩa rất mạnh. Sau chiến tranh, ba cái thành trì của chúng là Đức,
Ý, Nhật đã vỡ tan; Anh và Pháp cũng bị chiến tranh làm cho xiểng liểng. Trước
chiến tranh chúng thống trị 5 phần 6 quả đất. Sau chiến tranh, phong trào giải
phóng dân tộc rầm rộ nổi lên, hơn 700 triệu người đã thoát khỏi ách thực dân và
giành được tự do độc lập. Thế là chủ nghĩa đế quốc suy sụp rất nhiều.
Trái lại, trước chiến tranh, chỉ có Liên Xô là
nước xã hội chủ nghĩa, chiếm 1 phần 6 diện tích và 9% tổng số người trên thế
giới. Sau chiến tranh, phe xã hội chủ nghĩa tăng thành 12 nước, chiếm 26% đất
đai, với hơn 35% nhân khẩu. 1.000 triệu người đoàn kết như anh em trong một gia
đình, là đại gia đình xã hội chủ nghĩa.
Cuộc kháng chiến của chúng ta tuy rất gian khổ,
nó có thể kéo dài bốn, năm năm nữa, nhưng cuối cùng chúng ta nhất định thắng
lợi. Chúng ta nhất định thắng lợi vì Đảng ta sáng suốt, dân ta đoàn kết, quân
ta anh dũng, phe ta lớn mạnh.
Mặt trận đường số 4 này là một tượng trưng.
Trước kia, quân đội thực dân Pháp lên mặt hùng hổ, dữ tợn như diều hâu. Ngày
nay chúng nó thua chạy như đàn vịt.
Bác kể chuyện đến đó thì vừa về đến nhà. Như
trên đã nói, những câu chuyện trên đây Bác vừa đi đường vừa kể. Tối đến chỗ
nghỉ, chúng tôi nhớ được chừng nào ghi lại chừng nấy. Từ những câu chuyện đó,
chúng tôi càng thấy rõ: Lực lượng của Mỹ-Tưởng mạnh như thế (hơn 8 triệu quân)
mà cũng bị Giải phóng quân đánh tan; phát xít Đức, Ý, Nhật hung dữ như thế mà
cũng bị Hồng quân tiêu diệt. Hai là: Phe đế quốc chủ nghĩa ngày càng suy sụp,
phe xã hội chủ nghĩa ngày càng lớn mạnh. Ba là: Trước đây phát xít Đức đã hết
sức dùng mọi cách hung ác trong âm mưu chống cộng, kết quả chúng đã thất bại
một cách tồi tàn. Ngày nay đế quốc Mỹ đang đi theo vết xe chống cộng của
Hít–le, chắc chắn rằng số phận của đế quốc Mỹ cũng sẽ kết thúc một cách thảm
hại như số phận Hít–le. Bốn là: Chủ nghĩa xã hội nhất định sẽ thực hiện khắp
thế giới; điều đó cũng rõ rệt và chắc chắn như mặt trời mọc ở phương
Đông.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét