Bác Sỹ NGUYỄN LƯƠNG TUYỀN,
Nhà văn quân đội nổi tiếng Phan Nhật Nam đã gọi Võ Nguyên Giáp là một thiên tài khốn nạn của quê hương. Tôi chia sẻ ý kiến của ông, nhưng chỉ chia sẻ một nửa thôi.
Nhà văn quân đội nổi tiếng Phan Nhật Nam đã gọi Võ Nguyên Giáp là một thiên tài khốn nạn của quê hương. Tôi chia sẻ ý kiến của ông, nhưng chỉ chia sẻ một nửa thôi.
Võ Nguyên Giáp thực quả là một tên khốn kiếp,
đã đẩy hàng triệu thanh niên đất Việt vào chỗ chết từ năm 1946 tới năm 1975, để
thực hiện cho được việc áp đặt chủ nghĩa Cộng Sản sắt máu trên toàn quê hương.
Nhưng Y có là một thiên tài hay không, dù là một thiên tài khốn nạn của quê
hương, thì cần phải xét lại. Sau mấy chục năm, các tài liệu về chiến tranh tại
Việt Nam, các dữ kiện lịch sử đã được giải mật. “Huyền thoại Võ Nguyên Giáp” đã
hết còn là một huyền thoại.
Võ Nguyên Giáp sanh
ngày 25 tháng 8 năm 1911 tại làng An xá, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Cha Y
là Võ Quang Nghiêm, một hương sư dạy chữ Nôm, chữ Quốc Ngữ và hành nghề Đông Y
như phần lớn các nhà nho lỡ vận. Khi cuộc chiến Việt-Pháp bùng nổ, Ông Nghiêm
bị Pháp bắt đưa về giam ở Huế rồi chết trong tù. Mẹ Giáp là Bà Nguyễn Thị Kiên.
Võ Nguyên Giáp là con thứ 6 trong số 8 người
con của Ông Bà Võ Quang Nghiêm. Năm 14 tuổi (1925), Giáp vào Huế học trường
Quốc Học. Hai năm sau, bị đuổi học, Giáp về quê tham gia Tân Việt Cách mệnh
Đảng – một đảng có mầu sắc Cộng Sản được thành lập năm 1924 ở miền Trung.
Đầu tháng 10 năm 1930, Giáp bị bắt giam tại
nhà lao Thừa Phú ( Huế ).. Năm 1931, Giáp được thả ra khỏi nhà tù, ra Hà Nội
học tại trường Albert Sarraut cho tới khi đỗ Tú tài.
Năm 1937, Giáp tốt nghiệp trường Luật tại Hà
Nội.
Năm 1934, Giáp kết hôn cùng Nguyễn Thị Quang
Thái, một đồng chí của ông. Bà Thái có với Giáp một người con gái, Võ Thị Hồng
Anh. Năm 1943, Bà Thái bị Pháp bắt giam ở nhà tù Hỏa Lò ở Hà Nội. Bà chết trong
tù.
Tháng 5 năm 1939, Giáp bắt đầu dạy môn Sử tại
trường tư thục Thăng Long tại Hà Nội. Theo lời thuật của một số người, Giáp là
một giáo sư Sử giỏi và hùng biện.
Từ năm 1936 đến năm 1939, Giáp tham gia phong
trào Mặt trận Dân Chủ Đông Dương. Võ Nguyên Giáp vào Đông Dương Cộng Sản đảng
vào năm 1940, bắt đầu các hoạt động dưới sự chỉ đạo của Hồ Chí Minh. Giáp tham
gia gây dựng cơ sở và huấn luyện quân sự ở Cao Bằng dù Giáp chưa từng được huấn
luyện về quân sự.. Trong đảng Cộng Sản Đông Dương, có lẽ chỉ có Phùng Chí Kiên
được theo học một thời gian tại trường Võ bị Hoàng Phố ở Trung Hoa.
Ngày 22 tháng 12 năm 1944, theo sự phân bố của
Hồ Chí Minh, Giáp thành lập đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân với 34
người. Theo tài liệu của Đảng Cộng Sản Việt Nam, đó là khởi thủy của đạo quân
Cộng Sản Việt Minh sau này.
Tháng 8 năm 1945, Giáp được bầu vào Ban Chấp
hành Trung Ương Đảng Cộng Sản Đông Dương.
Tháng 1 năm 1948, Giáp được Hồ Chí Minh phong
quân hàm Đại Tướng. Cùng được phong Tướng có một số tên như Văn Tiến Dũng,
Vương Thừa Vũ, Nguyễn Chí Thanh, Đinh Đức Thiện, Lê Trọng Tấn, Trần Đăng Ninh…
Ngày 19 tháng 12 năm 1946, chiến tranh Việt
Pháp bùng nổ kéo dài cho tới năm 1954 và chấm dứt ở trận Điện Biên Phủ.
Trên :Văn Tiến Dũng, Hoàng Văn Thái, Nguyễn Quang Thuận, Hoàng Đăng Minh, Nhận, Bạch Ngọc Giáp, Sáng
Dưới: Lê Liêm, Giáp, Hồ, Trường Chinh, Đặng Việt
Từ năm 1945 cho đến năm 1991(năm Giáp nghỉ hưu, hết còn là ủy Viên Trung Ương Đảng) Giáp đã giữ những chức vụ như sau:- Ủy Viên Bộ Chánh trị – Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng- Tổng Tư lệnh Quân Đội- Phó Thủ Tướng- Chủ Nhiệm Ủy Ban Khoa học nhà nước.- Năm 1983, Chủ tịch Ủy Ban sanh đẻ có kế hoạch. Chức vụ Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng kiêm Tổng Tư lệnh Quân đội là những chức vụ Giáp ở lâu nhất, từ năm 1945 đến năm 1980.Chức vụ coi về sanh đẻ năm 1983 là môt hình thức hạ nhục Giáp do đám Lê Duẩn, Lê Đức Thọ chủ trương. Để nói về việc hạ nhục này, trong dân gian có truyền tụng hai câu thơ diễu cợt đượm đầy mỉa mai:
Ngày xưa Đại tướng cầm quân
Ngày nay Đại tướng cầm quần chị em
Đại Tướng Cầm Quần Chị Em |
Sau
trận Điện Biên Phủ năm 1954, sự hiện diện của người Pháp cáo chung, Võ Nguyên
Giáp nổi tiếng như cồn. Sau cái gọi là Đại thắng mùa xuân năm 1975 – một may
mắn bất ngờ cho đảng Cộng Sản Việt Nam ( một bất hạnh cho dân tộc Việt ) chiếm
được miền Nam – trước mắt người ngoại quốc mù tịt về cơ cấu tổ chức của Đảng
Cộng Sản Việt Nam, Võ Nguyên Giáp trở thành một huyền thoại. Một số sách viết về
Giáp như:
-
General Giáp: Politician and Strategist của Robert j. O’Neil (Australia)- Giáp:
the Victor in Vietnam của Thiếu tướng hồi hưu Peter McDonald In năm 1993 (
British ) – Các bài viết rải rác của Douglas Pike thuộc University of
California, Berkeley (USA)
Xin
mở một dấu ngoặc ở đây về các sách viết về các lãnh tụ Công Sản Việt Nam cũng
như các lãnh tụ của các nước Cộng Sản khác trên thế giới. Tác giả phải được sự
chấp nhận của Bộ Chính trị và chỉ được viết những gì mà cơ quan quyền lực tối
cao của Cộng Sản đưa ra mà thôi.
Giáp
được các tác giả ca tụng như một thiên tài quân sự, một chiến lược gia tài tình
của thế giới ( genius strategist, geniusgeneral of the world ). Từ mấy năm gần
đây, các tài liệu mật về 2 cuộc chiến tại Việt Nam (1946-1954 và 1954-1975 )
được giải mật khiến ta thấy rằng “thiên tài Võ Nguyên Giáp” đã được các đồng
chí nặn ra như các đồng chí đã nặn ra anh hùng Lê Văn Tám, chú Kim Đồng…..trong
suốt chiều dài của cuộc chiến xâm nhập của chủ nghĩa Cộng Sản man rợ lên quê hương
mà đảng Cộng Sản Việt Nam chỉ là một lũ thừa sai.
Bản
chất của những người lãnh đạo Đảng Cộng Sản Việt Nam, kể từ Hồ Chí Minh trở
xuống, là gian hùng, dối trá, thâm độc và tàn bạo. Giáp có đầy đủ các “đức
tính” đó.
Năm
1946, Hồ Chí Minh ký hòa ước với Pháp để quân Pháp trở lại Việt Nam. Các lãnh
tụ Công Sản, trong đó có Giáp, đã thẳng tay tiêu diệt các người quốc gia
(Losers are Pirates by James Banerian1984, p.69
Hồ
Chí Minh, Trưòng Chinh, Võ Nguyên Giáp và Trung tá A. Peter Dewey.
Năm
1946, khi cuộc chiến tranh Việt – Pháp sắp xẩy ra, Giáp là Bộ Trưởng Quốc phòng
trong Chánh phủ liên hiệp. Tại Hà Nội, trong khi quân Pháp và Tự Vệ Thành đang
gầm ghè nhau, Giáp và đồng bọn hứa hẹn là quân chánh qui của họ tức các đơn vị
Vệ Quốc Đoàn tinh nhuệ đã kéo về đóng chung quanh Hà Nội, sẵn sàng làm cỏ quân
Pháp.
Ngày
19 tháng 12, chiến tranh bùng nổ tại Hà Nội. Nhóm lãnh đạo Cộng Sản đã rút về
Hà Đông từ mấy ngày trước. Vệ Quốc Đoàn đâu chẳng thấy, chỉ thấy các Tự Vệ
Thành đánh vùi với quân Pháp trong các đường phố Hà Nội. Họ đã cầm cự với quân
Pháp trong gần 2 tháng, thời gian đủ để dân chúng rời thành phố lánh nạn, đủ để
đám Cộng Sản rút vào các an toàn khu Việt Bắc. Giáp và đồng bọn muốn mượn tay
quân Pháp để thủ tiêu các thanh niên Hà Nội. Quả thực, Tự Vệ Thành là những
thanh niên tiểu tư sản, phần lớn xuất thân từ các gia đình khá giả. Đám tiểu tư
sản này là những thành phần không có chỗ đứng trong chế độ Cộng Sản. Càng lợi
cho việc thiết lập chủ nghĩa Cộng Sản tại Việt Nam nếu họ bị Pháp tiêu diệt,
bớt đi càng nhiều càng tốt cho chủ nghĩa Mac Xít Léninist dễ phát triển ở Việt
Nam.
Giáp
đã viết sách về chiến tranh nhân dân, quân đội nhân dân (được dịch ra tiếng
Pháp; Guerre du peuple, l’Armée du peuple ), tự cho rằng mình và đảng Cộng Sản
Việt Nam là nguồn gốc của quan niệm chiến lược, chiến thuật này.
Sự
thực, quan niệm về chiến tranh nhân dân đã được Tướng Trần Canh, một trong ngũ
hổ tướng của Mao Trạch Đông, du nhập vào Việt Nam kể từ trận chiến biên giới
Cao Bằng Lạng Sơn năm 1950.
Giáp
thực sự không phải là cha đẻ của quân đội Cộng Sản Việt Nam, tuy rằng cuối năm
1944, theo lệnh Hồ Chí Minh, Giáp thành lập đoàn Võ Trang tuyên truyền gồm 34
thành viên với trang bị rất thô sơ. Quân đội Trung Cộng mới thực sự là cha đẻ
của quân đội nhân dân của Cộng Sản Việt Nam.
Tháng
3 năm 1946, 1 Trung Đoàn quân Cộng Sản Trung Hoa tràn qua biên giới, vào Việt
Nam để tránh bị các Lộ Quân 46, 64 của Tưởng Giới Thạch tiêu diệt. Chính Trung
đoàn quân Cộng Sản Trung Hoa này đã giúp Cộng Sản Việt Nam huấn luyện Quân đội.
Tình báo của Mỹ đã đánh hơi thấy việc Trung Cộng huấn luyện quân đội Cộng sản
Việt Nam từ những năm này.
Từ
năm 1950, Trung Cộng không ngừng cung cấp người, võ khí và tiếp liệu cho Công
Sản Việt Nam. Chính Võ Nguyên Giáp, trong cuốn Đường tới Điện Biên Phủ đã viết:
Trong một buổi làm việc ở Moscou với Staline, Mao Trạch Đông, Mao đã hứa trang
bị cho Việt Nam 10 sư đoàn. Mao nói: Việt Nam cần trang bị 10 đại đoàn (sư
đoàn) để đánh Pháp. Trước mặt hãy trang bị 6 đại đoàn có mặt ở miền Bắc Việt
Nam. Có thể đưa ngay một số đơn vị sang Trung Hoa nhận vũ khí. Tỉnh Quảng Tây
sẽ lả hậu phương trực tiếp của Việt Nam. Sau đó các đơn vị của quân đội nhân
dân lần lượt được đưa sang Tầu để thụ huấn và nhận vũ khí. Theo Giáp: những đơn
vị sang Trung Quốc, ngoài việc trang bị lại vũ khí còn được huấn luyện thêm về
chiến thuật công kiên, đặc biệt là kỹ thuật đánh bộc phá. Trước đây, vì chưa có
thuốc nổ, ta chưa hề xử dũng kỹ thuật này.
Cũng
theo Giáp, chính Hồ Chí Minh đã yêu cầu Tầu Cộng gửi qua Việt Nam một đoàn cố
vấn. Theo lời yêu cầu đó, một đoàn cố vấn Trung Cộng khoảng 80 người đã sang
Việt Nam, giúp quân Cộng Sản Việt Nam: Lã Quí Ba, Ủy Viên Trung ương đảng Cộng
Sản Trung Quốc, Trưởng đoàn Cố vấn; Vi Quốc Thanh, Trưởng đoàn Cố vấn về Quân
sự: Mai Gia Sinh, cố vấn về công tác tham mưu; Mã Tây Phu, Cố vấn về công tác
hậu cần. Chính các Cố vấn Trung Cộng đã giúp Công Sản Việt Nam tổ chức 3 (ba)
cơ chế chánh trong quân đội: Bộ Tổng Tham Mưu, Tổng Cục chánh trị và Tổng cục
hậu cần. Tóm lại ngay trong công việc tổ chức quân đội của Cộng Sản Việt Namm,
Giáp chỉ là người thừa hành.
Giáp
là một tên hèn.
Năm
1983, Giáp bị đám Lê Đức Thọ, Lê Duẩn hạ nhục bằng cách cho đi làm Chủ tịch Ủy
Ban sanh đẻ có kế hoạch. Giáp đã ngậm bồ hòn làm ngọt, ngoan ngoãn vâng lời.
Trong vụ Nhân văn Giai phẩm xẩy ra tại miền Bắc năm 1955, nhiều người đã ở
trong Quân Đội Nhân dân của Giáp như Trần Dần, Hoàng Cầm, Quang Dũng, Phùng
Quán…bị đem ra đấu tố, tù đầy. Giáp vẫn giữ im lặng. Trong vụ án chống đảng do
đám Lê Duẩn, Lê Đức Thọ chủ mưu, các tướng Cộng sản đàn em của Giáp như Lê
Liêm, Đặng Kim Giang, Nguyễn Văn Vịnh, các Đại tá thuộc cấp của Giáp như Lê
Minh Nghĩa, Lê Vinh Quốc, Văn Dzoãn… bị hãm hại; Giáp vẫn ngoảnh mặt làm ngơ..
Khi các tướng Lê Trọng Tấn, Hoàng Văn Thái (cũng là thông gia của Giáp) bị đột
tử sau khi miền Nam đã bị cộng sản hóa. Giáp vẫn ngậm miệng, im lặng là vàng.
Giáp đã để lộ rõ cái hèn, thủ khẩu như bình.
Giáp
kệ mặc đàn em bị thảm sát, tù đày. Theo Bùi Tín, cựu Phó Tổng Biên tập của báo
Cộng Sản Quân Đội Nhân dân, sở dĩ Giáp không bị đám Lê Đức Thọ, Lê Duẩn thủ
tiêu vì Giáp biết thủ nghĩa là Giáp biết cách tránh né để bảo toàn mạng sống.
Khi
được một ký giả ngoại quốc hỏi Giáp có hối tiếc gì về số 3-4 triệu người Việt
Nam chết vì các cuộc chiến tranh, gọi là chiến tranh ý thức hệ, Giáp đã trả lời
là y không hối tiêc gì cả (Non, pas du tout).
Mạng
sống của thanh niên Việt Nam bị họ Võ coi như cỏ rác. Giáp sẵn sàng thí quân
trong các trận chiến. Trong trận chiến tranh biên giới Cao Bằng, Lạng Sơn năm 1950,
để tiêu diệt cứ điểm Đồng Khê do 262 lính Pháp trấn đóng, Giáp đã dùng tới
10.000 quân (đông hơn quân trú phòng 40 lần). Sau trận đánh, hơn 500 quân Việt
tử trận, không kể số bị thương hàng ngàn. Trong trận đồng bằng Phủ Lý, Ninh
Bình, Vĩnh Yên vào tháng giêng năm 1951, chiến thuật biển người của Giáp đã bị
Tướng Pháp De Lattre de Tassigny dùng bom Napalm tiêu diệt. Quân Cộng sản, dưới
sự chỉ huy của Giáp, đã bị nhiều tử vong, thất bại trong ý đồ đưa chiến tranh
về đồng bằng. Số tử vong của quânđội cộng sản, khi tháo lui, là trên 6000
người. Số bị thương chắc chắn là gấp đôi, gấp ba con số 6000.
Trong
chiến tranh Việt – Pháp 1946-1954, người thực sự chỉ huy các trận đánh lớn
không phải là Giáp mà là các tướng Trung Hoa Cộng Sản như Trần Canh trong những
năm 50, sau đó là đoàn cố vấn Trung Quốc đứng đầu là Vy Quốc Thanh, Lã Quí Ba.
Hào quang chiến thắng của Giáp chỉ là một giả tạo, một hào quang do Trung Cộng
ban cho.
Chiến
dịch biên giới năm 1950.
Chiến
dịch này nhằm mục đích đuổi quân Pháp ra khỏi biên giới của 2 nước Việt
Nam-Trung Hoa để cho việc tiếp vận từ Trung Hoa Cộng Sản cho quân đội của Cộng
Sản Việt Nam được dễ dàng. Tướng Trần Canh của Trung quốc sang Việt Nam ngày
22-7-1950. Trần Canh đã áp dụng học thuyết chiến tranh nhân dân của Mao vào
chiến tranh Việt Nam.
Kế
hoạch tiến công của Võ Nguyên Giáp trong chiến dịch biên giới được thay thế
bằng kế hoạch tác chiến của Trần Canh. Thay vì tấn công Cao Bằng như kế hoạch
của Giáp, Trần Canh đề nghị kế hoạch tấn công Đông Khê, một đồn của Pháp nằm
giữa Cao Bằng và Lạng Sơn, để lùa quân Pháp ra khỏi hai tỉnh trên và sau đó
phục kích tiêu diệt (công đồn đả viện). Hồ Chí Minh chấp thuận kế hoạch này.
Kết quả trận đánh là quân Pháp thảm bại phải bỏ hết các tỉnh biên giới. Chiến
thuật công đồn đả viện của Cộng Sản Việt Nam là do các cố vấn Trung Quốc, nhứt
là Trần Canh, truyền thụ cho.
Từ
năm 1951, nhóm cố vấn chánh trị do Lã Quí Ba cầm đầu đã giúp Hồ tạo lập luật lệ
và chánh sách liên quan đến tài chánh, thuế khóa, quản lý báo chí và đài
phátthanh cũng như các chánh sách đối với các dân tộc thiểu số…..
Chiến
dịch Tây Bắc 1952
Sau
các tổn thất ở đồng bằng sông Hồng Hà năm 1951, Việt Minh, theo sự cố vấn của
các cố vấn Trung Quốc, mở chiến dịch Tây Bắc năm 1952. Lã Quí Ba trách nhiệm
hoạch định chiến dịch thay Vi Quốc Thanh về Tầu chữa bệnh. Hồ Chí Minh chấp
thuận hoàn toàn đề nghị của Lã Quí Ba. Theo Qiang Zhai (China and the Vietnam
wars 1950-1975) cuối tháng 9 năm 1952, Hồ bí mật sang BắcKinh để thảo luận về
chiến dịch Tây Bắc cũng như chiến lược thắng quân Pháp. Ngày 14-10 Việt Minh
tập trung 8 tiểu đoàn tấn công Nghĩa Lộ và các đồn bót lân cận.Ngày 16-10 Vy
Quốc Thanh trở lại Việt Nam để cùng Lã Quí Ba chỉ đạo chiến dịch. Sau khi mất
Nghĩa Lộ, quân Pháp chạy khỏi Sơn La ngày 21-11. Việt Minh hoàn toàn chiếm lĩnh
một khu vực lớn ở Tây Bắc, cho phép họ có thể tiến hành các hoạt động ở Lào.
Đối
phó với kế hoạch Navarre – Trận Điện Biên Phủ
Tháng
5-1953, tướng Henri Navarre đảm trách chỉ huy quân Pháp ở Đông Dương với kế
hoạch: 1- Kiểm soát vùng đồng bằng sông Hồng2- Bình định các khu do Cộng Sản
kiểm soát ở miền Trung và miền Nam3- Mở tổng phản kích tiêu diệt các cứ địa của
Việt Minh tại miền Bắc
Navarre
cho thành lập các binh đoàn lưu động.Việt Minh Cộng Sản, lúc đầu muốn tập trung
quân tại vùng Tây Bắc và Lai Châu, nhưng sau Giáp từ bỏ ý định đó, muốn kéo
quân tấn công quân Pháp ở đồng bằng sông Hồng Hà. Như vậy Giáp hạ thấp tầm quan
trọng của chiến dịch ở Lào. Bắc Kinh không đồng ý với kế hoạch của Giáp. Bắc
Kinh nhấn mạnh Việt Minh cần giữ nguyên kế hoạch tập trung vào Tây Bắc và Lào.
Lãnh đạo Trung Quốc cho rằng nếu thực thi chiến thuật này, Việt Minh Cộng Sản
có thể chuẩn bị lực lượng cho công cuộc đánh chiếm đồng bằng sông Hồng và cuối
cùng sẽ đánh bại Pháp ở Đông Dương.
Tháng
9, Bộ Chính trị của Cộng Sản Việt Nam, phủ quyết kế hoạch của Giáp để theo kế
hoạch của các cố vấn Tầu.
Ngày
27 tháng 10 năm 1953, Vy Quốc Thanh trao cho ông Hồ một bản sao kế hoạch của
Navarre mà tình báo Trung Cộng đã thu đoạt được. Sau khi xem xét, các lãnh đạo
của Cộng sản Việt Nam nói đề nghị của Trung Quốc là đúng. Cộng Sản Việt Nam,
nếu theo đúng kế hoạch của Trung Quốc, có thể phá vỡ kế hoạch của Navarre.
Khi
Navarre đưa quân đến Điện Biên Phủ, Giáp và Bộ Tham mưu chưa nhận ra tầm quan
trọng của vị trí này. Chính Vy Quốc Thanh là người đã thúc Giáp mở chiến dịch
bao vây và tiêu diệt quân Pháp ở Điện Biên Phủ. Trung Quốc nhấn mạnh chiến dịch
Điện Biên Phủ không chỉ quan trọng về quân sự mà còn có ảnh hưởng quốc tế.
Từ
trái sang phải : Trường Chinh, Hồ Chí Minh, Trần Canh, La Quý Ba.
Ngày
6-12-1953, Bộ Chính trị của Cộng Sản Việt Nam thông qua kế hoạch tác chiến ở
Điện Biên Phủ. Giáp chỉ là người thi hành kế hoạch do cố vấn Trung Quốc Vy Quốc
Thanh đề ra. Người hùng Điện Biên Phủ Võ Nguyên Giáp đã được cố vấn Tầu nặn ra.
Chính
các cố vấn Trung Cộng đã giúp Việt Minh trong các chiến dịch biên giới, Tây Bắc
và Điện Biên Phủ. Trung Cộng đã chi viện cho chiến trường Điện Biên Phủ 8286
tấn tiếp liệu gồm võ khí, lương thực v.v… Cố vấn TC có mặt ở mọi đơn vị. Thí dụ
họ đã giúp Việt Minh bố trí pháo binh trong các hào sâu trên sườn núi để tránh
bị phi cơ Pháp phát hiện và phá hủy. Pháo binh của Việt Minh, được các cố vấn
Trung Cộng điều khiển, là một bất ngờ cho quân đội Pháp. Nhưng sự tham dự tích
cực của Trung Cộng vào sự thành công của chiến dịch không hề được Giáp nhắc tới
trong các bài viết, trong các sách của y như cuốn Điện Biên Phủ: điểm hẹn lịch
sử. (The Chinese support for the North Vietnam during the Vietnam War; The
Decisive Edge by Bob Seals).
Sự
giúp đỡ của Trung Cộng không ngừng ở chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, đánh
dấu sự cáo chung của chủ nghĩa thực dân. Sự giúp đỡ vẫn được tiếp tục trong
cuộc chiến xâm lăng miền Nam 1954-1975.
"Về
lá cờ chiến thắng trên nóc hầm Đờ Cát"
"...không có chuyện cắm cờ trên nóc hầm Đờ Cát như trong phim, ảnh. Sự thực thì khi đó mỗi tiểu đoàn chỉ được phát một lá cờ đỏ sao vàng dưới có thêu chữ "Quyết chiến quyết thắng" và không phải chỉ có Đại đội 360 được giao nhiệm vụ đánh vào sở chỉ huy của địch nên đại đội cũng không có lá cờ nào để cắm trên nóc hầm Đờ Cát lúc đó..." (*)
Thí quân không thương tiếc
"Quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ. Nguyện mang vinh quang trở về!".
Tại
Hữu Nghị Quan, năm 1966 quân chính qui Sư đoàn 62 Cao Xạ Trung cộng giả dạng bộ
đội miền bắc tuyên thệ trước khi nam tiến.Hướng về ảnh Mao đồng thanh hô
lớn:
"Quyết
tâm hoàn thành nhiệm vụ. Nguyện mang vinh quang trở về!".
Trung
cộng xác nhận đã gởi 320.000 quân tham chiến tại ViệtNam:
Thay
lời kết:
"Người
hùng" Võ Nguyên Giáp, tướng huyền thoại của Cộng Sản Việt Nam chỉ là một
nhân vật đại bịp trong số hàng trăm hàng ngàn tên bịp bợm (trong đó có cả tên
Hồ), trong quá trình hiện hữu của đảng Cộng Sản Việt Nam. Y không phải là một
thiên tài quân sự như đảng Cộng Sản Việt Nam thổi phồng.
Chính
các cố vấn Trung Cộng do Vy Quốc Thanh, Lã Quí Ba cầm đầu đã đánh thắng quân
Pháp trong cuộc chiến 1946-1954 chứ không phải là Giáp. Hào quang của Giáp là
do Trung Cộng nặn ra, treo vào cổ Giáp. Sự thực các trận đánh lớn, có tính cách
quyết định đều do các cố vấn Tầu Cộng thiết kê và điều khiển.
Giáp
đã sống trong cái vỏ thiên tài đó trong hơn nửa thế kỷ. Đến nay thì sự thực đã
được phơi bầy:
Trong
suốt hai cuộc chiến 1946-1954, 1954-1975, Giáp và đảng Cộng Sản Việt Nam đã dựa
vào Trung Cộng gần như toàn diện.
Nay
họ đã và đang trả món nợ đó, trả bằng cả số phận của dân Việt, bằng cả đất nước
do tổ tiên để lại: Quê hương đang mất dần vào tay người Trung hoa Cộng sản.
Bs. Nguyễn Lương Tuyền
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét