John McCain | Wall Street
Journal | 6.10.2013
Người dịch: Lê Anh Hùng
Tôi từng gặp Đại tướng Võ Nguyên Giáp – người vừa mới mất hôm
thứ Sáu – hai lần. Lần đầu tiên diễn ra trong một bệnh viện quân đội của Việt
Nam, nơi tôi được đưa đến không lâu sau khi bị bắt năm 1967. Bố tôi là tư lệnh
lực lượng quân đội Mỹ ở Thái Bình Dương, và điều đó khiến tôi trở thành đối
tượng gây tò mò trong một số giới của nhà cầm quyền Bắc Việt.
Tôi vẫn còn nhớ một vài vị khách cao cấp bên
cạnh những lính gác hay những người thẩm vấn mà tôi tiếp xúc hàng ngày. Võ
Nguyên Giáp, Bộ trưởng Quốc phòng của Bắc Việt, là người duy nhất mà tôi nhận
ra. Ông chỉ ở lại một lát, nhìn tôi chằm chằm, rồi im lặng bỏ đi.
Cuộc gặp gỡ thứ hai của chúng tôi diễn ra đầu những năm 1990, trong một trong
nhiều chuyến công tác của tôi tới Hà Nội để bàn về vấn đề POW/MIA (tù binh và
những trường hợp mất tích trong chiến tranh) và việc bình thường hoá quan
hệ ngoại giao giữa hai nước. Trước đó, tôi đã đề nghị Bộ trưởng Ngoại giao
Nguyễn Cơ Thạch và Thứ trưởng Lê Mai sắp xếp một cuộc phỏng vấn ngắn với vị tư
lệnh huyền thoại của quân đội Bắc Việt.
Hôm sau, tôi được dẫn vào phòng tiếp đón lớn của Phủ Chủ tịch
(vốn do người Pháp xây dựng theo phong cách Beaux-Arts cho Toàn quyền Đông
Dương), nơi vị tướng đang đợi. Tươi cười, nhỏ nhắn, cao tuổi nhưng hoạt bát, và
trong bộ đồ màu xám cùng caravat, thật khó mà nói rằng trông ông giống với
tiếng tăm thời chiến của mình như một chiến binh tàn nhẫn với tính khí quyết
liệt.
Võ Nguyên Giáp hồ hởi đón tôi dưới bức tượng bán thân khổng lồ
của Hồ Chí Minh, người đã dẫn dắt Việt Nam trong hai cuộc chiến chống Pháp và
chống Mỹ. Cả hai chúng tôi đều vỗ vai nhau như thể là những đồng chí lâu ngày
gặp lại chứ không phải là cựu thù.
Trước khi cuộc gặp diễn ra, tôi hy vọng cuộc thảo luận sẽ tập
trung vào vai trò lịch sử của ông. Sau khi từ Việt Nam trở về quê hương năm
1973, tôi đọc tất cả những gì đến tay mình liên quan đến cuộc chiến của người
Pháp cũng như cuộc chiến của người Mỹ ở đây, bắt đầu với tác phẩm “Hell in a
Very Small Place” (Địa ngục ở vùng đất chật hẹp đó), công trình nghiên cứu kinh
điển của ông về cuộc bao vây năm 1954 tại Điện Biên Phủ, nơi chế độ thuộc địa
của Pháp thực sự chấm dứt và thiên tài của Võ Nguyên Giáp lần đầu tiên trở nên
hiển nhiên trước một thế giới đang kinh ngạc.
Tôi muốn nghe Võ Nguyên Giáp mô tả về trận đánh kéo dài gần hai
tháng kia, muốn ông giải thích về cách thức mà quân đội của ông đã khiến người
Pháp phải sửng sốt khi làm nên điều không thể là đưa những khẩu pháo băng qua
bao núi non và rừng rậm. Tôi còn muốn trao đổi với ông về một kỳ tích hậu cần
khác nữa: đường mòn Hồ Chí Minh.
Tôi hiểu ông tự hào về danh hiệu “Napoleon đỏ” của mình, và tôi
cho rằng ông sẽ tận dụng mọi cơ hội để thoả mãn trí tò mò của tôi về những
chiến công của mình. Tôi muốn chúng tôi hành xử như hai sỹ quan quân đội hồi
hưu hay hai cựu thù hồi tưởng về những sự kiện lịch sử mà ở đó ông từng đóng
một vai trò quyết định còn tôi chỉ là một nhân vật nhỏ bé. Tuy nhiên, ông lại
trả lời phần lớn các câu hỏi của tôi một cách ngắn gọn, cung cấp thêm ít ỏi
thông tin ngoài những gì mà tôi đã biết, rồi phẩy tay ra dấu không quan tâm.
Giờ đây tất cả đều đã là quá khứ, ông nói. Bạn và tôi nên bàn về
một tương lai mà ở đó hai nước chúng ta không phải là kẻ thù mà là bạn bè. Và
chúng tôi đã làm như vậy, hai chính khách bàn về cái công chuyện quốc gia chung
đã đưa tôi đến Việt Nam.
Võ Nguyên Giáp là một bậc thầy về hậu cần, nhưng danh tiếng của
ông thì còn bắt nguồn từ nhiều thứ khác. Những chiến công mà ông giành
được là nhờ vào một chiến lược kiên trì mà ông và Hồ Chí Minh tin chắc là sẽ
thành công – một quyết tâm sắt đá là chấp nhận tổn thất khổng lồ và sự tàn phá
gần như toàn bộ đất nước để đánh bại mọi kẻ thù, bất kể chúng hùng mạnh đến
đâu. “Các bạn giết 10 người của chúng tôi thì chúng tôi cũng giết một người của
phía bạn”, ông nói, “nhưng cuối cùng, các bạn sẽ mệt mỏi với điều đó trước
chúng tôi”.
Võ Nguyên Giáp thi hành chiến lược đó với một ý chí sắt đá. Ở
Điện Biên Phủ, quân Pháp đẩy lùi hết đợt tấn công vỗ mặt này đến đợt công kích
trực diện khác. Cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 là một thảm
hoạ về mặt quân sự mà trên thực tế đã phá tan Việt Cộng. Nhưng Võ Nguyên Giáp
vẫn kiên định và chiến thắng.
Người Mỹ chưa bao giờ thua Bắc Việt trong một trận đánh nào, nhưng họ lại thua
trong cuộc chiến. Các quốc gia, chứ không phải quân đội của chúng, mới là kẻ
chiến thắng trong các cuộc chiến. Võ Nguyên Giáp đã hiểu điều đó, còn chúng tôi
thì không. Người Mỹ tỏ ra mệt mỏi với cuộc chết chóc sớm hơn người Việt Nam.
Thật khó mà bảo vệ chiến lược đó về mặt đạo lý, nhưng bạn lại không thể phủ nhận
thành công của nó.
Gần cuối cuộc gặp, tôi lại thử thái độ trung thực của Võ Nguyên
Giáp một lần nữa. Tôi hỏi ông là có phải ông từng phản đối việc Việt Nam xâm
lược Campuchia không. Ông lại phủ nhận điều ấy, với một câu theo kiểu “các
quyết định của đảng thì luôn luôn đúng”.
Câu trả lời đó đã kết thúc cuộc gặp gỡ của chúng tôi. Chúng tôi
đứng dậy, bắt tay, và khi tôi định quay gót ra về thì ông nắm lấy tay tôi rồi
nói nhỏ: “Các bạn là kẻ thù đáng tôn trọng.”
Tôi không biết ông muốn hàm ý điều đó như một sự so sánh với
những kẻ thù khác của Việt Nam, người Tàu, người Nhật, hay người Pháp (những kẻ
đã sát hại vợ ông), hay như một sự thừa nhận ngầm rằng chúng tôi đã chiến đấu
cho lý tưởng chứ không phải cho một đế quốc nào và rằng chủ nghĩa nhân đạo của
chúng tôi đã góp phần vào thất bại của chúng tôi. Mà có thể là ông chỉ muốn
vuốt ve tôi thôi. Bất kể ông muốn hàm ý điều gì đi nữa thì tôi cũng ghi nhận
tình cảm đó.
§
John McCain là thượng nghị sỹ Đảng Cộng hoà của bang Arizona; ông
từng là ứng cử viên của Đảng Cộng hoà trong cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ năm 2008.
Nguồn: Wall Street Journal / Defendthe Defenders
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét